LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 158
Chương 7: ĐỊNH UẨN
Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẮC, phần 2
Hỏi: Đắc và phi đắc khác nhau như thế nào?
Đáp: Tên gọi tức sai khác: Nghĩa là gọi là đắc, gọi là phi đắc.
Lại nữa, đắc là hữu lậu, vô lậu. Phi đắc chỉ là hữu lậu. Lại nữa, đắc là thiện, bất thiện, vô ký. Phi đắc chỉ là vô ký. Lại nữa, đắc là thuộc về ba cõi và không hệ thuộc. Phi đắc chỉ thuộc về ba cõi. Lại nữa, đắc là học, vô học, phi học phi vô học. Phi đắc chỉ là phi học phi vô học.
Lại nữa, đắc là do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn. Phi đắc chỉ là tu đạo đoạn. Lại nữa, đắc là nhiễm ô, không nhiễm ô. Phi đắc chỉ là không nhiễm ô. Lại nữa, đắc là dị thục, phi dị thục. Phi đắc chỉ là phi dị thục.
Lại nữa, đắc là có dị thục, không dị thục. Phi đắc chỉ là không dị thục. Lại nữa, đắc cùng với pháp của đối tượng đắc hoặc cùng khởi hoặc không cùng khởi. Phi đắc cùng với pháp của đối tượng phi đắc tất không cùng khởi. Lại nữa, đắc là thuộc về ba đế khổ, tập, đạo. Phi đắc chỉ thuộc về hai đến khổ, tập.
Do những môn như thế, nên biết đắc và phi đắc khác nhau.
Hỏi: Vì sao đắc và pháp của đối tượng đắc, tánh loại của chúng hoặc giống hoặc khác?
Đáp: Đắc có ba thứ: 1. Đắc pháp hữu vi. 2. Đắc trạch diệt. 3. Đắc phi trạch diệt.
Đắc pháp hữu vi: Là tùy theo pháp của đối tượng đắc nên tánh loại khác nhau. Vì pháp hữu vi có thể có tác dụng dẫn tới tự mình đắc.
Đắc trạch diệt: Là tùy khả năng chứng đạo nên tánh loại khác nhau. Vì các trạch diệt tự nó không có tác dụng, chỉ do đạo lực cầu chứng, khi ấy mới dẫn khiến đắc.
Đắc phi trạch diệt: Là tùy chỗ nương dựa của tự mình nên tánh loại khác nhau. Vì phi trạch diệt tự nó không có tác dụng, không do đạo cầu được, chỉ đắc là do nương vào mạng căn, chúng đồng phần mà hiện tiền.
Hỏi: Phi đắc tùy vào những gì khiến tánh loại khác nhau?
Đáp: Phi đắc nhất định không tùy theo pháp của đối tượng phi đắc do cùng trái nhau. Lại, không tùy theo chỗ cầu đạt của đạo, phi đạo, chỉ dựa vào mạng căn, chúng đồng phần mà chuyển, tùy vào nơi nương dựa nên tánh loại có sai khác.
Hỏi: Nếu các đắc phi đắc phi trạch diệt cùng tùy nơi nương dựa nên tánh loại khác nhau, vậy nếu nơi nương dựa hoặc là dị thục, hoặc chỉ là đẳng lưu, thì hai thứ này tùy theo pháp nào để tánh loại khác nhau?
Đáp: Tùy theo tánh đẳng lưu do nghĩa hiện bày khắp. Còn dị thục thì không hiện bày khắp nên không tùy theo đấy để lập.
Hỏi: Phi đắc nếu tùy theo pháp của đối tượng không đắc nên tánh loại khác nhau thì có lỗi gì?
Đáp: Là kẻ đoạn căn thiện tức nên thành tựu thiện. Người đã lìa nhiễm cõi dục tức nên trở thành bất thiện. Các vị vô học tức nên tạo thành nhiễm. Phàm phu tức nên thành tựu pháp vô lậu của ba thừa. Thoái chuyển quả tức nên thành tựu quả. Bỏ hướng tức nên thành tựu hướng. Hai diệt phi đắc tức nên là vô vi. Do những lỗi ấy nên phi đắc không thể tùy theo pháp của đối tượng không đắc để tánh loại có khác.
Hỏi: Đã nói đắc là lại có đắc hay là không? Nếu lại có đắc thì đắc lại có đắc, làm sao không phải là vô cùng? Nếu lại không đắc thì đắc ấy do đâu để có thể nói là thành tựu?
Đáp: Nên nói là đắc, lại có đắc.
Hỏi: Nếu như vậy tức nên thành vô cùng?
Đáp: Vô cùng cũng không có lỗi. Do đấy nên sinh tử khó đoạn dứt, khó vượt khỏi. Hoặc vô lượng đắc đều từ một sát-na cùng sinh và diệt nên không có lỗi vô cùng.
Nên nói như vầy: Trong một sát-na chỉ có ba pháp: 1. Pháp kia. 2. Đắc. 3. Đắc của đắc. Do đắc nên thành tựu pháp kia và đắc của đắc. Do đắc của đắc nên thành tựu đắc. Do lại hỗ tương đắc nên không phải vô cùng. Vì vậy nói: Sắc uẩn, hành uẩn là một đắc của đắc. Cho đến thức uẩn, hành uẩn là một đắc của đắc. Hữu vi, vô vi là một đắc của đắc.
Hỏi: Vì mỗi mỗi pháp đều có riêng đắc hay là không như thế?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp cùng có đồng một đắc của đắc.
Hỏi: Nếu như thế thì không nên nói như vầy: Sắc uẩn, hành uẩn là một đắc của đắc v.v…?
Đáp: Muốn làm rõ pháp cùng với đắc của đắc, không khác với đắc nên nói như vậy. Nhưng thật sự không phải không có nghĩa bốn uẩn, năm uẩn là một đắc của đắc.
