LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 6

Phẩm thứ 2: PHÂN BIỆT CĂN, phần 4

Như thế là đã nói về tâm bất tương ưng hành. Trước đã nói về đối tượng sinh thuộc tướng sinh. Lúc sinh thì không lìa nhân duyên hòa hợp còn lại. Ở đây, pháp nào nói là Nhân là Duyên? Lại như nhân có sáu thứ. Những gì là sáu?

* Tụng viết:

Năng tác cùng Câu hữu

Đồng loại và Tương ưng

Biến hành và Dị thục

Là nhân chỉ sáu thứ.

* Luận nêu: Nhân có sáu thứ. (1) Nhân năng tác. (2) Nhân câu hữu. (3) Nhân đồng loại. (4) Nhân tương ưng. (5) Nhân biến hành. (6) Nhân dị thục. Các Sư của Đối Pháp cho nhân chỉ có sáu thứ như thế. Thứ nhất là Nhân Năng tác, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Trừ tự còn năng tác.

* Luận nêu: Tất cả hữu vi chỉ trừ tự thể, dùng hết thảy pháp làm nhân năng tác. Do các pháp kia lúc sinh thì trụ không chướng ngại. Tuy nhiên khác tánh cũng là nhân năng tác, nhưng nhân năng tác lại không có danh xưng riêng. Như sắc xứ v.v… nêu chung tức là danh xưng riêng. Há không phải do chưa nhận biết các lậu nên chúng khởi. Do đã nhận biết nên các lậu không sinh. Trí đối với lậu sinh có thể tạo ngăn ngại. Ánh sáng mặt trời có thể gây chướng ngại cho việc hiện trông thấy các ngôi sao. Như vậy do đâu pháp hữu vi chỉ trừ tự thể, dùng tất cả pháp làm nhân năng tác? Nên biết ở đây lúc sinh thì kia đều trụ không chướng ngại, nên kia đối với đây là nhân năng tác. Nếu đối với đây sinh, kia có thể làm chướng ngại, nhưng ở đây không bị ngăn ngại thì có thể lập làm nhân. Ví như người dân trong nước, do quốc chủ nên không bị tổn hại, đều cùng nói: Chúng ta nhờ nơi quốc chủ mà được an lạc. Như ở đây sinh, kia không có dụng chướng ngại. Nếu như không bị chướng ngại thì sao có thể làm nhân? Lại như Niết-bàn cùng pháp không sinh, ở khắp trong tất cả pháp hữu vi sinh? Các hữu tình như ở Na-lạc-ca v.v… nối tiếp, ở trong các uẩn của cõi vô sắc sinh, có như không có dụng không thể tạo chướng ngại? Tuy không có dụng tạo chướng ngại nhưng cũng là nhân. Như quốc vương Vô Lực cũng được như trước đã nêu. Đây tức nói chung về các nhân năng tác. Theo chỗ hơn để nói thì không phải không có lực sinh. Như mắt, sắc v.v… ở nơi nhãn thức cùng sinh. Thức ăn uống đối với thân chủng cùng đối với thân v.v… Có người nêu vấn nạn: Nếu tất cả các pháp trụ không chướng ngại nên đều là nhân năng tác, thì vì sao các pháp không đều sinh khởi tức thì? Lúc một người sát sinh, vì sao tất cả không như người sát sinh đều thành nghiệp sát? Vấn nạn này là không đúng. Chỉ do không chướng ngại nên cho tất cả pháp là nhân năng tác. Không phải do ở nơi sinh có lực thân tác. Có Sư khác nói: Các nhân năng tác đều ở nơi quả sinh, có lực năng tác. Lại như Niết-bàn v.v… ở nơi nhãn thức sinh, vì sao gọi là có lực năng tác? Do ý thức duyên nơi kia làm cảnh mà sinh hoặc thiện hoặc ác. Nhân nơi ý thức này, thời gian sau nhãn thức theo thứ lớp được sinh, lần lượt nhân nơi đấy. Niết-bàn kia cùng ở nơi nhãn thức sinh có lực năng tác. Như thế, các pháp khác do nơi lãnh vực giới hạn này, nên biết là lần lượt có lực năng sinh. Như vậy là đã nói về tướng của nhân năng tác. Thứ hai là Nhân Câu hữu, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Câu hữu cùng là quả

Như tướng đại hiện tướng

Tâm nơi tâm tùy chuyển.

* Luận nêu: Nếu pháp lại cùng làm quả sĩ dụng thì pháp kia lại cùng làm nhân câu hữu. Tướng ấy là thế nào? Như bốn đại chủng lại cùng hướng về nhau làm nhân câu hữu. Như thế các tướng cùng với pháp của đối tượng tướng, tâm cùng với tâm tùy chuyển, cũng lại cùng làm nhân. Tức là nhân câu hữu, do cùng là quả, thâu tóm khắp pháp hữu vi theo như chỗ ứng hợp. Pháp cùng với tùy tướng không phải cùng làm quả. Nhưng pháp cùng với tùy tướng làm nhân câu hữu, không phải là tùy tướng ở nơi pháp. Ở đây nêu biện: Những gì gọi là pháp tâm tùy chuyển?

* Tụng viết:

Tâm sở hai luật nghi

Kia cùng các tướng tâm

Là pháp tâm tùy chuyển.

* Luận nêu: Tất cả pháp tương ưng của tâm hiện có, hai thứ luật nghi vô lậu của tĩnh lự, pháp kia cùng với các tướng như sinh v.v… của tâm, như thế đều gọi là pháp tâm tùy chuyển. Vì sao pháp ấy gọi là tâm tùy chuyển?

