LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 6
Chương 1: TẠP UẨN
Phẩm 1: PHÁP THẾ ĐỆ NHẤT, phần 5
Hỏi: Thế nào là Đảnh?
Đáp: Là đối với Phật, Pháp, Tăng sinh khởi tín lượng nhỏ.
Hỏi: Vì sao gọi là Đảnh?
Đáp: Như đỉnh núi. Nghĩa là như người leo lên đỉnh núi không ở đó lâu, nếu không có khó khăn thì sẽ trèo qua núi này để đến núi khác, nếu gặp phải khó khăn tức phải quay trở lại xuống núi. Như thế Hành giả khi đến quả vị đảnh tất không trụ lâu. Nếu không có khó khăn thì tiến đến nhẫn. Nếu có những gian nan thì thoái chuyển trụ ở vị noãn.
Có thuyết nói: Phần vị này nên gọi là hạ, vì đảnh do ở dưới cùng nơi thuận phần quyết định lựa chọn, chỉ trên pháp noãn.
Có thuyết nêu: Đảnh này nên gọi là trung, vì ở giữa, dưới là noãn, trên là nhẫn.
Tôn giả Diệu Âm nói: Thuận phần quyết định lựa chọn gồm có hai thứ: 1. Thuộc về cõi dục. 2. Thuộc về cõi sắc. Phần thuộc về cõi dục: Bậc hạ gọi là noãn, bậc thượng gọi là đảnh. Phần thuộc về cõi sắc: Bậc hạ gọi là nhẫn, bậc thượng gọi là pháp thế đệ nhất.
Vì pháp này đối với cõi dục trong thuận phần quyết định lựa chọn là hơn hết nên gọi là đảnh.
Vị kia không nên nói như thế, vì bốn pháp này đều là địa định, địa tu, hiện hành hành tướng Thánh, là pháp của cõi sắc. Nên nói như vầy: Thuận với phần quyết định lựa chọn gồm có hai loại: 1. Có thể thoái chuyển. 2. Không thể thoái chuyển. Loại có thể thoái chuyển: Phẩm hạ gọi là noãn, phẩm thượng gọi là đảnh. Loại không thể thoái chuyển: Phẩm hạ gọi là nhẫn, phẩm thượng gọi là pháp thế đệ nhất.
Vì quả vị này đối với thuận phần quyết định lựa chọn của phần vị có thể thoái chuyển là hơn nên gọi là đảnh.
Hỏi: Vì sao tín này gọi là lượng nhỏ?
Đáp: Tôn giả Diệu Âm nói: Cõi dục gọi là nhỏ, vì thấp kém. Tín này ở cõi dục nên gọi là lượng nhỏ.
Có thuyết cho: Tín này nên gọi là lượng khác. Lượng nghĩa là quyết định tin thuận, chấp nhận, nên gọi là lượng. Noãn là thứ nhất, đảnh là thứ hai. Tín này khác với trước nên gọi là lượng khác.
Có thuyết nêu: Tín này nên gọi là lượng ít, vì trong quả vị đảnh không trụ lâu, như giọt sương đọng trên cành không dừng trụ lâu.
Nên nói thế này: Đảnh ấy chỉ nên gọi là tín với lượng nhỏ. Ở nơi phần vị có thể thoái chuyển, vì ưa thích quán vật báu. Trong đây, đối với Phật, Tăng sinh tín với lượng nhỏ là nói duyên tin nơi đạo đế. Đối với Pháp sinh tín với lượng nhỏ là nói duyên tin nơi diệt đế.
Hỏi: Căn thiện đảnh này dùng đủ mười sáu hành tướng duyên nơi bốn Thánh đế. Vì sao trong đây chỉ nói là duyên nơi diệt đế, đạo đế, không phải là khổ đế, tập đế?
Đáp: Do dựa vào phần hơn mà nói. Nghĩa là trong bốn đế, diệt, đạo là phần hơn, vì ra khỏi sinh tử. Lại nữa, hai đế diệt, đạo là thanh tịnh, không cấu nhiễm, lìa lỗi lầm và vi diệu, là sự việc đáng tin, là nơi chốn sinh khởi tín, là đối tượng quy y, thế nên nói riêng.
Lại nữa, hai đế diệt, đạo không phải chỉ có thể tin, cũng là có thể cầu, khó có thể chứng đắc, cùng tột để có thể vui mừng, còn khổ, tập không như thế, nên không nói đến.
Lại nữa, vì người tiếp nhận sự hóa độ sinh tin, vui thích. Nếu Đức Phật vì những người đó giảng nói về khổ, tập đế thì họ sẽ có cảm nghĩ: Từ vô thỉ đến nay, ta bị các hành ác của phiền não xấu kém này và đã phải chịu hậu quả là sự nhiễu loạn, bức bách, đâu có gì đáng tin ưa. Nếu nói về diệt, đạo thì họ sẽ tin tưởng sâu xa và vui thích, không muốn rời bỏ. Vì thế ở đây diệt, đạo được nói riêng.
Có thuyết nói: Đối với Phật, Tăng sinh tín lượng nhỏ là nói tín duyên nơi đạo đế. Đối với Pháp sinh tín lượng nhỏ là nói tín duyên nơi ba đế, vì đảnh duyên đủ nơi bốn Thánh đế.
Hỏi: Duyên nơi diệt, đạo đế có thể là như vậy, là sự việc đáng tin, là nơi chốn sinh khởi tín, là đối tượng quy y, nên tin tưởng, vui thích. Còn duyên nơi khổ, tập đế làm sao có thể như thế được, vì hành ác của phiền não và quả đã nhận giống như phân uế tạp, đáng nhàm chán sâu xa, tức không thể ở trong đó sinh tin, ưa?
Đáp: Tín có hai thứ: 1. Tín do có thể. 2. Tín do ưa thích. Đối với diệt và đạo đế, có đủ hai thứ tín này. Đối với khổ và tập đế tuy không có tín do ưa thích nhưng có tín do có thể. Do vậy, duyên nơi khổ, tập cũng sinh khởi tín. Như người đào bới đất để mưu tìm vật báu nơi dòng nước có đủ hai thứ tín: Tín do có thể: Là tin trong lòng đất có vật báu trong nước v.v… Tín do ưa thích: Là tin nước với vật báu đó là vật dụng có thể làm vui thích.
Hiếp Tôn giả nói: Vì nhàm chán tai họa nơi khổ, tập nên tán thán diệt, đạo. Nghĩa là diệt, đạo này là tịch tĩnh, tốt đẹp, nhiệm mầu. Ngăn chận, chấm dứt pháp khổ và tập là nhằm đối trị sự thấp kém, xấu xa, cấu nhiễm. Như người vì bị mưa gió bức bách, khổ não, nên ca tụng giá trị của nhà ở. Do vậy đối với bốn đế đều có thể sinh tin.