Có thuyết cho: Mỗi mỗi pháp đều có đắc của đắc khác nhau, chỉ trừ đắc của đắc cùng với pháp kia đồng một đắc của đắc.
Hỏi: Nếu như thế thì có lỗi vô cùng. Do đắc đều có sinh, trụ, dị, diệt. Sinh v.v… lại có đắc cùng với đắc của đắc. Đắc kia đắc của đắc lại có sinh v.v… như thế lần lượt thành vô cùng chăng?
Đáp: Vô cùng lại có lỗi gì? Chỉ do đấy nên sinh tử khó đoạn, khó vượt khỏi. Hoặc các pháp này đều từ một sát-na cùng sinh và diệt, không có lỗi vô cùng.
Nên nói như vầy: Là pháp cùng với sinh v.v… đồng một đắc của đắc. Tướng cùng với đối tượng tướng là hết sức gần gũi. Do đấy khéo thông sắc uẩn, hành uẩn là một đắc của đắc. Lại, trừ bỏ lỗi vô cùng như trước. Như nói đắc như thế, phi đắc cùng với đắc là trái nhau, nên theo đấy nói rộng, nhưng không đồng thời phi đắc nơi phi đắc. Khi pháp của số hữu tình hiện tiền, tất cùng với đắc cùng có, cho nên lúc phi đắc khởi, quyết định không cùng với phi đắc, phi đắc và pháp kia cùng khởi. Do ba pháp này đều cùng trái nhau, nên lúc khác nói có, đây tức không ngăn chận.
Hỏi: Quá khứ, vị lai là đắc thành tựu hay là không thành tựu?
Nếu thành tựu tức là vô cùng. Nghĩa là một sát-na có ba pháp cùng khởi: Một là pháp. Hai là đắc. Ba là đắc của đắc. Ở phần vị diệt của ba thứ này có sáu đắc sinh: Là ba đắc và ba đắc của đắc. Ở phần vị diệt của sáu thứ này có mười hai đắc khởi: Là sáu đắc và sáu đắc của đắc. Ở phần vị diệt của mười hai thứ này có hai mươi bốn đắc khởi: Là mười hai đắc và mười hai đắc của đắc. Như vậy, lần lượt từ vô thỉ đến nay cho đến biên vực sau, niệm niệm khởi tăng nên đắc kia là vô hạn. Sát-na gần kề tăng bọi hãy còn như vậy, huống chi là sát-na cách xa về trước trước nữa các đắc càng tăng bội. Thế nên lần lượt có lỗi vô cùng.
Nếu không thành tựu liền cùng với uẩn này sau nói là trái nhau. Như nói: Từ cõi vô sắc khi qua đời, sinh nơi cõi dục, được những thứ là uẩn, giới, xứ, đại chủng, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền, nên nói là từng đắc của đắc hay chưa từng đắc của đắc?
Đáp: Pháp thiện, nhiễm ô nên nói là từng đắc của đắc. Pháp dị thục nên nói là chưa từng đắc của đắc.
Hỏi: Như vậy tức không phải là không thành tựu do đắc cũng có thiện, nhiễm ô chăng?
Đáp: Nên nói như vầy: Quá khứ, vị lai đắc là có thành tựu: Do pháp thiện và pháp nhiễm ô từng có ba đời đắc.
Hỏi: Nếu như vậy há không phải là vô cùng?
Đáp: Vô cùng lại có lỗi gì? Chỉ do đấy nên sinh tử khó đoạn dứt, khó vượt khỏi. Hoặc các đắc kia từ một sát-na sinh, không có lỗi vô cùng. Lại, các đắc này chỉ có thể nói là nhiều, không phải là vô cùng, do cùng có phần hạn.
Có Sư khác nêu: Không có thành tựu quá khứ, vị lai đắc, cho nên không có lỗi vô cùng.
Hỏi: Nơi phần sau uẩn này nói làm sao thông?
Đáp: Văn phần sau uẩn này nói là pháp của đối tượng đắc, không phải là chủ thể đắc của đắc. Điều ấy đâu có lỗi.
Nên nói như vầy: Nên như thuyết đầu. Đắc như đối tượng đắc nên thành tựu.
Lại, do đắc nên gọi là quả Sa-môn. Nếu quá khứ, vị lai đắc không thành tựu: Thì các quả Sa-môn tức nên sát-na bỏ sát-na được. Nhưng không có sự việc như vậy.
Lại, các Thánh đạo có ba thời gian bỏ: 1. Thời gian thoái chuyển. 2. Thời gian đắc quả. 3. Thời gian luyện căn. Nếu quá khứ, vị lai đắc không thành tựu: Thì Thánh đạo tức nên sát-na sát-na bỏ, không phải cho là ba thời gian. Muốn khiến không có lỗi như vậy nên có thành tựu các đắc ở quá khứ, vị lai. Nếu thành tựu các pháp của đối tượng đắc thì cũng thành tựu đắc kia. Nếu xả bỏ pháp của đối tượng đắc thì đắc kia cũng xả bỏ. Do pháp cùng với đắc bỏ, được là đồng.
Nhưng đắc, gồm chung có bốn thứ: 1. Ở trước pháp kia. 2. Ở sau pháp kia. 3. Cùng với pháp kia cùng có. 4. Không phải trước sau của pháp kia và cùng có.
Nếu pháp của đối tượng đắc thì có sáu thứ: 1. Có pháp của đối tượng đắc chỉ có cùng đắc. Như dị thục sinh v.v… 2. Có pháp của đối tượng đắc chỉ có đắc trước. Như ba loại trí biên, thế tục trí. Có thuyết nói: Những thứ ấy cũng có cùng đắc. 3. Có pháp của đối tượng đắc chỉ có cùng đắc, đắc sau. Như giới biệt giải thoát v.v… 4. Có pháp của đối tượng đắc chỉ có cùng đắc, đắc trước. Như đạo loại trí nhẫn v.v… 5. Có pháp của đối tượng đắc có đủ trước sau cùng đắc. Như các thứ thiện, nhiễm ô khác. 6. Có pháp của đối tượng đắc không thể nói có trước sau cùng đắc. Nhưng có các đắc, nghĩa là trạch diệt, phi trạch diệt, tất không có pháp chỉ có pháp đắc sau, nên khi hiện tiền tất có đắc.