* Tụng viết:

Do thời cùng quả thiện v.v…

* Luận nêu: Lược nói do thời, quả v.v… là thiện v.v… nên nói pháp ấy gọi là tâm tùy chuyển. Do thời: Nghĩa là ở đây cùng với tâm một sinh trụ diệt cùng gắn với một đời. Do quả v.v…: Nghĩa là ở đây cùng với tâm là một dị thục và một đẳng lưu của quả. Nên biết trong ấy, một trước một sau hiển bày cùng hiển bày chung, về nghĩa là không đồng. Do thiện v.v…: Nghĩa là ở đây cùng với tâm đồng là tánh thiện bất thiện vô ký. Do mười nhân này gọi là tâm tùy chuyển. Trong ấy, tâm vương cực ít cũng như cùng với năm mươi tám pháp làm nhân câu hữu. Nghĩa là mười pháp đại địa, bốn mươi tướng gốc kia, tâm có tám tướng gốc và tùy tướng gọi là năm mươi tám pháp. Nơi năm mươi tám pháp, trừ bốn tùy tướng của tâm, năm mươi bốn pháp còn lại gọi là nhân câu hữu của tâm. Có thuyết cho: Là nhân của tâm chỉ có mười bốn pháp. Là mười pháp đại địa cùng tướng gốc của tâm. Thuyết này không tốt. Vì sao? Vì trái với Luận Phẩm Loại Túc đã nói. Như Luận kia nói: Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân, trừ hữu thân kiến vị lai và pháp tương ưng kia, sinh lão trụ, vô thường, các khổ đế nhiễm ô khác. Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân, cũng cùng với hữu thân kiến làm nhân, tức các pháp đã trừ. Có Sư khác không theo tụng cùng pháp tương ưng kia. Sư Tỳ-bà-sa của nước Ca-thấp-di-la nói: Văn kia tất nên tạo tụng như thế. Hoặc nên căn cứ theo nghĩa để nhận biết là nêu bày chưa trọn vẹn. Các thứ do nhân câu hữu nên thành nhân, chúng tất là câu hữu. Hoặc có câu hữu không phải do nhân câu hữu nên thành nhân. Nghĩa là các tùy tướng đều ở nơi pháp gốc, các tùy tướng này đều cùng đối nhau. Tùy tướng của pháp tùy tâm chuyển đều ở nơi tâm. Các tùy tướng ấy lần lượt cùng đối. Tất cả sắc được tạo cùng sinh có đối lần lượt cùng đối. Phần ít sắc được tạo cùng sinh không đối lần lượt cùng đối. Tất cả đại chủng của sắc được tạo cùng sinh lần lượt cùng đối. Hết thảy đắc cùng sinh cùng với đối tượng đắc lần lượt cùng đối. Các pháp như thế tuy gọi là câu hữu nhưng không phải do nhân câu hữu nên thành nhân. Vì không phải là một dị thục cùng một đẳng lưu của quả. Vì đắc cùng với đối tượng đắc không phải nhất định cùng hành. Hoặc trước hoặc sau hoặc cùng sinh. Tất cả lý như thế là có thể đúng. Nhưng nơi các thế gian gieo trồng v.v…, sinh mầm v.v… nhân quả cực thành cùng trong sự sinh, chưa thấy như nhân quả đồng thời này. Nay nên nói: Thế nào là trong tụ của các pháp cùng khởi có nghĩa nhân quả? Há chẳng hiện thấy: Ngọn lửa của đèn, ánh sáng của đèn cùng với bóng đồng thời cũng là nhân quả. Ở đây nên biện kỹ. Vì tức ngọn lửa của đèn cùng ánh sáng là nhân. Hay là nhân duyên sinh trước, ngọn lửa ánh sáng hòa hợp cùng khởi? Vật khác ngăn ngại ánh sáng mà có bóng hiện. Vì sao nói dụng của bóng này cùng làm nhân? Lý không nên như thế. Tùy có không nên khéo nhân nơi ánh sáng. Nói tướng nhân quả tức nói nếu đây có không thì kia theo đấy có không. Đây định là nhân, kia định là quả. Trong pháp cùng có, một có thì tất cả có, một không thì tất cả không. Lý thành nhân quả. Nhân quả cùng khởi, lý lại có thể đúng. Vậy sao có thể nói cùng làm nhân quả? Tức do trước nói, đây cũng không trái. Nếu thế, như trước đã nói, sắc được tạo cùng không lìa nhau nên cùng làm nhân. Sắc được tạo như thế cùng với các đại chủng, tùy tướng v.v… của tâm cùng các pháp như tâm v.v… đều không lìa nhau nên cùng làm nhân. Nếu cho như ba cây gậy đều cùng nương dựa nhau để trụ, như thế nghĩa nhân quả của pháp cùng có là thành. Ở đây nên suy xét. Ba cây gậy như thế là do lực cùng nương dựa cùng khởi nên trụ. Hay là do nhân duyên sinh trước hợp lực khiến ba cây gậy kia cùng khởi nên trụ? Lại, ở trong pháp kia cũng có vật khác là dây buộc nơi đất nối giữ khiến trụ. Ở đây cũng có nhân đồng loại khác. Vì thế nghĩa của nhân câu hữu được thành. Như vậy là đã nói về tướng của nhân câu hữu. Thứ ba là Nhân Đồng loại, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Nhân đồng loại tương tợ

Tự bộ địa sinh trước

Đạo chín địa lần lượt

Chỉ cùng thắng làm quả

Gia hạnh sinh cũng thế

Do văn tư tạo thành.