Nhưng đối với đạo đế cũng không phải tất cả đều có đủ hai thứ tin. Đó là người Tùy tín hành đối với đạo của Tùy pháp hành có đủ hai thứ tin, là tin do có thể làm sự việc ấy và tin do ưa thích sự việc ấy. Còn người Tùy pháp hành đối với đạo của Tùy tín hành chỉ có một thứ tin, là tuy tin do có thể làm điều ấy nhưng không tin do vui thích điều ấy. Người Tín thắng giải đối với đạo của Kiến chí có đủ hai thứ tin. Còn người Kiến chí đối với đạo của Tín thắng giải chỉ có một thứ tin. Người Thời giải thoát đối với đạo của Bất thời giải thoát có đủ hai thứ tin. Còn người Bất thời giải thoát đối với đạo của Thời giải thoát chỉ có một thứ tin.
Phật đối với Phật đạo có đủ hai thứ tin. Đối với đạo của Nhị thừa chỉ có một thứ tin. Độc giác đối với hai đạo có đủ hai thứ tin. Đối với đạo của Thanh văn chỉ có một thứ tin. Thanh văn đối với ba đạo đều có đủ hai thứ tin.
Trong đoạn này, Tôn giả tạo luận vì muốn cho nghĩa trước được thành lập, nên lại dẫn Khế kinh. Như Đức Thế Tôn đã vì Ma-nạp-bà Ba-la-diễn-noa nói:
Đối với Phật, Pháp, Tăng
Sinh khởi tin rất nhỏ
Nho đồng nên nhận biết
Gọi đã được pháp Đảnh.
Hỏi: Căn thiện đảnh này đã dùng mười sáu hành tướng quát bốn Thánh đế. Vì sao Đức Thế Tôn lại vì Ma-nạp-bà nói tin Tam bảo?
Đáp: Người kia đối với Tam bảo vì ngu si, mê lầm không tin, nhưng Tam bảo là hy hữu, khó có thể gặp gỡ. Vì muốn khiến kẻ ấy tin hiểu, nên Đức Thế Tôn giảng nói Tam bảo cho họ.
Có thuyết nói: Ma-nạp-bà kia vì bị khổ bức bách, muốn được giải thoát, nên đến chỗ Đức Phật nói tụng, bày tỏ lời thỉnh cầu của mình:
Vì khổ bức bách các chúng sinh
Không biết nẻo thoát nên đến Phật
Mong Ngài giảng nói diệt các họa
Như nóng bức được tắm ao mát.
Con đường cốt yếu ra khỏi khổ không gì hơn Tam bảo, nên Đức Phật đã vì chúng sinh giảng nói về tin Tam bảo.
Có thuyết nêu: Vì muốn khiến chúng sinh được mình hóa độ, đối với Phật, Pháp sinh tin tưởng, tôn trọng sâu xa, nên Đức Phật giảng nói về Phật, Pháp, Tăng để họ phát sinh niềm tin nhỏ. Nếu Đức Phật giảng nói bốn Thánh đế thì các hữu tình được Ngài hóa độ sẽ có cảm nghĩ: Chúng con đâu cần phải tin tưởng, tôn trọng như thế, vì chúng con đã bị hành ác của phiền não làm cho điên đảo nơi xứ kiến chấp và đã thọ lấy quả là khổ và tập đế. Nếu Đức Phật vì họ giảng nói về Tam bảo Phật Pháp Tăng tức họ sẽ vui thích hân hoan sinh tin tưởng tôn kính sâu xa.
Có thuyết cho: Người tùy thuận tu hành ưa thích quán riêng. Nghĩa là người tu hành ở trong quả vị noãn ưa thích quán riêng về uẩn. Ở trong quả vị đảnh ưa thích quán riêng về vật báu. Ở trong quả vị nhẫn ưa thích quán riêng về đế, nên đối với quả vị đảnh phải nói tin Tam bảo. Như Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan-đà: Nay Ta sẽ vì các ông giảng nói về đảnh và đảnh đọa. Nghĩa là đệ tử Thánh đối với năm thủ uẩn khởi hiện sự suy nghĩ, lường xét, quán sát trong pháp hữu vi duyên sinh: Đây là vô thường, khổ, không, vô ngã. Chính khi họ hành tác quán sát, lường xét như thế là đã có nhẫn, có kiến, có mong muốn vui thích, có hành giải, có kiến giải, suy xét kỹ về nhẫn như thế gọi là đảnh.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn giảng nói cho Ba-la-diễn-noa: Tín là đảnh. Còn đối với các vị Bí-sô mới học, nói: Tuệ là đảnh?
Đáp: Đức Phật khéo nhận biết về pháp tướng cùng nhận biết rất rõ về căn cơ trình độ, nên cần giảng nói cho ai pháp gì thì giảng nói. Người khác không có khả năng như thế do đó không nên hỏi. Lại nữa, Ba-la-diễn-noa trụ nơi địa của hành tác ban đầu, chưa quen tập, chưa được Xa-ma-tha, chưa nhập Thánh giáo, chưa tu trì theo thứ lớp, các hữu đã làm đều nhờ vào sự duyên nơi người khác, nghe thiên thần khác tán dương công đức của Phật mới sinh tin đối với Đức Phật, nên đến chỗ Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dựa vào đẳng lưu của đảnh v.v… nói tín là đảnh. Bí-sô mới học và Ba-la-diễn-noa kia là trái nhau, nên Đức Thế Tôn vì họ giảng nói về tự tánh của đảnh.
Lại nữa, Đức Phật đã tùy vào chỗ thiếu kém của họ mà giảng nói. Nghĩa là Ba-la-diễn-noa có tuệ mà thiếu tin, nên vì ông Đức Phật nói tín là đảnh. Các Bí-sô mới học có tin mà thiếu tuệ, nên Ngài vì họ nói tuệ là đảnh.
Lại nữa, cũng vì diệt trừ tánh dua nịnh và ngu si. Nghĩa là Bala-diễn-noa là chủng tộc Bà-la-môn, tuy có trí tuệ nhưng thiếu niềm tin thanh tịnh. Tuệ không có tín thì tánh dua nịnh tà vạy càng tăng trưởng. Để dứt trừ sự dua nịnh không ngay thẳng đó, nên Đức Phật nói tín là đảnh. Các Bí-sô mới học là dòng Thích Ca, tuy có tín thanh tịnh nhưng thiếu trí tuệ. Tín không có trí tuệ thì ngu si càng thêm lớn. Để dứt trừ ngu si của các Bí-sô kia, nên Đức Phật nói tuệ là đảnh.
Lại nữa, hữu tình được Đức Thế Tôn hóa độ có người căn tánh thông lợi, có người căn tánh chậm độn. Vì những người căn tánh thông lợi, Đức Phật nói tín là đảnh. Vì những kẻ căn tánh châm độn, Đức Phật vì họ nói tuệ là đảnh.
Như căn tánh thông lợi, chậm độn, thì lực nhân, lực duyên, lực của phần bên trong, lực của phần bên ngoài, lực tác ý như lý bên trong, lực nghe pháp từ người khác bên ngoài, lực không si mê tăng liên tục, lực không tham tăng liên tục, tất cả nên biết cũng vậy.
***
* Thế nào là Đảnh đọa? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao ở đây chỉ nói đảnh đọa, không nói noãn?
Đáp: Nên nói mà không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, đã nói phần hơn có đọa là đã hiển bày phần kém. Nghĩa là căn thiện đảnh là hơn hết hãy còn thoái chuyển, huống chi là căn thiện noãn là thua kém mà không thoái chuyển sao?