Tất cả phi đắc, gồm chung có ba thứ: 1. Ở trước pháp kia. 2. Ở sau pháp kia. 3. Không phải trước sau pháp kia và cùng có.
Pháp của đối tượng không đắc cũng có ba thứ: 1. Có pháp của đối tượng không đắc chỉ có phi đắc trước. Nghĩa là số hữu tình vị lai hoàn toàn không sinh pháp và tâm sát-na sau cùng nhập Niết-bàn vô dư. 2. Có pháp của đối tượng không đắc có chung cả phi đắc trước sau. Nghĩa là tùy theo pháp của số hữu tình ứng hợp khác. 3. Có pháp của đối tượng không đắc không có trước sau cùng phi đắc. Nhưng có phi đắc, nghĩa là trạch diệt, phi trạch diệt, tất không có phi đắc có thể cùng với pháp cùng có. Do khi pháp hiện tiền thì đối tượng đắc tất có đắc, không phải đối tượng đắc là không đắc, không phi đắc. Cũng không chỉ có phi đắc sau kia, không phải từ vô thỉ đến nay luôn thành tựu. Chưa bỏ tất khởi loại kia hết. Nhưng những phi đắc tánh yếu kém, nên chỉ thành tựu ở hiện tại, mỗi mỗi sát-na đắc rồi tức bỏ. Đối với pháp kia chưa được, cùng ở phần vị đã bỏ luôn có phi đắc này, nên biết.
Kiến đạo đã khởi đắc có mười lăm loại. Tức mười lăm tâm lúc cùng khởi các đắc. Ở phần vị của kiến đạo diệt, cùng với chỗ tự khởi các đắc cùng diệt. Như khi mặt trời lặn thì cùng với chỗ tự khởi ánh sáng cùng diệt. Nhưng khổ pháp trí nhẫn có mười lăm đắc, khổ pháp trí có mười bốn đắc, cho đến đạo loại trí nhẫn chỉ có một đắc.
Hỏi: Kiến đạo đắc là chỉ có từng ấy hay lại có thứ khác?
Đáp: Có thuyết nói: Chỉ có từng ấy.
Có thuyết cho: Lại có thứ khác. Nghĩa là các đắc không sinh ở đời vị lai, nhưng không thể nói. Điều này không đúng lý. Thà nên nói không có, không nên nói có, nhưng không thể nói.
Nên nói như vầy: Lại có thứ khác là vị lai đắc. Khổ pháp trí nhẫn có một đắc cùng sinh. Nhẫn đắc cùng đối chiếu cùng không có nghĩa của nhân. Khổ pháp trí có ba đắc cùng sinh: Hai đạo đắc, một ly hệ đắc. Hai đạo đắc nghĩa là khổ pháp trí nhẫn đắc và khổ pháp trí đắc. Một ly hệ đắc nghĩa là ở cõi dục, do kiến khổ đoạn mười hệ thuộc đắc diệt, mười ly hệ đắc khởi. Khổ pháp trí cùng với ba đắc kia cùng không làm nhân. Khổ pháp trí nhẫn cùng với ba đắc kia đều có nghĩa của nhân. Khổ loại trí nhẫn có bốn đắc cùng sinh là ba đạo đắc và một ly hệ đắc. Khổ loại trí nhẫn cùng với bốn đắc kia cùng không làm nhân. Khổ pháp trí nhẫn làm nhân cho bốn đắc. Khổ pháp trí làm nhân cho ba đắc, trừ khổ pháp trí nhẫn đắc. Do gia hạnh nên pháp thiện là nhân hơn không phải kém. Pháp hữu vi đắc là tùy theo pháp hơn kém. Khổ loại trí có sáu đắc cùng sinh, đó là bốn đạo đắc và hai ly hệ đắc. Khổ loại trí cùng với sáu đắc kia cùng không làm nhân. Khổ pháp trí nhẫn làm nhân cho sáu đắc. Khổ pháp trí làm nhân cho năm đắc, trừ khổ pháp trí nhẫn đắc do nó yếu kém. Khổ loại trí nhẫn làm nhân cho ba đắc, trừ ba đắc trước vì chúng yếu kém.
Hỏi: Không cùng với hai đạo đắc trước làm nhân, sự việc ấy có thể như thế, vì chỗ đắc kia là yếu kém. Không cùng với ly hệ đắc trước làm nhân, vì sao có thể như thế, vì chỗ đắc kia là tối thắng chăng?
Đáp: Pháp hữu vi đắc là tùy theo pháp của đối tượng đắc hơn kém do chúng đã dẫn. Pháp vô vi đắc là tùy theo đạo hơn kém đã dẫn, do đạo đó kém, nên đắc kia không phải là nhân.
Như vậy, cho đến đạo loại trí nhẫn có hai mươi hai đắc cùng sinh, tức mười lăm đạo đắc và bảy ly hệ đắc. Đạo loại trí nhẫn cùng với các đắc kia cùng không làm nhân. Khổ pháp trí nhẫn đều cùng với hai mươi hai đắc làm nhân. Khổ pháp trí cùng với hai mươi mốt đắc làm nhân, trừ khổ pháp trí nhẫn đắc. Cho đến đạo pháp trí chỉ cùng với ba đắc làm nhân, nghĩa là hai đạo đắc và một ly hệ đắc, không phải mười chín đắc trước làm nhân, do chúng yếu kém.