* Luận nêu: Nhân đồng loại: Nghĩa là pháp tương tợ cùng với pháp tương tợ làm nhân đồng loại. Tức là năm uẩn thiện cùng với năm uẩn thiện lần lượt hướng về nhau làm nhân đồng loại. Nhiễm ô cùng với nhiễm ô, vô ký cùng với vô ký, năm uẩn của hai thứ trên cùng hướng về nhau nên biết cũng như vậy. Có Sư khác nói: Uẩn vô ký tịnh, năm là quả của sắc, bốn không phải là nhân của sắc. Có Sư khác cho: Năm là bốn quả, sắc không phải là bốn nhân. Có Sư khác nêu: Sắc cùng với bốn quả cùng hướng về nhau lần lượt đều không làm nhân. Lại trong một thân, phần vị Yết-lạt-lam có thể cùng với mười vị làm nhân đồng loại, chín phần vị như Át-bộ-đàm v.v… mỗi mỗi đều trừ vị trước, cùng với vị còn lại làm nhân. Nếu đối nơi mười vị đồng loại của thân khác thì mỗi mỗi đều cùng với mười vị làm nhân. Do ngoài giới hạn này các thứ tự loại như lúa mạch, lúa nước v.v… nơi tự loại nên xét chọn rộng. Nếu không thừa nhận sắc là nhân đồng loại của sắc, thì chấp kia liền trái với văn của Bản luận đã nói. Bản luận nói: Đại chủng quá khứ, đại chủng vị lai là tăng thượng của nhân. Vì các thứ tương tợ đối với pháp tương tợ đều có thể được nói là nhân đồng loại. Không như thế thì vì sao tự bộ nơi tự địa chỉ cùng với tự bộ nơi tự địa làm nhân. Thế nên nói là tự bộ nơi tự địa. Bộ nghĩa là năm bộ. Tức do kiến khổ đoạn cho đến do tu đạo đoạn. Địa nghĩa là chín địa, tức cõi dục là một, bốn tĩnh lự và bốn vô sắc. Ở đây, pháp do kiến khổ đoạn trở lại cùng với pháp do kiến khổ đoạn làm nhân đồng loại, không phải thứ khác. Như thế cho đến pháp do tu đạo đoạn trở lại cùng với pháp do tu đạo đoạn làm nhân đồng loại, không phải thứ khác. Ở đây, mỗi mỗi hoặc địa cõi dục trở lại cùng với địa cõi dục làm nhân đồng loại. Địa tĩnh lự thứ nhất cùng với địa tĩnh lự thứ nhất làm nhân đồng loại. Cho đến địa Hữu đảnh cùng với địa Hữu đảnh làm nhân đồng loại. Địa khác cùng hướng về nhau đều không có nghĩa của nhân. Lại, ở đây không phải là tất cả. Vì sao?

Tức là sinh trước, chỉ là các pháp sinh trước cùng với pháp sinh chưa sinh tương tợ ở sau làm nhân đồng loại. Làm sao nhận biết được? Là do Bản luận nói. Như Luận Phát Trí nói: Thế nào là nhân đồng loại? Nghĩa là căn thiện sinh trước cùng với căn thiện của tự giới sinh sau và pháp tương ưng với chúng làm nhân đồng loại. Như vậy, quá khứ cùng với hai đời còn lại, quá khứ hiện tại cùng với vị lai v.v… đều nên nói rộng. Nhưng tức Luận kia nêu câu hỏi: Nếu pháp cùng với pháp kia làm nhân. Hoặc có lúc pháp này cùng với pháp kia không làm nhân chăng? Luận ấy tức đáp: Không có lúc nào không phải là nhân. Đây là dựa nơi ba nhân câu hữu, tương ưng, dị thục để nói ngầm, nên không có lỗi. Có, nghĩa là pháp vị lai đang sinh phần vi, nhất định có thể cùng với pháp kia làm nhân đồng loại. Vì thế văn của Luận kia dựa nơi phần vị sau cùng để ngầm tạo lời đáp ấy: Không có lúc nào không phải là nhân. Luận kia ở nơi vấn nạn không phải là khéo giải thích. Do pháp vị lai đang sinh phần vị, ở trước không phải là nhân đồng loại, về sau mới thành. Lại, nếu như thế thì Luận kia lại nêu câu hỏi: Nếu pháp cùng với pháp kia là đẳng vô gián. Hoặc có lúc pháp ấy cùng với pháp kia không phải là đẳng vô gián chăng? Luận kia tức đáp: Hoặc có lúc pháp này chưa đến đã sinh. Hoặc như giải thích kia, nên cũng đáp: Không có lúc nào không phải là duyên. Vì sao lại đáp: Hoặc có lúc pháp này chưa đến đã sinh. Luận kia lại giải thích: Vì hiện hai môn. Như xứ kia nói, đây cũng nên như thế. Như xứ đây nói, kia cũng nên như thế. Tạo văn như vậy đạt được công đức gì? Chỉ làm rõ là Luận chủ đã không khéo ở nơi văn. Do đấy nên biết giải thích trước là tốt. Như vậy, vì sao Luận Phẩm Loại Túc nói: Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân, trừ hữu thân kiến vị lai cùng khổ đế tương ưng với pháp kia, còn lại là các khổ đế nhiễm ô. Hoặc có khổ đế do hữu thân khiến làm nhân, cũng cùng với hữu thân kiến làm nhân. Tức là pháp đã trừ. Văn của Luận kia nên nói: Trừ khổ đế tương ưng với hữu thân khiến vị lai. Nếu như có, như Luận kia nói, do nghĩa nên nhận biết là không phải. Lại làm sao thông hợp với Luận Thi Thiết Túc? Luận ấy nói: Các pháp có bốn sự quyết định. Đó là nhân, quả, đối tượng nương dựa, đối tượng duyên. Nên biết văn của Luận kia: Nhân: Nghĩa là các nhân năng tác, câu hữu, tương ưng, dị thục. Quả: Nghĩa là các quả tăng thượng, sĩ dụng, dị thục. Đối tượng nương dựa: Nghĩa là sáu căn như mắt v.v… Đối tượng duyên: Nghĩa là sáu cảnh như sắc v.v… Nếu vậy thì nhân đồng loại tức nên xưa không mà có. Thừa nhận như thế nên không có lỗi. Căn cứ theo phần vị, không phải là Thể. Do tác dụng hòa hợp, nên quả của vị không phải là quả của Thể. Nếu nhân đồng loại nơi đời vị lai là có như nhân dị thục, thì nên có lỗi gì? Vị lai nếu có thì Bản luận nên nói. Bản luận chỉ nói các nhân đồng loại có thể nhận lấy quả và cho quả, nên không có lỗi. Không có nghĩa như thế, do nhân đồng loại dẫn đến quả đẳng lưu nơi vị lai này có lý tất không đúng vì không có trước sau. Tức không nên cho pháp đã sinh là đẳng lưu chưa sinh. Như pháp quá khứ không phải là quả hiện tại. Chớ có lỗi lầm cho có quả trước nhân sau, nên đời vị lai không có nhân đồng loại. Như vậy, nhân dị thục tức nên nơi vị lai không phải là có. Không nên cho nhân của quả dị thục là trước và cùng sinh, nên pháp của đời vị lai không có trước sau. Không có lỗi như thế vì không tương tợ. Nghĩa là nhân đồng loại cùng với quả là tương tợ. Nếu không có trước sau tức nên cùng là nhân, đã cùng là nhân nên tức cùng là quả. Cùng là nhân quả, so với lý là trái nhau. Không phải là nhân dị thục cùng với quả tương tợ. Tuy lìa trước sau nhưng không có lỗi trên. Thế nên nhân đồng loại theo vị để kiến lập vị lai không phải là có. Nếu nhân dị thục dựa theo tướng để kiến lập thì vị lai không phải là không có.

