LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 163
Chương 7: ĐỊNH UẨN
Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN, phần 2
Tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất có bốn thứ: Là thuận phần thoái chuyển. Thuận phần trụ. Thuận phần thắng tấn. Thuận phần quyết trạch.
Thuận phần thoái chuyển: Là nếu trụ ở đấy, phần nhiều là thoái mất. Thuận phần trụ: Là nếu trụ ở đấy, phần nhiều không thoái mất. Thuận phần thắng tấn: Là nếu trụ ở đấy, phần nhiều là thắng tấn. Thuận phần quyết trạch: Là nếu trụ ở đấy, phần nhiều có thể nhập chánh tánh ly sinh.
Lại nữa, thuận phần thoái chuyển: Là cùng với các phiền não chồng chất, xen tạp, không gián đoạn hiện tiền. Các phiền não này không ngớt hiện tiền. Thuận phần trụ: Là có thể quán nơi địa dưới là những khổ thô trọng, gây chướng ngại nên sinh chán bỏ. Có thể quán tự địa là tịnh, diệu, lìa để vui thích an trụ. Thuận phần thắng tấn: Là có thể quán tự địa là những khổ thô trọng, gây chướng ngại nên sinh chán bỏ. Có thể quán địa trên là tịnh, diệu, lìa để sinh vui thích. Thuận phần quyết trạch: Là noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất v.v…
Lại nữa, thuận phần thoái chuyển: Là thuận theo phiền não. Thuận phần trụ: Là thuận theo tự địa. Thuận phần thắng tấn: Là thuận theo địa trên. Thuận phần quyết trạch: Là thuận theo Thánh đạo. Phần này hoặc tạo hành tướng bậc Thánh, hoặc tạo những hành tướng khác hướng tới Thánh đạo, nhắm đến giải thoát.
Như tĩnh lự thứ nhất, cho đến xứ Hữu đảnh theo chỗ thích ứng cũng như vậy.
Hỏi: Từng có tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất do lìa nhiễm nên được, do lìa nhiễm nên bỏ, do thoái chuyển nên được, do thoái chuyển nên bỏ, do sinh nên được, do sinh nên bỏ chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là thuận phần thoái chuyển nơi tĩnh lự thứ nhất: Khi lìa nhiễm của cõi dục là được, khi lìa nhiễm của xứ Phạm thế là bỏ. Khi khởi triền ở xứ Phạm thế thoái chuyển là được, khi khởi triền ở cõi dục thoái chuyển là bỏ. Khi từ nơi địa trên mất sinh nơi xứ Phạm thế là được, khi từ xứ Phạm thế mất sinh nơi cõi dục là bỏ.
Cho đến xứ Hữu đảnh tùy chỗ thích ứng cũng như vậy.
Hỏi: Nếu ở cõi dục mất sinh nơi tĩnh lự thứ hai, ở tĩnh lự thứ hai mất sinh nơi tĩnh lự thứ nhất. Người ấy ở nơi tĩnh lự thứ nhất: Pháp nào khi đã mất là bỏ? Khi sinh trở lại là không được? Pháp nào khi sinh trở lại là được? Khi đã mất là không bỏ? Pháp nào khi đã mất là bỏ? Khi sinh trở lại là được? Pháp nào khi đã mất là không bỏ? Khi sinh trở lại là không được?
Đáp: Người kia ở nơi tĩnh lự thứ nhất, thuận phần thắng tấn, thuận phần quyết trạch, khi đã mất là bỏ. Khi sinh trở lại là không được. Thuận phần thoái chuyển cùng sinh đắc, khi sinh trở lại là được. Khi đã mất là không bỏ. Thuận phần trụ, khi đã mất là bỏ. Khi sinh trở lại là được. Trừ các tướng nêu trước, các pháp còn lại, khi đã mất là không bỏ. Khi sinh trở lại là không được.
Hỏi: Nếu ở tĩnh lự thứ nhất mất sinh nơi tĩnh lự thứ hai, ở tĩnh lự thứ hai mất sinh nơi tĩnh lự thứ nhất. Người ấy ở nơi tĩnh lự thứ nhất: Pháp nào khi đã mất là bỏ? Khi sinh trở lại là không được? Pháp nào khi sinh trở lại là được? Khi đã mất là không bỏ? Pháp nào khi đã mất là bỏ? Khi sinh trở lại là được? Pháp nào khi đã mất là không bỏ? Khi sinh trở lại là không được?