Do vậy nên nói: Từng có pháp vô lậu đời trước không làm nhân cho pháp vô lậu đời sau chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là hơn đối với kém. Khi khổ pháp trí nhẫn hiện tiền và khổ pháp trí nhẫn tu vô lượng vị lai, thì nhẫn hiện tại này cùng với chỗ tu làm nhân, phần kia là quả này.
Có thuyết nói: Nhẫn hiện tại này không phải là nhân cho những thứ đang tu chúng, không phải là quả này, do chúng hoàn toàn không có một sát-na hiện tiền.
Lời bình: Nên nói cái này là nhân của cái kia. Cái kia là quả của cái này, thuộc vào một sự nối tiếp, không phải là đạo yếu kém.
Như vậy cho đến khi định kim cang dụ hiện tiền, định kim cang dụ tu vô lượng ở vị lai, thì định hiện tại này cùng với chỗ tu làm nhân, đó là quả này.
Có thuyết cho: Định hiện tại này không phải là nhân của chỗ đang tu kia, nó không phải là quả này, vì hoàn toàn không có một sát-na hiện tiền.
Lời bình: Nên nói cái này là nhân của cái kia. Cái kia là quả của cái này, thuộc vào một sự nối tiếp, không phải là đạo yếu kém.
Khổ pháp trí nhẫn đã sinh cùng với khổ pháp trí nhẫn không sinh làm nhân. Cũng cùng với tất cả đạo học, đạo vô học như khổ pháp trí v.v… làm nhân.
Khổ pháp trí đã sinh cùng với khổ pháp trí không sinh làm nhân. Cũng cùng với tất cả đạo học, đạo vô học như khổ loại trí nhẫn v.v… làm nhân. Không cùng với khổ pháp trí nhẫn làm nhân.
Như vậy, cho đến tận trí đã sinh cùng với tận trí chưa sinh làm nhân. Cũng cùng với tất cả đạo vô học sau đã sinh, chưa sinh làm nhân. Không cùng với tất cả đạo học làm nhân.
Do vậy, nên nói: Từng có pháp vô lậu đã sinh không phải là nhân của pháp vô lậu chưa sinh chăng?
Đáp: Có. Là khổ pháp trí đã sinh không phải là nhân của khổ pháp trí nhẫn chưa sinh. Cho đến tận trí đã sinh không phải là nhân của định kim cang dụ chưa sinh. Do đạo hơn không làm nhân cho đạo kém.
Khổ, tập đế là hữu lậu, nên các đắc kia cũng là hữu lậu. Diệt đế là vô lậu, nên các đắc kia hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Đạo đế là vô lậu, nên các đắc kia cũng là vô lậu.
Lại, khổ, tập đế là thiện, bất thiện, vô ký, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế, đạo đế là thiện, nên các đắc kia cũng là thiện.
Lại, khổ, tập đế là thuộc về ba cõi, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế là không hệ thuộc, nên các đắc kia hoặc thuộc cõi sắc, hoặc thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Đạo đế là không hệ thuộc, nên các đắc kia cũng không hệ thuộc.
Lại, khổ, tập đế là phi học phi vô học, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế là phi học phi vô học, nên các đắc kia hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Đạo đế là học, vô học, nên các đắc kia cũng như vậy.
Lại, khổ, tập đế là do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế là không đoạn, nên các đắc kia hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn. Đạo đế là không đoạn, nên các đắc kia cũng không đoạn.
Lại, khổ, tập đế là nhiễm ô, không nhiễm ô, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế, đạo đế là không nhiễm ô, nên các đắc kia cũng như vậy.
Lại, khổ, tập đế là có dị thục, không dị thục, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế là không dị thục, nên các đắc kia hoặc là có dị thục, hoặc là không dị thục. Đạo đế là không dị thục, nên các đắc kia cũng như vậy.
Lại, khổ, tập đế là gồm thâu khổ, tập đế, nên các đắc kia cũng như vậy. Diệt đế là gồm thâu diệt đế, nên các đắc kia gồm thâu ba đế khổ, tập, đạo. Đạo đế là gồm thâu đạo đế, nên các đắc kia cũng như vậy.
Đối tượng đắc nơi bốn đế cùng với chủ thể đắc của đắc có các môn đồng dị như thế.
Hỏi: Pháp hệ thuộc địa nào có bao nhiêu thứ ly hệ đắc?
Đáp: Từ cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, pháp do kiến đạo cùng pháp do tu đạo đoạn đều có ba thứ ly hệ đắc là học, vô học, phi học phi vô học. Nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, pháp do kiến đạo đoạn cùng pháp do tu đạo đoạn của tám phẩm trước đều có hai thứ ly hệ đắc là học, vô học. Pháp do tu đạo đoạn ở phẩm thứ chín chỉ có một thứ ly hệ đắc là vô học. Vô học nơi tâm ban đầu mới khởi lần đầu.
Hỏi: Pháp hệ thuộc địa nào có bao nhiêu địa là ly hệ đắc vô lậu?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Những ly hệ đắc là tùy theo đối trị đoạn. Họ nói như vầy: Pháp do kiến đạo tu đạo đoạn ở cõi dục ly hệ đắc vô lậu thuộc về định vị chí. Ở tĩnh lự thứ nhất, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về ba địa. Ở tĩnh lự thứ hai, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về bốn địa. Ở tĩnh lự thứ ba, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về năm địa. Ở tĩnh lự thứ tư, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn và pháp nơi cõi vô sắc do kiến đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về sáu địa. Ở Không vô biên xứ, pháp do tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về bảy địa. Ở Thức vô biên xứ, pháp do tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về tám địa. Ở Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về chín địa.
Lại có thuyết cho: Các ly hệ đắc là tùy ở đối trị hoại. Họ nói như vầy: Ở cõi dục, cõi sắc, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu đều thuộc về sáu địa. Ở Không vô biên xứ, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về bảy địa. Ở Thức vô biên xứ, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về tám địa. Ở Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về chín địa.