Nói nhân đồng loại chỉ ở nơi tự địa: Là định rõ dựa nơi gì để nói? Định rõ là dựa nơi hữu lậu. Nếu đạo vô lậu lần lượt cùng hướng về nhau thì mỗi mỗi đều cùng với chín địa làm nhân. Nghĩa là định vị chí, tĩnh lự trung gian, bốn tĩnh lự gốc, ba định vô sắc, là chín địa và đạo đế đều cùng làm nhân. Vì sao? Vì đối với các địa này đều như khách chủ, không rơi vào giới gồm thâu, không phải các địa ái chấp là tự mình có. Do vậy, đạo của chín địa tuy địa không đồng, nhưng lần lượt làm nhân, do đồng loại. Nhưng chỉ được cùng với phần bằng và hơn làm nhân, không phải là nhân kém. Vì là gia hạnh sinh. Lại như khổ pháp trí nhẫn đã sinh, trở lại cùng với khổ pháp trí nhẫn vị lai làm nhân đồng loại, đó gọi là bằng. Lại, tức nhẫn này lại có thể cùng với phần sau, từ khổ pháp trí đến vô sinh trí làm nhân đồng loại, đó gọi là hơn. Như thế nói rộng cho đến các vô sinh trí đã sinh, chỉ cùng với loại đồng làm nhân đồng loại, không có loại hơn. Lại nữa, các kiến đạo, tu đạo, vô học đạo đã sinh, tùy theo thứ lớp ấy, cùng với ba đạo, hai đạo, một đạo làm nhân đồng loại. Tức ở trong ấy, các đạo độn căn cùng với độn và lợi làm nhân đồng loại. Nếu là đạo lợi căn thì chỉ cùng với đạo lợi căn làm nhân. Như đạo tùy tín hành và đạo tín thắng giải, thời giải thoát, tùy theo thứ lớp ấy, cùng với sáu, bốn, hai làm nhân đồng loại. Nếu là đạo tùy pháp hành, cùng với kiến đáo, phi thời giải thoát, tùy theo thứ lớp ấy, cùng với ba, hai, một làm nhân đồng loại. Các đạo của địa trên là nhân của địa dưới, vì sao gọi là hoặc bằng hoặc hơn? Do nhân tăng trưởng cùng do căn. Nghĩa là kiến đạo v.v…, phẩm hạ hạ là bằng. Trong vị càng về sau thì nhân chuyển tăng trưởng. Tuy nơi một sự nối tiếp không dung nạp hai đạo tùy tín hành, tùy pháp hành hiện khởi có thể đạt được, nhưng đã sinh là nhân vị lai. Do chỉ Thánh đạo chỉ cùng với phần bằng và hơn làm nhân đồng loại. Không như thế thì vì sao nơi pháp thế gian khác, gia hạnh sinh cũng cùng với phần bằng và hơn làm nhân, không phải là phần kém. Pháp gia hạnh sinh, về Thể là thế nào? Nghĩa là do văn tạo thành, tư tạo thành v.v…: Là cùng nhận lấy do tu tạo thành. Do nhân là văn tư tu đã sinh khởi công đức gọi là do chúng tạo thành. Là gia hạnh sinh nên chỉ cùng với phần bằng và hơn làm nhân không phải là phần kém. Như pháp do văn tạo thành thuộc cõi dục, có thể cùng với văn tư tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại, không phải là nhân của tu tạo thành vì là nơi cõi dục. Pháp do tư tạo thành cùng với tư tạo thành làm nhân đồng loại, không phải là nhân của văn tạo thành do pháp kia là kém. Nếu là pháp do văn tạo thành thuộc cõi sắc, thì có thể cùng với văn tu tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại, không phải là nhân của tư tạo thành do nơi cõi sắc không có. Pháp do tu tạo thành chỉ cùng với pháp do tu tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại. Không phải là nhân của văn tạo thành, do pháp kia yếu kém. Pháp do tu tạo thành thuộc cõi vô sắc chỉ cùng với pháp do tu tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại. Không phải là nhân của văn tư tạo thành do không có (Văn) và yếu kém (Tư). Các pháp như thế lại có chín phẩm. Nếu phẩm hạ hạ làm nhân của chín phẩm thì phẩm hạ trung là tám nhân, cho dến phẩm thượng thượng chỉ là nhân của thượng thượng. Do trừ phẩm kém trước. Chín phẩm của pháp thiện sinh đắc, cùng hướng về nhau lần lượt làm nhân. Pháp nhiễm ô cũng thế. Pháp vô phú vô ký gồm có bốn thứ, nghĩa là dị thục sinh, đường oai nghi, xứ công xảo và tâm biến hóa cùng phẩm. Tùy theo thứ lớp ấy, có thể cùng với bốn thứ, ba, hai, một thứ làm nhân. Lại, tâm biến hóa của cõi dục có quả của bốn tĩnh lự, không phải là quả của tĩnh lự trên là nhân của quả thuộc tĩnh lự dưới. Không phải nhân của gia hạnh đắc quả kém của địa dưới. Như siêng năng dung công sức gieo cấy lúa nước, lúa mạch v.v…, chớ cho nếu như có nhiều khó nhọc mà không thu hoạch được gì. Nhân nơi nghĩa như thế nên có câu hỏi: Từng có pháp vô lậu đã sinh không phải là nhân của pháp vô lậu nơi vị chưa sinh? Có. Nghĩa là phẩm khổ pháp trí đã sinh đối với phẩm khổ pháp nhẫn nơi vị chưa sinh. Lại, do tất cả hơn đối với tất cả kém.