Có thuyết nói: Không nên hỏi vặn. Tôn giả tạo luận không nói nhân duyên noãn thoái chuyển. Vì sao? Vì như Khế kinh đã nói. Nghĩa là trong Khế kinh chỉ nói đảnh đọa, không nói noãn đọa. Tôn giả tạo luận đã căn cứ nơi kinh tạo ra phần Luận này, vì thế không nên nêu vấn nạn.
Có thuyết nêu: Khi từ đảnh thoái chuyển thì sinh lo buồn lớn, thoái chuyển noãn thì không như thế, nên không nói đến. Tức như có người trông thấy kho báu được chôn giấu trong ấy đầy những ngọc báu nơi lòng đất. Sau khi thấy rồi, người ấy cảm thấy vui mừng, nghĩ thầm: Hôm nay ta vĩnh viễn nhổ bỏ hết cội rễ của sự nghèo khổ. Nhưng đến khi vừa có ý định tới đó để lấy, bỗng nhiên của báu lại biến mất. Bấy giờ, người ấy sinh khởi buồn vô hạn. Hành giả cũng như thế, an trụ trong quả vị đảnh, tự nghĩ không bao lâu sẽ nhập vị nhẫn, vĩnh viễn từ bỏ nẻo ác, nên vô cùng hoan hỷ. Về sau đảnh này thoái chuyển, trở lại trụ nơi vị noãn, khi ấy Hành giả sinh ưu sầu lớn, vì đã mất hết thắng lợi. Nếu như khi từ vị noãn, tiến lên chứng đắc đảnh, người đó vẫn chưa có thể vĩnh viễn lìa bỏ nẻo ác, do vậy, tuy từ vị kia thoái chuyển, vẫn không cảm thấy lo buồn nhiều.
Có thuyết cho: Lúc trụ nơi vị đảnh còn nhiều trở ngại, còn trụ nơi vị noãn thì không như thế, do đó nên nói riêng về đảnh.
Nên nói như thế này: Các nghiệp phiền não trong ba thời luôn gây trở ngại cùng cực cho Hành giả:
1. Thời gian từ đảnh nhập nhẫn, có thể chiêu cảm các nghiệp phiền não của nẻo ác tạo trở ngại cùng cực. Nghĩa là nói Hành giả nếu nhập quả vị nhẫn rồi, nhất định không còn thọ sinh trong các nẻo ác, tức ngã đối với thân nào để nhận quả dị thục.
2. Thời gian Thánh giả lìa nhiễm nơi cõi dục, có thể chiêu cảm các nghiệp phiền não của cõi dục gây trở ngại cùng cực. Nghĩa là nói Hành giả đã lìa nhiễm nơi cõi dục, nếu sinh vào cõi dục nhất định không còn thọ nhận nữa, tức ngã đối với thân nào để nhận quả dị thục.
3. Thời gian đắc quả A-la-hán, có thể chiêu cảm các nghiệp phiền não của thân sau gây trở ngại cùng cực. Nghĩa là nói Hành giả đã đắc quả A-la-hán rồi, nhất định không còn thọ nhận tất cả sự sinh tử, vì ngã đối với thân nào để nhận quả dị thục.
Có thuyết nói: Đảnh không trụ lâu vì nó là ranh giới giữa tiến và lui. Còn vị noãn thì không như thế, nên không nói noãn đọa.
Có thuyết cho: Khi trụ nơi quả vị đảnh là sắp được lợi lớn, cũng như Thánh giả đã được pháp không đọa là chứng đắc nhẫn. Phàm phu cũng lại như thế. Như Thất-lộ-noa, trong hai mươi câu chi chín mươi mốt kiếp không bị đọa vào nẻo ác. Khi từ quả vị đảnh thoái chuyển là mất lợi lớn này, vì thế nên nói là đảnh đọa. Noãn thoái chuyển thì không như thế, nên không nói đến.
Hỏi: Thế nào là Đảnh đọa?
Đáp: Như có một loại người thân cận với bậc Thiện sĩ, lắng nghe chánh pháp, tác ý như lý, tin pháp Bồ-đề của Phật là khéo giảng nói tăng tu hành diệu: Sắc là vô thường, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường. Khéo nêu bày về khổ đế, khéo thiết lập về tập, diệt, đạo đế. Vào lúc khác, người ấy không gần gũi bậc Thiện sĩ nữa, không lắng nghe chánh pháp, không tác ý như lý, đối với chỗ đã đạt có được niềm tin thế tục đã bị thoái chuyển, hủy hoại, đổi thay và đánh mất, nên gọi là Đảnh đọa.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Trước tuy đã nói về tự tánh của đảnh, nhưng chưa nói đến: Thế nào là chứng đắc đảnh và xả đảnh? Nay vì muốn nêu rõ nên tạo ra phần Luận này.
Thân cân bậc Thiện sĩ: Là thân cận bạn lành.
Lắng nghe chánh pháp: Là để tai lắng nghe, dẫn phát như lý, chê trách sự lưu chuyển, ca ngợi nẻo hoàn diệt, thuận với pháp Du già.
Tác ý như lý: Là từ trong tâm lãnh hội đúng đắn.
Tin pháp Bồ-đề của Phật là khéo giảng nói tăng tu hành diệu: Là hiển bày sự tin nơi Tam bảo.
Sắc là vô thường, thọ, tưởng, hạnh, thức đều là vô thường: Là làm rõ sự tin đối với năm uẩn.
Khéo nêu bày về khổ đế, về tập, diệt, đạo đế: Là hiển bày sự tin nơi bốn đế.
Trong đây, tin Bồ-đề của Phật cho đến tin về sự khéo nêu bày thiết lập đạo đế đều cùng chỉ rõ về pháp tùy pháp hành. Đấy cùng với ba pháp trước tức là làm rõ về bốn chi Dự lưu, đó gọi là đạt được đảnh.
Hỏi: Đức Phật vì nhằm hóa độ các hữu tình nào ở trong quả vị đảnh chỉ rõ về Tam bảo? Lại vì các hữu tình nào ở trong quả vị đảnh chỉ rõ về năm Uẩn? Lại vì các hữu tình nào ở trong quả vị đảnh chỉ rõ về bốn Đế?
Đáp: Vì những người không hiểu biết về sự quý báu thì chỉ rõ về Tam bảo. Vì những người không biết rõ về uẩn thì chỉ rõ về năm Uẩn. Vì những người không hiểu biết về đế thì chỉ rõ về bốn Đế.
Lại nữa, vì những người mới tu tập thì chỉ rõ về Tam bảo. Vì những người quen hành tập thì chỉ rõ về năm Uẩn. Vì những người đã vượt qua tác ý thì chỉ rõ về bốn Đế.
Lại nữa, vì những kẻ căn tánh chậm độn thì chỉ rõ về Tam bảo. Vì những người căn trí trung bình thì chỉ rõ về năm Uẩn. Vì những hạng căn tánh lanh lợi thì chỉ rõ về bốn Đế.
Lại nữa, vì các Hành giả có nghi thì chỉ rõ về Tam bảo. Vì các Hành giả ngã mạn thì chỉ rõ về năm Uẩn. Vì những người bị tà kiến làm tổn hại giác tuệ thì chỉ rõ về bốn Đế.