Lại có thuyết nêu: Nếu địa có đạo của phẩm pháp trí thì địa ấy có pháp cõi dục do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu. Nếu địa có đạo của phẩm loại trí thì địa ấy có pháp cõi sắc và cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu. Họ nói như vầy: Pháp nơi cõi dục do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về sáu địa. Pháp nơi cõi sắc, cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc về chín địa.
Lời bình: Trong đây, thuyết đầu là đúng. Những ly hệ đắc tất do sức của đối trị đoạn dẫn khởi.
Hỏi: Nếu dùng diệt đạo pháp trí, khi lìa nhiễm nơi cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn, thì pháp nơi cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn, ly hệ đắc vô lậu là thuộc pháp trí phẩm hay thuộc về loại trí phẩm? Nếu thuộc về pháp trí phẩm thì điều ấy không hợp lý, vì pháp kia và đoạn là đối tượng nhận biết của loại trí. Nếu thuộc về loại trí phẩm thì cũng không hợp lý, vì đoạn kia và được là đối tượng chứng đắc của pháp trí.
Đáp: Có thuyết nói: Ly hệ đắc kia là thuộc về loại trí phẩm.
Hỏi: Đoạn kia và đắc há không phải là đối tượng chứng đắc của pháp trí?
Đáp: Tuy là đối tượng chứng đắc của pháp trí, nhưng thuộc về loại trí, vì là đối tượng nhận biết của loại trí.
Có Sư khác nói: Ly hệ đắc vô lậu kia là thuộc về pháp trí phẩm.
Hỏi: Pháp kia và đoạn há không phải là đối tượng nhận biết của loại trí chăng?
Đáp: Tuy là đối tượng nhận biết của loại trí, nhưng thuộc về pháp trí, vì là đối tượng chứng đắc của pháp trí.
Lời bình: Trong đây, thuyết đầu là đúng, vì loại trí phẩm là quyết định đối trị không chung với pháp kia.
Hỏi: Bậc Thánh dùng đạo thế tục, khi lìa nhiễm của các địa, là đạo từng được hay là đạo chưa từng được?
Đáp: Có thuyết nói: Là đạo từng được. Do đạo này từ vô thỉ đến nay đã quen hành tập từng được, nên nay hiện tiền. Họ nói: Bậc Thánh dùng đạo thế tục, khi lìa nhiễm của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do tu đạo đoạn, đối với pháp của phẩm thượng thượng ở cõi dục do tu đạo đoạn được hai thứ ly hệ đắc: 1. Thế tục đắc. 2. Vô lậu đắc. Thế tục đắc là loại đạo từng được. Vô lậu đắc là loại Thánh đạo. Do khi đạo thế tục hiện tiền cũng tu đạo vô lậu vị lai. Đối với pháp của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do kiến đạo đoạn được một thứ ly hệ đắc là thế tục đắc, tức loại đạo từng được, không được vô lậu đắc vì trước đã đắc.
Hỏi: Nếu như vậy thì thế nào là đạo cùng đối trị chuyển thành không cùng đối trị? Nghĩa là đạo từng được này, lúc trước dùng chung những pháp ở cõi dục do kiến đạo tu đạo đoạn làm chín phẩm đoạn. Lúc này, đạo ấy chỉ đoạn ở cõi dục do tu đạo đoạn.
Đáp: Đạo này cũng gọi là đạo cùng đối trị, do đạo ấy luôn có sức cùng đoạn. Ở đây, kiến đạo đoạn do trước đã đoạn, nên nay không có gì để đoạn, không phải là không thể đoạn. Thế nên luôn gọi là đạo cùng đối trị.
Như lìa phẩm thượng thượng, cho đến lìa phẩm hạ hạ cũng như vậy.
Như lìa cõi dục do tu đạo đoạn, cho đến lìa Vô sở hữu xứ do tu đạo đoạn cũng như vậy.
Có Sư khác cho: Là đạo chưa từng được. Do đạo này từ vô thỉ đến nay chưa hành tập, chưa được, chỉ bậc Thánh dẫn khởi. Họ nói như vầy: Khi bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do tu đạo đoạn, đối với pháp của phẩm thượng thượng ở cõi dục do tu đạo đoạn đắc hai thứ ly hệ đắc: 1. Thế tục đắc. 2. Vô lậu đắc. Thế tục đắc là loại đạo chưa từng được. Vô lậu đắc là loại Thánh đạo. Do khi đạo thế tục hiện tiền cũng tu đạo vô lậu vị lai. Đối với pháp của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do kiến đạo đoạn, không được ly hệ đắc. Không được thế tục đắc: Là đạo chưa từng được, không phải là đối trị. Không được vô lậu đắc: Vì trước đã đắc.
Như lìa phẩm thượng thượng cho đến lìa phẩm hạ trung cũng như vậy.
Như lìa tám phẩm nơi cõi dục do tu đạo đoạn, thì lìa tám phẩm nơi tĩnh lự thứ nhất do tu đạo đoạn, cho đến lìa tám phẩm nơi Vô sở hữu xứ do tu đạo đoạn cũng như vậy.
Khi đạo giải thoát lìa phẩm thứ chín nơi cõi dục do tu đạo đoạn là vị lai tu hai đạo thế tục từng được chưa từng được. Bấy giờ, đối với pháp ở cõi dục do tu đạo đoạn được ba thứ ly hệ đắc: 1. Thế tục đắc từng được. Đó là đạo loại từng được. 2. Thế tục đắc chưa từng được.
Đó là đạo loại chưa từng được. 3. Vô lậu đắc. Đó là loại Thánh đạo. Đối với pháp ở cõi dục do kiến đạo đoạn được hai thứ ly hệ đắc, trừ thế tục đắc chưa từng được.
Hỏi: Làm sao nhận biết khi đạt đạo giải thoát thứ chín là có thể tu vị lai hai đạo thế tục từng được, chưa từng được?