Từng có các pháp vô lậu của một thân, trước đã định đạt được không phải là nhân sinh sau? Có. Nghĩa là phẩm khổ pháp nhẫn vị lai đối với phẩm khổ pháp trí đã sinh sau, do quả tất không ở trước nhân. Hoặc nhân đồng loại nơi vị lai là không.

Từng có các pháp vô lậu sinh trước không phải là nhân của pháp vô lậu đã khởi sau? Có. Nghĩa là pháp vô lậu hơn sinh trước đối với pháp vô lậu kém đã khởi sau. Như thoái chuyển quả trên, quả dưới hiện tiền. Lại, khổ pháp trí đạt được đã sinh trước đối với khổ pháp nhẫn đạt được đã sinh sau, không phải là nhân đồng loại, do pháp kia là kém. Như thế là đã nói về tướng của nhân đồng loại. Thứ tư là Nhân Tương ưng, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Nhân tương ưng quyết định

Tâm tâm sở đồng dựa.

* Luận nêu: Chỉ tâm tâm sở là nhân tương ưng. Nếu như thế thì đối tượng duyên, hành tướng là khác. Cũng nên lại cùng là nhân tương ưng. Không như thế thì đối tượng duyên, hành tướng là đồng: Tức mới có thể được nói là tương ưng. Nếu như thế thì đối tượng duyên, hành tướng của thời khác là đồng. Tức nên nói là nhân tương ưng. Không như thế thì chỗ cần thiết nơi đối tượng duyên, hành tướng cùng thời là đồng: Nên nói là tương ưng. Nếu như thế thì đối tượng duyên, hành tướng cùng thời của thân khác là đồng: Nên nói là tương ưng. Như nhiều người cùng xem các sự việc như trăng đầu tháng v.v… Là dùng một câu để ngăn chận chung. Như thế là có rất nhiều vấn nạn đã được ngăn chận nên nói là đồng dựa. Nghĩa là nên đồng dựa nơi pháp tâm tâm sở mới được lại cùng là nhân tương ưng. Ở đây, nói đồng là làm rõ về đối tượng nương dựa là một. Nghĩa là nếu nhãn thức dùng nhãn căn của sát-na này làm chỗ dựa tương ưng với thọ v.v…, cũng tức là dùng nhãn căn này làm chỗ dựa. Cho đến ý thức cùng tương ưng với pháp dựa nơi ý căn, nên biết cũng như thế. Nhân tương ưng, thể tức là nhân câu hữu. Như vậy, nghĩa của hai nhân có sai biệt gì? Do nghĩa cùng là quả nên lập nhân câu hữu. Như các khách buôn cùng dựa vào nhau để cùng đi qua quãng đường hiểm trở. Do năm nghĩa bình đẳng cùng tương ưng nên lập nhân tương ưng. Tức như các khách buôn đồng thọ nhận, đồng tạo các sự việc như ăn uống v.v… Trong ấy, thiếu một thì đều không tương ưng.

Vì thế cùng làm nghĩa của nhân là rất thành. Như vậy là đã nói về tướng của nhân tương ưng. Thứ năm là Nhân Biến hành, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Biến hành là biến trước

Là đồng địa nhân nhiễm.

* Luận nêu: Nhân biến hành: Nghĩa là các pháp biến hành đã sinh trước cùng với các nhiễm ô của đồng địa sinh sau làm nhân biến hành. Các pháp biến hành nơi nghĩa biến hành trong phẩm Tùy Miên sẽ phân biệt rộng. Ở đây, cùng với pháp nhiễm làm nhân chung. Tức ngoài nhân đồng loại lại kiến lập riêng. Cũng là nhân của pháp nhiễm thuộc bộ khác. Do thế mạnh này nên phiền não cùng quyến thuộc của chúng nơi bộ khác cũng sinh trưởng. Các pháp nhiễm ô trong thân Thánh giả há cũng dùng đấy làm nhân biến hành? Sư Tỳ-bà-sa của nước Ca-thấp-di-la nói: Tất cả pháp nhiễm ô do kiến đạo đoạn đều làm nhân. Nên Luận Phẩm Loại Túc đã nói như vầy: Thế nào là pháp do kiến đạo đoạn làm nhân? Nghĩa là các pháp nhiễm ô cùng pháp do kiến đạo đoạn đã chiêu cảm dị thục. Thế nào là pháp vô ký làm nhân? Nghĩa là các pháp hữu vi vô ký cùng pháp bất thiện. Hoặc có khổ đế dùng hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân. Nói rộng cho đến trừ hữu thân kiến vị lai cùng pháp tương ưng kia, sinh lão trụ vô thường, các khổ đế nhiễm ô khác. Nếu như thế thì làm sao thông hợp với Luận Thi Thiết Túc đã nói? Như Luận ấy nói: Từng có pháp là bất thiện, chỉ cùng với pháp bất thiện làm nhân chăng? Có. Nghĩa là Thánh nhân lìa dục, thoái chuyển, đầu tiên đã khởi tư nhiễm ô. Dựa nơi nhân chưa đoạn để ngầm tạo ra thuyết ấy. Pháp do kiến đạo đoạn tuy là nhân ấy nhưng do đã đoạn nên bỏ qua không nói. Như thế là đã nói về tướng của nhân biến hành. Thứ sáu là Nhân Dị thục, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Nhân dị thục bất thiện