Đáp: Người kia ở nơi tĩnh lự thứ nhất, thuận phần thắng tấn, thuận phần quyết trạch, khi đã mất là bỏ. Khi sinh trở lại là không được. Thuận phần thoái chuyển, khi sinh trở lại là được. Khi đã mất là không bỏ. Thuận phần trụ cùng sinh đắc, khi đã mất là bỏ. Khi sinh trở lại là được. Trừ các tướng nêu trước, các pháp còn lại, khi đã mất là không bỏ. Khi sinh trở lại là không được.
Như tĩnh lự thứ nhất, đối với tĩnh lự thứ hai cũng như vậy. Cho đến đối với Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như thế. Như địa căn bản, các địa cận phần cũng nên nói rộng như thế.
Hỏi: Từng có khởi triền nơi tĩnh lự thứ hai thoái chuyển vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là vô học nơi tĩnh lự thứ nhất và học nơi tĩnh lự thứ nhất đối trị bảy địa trên v.v…
Hỏi: Từng có khởi triền nơi tĩnh lự thứ hai thoái chuyển tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là A-la-hán đã tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và tạp tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất.
***
* Nếu tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất thì người kia cũng tu vô lậu chăng? Cho đến nói rộng.
Tu có bốn thứ là tu đắc, tu tập, tu đối trị, tu trừ bỏ. Trong đây, hai thứ tu trước là pháp hữu vi thiện, hai thứ tu sau là pháp hữu lậu.
Sư nước ngoài nói: Tu có sáu thứ: Là bốn thứ nêu trước cùng tu phòng hộ, tu phân biệt. Tu phòng hộ là tu gốc. Như Khế kinh nói: Nếu đối với sáu căn khéo điều phục, khéo che chở, khéo phòng hộ, khéo tu, tức có thể dẫn đến an lạc về sau. Tu phân biệt là tu thân. Như Khế kinh nói: Ở trong thân này có tóc, lông, móng, răng, cho đến nói rộng. Ở đây, hai thứ tu sau nên biết là thuộc về tu đối trị và tu trừ bỏ. Thế nên, tu chỉ có bốn thứ.
Nơi phần này đã dựa vào hai tu để tạo luận là tu đắc và tu tập. Như ở nơi khác nói: Nếu tu pháp trí thì người kia cũng tu loại trí chăng? Cho đến nói rộng. Tức ở đấy cũng dựa vào hai thứ tu để tạo luận là tu đắc và tu tập.
Ở chỗ khác lại nói: Nếu đạo ở quá khứ thì đạo ấy là tất cả đã tu, đã an chăng? Cho đến nói rộng. Tức ở đấy cũng dựa vào hai thứ tu để tạo luận là tu đắc và tu tập.
Như ở nơi khác cho: Nếu tu thân thì người kia cũng tu giới chăng? Cho đến nói rộng. Tức ở đấy cũng dựa vào hai thứ tu để tạo luận là tu đối trị và tu trừ bỏ.
Ở nơi khác lại nêu: Nếu tu nhãn căn thì người kia cũng tu nhĩ căn chăng? Cho đến nói rộng. Tức ở đấy cũng dựa vào hai thứ tu để tạo luận là tu đối trị và tu trừ bỏ.
Như ở nơi khác nói: Nếu tu Tam-ma-địa không thì người kia cũng tu Tam-ma-địa vô nguyện chăng? Cho đến nói rộng.
Ở chỗ khác lại cho: Nếu tu thân niệm trụ thì người kia cũng tu thọ niệm trụ chăng? Cho đến nói rộng. Tức ở đấy đều dựa vào hai thứ tu để tạo luận là tu đắc và tu tập.
Như ở nơi khác nêu: Nếu tu tưởng vô thường thì người kia tư duy về tưởng vô thường chăng? Cho đến nói rộng. Có thuyết nói: Đó là dựa vào tu đắc để tạo luận. Có thuyết cho: Đó là dựa vào tu tập để tạo luận. Có thuyết nêu: Đó là dựa vào hai tu để tạo luận là tu đắc và tu tập.