Có thuyết nói: Vì người ưa thích rộng thì chỉ rõ về Tam bảo. Vì kẻ ưa thích giản lược thì chỉ rõ về bốn Đế. Vì người ưa thích vừa rộng, vừa lược thì chỉ rõ về năm Uẩn.
Đó gọi là sự sai biệt về phạm vi giáo hóa đối với ba hạng người.
Đã nói về sự chứng đắc đảnh, thế nào là xả đảnh? Hành giả kia vào lúc khác: Tức là lúc Hành giả ấy tán loạn.
Không thân cận bậc Thiện sĩ: Là gần gũi với bạn ác.
Không lắng nghe chánh pháp: Là lúc tác ý, lắng nghe những điều dẫn đến phi lý, ca ngợi sự lưu chuyển, chê bai sự hoàn diệt, trái với pháp Du già.
Không tác ý như lý: Là từ bên trong, mọi hiểu biết đều tà vạy.
Đối với chỗ đã đạt có được niềm tin thế tục đã bị thoái chuyển, hủy hoại, đổi thay, đánh mất: Là đối với đảnh v.v… đã chứng được, tức trong quả vị đảnh ấy, nơi đẳng lưu của đảnh, có được niềm tin thế tục đã bị thoái chuyển, hủy hoại, đổi thay, đánh mất.
Trong phần này, Tôn giả tạo luận vì muốn cho nghĩa đảnh đọa được thành lập, nên lại dẫn Khế kinh để làm chứng. Như Đức Phật vì Ma-nạp-bà Ba-la-diễn-noa nói:
Nếu người nơi ba pháp
Như thế mà thoái chuyển
Ta nói những người ấy
Nên biết là đảnh đọa.
Hỏi: Những gì gọi là tự tánh của đảnh đọa?
Đáp: Tự tánh của đảnh đọa là sự không thành tựu, là vô phú vô ký, là tâm bất tương ưng thuộc về hành uẩn.
Có thuyết cho: Lúc tin gọi là chứng đắc đảnh. Lúc không tin gọi là đảnh đọa. Như thế tức nói không tin là tự tánh của đảnh đọa.
Có thuyết nêu: Các phiền não triền có thể khiến đảnh đọa. Như thế tức nói các pháp nhiễm ô là tự tánh của đảnh đọa.
Có thuyết nói: Nếu pháp tùy thuận với sự thoái chuyển thì pháp đó gọi là đảnh đọa. Như thế tức nói hết thảy pháp là tự tánh của đảnh đọa. Do khi đảnh thoái chuyển thì tất cả pháp đều là tăng thượng duyên cho đảnh thoái chuyển.
Phái Thí Dụ cho: Đây chỉ là giả nói về tự tánh không thật. Nghĩa là trong sự tương tục, trước là đảnh thành tựu, nay khi thoái chuyển mất, nên gọi là đảnh đọa. Vậy sao lại tìm kiếm tự tánh của đảnh đọa? Như người có của cải, gọi là người giàu có. Nếu bị giặc cướp đi hết gọi là người nghèo. Người khác hỏi: Ông nghèo do gì làm tánh? Người ấy đáp: Xưa kia tôi có nhiều của báu, nay bị giặc cướp đi hết, chỉ gọi là kẻ nghèo, đâu có tánh gì?
Lại như có người trước kia mặc y phục đàng hoàng, về sau vì bị giặc cướp đoạt mang đi hết tức thành lõa hình. Kẻ khác hỏi: Ông nay lõa hình lấy gì làm tánh? Người ấy đáp: Tôi trước có áo quần đàng hoàng, nay bị giặc cướp mất nên đành chịu lõa hình, nào có tánh gì?
Lại như có người mặc y phục rách rưới, người khác hỏi: Áo của ông rách là dùng gì làm tánh? Người ấy đáp: Áo tôi trước kia vẫn lành lặn, nay đã rách nát chỉ gọi là áo rách, chứ có tánh gì?
Như thế, Hành giả trước đã thành tựu đảnh, nay lại thoái mất, nên nói là đảnh đọa, không có tự tánh riêng biệt.
Lời bình: Thuyết ban đầu là đúng. Đây tức đã thuộc vào pháp đó. Lại có những pháp khác giống như thế, vì trong chỗ không tương ưng thì hành bất tương ưng vẫn có nhiều thứ.
***
* Thế nào là Noãn? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao gọi là Noãn?
Đáp: Trí đối với cảnh chuyển nên có thắng trí, noãn phát sinh có thể đốt cháy củi của các phiền não nên gọi là noãn. Cũng như cọ xát cây để lấy lửa, hai thanh gỗ trên dưới phải cọ xát vào nhau mới có lửa. Noãn phát sinh có khả năng đốt cháy củi.
Có thuyết nói: Các hữu cùng dựa vào nhau nên có đọa, có trí, noãn phát sinh có thể làm cho các hữu thảy đều tiều tụy, héo khô, nên gọi là noãn. Cũng như vào mùa hè gom hoa lại làm nhiên liệu dự trữ. Hoa sinh khí ấm trở lại tự làm khô héo, úa tàn. Lại như mùa hè tích tụ các phân mục, trong ấy bốc lên khí ấm, chúng trở lại tự làm rữa nát.
Có thuyết cho: Các uẩn nương dựa vào nhau nên có đọa nơi trí uẩn, noãn phát sinh có thể đốt cháy cả rừng uẩn, khiến rừng ấy vĩnh viễn diệt trừ, nên gọi là noãn. Như khóm trúc và lau cùng cọ xát vào nhau sẽ phát ra sức ấm, có thể thiêu rụi cả khu rừng kia khiến trở thành đống tro tàn.
Tôn giả Diệu Âm nói: Nương dựa vào sự cầu đạt giải thoát có căn thiện phát sinh là mặt trời Thánh đạo luôn đi trước, hiện tướng trước, nên gọi là noãn. Như vầng thái dương sắp mọc thì tướng ánh sáng xuất hiện trước. Lại nữa, dựa vào sự cầu đạt giải thoát có căn thiện sinh khởi là lửa của Thánh đạo đi trước, hiện tướng trước, nên gọi là noãn. Như lửa sắp bốc cháy thì khói là tướng xuất hiện trước.
Hỏi: Thế nào là noãn?
Đáp: Nếu đối với chánh pháp, Tỳ-nại-da có một ít tin yêu. Tức tin gọi là yêu, nên gọi là tin yêu. Ở trong chánh pháp có tin yêu nói là tin duyên nơi đạo đế. Đối với Tỳ-nại-da có tin yêu gọi là tin duyên nơi diệt đế.
Hỏi: Căn thiện noãn này dùng đủ mười sáu hành tướng duyên với bốn Thánh đế. Vì sao ở đây chỉ nói duyên với diệt, đạo đế, không phải là khổ, tập đế?
Đáp: Là dựa vào phần hơn mà nói. Nghĩa là trong bốn đế, diệt, đạo là hơn, là ra khỏi sinh tử. Ngoài ra như đã nói rộng trong đảnh.
Có thuyết nêu: Đối với chánh pháp có tin yêu là nói tin duyên nơi ba Đế. Đối với Tỳ-nại-da có tin yêu là nói tin duyên nơi diệt đế, vì noãn duyên đủ bốn Thánh đế.