Cùng thiện chỉ hữu lậu.

* Luận nêu: Chỉ các pháp bất thiện cùng thiện hữu lậu là nhân dị thục nên là pháp dị thục. Vì sao vô ký không chiêu cảm dị thục? Là do sức yếu kém. Như hạt giống bị hư mục. Vì sao vô lậu không chiêu cảm dị thục? Là do không có ái làm thấm nhuần. Như hạt giống chắc tốt nhưng không có nước tưới thấm. Lại, không phải hệ thuộc địa. Thế nào là có thể chiêu cảm dị thục hệ thuộc địa? Là pháp còn lại gồm đủ hai thứ, thế nên có thể chiêu cảm. Như hạt giống chắc tốt có nước tưới thấm. Nghĩa của nhân dị thục vì sao có thể nhận biết rõ? Vì nhân của dị thục nên gọi là nhân dị thục. Vì dị thục tức là nhân nên gọi là nhân dị thục. Nghĩa gồm hai giải thích, ở đây có lỗi gì? Nếu là nhân của dị thục nên gọi là nhân dị thục thì Thánh giáo không nên nói mắt dị thục sinh. Nếu dị thục tức là nhân nên gọi là nhân dị thục thì Thánh giáo không nên nói dị thục của nghiệp. Hai giải thích cùng thông hợp, như trước đã biện. Chỗ nói về dị thục, nghĩa ấy là thế nào? Sư Tỳ-bà-sa giải thích: Loại khác mà thục, là nghĩa của dị thục. Nghĩa là nhân dị thục chỉ là thục (Thành thục, chín muồi) của dị loại. Còn các nhân như câu hữu v.v… chỉ là thục của đồng loại. Một nhân năng tác thì gồm cả thục của đồng loại dị loại. Chỉ một thứ ấy gọi là nhân dị thục. Quả thục thì không nên do nhân khác đạt được. Quả phải gồm đủ hai nghĩa mới được mang tên là thục. Một là do sự nối tiếp chuyển biến có sai biệt, Thể kia được sinh. Hai là do tùy theo uy lực của nhân lúc hơn kém có phần hạn. Không phải hai nhân câu hữu, tương ưng kia đã sinh ra Thể của quả. Chính là do sự nối tiếp chuyển biến có sai biệt quả mới được sinh. Do lúc nhận quả tức là cho quả. Lại, không phải quả của ba nhân năng tác, đồng loại, biến hành, cũng do tùy theo uy lực của nhân lúc hơn kém có phần hạn. Do tận cùng nơi biên vực sinh tử như thiện ác v.v… mà quả luôn luôn sinh, lúc sinh thì không hạn lượng. Do đó chỉ nên tạo giải thích: Biến dị mà thục là nghĩa của dị thục. Không nên chỉ ở nơi dị để phân biệt với nhân khác. Ở trong cõi dục: Có khi một uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là hữu ký đắc cùng với sinh v.v… kia. Có khi hai uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là thân nghiệp ngữ nghiệp thiện bất thiện cùng với sinh v.v… kia. Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là tâm tâm sở pháp thiện bất thiện cùng với sinh v.v… kia. Ở nơi cõi sắc: Có lúc một uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là hữu ký đắc đẳng chí vô tưởng cùng với sinh v.v… kia. Có lúc hai uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là nghiệp hữu biểu thiện của tĩnh lự thứ nhất cùng với sinh v.v… kia. Có lúc bốn uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là tâm tâm sở pháp thiện phi đẳng dẫn cùng với sinh v.v… kia. Có lúc năm uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là tâm tâm sở pháp là đẳng dẫn và sắc tùy chuyển cùng với sinh v.v… kia. Trong cõi vô sắc: Có khi một uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là hữu ký đắc đẳng chí diệt tận cùng với sinh v.v… kia. Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là tất cả tâm tâm sở pháp thiện cùng với sinh v.v… kia. Có nghiệp chỉ chiêu cảm dị thục của một xứ. Nghĩa là chiêu cảm pháp xứ tức mạng căn v.v… Hoặc chiêu cảm ý xứ thì nhất định chiêu cảm hai xứ là ý cùng với pháp. Hoặc chiêu cảm xúc xứ, nên biết cũng như vậy. Hoặc chiêu cảm thân xứ, thì nhất định chiêu cảm ba xứ là thân, xúc và pháp. Chiêu cảm sắc hương vị nên biết cũng như vậy. Nếu chiêu cảm nhãn xứ thì nhất định chiêu cảm bốn xứ, là chiêu cảm nhãn xứ cùng thân xúc pháp. Chiêu cảm nhĩ tỷ thiệt nên biết cũng như vậy. Có nghiệp có thể chiêu cảm hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy, hoặc tám, hoặc chín, mười, mười một xứ. Nên nghiệp hoặc ít quả hoặc nhiều quả. Như gieo trồng quả bên ngoài hoặc ít hoặc nhiều. Gieo trồng quả ít: Như các lúa thóc, lúa mạch. Gieo trồng quả nhiều: Như hoa sen, thạch lựu, Nặc-cù-đà v.v…