Như ở nơi khác nói: Thế nào là pháp nên tu? Là pháp hữu vi thiện. Pháp này tuy lại có đủ nghĩa của bốn thứ tu, nhưng ở đấy chỉ dựa vào hai thứ tu để tạo luận là tu đắc và tu tập.
Do nghĩa ấy nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp có hai thứ tu trước, không có hai thứ tu sau: Đó là pháp hữu vi vô lậu.
2. Có pháp có hai thứ tu sau, không có hai thứ tu trước: Đó là pháp nhiễm ô, vô phú vô ký.
3. Có pháp có đủ bốn thứ tu: Đó là pháp thiện hữu lậu.
4. Có pháp đều không có bốn thứ tu: Đó là pháp vô vi.
Hỏi: Thế nào gọi là tu?
Đáp: Tu khắp nên gọi là tu. Luôn tập nên gọi là tu. Huân tập nên gọi là tu. Học nên gọi là tu. Khiến cho sáng sạch nên gọi là tu. Nên biết trong đây, hiện tại thì tu tập hiển bày. Vị lai thì tu đắc hiển bày.
Lại nữa, hiện tại tập nên gọi là tu. Vị lai đắc nên gọi là tu.
Lại nữa, hiện tại thọ dụng nên gọi là tu. Vị lai dẫn phát nên gọi là tu.
Lại nữa, hiện tại làm xong việc nên gọi là tu. Vị lai “dữ dục” nên gọi là tu.
Lại nữa, hiện tại thân trong thân nên gọi là tu. Vị lai được tự tại nên gọi là tu.
Lại nữa, hiện tại hiện tiền nên gọi là tu. Vị lai thành tựu nên gọi là tu.
Hỏi: Vì sao khi đã được pháp thiện hiện tiền không tu vị lai?
Đáp: Do đã suy kiệt, đã thọ dụng, đã làm xong việc, đã cho quả. Lại nữa, do đã tu, đã dừng dứt, thế dụng đã giảm. Lại nữa, đã được pháp hiện tiền, khi thọ dụng chỉ có dần dần hết.
Lại không còn thế mạnh nào khác, làm sao có thể tu vị lai? Như người thọ dụng thì những của cải đã tích chứa từ trước chỉ có giảm dần, lại không tăng thêm.
Lại nữa, tạo khởi công đức là có thể tu vị lai, không phải là khởi pháp đã từng được. Chỉ tạo công dụng thì không tu vị lai.
Lại nữa, nếu đã được pháp hiện tiền, lại có thể tu vị lai, thì khi Đức Phật Niết-bàn, hiện khởi tất cả tĩnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, bấy giờ cũng nên lại tu vị lai. Như vậy, tức khi đạt tận trí, nên không đủ được tất cả công đức, thì sao được gọi là mọi việc làm đã rốt ráo? Chớ có lỗi ấy. Cho nên, khi đã được pháp hiện tiền thì không tu các công đức khác ở vị lai.
Hỏi: Nếu tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất thì người kia cũng tu vô lậu chăng? Nếu như tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất thì người kia cũng tu tịnh chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là vô lậu: Nghĩa là đã được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền. Hoặc chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu vô lậu. Hoặc chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là vô lậu.
Đã được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền: Nghĩa là hàng phàm phu và bậc Thánh, hoặc học hoặc vô học, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Như Lai, hoặc là hiện pháp lạc trụ, hoặc là quán những việc vốn đã làm, hoặc là công đức diệu dụng, hoặc là thọ dụng của cải bậc Thánh, nên khởi tĩnh lự thứ nhất thế tục đã từng được hiện tiền, khi ấy thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống là có thể tu công đức khác của vị lai. Nhưng ở phần vị hiện tiền tức là tu tập nên được gọi là tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất.
Hoặc chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu vô lậu: Nghĩa là hàng phàm phu lìa nhiễm của cõi dục, nếu đạo giải thoát sau cùng khởi, khi tĩnh lự thứ nhất căn bản hiện tiền, tức hàng phàm phu vì lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất nên dựa vào tĩnh lự thứ nhất làm đạo gia hạnh. Tức hàng phàm phu dựa vào tĩnh lự thứ nhất dẫn phát năm thông. Khi được các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát, tức hàng phàm phu dựa vào tĩnh lự thứ nhất khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, pháp thế đệ nhất.