Đáp: Là do nói: Nếu thành tựu tha tâm trí hiện tại thì vị kia nhất định thành tựu tha tâm trí quá khứ.
Hỏi: Vì sao khi lìa nhiễm nơi tám phẩm trước là tu đạo chưa từng được? Lìa nhiễm nơi phẩm thứ chín, khi đạt đạo giải thoát là tu đạo từng được, chưa từng được?
Đáp: Đạo lìa nhiễm khác, nên đắc địa cũng khác. Nghĩa là đạo lìa nhiễm chỉ là chưa từng được, tu ở vị lai cũng là chưa từng được. Nếu khi đắc địa, đạo hiện lìa nhiễm, tuy chưa từng được nhưng đắc địa căn bản, nên vị lai tu chung đạo từng được và chưa từng được.
Như lìa phẩm thứ chín nơi cõi dục do tu đạo đoạn, cho đến lìa phẩm thứ chín nơi Vô sở hữu xứ do tu đạo đoạn cũng như vậy.
Lời bình: Nên nói như vầy: Bậc Thánh dùng đạo thế tục, khi lìa nhiễm nơi các địa, nên nói là đạo chưa từng được. Xưa nay chưa được, chỉ do bậc Thánh dẫn khởi. Tuy nhiên, đối với vị lai tu chung đạo từng được, chưa từng được, vì đối tượng đối trị là đồng.
Nên nói thế này: Bậc Thánh dùng đạo thế tục, khi lìa nhiễm của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do tu đạo đoạn, đối với pháp của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do tu đạo đoạn, đắc ba thứ ly hệ đắc: 1. Thế tục đắc từng được. Là loại đạo từng được. 2. Thế tục đắc chưa từng được. Là loại đạo chưa từng được. 3. Vô lậu đắc. Là loại Thánh đạo. Đối với pháp của phẩm thượng thượng nơi cõi dục do kiến đạo đoạn, đắc một thứ ly hệ đắc, là loại đạo thế tục từng được. Không được đắc chưa từng được là do đạo chưa từng được không phải là đối trị. Không được vô lậu đắc vì trước đã được rồi.
Như lìa phẩm thượng thượng, cho đến lìa phẩm hạ hạ cũng như vậy.
Như lìa cõi dục do tu đạo đoạn, cho đến lìa Vô sở hữu xứ do tu đạo đoạn cũng như vậy. Do đấy nên nói:
Hỏi: Từng có không thoái chuyển, không được quả, không chuyển căn, không phải kiến đạo hiện tiền, cũng không phải là loại phàm phu, nhưng đối với pháp do kiến đạo đoạn được ly hệ đắc chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là như đã nói ở trước, chỉ trừ khi lìa nhiễm của phẩm thứ sáu, chín nơi cõi dục.
Dựa nơi nghĩa đã nêu, nên nói như vầy:
Hỏi: Từng có ly hệ đắc, được nhưng không bỏ, bỏ nhưng không được chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp ly hệ đắc được nhưng không bỏ: Nghĩa là các phàm phu khi lìa nhiễm của cõi dục cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ và các bậc Thánh khi lìa nhiễm không đắc quả.
2. Có trường hợp ly hệ đắc bỏ nhưng không được: Nghĩa là các phàm phu khi lìa nhiễm của cõi dục cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ thoái chuyển và các bậc Thánh khi thoái chuyển không mất quả. Hoặc khi từ cõi dục mất sinh nơi tĩnh lự thứ hai trở lên, khi từ tĩnh lự thứ nhất mất sinh nơi tĩnh lự thứ hai trở lên, cho đến khi từ Vô sở hữu xứ mất sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi từ các địa nơi cõi sắc, vô sắc mất sinh nơi cõi dục.
3. Có trường hợp ly hệ đắc cũng được cũng bỏ: Nghĩa là khi tiến đắc bốn quả Sa-môn, khi tín thắng giải luyện căn thành kiến chí, khi A-la-hán của chủng tánh thoái pháp v.v… luyện căn thành tư pháp v.v… Từ lìa nhiễm hoặc chủng tánh thoái chuyển, khi hoặc ba hoặc bốn quả Sa môn, khi hoặc từ địa trên của cõi sắc, vô sắc mất sinh xuống địa dưới.
4. Có trường hợp ly hệ đắc không phải được không phải bỏ: Nghĩa là trừ các tướng đã nêu ở trước.
Hỏi: Nếu trước lìa nhiễm của năm phẩm nơi cõi dục, sau nhập chánh tánh ly sinh, khi khổ pháp trí sinh, đối với pháp của năm phẩm do kiến khổ đoạn trước đã đoạn, cùng pháp của bốn phẩm do kiến khổ đoạn nay đã đoạn, đều được ly hệ đắc vô lậu. Cho đến khi đạo pháp trí sinh, đối với pháp của năm phẩm do kiến đạo đoạn trước đã đoạn, cùng pháp của bốn phẩm do kiến đạo đoạn nay đã đoạn, đều được ly hệ đắc vô lậu. Khi đạo loại trí sinh, đối với pháp của ba cõi do kiến đạo đoạn, đều được ly hệ đắc vô lậu. Pháp của năm phẩm nơi cõi dục do tu đạo đoạn trước đã đoạn vào lúc nào sẽ được ly hệ đắc vô lậu?
Đáp: Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói như vầy: Khi được đạo loại trí, do lúc đó gọi là quả Dự lưu, cũng gọi là hướng Nhất lai.
Nói như thế là không đúng. Vì sao? Vì do nơi lúc ấy được quả Dự lưu, đối với hướng đạo của quả Nhất lai cho đến chưa khởi một sát-na hiện tiền, làm sao có thể nói là hướng Nhất lai?
Có thuyết cho: Khi khởi đạo gia hạnh của quả Nhất lai là được, do nó thuộc về hướng Nhất lai.