Hỏi: Duyên nơi diệt, đạo đế có thể là như vậy, đó là sự việc đáng tin, là nơi chốn sinh khởi tin, là đối tượng quy y, nên tin yêu. Duyên nơi khổ, tập đế làm thế nào có thể được như thế? Vì hành ác của phiền não và quả nhận chịu giống như đống phân nhơ, thật đáng nhàm chán, không nên ở trong ấy tin yêu.
Đáp: Tin có hai thứ: 1. Tin do có thể. 2. Tin do yêu thích.
Đối với diệt và đạo đế gồm đủ hai thứ tin. Đối với khổ và tập đế không có tin do yêu thích, nhưng có tin do có thể. Cho nên duyên nơi khổ, tập cũng sinh tin, phần còn lại nói rộng như nơi đảnh.
Hỏi: Những người đối với chánh pháp, Tỳ-nại-da có một ít tin yêu, họ đều chứng đắc noãn chăng?
Đáp: Không phải như vậy. Vì sao? Vì noãn là địa định, địa tu của cõi sắc, là căn thiện thuộc về mười sáu hành tướng. Ở đây nói có tin yêu như thế không phải là tin yêu khác, nên nói là không phải như vậy.
Trong phần này, Tôn giả tạo luận đã dẫn kinh làm chứng. Như Đức Thế Tôn đã nói với hai Bí-sô Mã Sư, Tỉnh Túc: Hai người ngu này đã lìa bỏ chánh pháp và Tỳ-nại-da của Ta. Ví như đại địa cách hư không thật xa. Hai người ngu này ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da của Ta không có chút ít phần noãn nào cả.
Câu văn nơi kinh này tuy đã ẩn giấu, nhưng người tạo luận đã dùng lực của nguyện trí để nêu dẫn làm chứng.
Hỏi: Căn thiện noãn này thù thắng, vi diệu, trú nơi địa vắng lặng. Vì sao Đức Thế Tôn lại gọi là phần ít?
Đáp: Đây là đối với chỗ thuận phần quyết định lựa chọn còn lại, vì hết sức nhỏ nên được gọi là phần ít.
Có thuyết nói: Ở đây, đối với chánh pháp, Tỳ-nại-da là sự quán không cùng với căn thiện nhỏ. Vì sinh ở biên sau nên gọi là phần ít.
Hỏi: Đối với các kẻ chưa được căn thiện noãn, có phải đều bị Đức Phật quở trách như hai Bí-sô kia chăng?
Đáp: Không phải như vậy. Vì sao? Vì các đối tượng được Đức Thế Tôn giáo hóa gồm có ba hạng:
- Hạng người đối với Phật, Pháp có ý lạc.
- Hạng người đối với Phật, Pháp dứt bỏ ý lạc.
- Hạng người đối với Phật, Pháp không có ý lạc.
Hai Bí-sô này vì đối với chánh pháp của Phật hoàn toàn không có ý lạc, nên Đức Phật mới quở trách và đuổi đi. Những hạng người giống như thế cũng bị Đức Phật quở trách đuổi đi, chứ không phải đối với người chưa được căn thiện noãn.
Có thuyết cho: Hai Bí-sô này đã lìa bỏ sự thân yêu để xuất gia, quy y Phật, nhưng ở trong chánh pháp, Tỳ-nại-da hoàn toàn không có tin yêu để có thể thâu nhận, nên Đức Phật mới quở trách đuổi đi, chứ không phải đối với người khác chưa được căn thiện noãn. Tức trong kinh kia, trước đó Đức Thế Tôn đã bảo hai Bí-sô Mã Sư, Tỉnh Túc: Ta sẽ vì các ông giảng nói pháp của bốn trường hợp, các ông muốn nhận biết hay không là tùy ở ý ông. Hai Bí-sô nói: Nay con đâu cần nhận biết pháp của Thế Tôn làm gì?
Hỏi: Ở đây những gì là pháp của bốn trường hợp?
Đáp: Có thuyết nói: Là bốn Thánh đế. Vì sao? Vì người kia nếu không kiến đế sẽ tạo hành ác.
Có thuyết nêu: Là bốn niệm trụ. Vì sao? Vì người kia do điên đảo sẽ tạo ra hành ác.
Có thuyết cho: Là bốn chánh đoạn. Vì sao? Vì người kia do lười biếng sẽ tạo ra hành ác.
Có thuyết nói: Là bốn thần túc. Vì sao? Vì người kia thiếu đức thù thắng sẽ tạo ra hành ác.
Có thuyết cho: Là bốn Thánh chủng. Vì sao? Vì người kia tham lợi dưỡng sẽ tạo ra hành ác.
Có thuyết nêu: Là bốn quả Sa-môn. Vì sao? Vì người kia thực sự chưa chứng được bốn quả Sa-môn mà tự xưng là ta đã chứng đắc rồi sẽ gây tạo hành ác.
Có thuyết nói: Là bốn vô lượng. Vì sao? Vì người kia do tham, sân, ganh ghét tăng thượng sẽ tạo ra hành ác.
Có thuyết cho: Là bốn tĩnh lự. Vì sao? Vì người kia do phiền não nơi cõi dục tăng thượng nên có thể gây tạo hành ác.
Có thuyết nêu: Là bốn thứ thiện xảo, nghĩa là thiện xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về duyên khởi, thiện xảo về xứ phi xứ. Vì sao? Vì người kia thiếu hiểu biết về nhân quả nên tạo ra hành ác.
Có thuyết biện: Là bốn thứ căn thiện, thuận với phần quyết định lựa chọn. Vì sao? Vì như Đức Phật đã nói: Hai người kia không có phần ít noãn.
Có thuyết cho: Là bốn pháp tích trong Tăng Nhất A Cấp Ma: 1. Pháp tích không tham. 2. Pháp tích không sân. 3. Pháp tích chánh niệm. 4. Pháp tích chánh định.
Có thuyết nêu: Là pháp của bốn trường hợp trong Tạp A Cấp Ma. Như tụng kia nói:
Một, lời thiện trong pháp Hiền Thánh
Hai, nói thường yêu tránh không yêu
Ba, thường nói thật lìa giả dối
Bốn, thường nói pháp xa phi pháp.
Nói như thế chính là bốn Thánh đế, vì người kia nếu thiếu hiểu biết đế lý là làm trái với Thánh giáo.
Hỏi: Đức Phật đã biết rõ về hai Bí-sô kia không thể nhận lãnh chánh pháp. Vì sao Ngài lại đem pháp để ban bố cho họ?
Đáp: Vì Đức Phật muốn tự chứng tỏ mình không có lỗi lầm, đừng bao giờ cho họ là những kẻ không thể giáo hóa được, để họ tạo ra hành ác rồi tự hủy hoại. Vì thế nên Đức Như Lai đã giơ tay lên bảo với họ: Những công việc giáo hóa Ta đều có thể làm, nhưng các ông không tiếp nhận mà tự làm hành tà để tự tổn hoại thì đó không phải lỗi của Ta.