Có thuyết nói: Khi ấy cũng khởi trì tức niệm.
Nơi thời như thế là khởi chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu vô lậu.
Hoặc chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là vô lậu: Nghĩa là trong đây nơi các địa khác dùng tên trí để nói, tức định vị chí, tĩnh lự trung gian. Đó là phàm phu lìa nhiễm của cõi dục, dựa vào định vị chí, khi khởi đạo giải thoát thứ chín. Tức là phàm phu vì lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, nên dựa vào định vị chí, khi khởi đạo gia hạnh, là phàm phu đã lìa nhiễm dục, dựa vào định vị chí khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán. Là phàm phu vì lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, nên dựa vào tĩnh lự trung gian, khi khởi đạo gia hạnh. Tức phàm phu dựa vào tĩnh lự trung gian khởi ba vô lượng. Khi khởi hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là vô lậu.
2. Có trường hợp tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là tịnh: Nghĩa là đã được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền. Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh. Hoặc chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất và chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là tịnh.
Đã được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền: Nghĩa là các bậc Thánh, hoặc học cho đến hoặc Như Lai, hoặc là hiện pháp lạc trụ cho đến hoặc là thọ dụng của cải bậc Thánh, nên khởi vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất đã từng được hiện tiền, khi ấy thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống là có thể tu công đức khác của vị lai. Nhưng ở phần vị hiện tiền tức là tu tập nên được gọi là tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất.
Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh: Nghĩa là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán mỗi thứ đều ba khoảnh tâm, đạo hiện quán bốn khoảnh tâm. Thánh giả dựa vào tĩnh lự thứ nhất lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ. Khi đạt chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát và lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Khi được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, bậc tín thắng giải dựa vào tĩnh lự thứ nhất luyện căn tạo kiến chí là khi được đạo vô gián, đạo giải thoát.
Có thuyết cho: Trừ đạo giải thoát. Vì khi ấy cũng tu đạo thế tục. Nên nói như vầy: Là khi ấy chỉ tu đạo vô lậu, do đồng kiến đạo, đắc quả. A-la-hán thời giải thoát dựa vào tĩnh lự thứ nhất luyện căn tạo bất động là khi được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Nơi thời như thế là khởi chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh.
Hoặc chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là tịnh: Trong đây nơi các địa khác dùng tên trí để nói, tức từ cận phần của tĩnh lự thứ hai cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất. Nếu là cận phần của tĩnh lự thứ hai làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh ấy, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào cận phần của tĩnh lự thứ hai khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán. Tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ hai, vì lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ hai cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy dựa vào tĩnh lự thứ hai, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy, là tạp tu tĩnh lự thứ hai. Khi tâm ở trung gian, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ hai dẫn phát năm thông. Khi được các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát, và tha tâm trí thông thế tục cùng đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ hai khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện.
Có thuyết nêu: Khi ấy cũng khởi trì tức niệm. Dựa vào tĩnh lự thứ hai khởi vô ngại giải và khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng thì dựa vào tĩnh lự thứ hai, khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Cùng khi tăng trưởng, tức là bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai.
Nếu là cận phần của tĩnh lự thứ ba làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh ấy, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào cận phần của tĩnh lự thứ ba khởi ba vô lượng, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán. Là bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ ba để lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy là dựa vào tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, cho đến khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng và khi tăng trưởng, nói rộng như ở tĩnh lự thứ hai. Nhưng có sai khác, là trừ giải thoát, thắng xứ, hỷ vô lượng, các thứ còn lại đều như trước.
Tức bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ ba.
Nếu cận phần của tĩnh lự thứ tư làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy và chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, là bậc Thánh dựa vào cận phần của tĩnh lự thứ tư khởi ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán. Tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ tư để lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu thế tục làm gia hạnh thì khi được các đạo gia hạnh ấy là dựa vào tĩnh lự thứ tư, bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc Thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh thì khi được đạo gia hạnh kia là tạp tu tĩnh lự thứ tư. Khi tâm ở trung gian thì bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ tư dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát cùng tha tâm trí thông thế tục và khi đạt đạo giải thoát tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện. Khi ấy là dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi vô ngại giải và khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng thì khởi nguyện trí vô tránh, định biên vực và khi tăng trưởng là dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Khi tăng trưởng tức bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư.