Có Sư khác nêu: Khi được quả Nhất lai là được. Do khi trụ nơi đạo vô gián thứ sáu, có thể dẫn khởi pháp nơi ba cõi do kiến đạo đoạn, cùng pháp của sáu phẩm trước nơi cõi dục do tu đạo đoạn, và ly hệ đắc vô lậu khiến khởi đắc quả Nhất lai.
Nên nói như vầy: Từ quả Dự lưu quyết định khởi đạo thắng tấn khi đạo kia hiện tiền là được. Do khi từ quả thấp khởi hướng đạo thắng tấn ở trên, tất tu đạo đối trị các kiết nơi phần vị trên trước đã đoạn.
Hỏi: Từng có khoảng một sát-na đối với ly hệ đắc vô lậu có thân tác chứng nhưng tuệ không thấy, có tuệ thấy nhưng thân không tác chứng, cho đến nêu ra bốn trường hợp chăng?
Đáp: Có. Đó là đạo loại trí nhẫn diệt. Khi đạo loại trí sinh, nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp ly hệ đắc vô lậu, thân tác chứng nhưng tuệ không thấy: Nghĩa là pháp nơi cõi dục do kiến đạo đoạn có ly hệ đắc vô lậu.
2. Có trường hợp ly hệ đắc vô lậu, tuệ thấy nhưng thân không tác chứng: Nghĩa là pháp nơi cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn có ly hệ đắc vô lậu.
3. Có trường hợp ly hệ đắc vô lậu, thân tác chứng, tuệ cũng thấy: Nghĩa là pháp nơi cõi sắc, cõi vô sắc do kiến đạo đoạn có ly hệ đắc vô lậu.
4. Có trường hợp ly hệ đắc vô lậu, thân không tác chứng, tuệ cũng không thấy: Nghĩa là pháp nơi cõi dục do tu đạo đoạn có ly hệ đắc vô lậu.
Hỏi: Từng có khoảng một sát-na đối với năm căn như tín v.v… được nhưng không bỏ, bỏ nhưng không được, cho đến nêu ra bốn trường hợp chăng?
Đáp: Có. Đó là bậc Thánh lìa nhiễm cõi dục, khi trụ nơi đạo vô gián sau cùng, nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp được nhưng không bỏ: Nghĩa là năm căn như tín v.v… thuộc về đạo vô lậu của hai địa, đạo thế tục của ba địa.
2. Có trường hợp bỏ nhưng không được: Nghĩa là ố tác, ưu căn của cõi dục cùng sinh năm căn như tín v.v…
3. Có trường hợp cũng được cũng bỏ: Nghĩa là năm căn như tín v.v… thuộc về đạo vô lậu của địa vị chí. Bỏ là thuộc về đạo vô gián.
Được là thuộc về đạo giải thoát.
4. Có trường hợp không phải được cũng không phải bỏ: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.
Hỏi: Nếu pháp quá khứ thì pháp ấy đắc quá khứ chăng? Nếu như đắc quá khứ thì pháp ấy là quá khứ chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp quá khứ nhưng pháp ấy đắc không phải quá khứ: Nghĩa là pháp của số hữu tình quá khứ nhưng người kia được ở vị lai, hiện tại.
2. Có đắc quá khứ nhưng pháp ấy không phải là quá khứ: Nghĩa là quá khứ đắc, nhưng đắc là pháp của số hữu tình vị lai, hiện tại và trạch diệt, phi trạch diệt.
3. Có pháp quá khứ pháp ấy đắc cũng là quá khứ: Nghĩa là pháp của số hữu tình quá khứ, người kia được ở quá khứ.
4. Có pháp không phải quá khứ pháp ấy đắc cũng không phải quá khứ: Nghĩa là vị lai, hiện tại đắc, đắc pháp của số hữu tình vị lai, hiện tại, cùng trạch diệt, phi trạch diệt.
Như quá khứ nêu ra bốn trường hợp, thì vị lai, hiện tại đều nêu ra bốn trường hợp, như lý nên nhận biết.
Hỏi: Nếu pháp ở quá khứ thì pháp ấy là có quá khứ đắc chăng? Nếu như pháp có quá khứ đắc thì pháp ấy ở quá khứ chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp ở quá khứ, pháp ấy không có quá khứ đắc: Nghĩa là pháp của số phi hữu tình thuộc quá khứ.
2. Có pháp có quá khứ đắc, pháp ấy không ở quá khứ: Nghĩa là trạch diệt, phi trạch diệt và pháp của số hữu tình vị lai, hiện tại có quá khứ đắc.
3. Có pháp ở quá khứ, pháp ấy cũng có quá khứ đắc: Nghĩa là pháp của số hữu tình quá khứ.
4. Có pháp không phải ở quá khứ, pháp ấy cũng không phải có quá khứ đắc: Nghĩa là pháp của số phi hữu tình thuộc vị lai hiện tại, cùng hư không vô vi và pháp của số hữu tình vị lai, hiện tại cùng trạch diệt, phi trạch diệt không có quá khứ đắc.
Như quá khứ nêu ra bốn trường hợp, thì vị lai, hiện tại đều nêu ra bốn trường hợp, như lý nên nhận biết.
Hỏi: Nếu pháp không ở quá khứ thì pháp ấy không có quá khứ đắc chăng? Nếu như pháp không có quá khứ đắc thì pháp ấy không ở quá khứ chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ hai ở trước làm trường hợp thứ nhất ở đây. Trường hợp thứ nhất ở trước làm trường hợp thứ hai ở đây. Trường hợp thứ tư ở trước làm trường hợp thứ ba ở đây. Trường hợp thứ ba ở trước làm trường hợp thứ tư ở đây. Như trước nên biết.
Như quá khứ nêu ra bốn trường hợp, thì vị lai, hiện tại đều nêu ra bốn trường hợp, như lý nên nhận biết.