Có thuyết nói: Vì nhằm ngăn chận tâm không tin nơi dòng họ Thích. Nếu không dùng pháp để ban bố cho họ sẽ có vô lượng người dòng họ Thích sinh tâm không tin, tức làm sao nghĩa được thành tựu.
Đối với thân tộc mình mà tâm còn ôm giữ keo kiệt, ganh ghét, không muốn giáo hóa, sợ người đó với mình sẽ giống nhau. Do đó Đức Phật dùng pháp để ban bố cho người kia. Các người dòng họ Thích này sẽ dứt bỏ tâm không tin.
Có thuyết cho: Vì nhằm ngăn chận hành động hủy báng của các ngoại đạo, nếu không dùng pháp tạo sự thỏa thích cho họ sẽ có vô số ngoại đạo chê trách: Sao gọi là người chứng được đại bi. Nếu các đệ tử đều tùy thuận cung kính thì Đức Phật vì họ giảng nói pháp. Còn nếu các đệ tử trái nghịch không cung kính, Đức Phật sẽ không giáo hóa. Vì vậy Đức Phật đã đem chánh pháp để làm vừa ý thích lựa chọn của họ, chấm dứt sự hủy báng của các ngoại đạo kia.
Có thuyết nêu: Vì khiến cho hai Bí-sô kia tự biết lỗi do ở mình, nên Đức Phật đã dùng lời nói mềm mỏng quở trách nói: Hai ông trước nay đã gây tạo hành ác, Ta đã thường giáo hóa nhưng đều không tin nhận. Nay Ta lại muốn nói pháp yếu cho hai ông, vậy mà bảo đâu cần nhận biết pháp của Thế Tôn làm gì? Đó là lỗi lầm của hai ông, hai ông hãy tự biết lấy.
Có thuyết biện: Vì khiến hai Bí-sô kia được gieo trồng căn thiện vào kiếp sau, nên Đức Phật tuy đã biết họ nơi đời này không thể tiếp nhận chánh pháp, nhưng sau khi chết sẽ sinh trong loài rồng, sẽ tự nhớ lại khi xưa Đấng đại bi đã ban bố chánh pháp cho mình nhưng mình không nhận lãnh, nên nay phải sinh vào nẻo ác chịu mọi khổ não, vì thế liền phát tâm hối cải, luôn trồng căn thiện. Do nhân duyên ấy nên nhanh chóng được thoát khỏi nẻo ác.
Có thuyết cho: Vì nhằm bảo vệ pháp Phật khiến không hủy hoại. Đức Phật đã biết hai Bí-sô kia từ kiếp này sau khi mạng chung sẽ sinh vào loài rồng, vì bị khổ bức dữ dội mới cảm nghĩ: Ta ở nơi nào mất và sinh đến đây? Tức tự nhớ lại: Ta đã từ trong loài người đến. Lại tự nghĩ: Xưa kia ta đã từng xuất gia do không thể đạt chánh hạnh nên bị đọa vào chốn ấy. Sau đó lại cảm nghĩ: Vì Phật không hóa độ ta, nên khiến hôm nay ta phải sinh vào nơi chốn ác này, liền nổi cơn giận dữ, định đến trong loài người phá hủy Tốt-đổ-ba (Tháp), làm hư hoại Tăng-già-lam, giết các Bí-sô, Bí-sô-ni v.v…, làm cho pháp của Như Lai bị tiêu diệt hoàn toàn. Do đấy, ngay từ bây giờ, Đức Phật dùng thần lực hiện ra hai pho tượng đứng sững phía trước họ như hình tượng mà họ cầu gặp và bảo: Mã Sư, Tỉnh Túc! Ta sẽ vì hai ông nói pháp của bốn trường hợp, ông muốn biết hay không phải do tự ý của mình. Lúc đó, hai con rồng độc tức thì tự hồi ức: Thuở xưa, chính Đức Phật cũng bảo như thế, lúc ấy ta không tiếp nhận, đó là lỗi tự ta, không phải lỗi ở Đức Như Lai. Do nhân duyên này, nên mọi trói buộc giận dữ đều tiêu tan, tức khắc cảm thấy hổ thẹn, nên cố hộ trì Phật pháp.
Vì các nguyên do như thế, nên Đức Phật đã đem chánh pháp ban bố làm thỏa ý họ.
Hỏi: Vì sao hai người đều nói: Nay con đâu cần nhận biết pháp của Đức Thế Tôn làm gì?
Đáp: Vì hai người kia đã tự biết kẻ gây tạo các hành ác không phải là kẻ có sức lãnh nhận chánh pháp, nên mới nói lời ấy. Hai người kia tự nghĩ, đối với việc bàn luận sinh lên cõi trời, ta hãy còn không phải là căn khí, huống chi là luận đàm về sự giải thoát rất vi tế.
Có thuyết nêu: Hai người kia tự biết là luôn phạm giới cấm, hành ác, phiền não, đã gây nên tổn hoại nối tiếp nhau. Gạch, ngói v.v… đem đốt cháy tan còn có thể cho vật dụng, còn đám ta nghe pháp mà được nảy mầm giải thoát thì không có việc ấy, nên họ nói: Nay con đâu cần nhận biết pháp của Đức Thế Tôn làm gì?
Có thuyết nói: Hai người kia tự biết mình đã gây tạo nghiệp, nhất định làm tăng trưởng nẻo ác, nên nói lời ấy.
Có thuyết cho: Vì tướng ác hiện rõ trong thân của hai người kia, nghĩa là họ tự nhìn thấy trên mười đầu ngón tay có mười làn nước sắp chảy ra, liền cảm nghĩ: Chúng ta chắc chắn sẽ sinh trong loài rồng. Như thế lúc này chúng ta đâu cần nhận biết chánh pháp của Đức Thế Tôn làm gì, nên nói lời ấy.
Có thuyết nêu: Đức Phật ghi nhận hai Bí-sô kia đã gieo trồng căn thiện của Bồ-đề Độc giác. Trong đời vị lai nhất định sẽ thành Độc giác. Hai người kia cảm nghĩ: Trong đời hiện tại chúng ta hoàn toàn không thể nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lậu tận, nên mới nói: Nay con đâu cần nhận biết pháp của Đức Thế Tôn làm gì?
Do đó, Đức Thế Tôn lại nói lời này: Hai người ngu ấy đã lìa chánh pháp và Tỳ-nại-da của Ta. Ví như đại địa cách xa hư không, hai người ngu này ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da của Ta không có chút ít phần noãn nào cả. Nếu các đệ tử có thể đem của cải, thức ăn cung cấp cho thầy của mình và cùng ở chung với nhau, hãy còn không nên dùng lời nói thô ác chống đối nhau, huống chi hai người kia không thể cùng với đại chúng ở đây đồng trụ, lại thốt lên lời chống đối trái ngược như thế sao?
Hỏi: Có nhiều thứ Tỳ-nại-da. Đó là Thời Tỳ-nại-da, Phương Tỳ-nại-da, Chủng tánh Tỳ-nại-da, Gia Tỳ-nại-da, Minh Tỳ-nại-da, Phạt tội Tỳ-nại-da, Phạm Tỳ-nại-da, Thánh Tỳ-nại-da, Tham Tỳ-nạida, Sân Tỳ-nại-da, Si Tỳ-nại-da. Ở đây ý nói là Tỳ-nại-da nào?