Nếu là cận phần của Không vô biên xứ làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào Không vô biên xứ để lìa nhiễm của Không vô biên xứ, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, là dựa vào Không vô biên xứ, A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động.
Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh khởi Không vô biên xứ, giải thoát thế tục, biến xứ. Khi đạt niệm trụ thế tục là dựa vào Không vô biên xứ khởi hai vô ngại giải và khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng là dựa vào Không vô biên xứ khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Và khi tăng trưởng, tức bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của Không vô biên xứ.
Nếu là cận phần của Thức vô biên xứ làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy và chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào Thức vô biên xứ để lìa nhiễm nơi Thức vô biên xứ, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, ngoài ra là nói rộng như ở Không vô biên xứ. Tức là bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của Thức vô biên xứ.
Nếu là cận phần của Vô sở hữu xứ làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào Vô sở hữu xứ để lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ và lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, ngoài ra cũng nói rộng như Không vô biên xứ. Có sai khác là trừ biến xứ. Tức bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ.
Nếu là cận phần của Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy và chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ để lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Khi được đạo gia hạnh kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, dùng Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh ấy, tức bậc Thánh khởi Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
Khi đạt niệm trụ là dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ khởi hai vô ngại giải, không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Và khi tăng trưởng thì khởi nhập định diệt tưởng tâm vi tế. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là tịnh.
Và chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là tịnh: Trong đây nơi các địa khác dùng tên trí để nói. Tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ nhất, cho đến Vô sở hữu xứ. Nghĩa là đã lìa nhiễm dục, dựa vào định vị chí nhập chánh tánh ly sinh, khi đạt đạo loại trí là dựa vào định vị chí lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ. Khi đạt hết thảy đạo vô gián, giải thoát là lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Lúc được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát là đã lìa nhiễm dục. Bậc tín thắng giải dựa vào định vị chí luyện căn tạo kiến chí, khi đạt đạo vô gián, giải thoát, bậc A-la-hán thời giải thoát dựa vào định vị chí luyện căn tạo bất động.
Lúc có được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là dựa vào tĩnh lự trung gian nhập chánh tánh ly sinh. Khổ, tập, diệt hiện quán, mỗi thứ đều ba khoảnh tâm, đạo hiện quán bốn khoảnh tâm, là dựa vào tĩnh lự trung gian lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ.
Khi đạt tất cả đạo vô gián, giải thoát là lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lúc được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát là dựa vào tĩnh lự trung gian, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Khi được đạo vô gián, giải thoát bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động.
Lúc có được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát là dựa vào tĩnh lự thứ hai, nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán mỗi thứ đều ba khoảnh tâm, đạo hiện quán bốn khoảnh tâm, là dựa vào tĩnh lự thứ hai để lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ hai cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát là lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, tức dựa vào tĩnh lự thứ hai, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, cùng chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, thì tạp tu tĩnh lự thứ hai.
Khi tâm ở vào trước sau, là dựa vào tĩnh lự thứ hai khởi tha tâm trí thông vô lậu, niệm trụ vô lậu. Và khi hai vô ngại giải vô lậu tăng trưởng, như dựa vào tĩnh lự thứ hai, thì dựa vào tĩnh lự thứ ba, dựa vào tĩnh lự thứ tư, nói rộng cũng như vậy. Có khác là lìa nhiễm ở địa trên.
Dựa vào Không vô biên xứ, lìa nhiễm từ Không vô biên xứ cho đến Vô sở hữu xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt hết thảy các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát là lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì lúc có được đạo gia hạnh kia, cùng chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, tức dựa vào Không vô biên xứ, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh kia cùng chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là khởi Không vô biên xứ giải thoát vô lậu, niệm trụ vô lậu, và lúc hai vô ngại giải vô lậu tăng trưởng.
Như dựa vào Không vô biên xứ, thì dựa vào Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Có sai khác là lìa nhiễm ở địa trên. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất không phải là tịnh.
3. Có trường hợp tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất cũng là vô lậu: Nghĩa là hoặc chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu. Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh. Hoặc chưa được không phải là thế tục trí, trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu.