Hỏi: Nếu pháp có đắc thì pháp ấy có ly hệ đắc chăng? Nếu như pháp có ly hệ đắc thì pháp ấy có đắc chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp có đắc pháp ấy không có ly hệ đắc: Nghĩa là pháp vô lậu hữu vi và trạch diệt, phi trạch diệt.
2. Có pháp có ly hệ đắc pháp ấy không có đắc: Nghĩa là pháp của số phi hữu tình.
3. Có pháp có đắc pháp ấy cũng có ly hệ đắc: Nghĩa là pháp của số hữu tình hữu lậu.
4. Có pháp không phải có đắc pháp ấy cũng không phải có ly hệ đắc: Nghĩa là hư không vô vi.
Hỏi: Nếu pháp không đắc thì pháp ấy không có ly hệ đắc chăng? Nếu như pháp không có ly hệ đắc thì pháp ấy không đắc chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ hai ở trước làm trường hợp thứ nhất ở đây. Trường hợp thứ nhất ở trước làm trường hợp thứ hai ở đây. Trường hợp thứ tư ở trước làm trường hợp thứ ba ở đây. Trường hợp thứ ba ở trước làm trường hợp thứ tư ở đây. Như trước nên biết.
Hỏi: Nếu pháp nên tu thì pháp ấy đắc nên tu chăng? Nếu như pháp đắc nên tu thì pháp ấy nên tu chăng?
Đáp: Nếu pháp nên tu thì pháp ấy đắc cũng nên tu. Có pháp đắc nên tu, pháp ấy không phải nên tu: Nghĩa là trạch diệt.
Hỏi: Nếu pháp nên đoạn thì pháp ấy đắc nên đoạn chăng? Nếu như pháp đắc nên đoạn thì pháp ấy nên đoạn chăng?
Đáp: Nếu pháp nên đoạn thì pháp ấy đắc cũng nên đoạn. Có pháp đắc nên đoạn nhưng pháp ấy không phải nên đoạn: Nghĩa là một phần của trạch diệt và phi trạch diệt
Hỏi: Nếu pháp nên chán thì pháp ấy đắc nên chán chăng? Nếu như pháp đắc nên chán thì pháp ấy nên chán chăng?
Đáp: Nếu pháp nên chán thì pháp ấy đắc cũng nên chán. Có pháp đắc nên chán nhưng pháp ấy không phải nên chán: Nghĩa là một phần của trạch diệt và phi trạch diệt.
Hỏi: Vì sao những thứ đắc tùy theo pháp của đối tượng đắc thành tánh như thiện v.v… mà không thành sắc v.v…?
Đáp: Thiện v.v… là loại tánh của các pháp. Loại tánh của các pháp có thể cùng tùy chuyển. Sắc v.v… là tự thể của các pháp. Tự thể của các pháp không có nghĩa tùy theo nhau.
Có thuyết nói: Thiện v.v… là cộng tướng, có thể tùy chuyển. Sắc v.v… là tự tướng, không có nghĩa tùy theo nhau.
Hỏi: Vì sao những thứ đắc tùy theo pháp của đối tượng đắc nhất định là thiện v.v…, không tùy theo pháp của đối tượng đắc để nhất định là quá khứ v.v…?
Đáp: Các pháp của đối tượng đắc hiện hành trong đời không định. Chủ thể đắc, đắc ở đời cũng không định. Các pháp của đối tượng đắc tánh như thiện v.v… thì định. Chủ thể đắc, đắc thiện cũng định.
Hỏi: Các đắc có bao nhiêu thức nhận thức, bao nhiêu trí nhận biết, bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Các đắc có một thức nhận thức, đó là ý thức, cũng thuộc về hành uẩn của pháp xứ, pháp giới. Có tám trí nhận biết, trừ diệt trí, tha tâm trí, là do không tương ưng với pháp hữu vi. Tùy miên duyên nơi hữu lậu thuộc năm bộ của ba cõi là tùy tăng, vì ở trong đắc không tương ưng với tùy tăng.
Hỏi: Các phi đắc có bao nhiêu thức nhận thức, bao nhiêu trí nhận biết, bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Các phi đắc có một thức nhận thức, đó là ý thức, cũng thuộc về hành uẩn của pháp xứ, pháp giới. Có bảy trí nhận biết, trừ diệt trí, đạo trí, tha tâm trí, là do không tương ưng với hữu lậu. Tùy miên nơi ba cõi do tu đạo đoạn cùng các tùy miên biến hành là tùy tăng, vì phi đắc chỉ do tu đạo đoạn.
Hỏi: Từng có bỏ được nhưng không được phi đắc chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là khi nhập Niết-bàn vô dư, bỏ các pháp được nhưng không được phi đắc, do chỗ nương dựa đã đoạn.
Hỏi: Từng có các pháp trước khởi phi đắc, được một lần, từ đó trở đi lại không khởi phi đắc chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là các phi trạch diệt và vô sinh trí v.v… được một lần, từ đó trở đi cho đến Niết-bàn vô dư, trước đấy luôn thành tựu.
Hỏi: Từng có các pháp xưa nay có đắc mà không có phi đắc chăng?
Đáp: Có thuyết nói: Không. Do có đắc tất có phi đắc.
Có thuyết cho: Có. Như ba loại trí biên, thế tục trí v.v… Pháp phi trạch diệt xưa nay có đắc nhưng không có phi đắc, do chúng xưa nay cố định không sinh.
Hỏi: Như có một đắc có thể đắc pháp ấy và đắc của đắc cũng có một phi đắc có thể bỏ pháp ấy và phi đắc nơi phi đắc chăng?
Đáp: Không. Do phi đắc đồng thời không có phi đắc nơi phi đắc. Do hiện tại phi đắc tất thành tựu.
Hỏi: Từng có pháp không đắc không phi đắc, khi pháp ấy diệt, có đắc, có phi đắc chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là tất cả pháp của số phi hữu tình.
HẾT – QUYỂN 158