Đáp: Có thuyết nói: Ở đây nói là Phạt tội Tỳ-nại-da.
Hoặc có thuyết cho: Ở đây nói là Phạm Tỳ-nại-da.
Hoặc có thuyết nêu: Ở đây nói là Thánh Tỳ-nại-da.
Nên nói như thế này: Ở đây nói là Tham, Sân, Si Tỳ-nại-da.
Hỏi: Vì sao Tôn giả tạo luận dùng bảy môn phân biệt về pháp thế đệ nhất? Đảnh chỉ có hai môn, còn nhẫn với noãn chỉ nói về tự tánh?
Đáp: Vì ý của người tạo luận muốn thế. Tùy thuận vào ý muốn của người tạo luận tạo ra phần Luận này, hoặc lược, hoặc rộng, không nên gạn hỏi.
Lại nữa, như đem bảy môn để phân biệt pháp thế đệ nhất, cũng nên dùng bảy môn để phân biệt ba pháp còn lại. Như Tôn giả ở Tây phương dùng mười bảy môn để phân biệt tổng quát về bốn thứ thuận với phần quyết định lựa chọn. Đây cũng nên như thế. Dùng chung bảy môn để phân biệt bốn thứ mà không như thế, nên biết ở đây là nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, pháp thế đệ nhất rất vi tế, rất khó nhận thấy, không dễ gì có thể nhận biết, vì không rõ ràng nên không hiện thấy, tức dùng bảy môn phân biệt, ba pháp còn lại thì không như thế, nên chỉ lược nêu.
Lại nữa, pháp thế đệ nhất phần nhiều có những phỉ báng, nên dùng bảy môn để phân biệt ngăn chận, ba pháp kia thì không như thế, nên phân biệt giản lược.
Lại nữa, pháp thế đệ nhất chỉ trong một sát-na, tướng của pháp ấy rất khó hiểu rõ, cần phân biệt rộng, ba pháp còn lại vì nối tiếp nhau, nên chỉ lược nói.
Như thế, bốn thứ thuận với phần quyết định lựa chọn, đó là noãn, đảnh, nhẫn và pháp thế đệ nhất.
Hỏi: Bốn thứ như vậy tự tánh như thế nào?
Đáp: Đều lấy năm uẩn làm tự tánh.
Tôn giả Diệu Âm nói: Thuận với phần quyết định lựa chọn có thuộc về cõi dục, có thuộc về cõi sắc. Trong phần thuộc về cõi dục, hạ gọi là noãn, thượng gọi là đảnh. Hai tự tánh này chỉ có bốn uẩn, vì trong cõi dục không có sắc tùy chuyển. Trong phần thuộc về cõi sắc, hạ gọi là nhẫn, thượng gọi là pháp thế đệ nhất. Hai tự tánh này đều có đủ năm uẩn, vì trong cõi sắc có sắc tùy chuyển.
Nên nói như vầy: Bốn căn thiện này đều là địa tu, địa định của cõi sắc, là pháp hành của hạnh Thánh, nên bốn tự tánh đều có đủ năm uẩn.
Hỏi: Nếu bốn thứ này đều thuộc cõi sắc, tại sao lại kiến lập bốn thứ riêng biệt?
Đáp: Bốn căn thiện này tuy đồng nơi cõi sắc, nhưng có thứ có thể động, có thứ không thể động. Có thứ có gây trở ngại, có thứ không gây trở ngại. Có thứ có thể đoạn, có thứ không thể đoạn. Có thứ có thể lo lắng, có thứ không thể lo lắng. Có thứ có thể thoái chuyển, có thứ không thể thoái chuyển.
Trong các thứ có thể động, có gây trở ngại, có thể đoạn, có thể lo lắng, có thể thoái chuyển, thì hạ gọi là noãn, thượng gọi là đảnh. Nơi các thứ không thể động, không gây trở ngại, không thể đoạn, không thể lo lắng, không thể thoái chuyển, thì hạ gọi là nhẫn, thượng gọi là pháp thế đệ nhất. Vì thế nên bốn thứ này tuy đồng thuộc về cõi sắc, lấy năm uẩn làm tự tánh, nhưng có sai biệt.
Như nói về tự tánh, thì tướng phần, tự thể của ngã, vật, bản tánh đều cũng như vậy.
Đã nói về tự tánh, nên nói về lý do.
Hỏi: Vì sao tự tánh này gọi là thuận phần quyết định lựa chọn?
Đáp: Quyết định lựa chọn nghĩa là Thánh đạo. Bốn thứ như thế là thuận với phần Thánh đạo. Trong chỗ thuận với phần Thánh đạo thì bốn pháp này là hơn hết, thế nên gọi là thuận phần quyết định lựa chọn, tức bốn thứ này cũng gọi là hành đế, cũng gọi là tu trị, cũng gọi là căn thiện.
Hành đế: Nghĩa là đem mười sáu hành tướng như vô thường v.v… tiếp cận khắp bốn Đế.
Tu trị: Nghĩa là cầu đạt Thánh đạo, nên tu trị thân căn, trừ bỏ sự xấu ác, uế tạp, dẫn khởi Thánh đạo. Cũng như nông phu vì mong cho lúa được chắc hạt, nên sửa dọn ruộng đất, trừ sạch cỏ dại. Đây cũng như thế.
Căn thiện: Nghĩa là Niết-bàn của Thánh đạo là thiện chân thật. Vì bốn đế này cùng với Thánh đạo kia là cơ bản, là xứ an toàn đầy đủ, nên gọi là căn thiện.
Hỏi: Bốn căn thiện này có bao nhiêu phẩm?
Đáp: Gồm chung có ba phẩm. Đó là phẩm hạ, trung, thượng. Noãn là phẩm hạ, đảnh là phẩm trung, nhẫn và pháp thế đệ nhất là phẩm thượng.
Có thuyết cho: Noãn có hai phẩm, đó là hạ hạ, hạ trung. Đảnh có ba phẩm, đó là hạ thượng, trung hạ, trung trung. Nhẫn có ba phẩm là trung thượng, thượng hạ, thượng trung. Pháp thế đệ nhất chỉ có một phẩm là thượng thượng. Nếu dùng ba phẩm để thâu tóm thì noãn chỉ là phẩm hạ, đảnh là phẩm hạ trung, nhẫn là phẩm trung thượng, pháp thế đệ nhất chính là phẩm thượng.
Tôn giả Diệu Âm nói: Noãn có ba phẩm, đảnh có sáu phẩm, nhẫn có tám phẩm, pháp thế đệ nhất chỉ có phẩm thượng thượng. Nếu dùng ba phẩm để thâu tóm, thì noãn chỉ là phẩm hạ, đảnh là phẩm hạ trung, nhẫn chung cả ba phẩm, pháp thế đệ nhất chính là phẩm thượng.
Tôn giả Giác Thiên nói: Noãn có ba phẩm, đó là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Đảnh có ba phẩm, đó là trung hạ, trung trung, trung thượng. Nhẫn có hai phẩm, đó là thượng hạ, thượng trung. Pháp thế đệ nhất chỉ có một phẩm là thượng thượng.
Nếu dùng ba phẩm để thâu tóm thì như thuyết đầu.