Hoặc chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu: Nghĩa là bậc Thánh dùng đạo thế tục, lìa nhiễm nơi cõi dục, khi khởi đạo giải thoát của địa căn bản sau cùng, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ nhất để lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì lúc được đạo gia hạnh kia, là tạp tu tĩnh lự thứ nhất. Khi tâm ở khoảng giữa, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ nhất dẫn phát năm thông, cùng các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát và tha tâm trí thông thế tục. Khi đạt đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ nhất khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện.
Có thuyết nói: Khi ấy cũng khởi trì tức niệm. Tức dựa vào tĩnh lự thứ nhất khởi vô ngại giải và khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng cùng tăng trưởng. Vào những lúc như thế là khởi chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu vô lậu.
Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh: Nghĩa là dựa vào tĩnh lự thứ nhất nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán mỗi thứ đều có một khoảnh tâm. Nếu dùng đạo vô lậu lìa nhiễm nơi cõi dục, khi sau cùng khởi đạo giải thoát của địa căn bản là dựa vào tĩnh lự thứ nhất để lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh ấy, là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, đắc quả A-la-hán. Khi tận trí đầu tiên khởi là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh kia và đạo giải thoát sau cùng là tu tạp tĩnh lự thứ nhất. Lúc tâm ở vào trước sau, là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, khởi tha tâm trí thông vô lậu, niệm trụ vô lậu, vô ngại giải vô lậu tăng trưởng. Nơi những thời như vậy là khởi chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh.
Hoặc chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu: Nghĩa là trong đây nơi các địa khác dùng tên trí để nói, tức định vị chí, tĩnh lự trung gian. Nghĩa là bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm nơi cõi dục, tức dựa nơi định vị chí khi khởi đạo giải thoát sau cùng, là dựa nơi định vị chí để lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, là dựa vào định vị chí, đã lìa nhiễm dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, Thánh giả đã lìa nhiễm dục, dựa vào định vị chí, khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện, khởi vô ngại giải, và khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng là khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng.
Và lúc tăng trưởng, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự trung gian để lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, là dựa vào tĩnh lự trung gian, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự trung gian khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện, khởi vô ngại giải, và khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng, là khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng cùng lúc tăng trưởng. Ở nơi những thời như thế là khởi chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu.
Và chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu: Nghĩa là ở đây nơi các địa khác dùng tên trí để nói, tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ nhất, cho đến Vô sở hữu xứ. Nghĩa là dùng đạo vô lậu lìa nhiễm dục, tức dựa vào định vị chí khi khởi đạo giải thoát sau cùng là dựa vào định vị chí để lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì lúc có đạo gia hạnh đó, là dựa nơi định vị chí đắc quả A-la-hán. Khi tận trí thứ nhất khởi, là dựa vào định vị chí đã lìa nhiễm dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh kia và đạo giải thoát sau cùng, tức bậc Thánh đã lìa nhiễm dục dựa vào định vị chí khởi niệm trụ vô lậu và vô ngại giải vô lậu khi tăng trưởng, là dựa vào tĩnh lự trung gian nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán mỗi thứ đều một khoảnh tâm, dựa vào tĩnh lự trung gian để lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, là dựa vào tĩnh lự trung gian đắc quả A-la-hán. Khi tận trí thứ nhất khởi là dựa vào tĩnh lự trung gian, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh kia, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động.
Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì lúc có đạo gia hạnh đó và đạo giải thoát sau cùng, là dựa vào tĩnh lự trung gian, khởi niệm trụ vô lậu và khi vô ngại giải vô lậu tăng trưởng, là dựa vào tĩnh lự thứ hai nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán mỗi thứ đều một khoảnh tâm, dựa nơi tĩnh lự thứ hai đắc quả A-la-hán. Khi tận trí thứ nhất khởi là dựa nơi tĩnh lự thứ hai, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động, khi được đạo giải thoát sau cùng.
Như nói dựa vào tĩnh lự thứ hai, thì dựa nơi tĩnh lự thứ ba, tĩnh lự thứ tư cũng nói như vậy. Dựa vào Không vô biên xứ đắc quả A-lahán, khi tận trí đầu tiên khởi dựa vào Không vô biên xứ, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động, lúc đạt đạo giải thoát sau cùng. Như nói dựa vào Không vô biên xứ, thì dựa vào Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng nói như vậy. Nơi những thời như thế là khởi chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu.
HẾT – QUYỂN 163