Tôn giả Thế Hữu nói: Noãn có ba phẩm, đó là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Đảnh có hai phẩm, đó là trung hạ, trung trung. Nhẫn có ba phẩm, đó là trung thượng, thượng hạ, thượng trung. Pháp thế đệ nhất chỉ có một phẩm đó là thượng thượng. Nếu dùng ba phẩm để thâu tóm thì noãn là thuộc phẩm hạ, đảnh chỉ là phẩm trung, nhẫn là phẩm trung thượng, pháp thế đệ nhất chỉ là phẩm thượng.
Hỏi: Bốn căn thiện này có khác gì nhau?
Đáp: Đã nói phẩm sai biệt tức là có khác biệt. Lại nữa, tên gọi cũng sai biệt, nghĩa là đây gọi là noãn cho đến đây gọi là pháp thế đệ nhất. Lại nữa, niệm trụ làm đẳng vô gián gọi là noãn. Noãn làm đẳng vô gián gọi là đảnh. Đảnh làm đẳng vô gián gọi là nhẫn. Nhẫn làm đẳng vô gián gọi là pháp thế đệ nhất. Như đẳng vô gián, vô gián hướng nhập, gia hạnh cũng như thế.
Lại nữa, ưa quán riêng về uẩn gọi là noãn. Ưa quán riêng về của báu gọi là đảnh. Ưa quán riêng về đế gọi là nhẫn. Do đấy phát sinh pháp thế đệ nhất.
Lại nữa, noãn dứt trừ ngu bậc hạ khi duyên với đế. Đảnh dứt trừ ngu bậc vừa khi duyên với đế. Nhẫn dứt trừ ngu bậc sâu khi duyên với đế. Do đấy phát sinh pháp thế đệ nhất.
Lại nữa, noãn dứt trừ ngu thô khi duyên với đế. Đảnh dứt trừ ngu vừa khi duyên với đế. Nhẫn dứt trừ ngu vi tế khi duyên với đế. Do đấy phát sinh pháp thế đệ nhất.
Lại nữa, noãn phát sinh minh thấp khi duyên với đế. Đảnh phát sinh minh vừa khi duyên với đế. Nhẫn phát sinh minh thượng khi duyên với đế. Do đấy phát sinh pháp thế đệ nhất.
Lại nữa, noãn phát sinh minh thô khi duyên với đế. Đảnh phát sinh minh vừa khi duyên với đế. Nhẫn phát sinh minh vi tế khi duyên với đế. Do đấy phát sinh pháp thế đệ nhất.
Như sinh minh, sinh tín cũng như thế.
Đó là sự sai biệt giữa bốn căn thiện.
Trong căn thiện thuận với phần quyết định lựa chọn, noãn cũng được, cũng bỏ. Được là do gia hạnh. Bỏ là hoặc do thoái chuyển, hoặc do vượt qua địa của cõi, hoặc do bỏ chúng đồng phần. Bỏ noãn này rồi cũng tạo nghiệp vô gián, cũng đoạn căn thiện, cũng rơi vào nẻo ác. Có thắng lợi nào? Là có thể cùng với Niết-bàn tạo nhân quyết định. Nghĩa là chứng đắc noãn, như cá nuốt lưỡi câu, đã quyết định được pháp Niết-bàn.
Đảnh cũng được, cũng bỏ. Được là do gia hạnh. Bỏ là do thoái chuyển, hoặc do vượt qua địa của cõi, hoặc do bỏ chúng đồng phần. Bỏ đảnh này rồi cũng tạo nghiệp vô gián, cũng bị đọa vào nẻo ác. Lại có thắng lợi nào: Nghĩa là có thể hoàn toàn không đoạn căn thiện.
Hỏi: Như thế thì Thiên Thọ (Đề-bà-đạt-đa) tức nên chưa được đảnh, người kia lại khởi tà kiến đoạn căn thiện. Như Già tha (Kệ) đã nói làm sao thông suốt?
Người ngu, mọi người biết
Đó gọi là mất lợi
Pháp bạch đều diệt hoại
Nên biết từ đảnh đọa.
Tụng này, Đức Thế Tôn vì Thiên Thọ mà nói. Tức là Thiên Thọ từ đảnh thoái chuyển rồi mà đoạn căn thiện. Vì sao vừa nói bỏ đảnh này rồi, tất không đoạn điều thiện?
Đáp: Dựa vào chỗ chưa thoái chuyển mà nói, nên nói là đảnh đọa. Đề-bà-đạt-đa đã tu được noãn, không lâu là được đảnh. Nhưng vì vướng mắc danh lợi, nên lại thoái chuyển, mất noãn, lại đoạn căn thiện nữa, nên đối với đảnh, lẽ ra là được nhưng không được, nên gọi là đảnh đọa, không phải là đã được rồi mà thoái chuyển.
Có thuyết nói: Đức Thế Tôn như đảnh, đối với Phật mà làm ác, bị đọa vào nẻo ác, nên gọi là đảnh đọa.
Có Sư khác cho: Pháp Phật như đảnh. Người kia phá hoại pháp Phật tức là tự thoái chuyển, tự rơi xuống, nên gọi là đảnh đọa.
Nhẫn cũng được, cũng bỏ. Được là do gia hạnh. Bỏ là vượt qua địa của cõi, hoặc do bỏ chúng đồng phần, không do thoái chuyển. Lại có thắng lợi nào: Nghĩa là hoàn toàn không thoái chuyển, không tạo nghiệp vô gián, không rơi vào nẻo ác.
Pháp thế đệ nhất cũng được cũng bỏ. Được là do gia hạnh. Bỏ là do vượt qua địa của cõi, không do thoái chuyển, cũng không do bỏ chúng đồng phần. Lại có những thắng lợi nào: Nghĩa là có thể làm đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh.
Có Sư khác nêu: Noãn cũng được cũng bỏ, như trước đã nói. Bỏ noãn này rồi, cũng tạo nghiệp vô gián, cũng bị đọa vào nẻo ác. Có thắng lợi nào? Là có thể cùng với Niết-bàn làm nhân quyết định cùng có thể hoàn toàn không đoạn căn thiện. Nếu thế thì Thiên Thọ (Đềbà-đạt-đa) nên chưa được noãn, vì người kia khởi tà kiến, đoạn căn thiện. Đảnh cũng được, cũng bỏ, như trước đã nói. Bỏ đảnh này rồi, cũng bị đọa vào nẻo ác. Còn có thắng lợi nào? Là không tạo nghiệp vô gián. Nhẫn cũng được, cũng bỏ, như trước đã nói. Lại có thắng lợi nào? Tức hoàn toàn không thoái chuyển, không đọa vào nẻo ác, không chấp vướng vào ngã.
Hỏi: Nếu như thế Ô-ba-ly, Thất-lợi-cúc-đa, Chỉ-man-đế-ngữ v.v… tức nên chưa được nhẫn, vì người kia chấp có ngã, là chống đối lại Phật chăng?
Đáp: Người kia vì muốn bàn luận nên giả lập có ngã, chứ thật sự không có chấp giữ vướng mắc. Các sự việc như được và bỏ của pháp thế đệ nhất, đều như trước đã nói.
HẾT – QUYỂN 6