Có nghiệp của một đời nhận dị thục của ba đời. Không có nghiệp của ba đời nhận dị thục của một đời. Chớ cho nếu như quả khó nhọc thì nhân giảm. Có nghiệp của một niệm nhận dị thục của nhiều niệm. Không có nghiệp của nhiều niệm nhận dị thục của một niệm. Ở đây nên biết là lý do như trên. Nhưng quả dị thục không cùng với nghiệp cùng sinh. Không phải lúc tạo nghiệp tức thì thọ nhận quả, cũng không phải là vô gián. Do sức của đẳng vô gián duyên nơi sát-na tiếp theo đã dẫn khởi. Lại, nhân dị thục chiêu cảm quả dị loại, tất phải đợi sự nối tiếp mới có thể hoàn thành. Sáu nhân như vậy định rõ là ở nơi đời nào? Nghĩa của nhân ở đời định rõ, tuy đã nói nhưng tụng chưa gồm thâu nên lại biện lần nữa.

* Tụng viết:

Biến hành cùng đồng loại

Hai đời, ba đời ba.

* Luận nêu: Nhân biến hành, đồng loại chỉ ở nơi quả khứ, hiện tại. Đời vị lai là không. Lý như trước đã nói. Ba nhân tương ưng, câu hữu, dị thục, ở trong ba đời thảy đều có khắp. Tụng đã không nêu ra chỗ ở của nhân năng tác. Nghĩa căn cứ theo đấy nên biết. Tức chung nơi ba đời và không phải đời. Đã nói về tướng của sáu nhân cùng định rõ về đời sai biệt. Những gì là quả đối với nhân kia thành?

* Tụng viết:

Quả hữu vi ly hệ

Vô vi không nhân quả.

* Luận nêu: Như Bản luận nói: Thế nào là pháp quả? Nghĩa là các pháp hữu vi cùng với trạch diệt. Nếu như thế vô vi cho là quả tức nên có nhân. Cần đối nơi nhân kia mới có thể nói được đây là quả. Lại, vô vi này cho là nhân tức cũng nên có quả. Cần đối nơi quả kia mới có thể nói được đây là nhân. Chỉ pháp hữu vi là có nhân có quả, không phải là các pháp vô vi. Vì sao? Vì không có nơi sáu nhân nên không có nơi năm quả. Do đâu không thừa nhận các đạo vô gián cùng quả ly hệ? Vì nhân năng tác ở nơi sinh không bị chướng ngại lập nhân năng tác. Vô vi là không sinh, đạo sao có đối tượng tạo tác? Nếu vậy thì cái gì là quả? Nghĩa của quả là thế nào? Nghĩa là quả của đạo do lực của đạo đạt được. Nếu vậy thì quả của đạo tức nên chỉ là đắc. Đạo ở nơi đắc có công năng không phải ở nơi trạch diệt. Không như vậy thì ở nơi đắc, ở trong trạch diệt, công năng của đạo có sai biệt. Vì sao ở nơi đắc đạo có công năng? Nghĩa là có thể sinh khởi. Vì sao ở nơi diệt đạo có công năng? Nghĩa là có thể chứng đạt. Do lý này nên đạo tuy không phải là nhân của diệt mà có thể nói được trạch diệt là quả của đạo. Đã cho các pháp vô vi không có quả tăng thượng, vì sao có thể nói là nhân năng tác? Do các pháp vô vi ở nơi phần vị tha sinh không bị chướng ngại nên lập nhân năng tác. Nhưng không có quả: Do lìa pháp thế gian thì không có dụng có thể nhận lấy quả, cho quả. Sư Kinh Bộ nói: Vô vi không phải là nhân vì không có kinh nói nhân là vô vi. Có kinh nói nhân chỉ là hữu vi. Xứ nào kinh nói? Như có kinh nói: Các nhân các duyên có thể sinh khởi sắc đều là vô thường. Nhân duyên vô thường sinh ra các sắc. Vì sao là thường? Nói rộng cho đến thức cũng như thế. Nếu vậy thì vô vi cũng nên không cùng với chủ thể duyên là thức tạo nên sở duyên duyên. Chỉ nói là do có thể sinh nên được làm sở duyên duyên. Nghĩa là kinh chỉ nói các nhân các duyên có thể sinh ra thức đều là vô thường. Không nói tất cả là duyên của thức đều là vô thường, nên không thành vấn nạn. Há không phải cũng nói chỉ có thể sinh nhân là vô thường nên không bác bỏ. Vô vi chỉ không bị chướng ngại nên là nhân năng tác. Không có trong Khế kinh nói pháp vô vi là nhân năng tác, nên không nên lập vì chỉ không chướng ngại tánh của nhân. Tuy không có kinh nói nhưng cũng không xứ ngăn chận. Lại, vô số kinh nay đã ẩn mất. Vì sao nhất định phán quyết là không có kinh nói? Nếu như thế pháp nào gọi là ly hệ? Tức như trong Bản luận đã nói là trạch diệt. Đâu không phải trước đã hỏi: Thế nào là trạch diệt? Đáp:

Là ly hệ. Nay hỏi: Pháp nào gọi là ly hệ? Đáp: Là trạch diệt. Hai lời đáp như thế lại cùng dựa vào nhau. Ở đây, tự tánh đã hết, không thể hiển bày, tức nên có môn khác để mở bày làm rõ tự tánh. Tự tánh của pháp này là thật có ly ngôn, chỉ các Thánh giả mới đều riêng nội chứng. Chỉ có thể dùng phương tiện theo tướng chung để nói: Là thiện là thường, riêng có vật thật gọi là trạch diệt cũng gọi là ly hệ. Sư Kinh Bộ nói: Tất cả pháp vô vi đều không phải là thật có như sắc thọ v.v… là vật thật riêng có. Đây là không có. Nếu vậy vì sao gọi là hư không v.v…? Chỉ không có đối tượng tiếp xúc gọi là hư không. Nghĩa là ở trong chỗ tối không có đối tượng xúc đối, nên nói như thế: Đây là hư không. Tùy miên đã khởi, sinh chủng diệt vị, do sức phân biệt lựa chọn, các thứ tùy miên khác không còn sinh nữa gọi là trạch diệt. Lìa sức phân biệt lựa chọn, do thiếu duyên nên các thứ tùy miên khác không còn sinh nữa, gọi là phi trạch diệt. Như uẩn còn lại của kẻ mạng yểu trong chúng đồng phần còn sót lại. Sư Bộ khác cho: Do công năng của tuệ khiến tùy miên không sinh, gọi là trạch diệt. Duyên của tùy miên thiếu khiến khổ sau không sinh, không do công năng của tuệ, gọi là phi trạch diệt. Lìa sức phân biệt lựa chọn, diệt này không thành, nên ở đây không sinh tức thuộc về trạch diệt. Có thuyết nêu: Các pháp sinh rồi, về sau không còn, tự nhiên diệt, nên gọi là phi trạch diệt. Chỗ chấp về phi trạch diệt như thế, Thể nên là vô thường, vì chưa diệt vô, há chẳng phải trạch diệt. Trạch là trước. Trước không sau có nên cũng là vô thường. Phi trạch là trước mới có trạch diệt. Vì sao cho trạch diệt cũng là vô thường? Sở dĩ như thế, vì không phải trước có trạch (Lựa chọn) sau chưa sinh pháp mới có không sinh. Vì sao? Vì không sinh tức xưa nay tự có. Nếu không phân biệt lựa chọn thì các pháp nên sinh. Đã phân biệt lựa chọn pháp lúc sinh thì vĩnh viễn không khởi. Ở đây không phải là trạch có công năng. Nghĩa là ở nơi lúc trước chưa có sinh chướng ngại, nay vì sinh chướng ngại, không phải là tạo không sinh. Nếu chỉ không sinh là Niết-bàn, thì văn cú của kinh này làm sao thông hợp? Kinh nói: Năm căn hoặc tu hoặc tập, hoặc tu tập nhiều, có thể khiến cho các khổ của quá khứ vị lai hiện tại vĩnh viễn đoạn dứt. Ở đây, Thể của vĩnh viễn đoạn dứt tức là Niết-bàn. Chỉ ở nơi vị lai có nghĩa không sinh, không phải ở nơi quá khứ hiện tại. Há chẳng phải cùng trái nhau? Tuy có văn ấy nhưng nghĩa không trái. Kinh này ý nói: Duyên nơi khổ của quá khứ hiện tại thì phiền não đoạn dứt, nên gọi là các khổ đoạn dứt. Như Đức Thế Tôn nói: Các ông ở nơi sắc nên đoạn trừ tham dục. Lúc tham dục đoạn trừ liền gọi là sắc đoạn trừ, cùng sắc nhận biết khắp. Nói rộng cho đến thức cũng như thế. Khổ của quá khứ hiện tại đoạn trừ, nghĩa cũng nên như vậy. Nếu như có kinh khác nói đoạn trừ các thứ phiền não của quá khứ vị lai hiện tại: Thì căn cứ theo lý đã giải thích ở trước, nghĩa cũng không hợp. Hoặc trong kinh này riêng có ý sâu xa. Phiền não quá khứ: Nghĩa là phiền não của quá khứ sinh đã khởi. Phiền não hiện tại: Nghĩa là phiền não của hiện tại sinh đã khởi. Như trong ái hành có mười tám ái hành. Đời quá khứ khởi: Là dựa nơi quá khứ sinh để nói, vị lai hiện tại nên biết cũng như thế. Hai đời như vậy đã khởi phiền não, là sinh các phiền não vị lai. Tức ở nơi sự nối tiếp của hiện tại dẫn khởi chủng tử, do chủng tử này đã đoạn nên phiền não kia cũng gọi là đoạn. Như lúc dị thục hết cũng gọi là nghiệp hết. Các khổ của vị lai cùng các phiền não do không còn chủng tử nên hoàn toàn không sinh, được gọi là đoạn trừ. Nếu khác với đây thì quá khứ hiện tại do đâu cần đoạn? Không phải ở nơi thời gian đã diệt cùng đang diệt cần phải gắng sức khó nhọc để khiến chúng diệt. Nếu pháp vô vi về Thể đều là không, thì do đâu kinh nói các pháp là hiện có? Nếu các pháp hữu vi hoặc các pháp vô vi, trong ấy lìa nhiễm là quan trọng bậc nhất thì sao không pháp nào có thể ở trong đó lập làm đệ nhất? Tôi cũng không nói các pháp vô vi về Thể đều là không, chỉ nên như tôi đã nói mà có. Như nói: Tiếng có này, trước không phải là có. Sau có không phải là có. Không thể không phải là có nói là có, nên nghĩa có được thành. Nói có vô vi, nên biết cũng như thế. Có tuy không phải là có nhưng có thể xưng tán nên các tai họa ngang trái hoàn toàn không có, gọi là lìa nhiễm. Ở đây, trong tất cả có thì không phải là có là thù thắng nhất. Vì khiến cho đối tượng được hóa độ sinh khởi vui thích sâu xa. Thế nên xưng tán đấy là đệ nhất. Nếu pháp vô vi chính là không phải là có: Do không tức không nên gọi là diệt Thánh đế. Lại như nói Thánh đế về nghĩa là thế nào? Há không phải như ở đây nói thuộc nơi nghĩa không điên đảo? Thánh thấy có không đều không điên đảo. Nghĩa là Thánh ở nơi khổ thấy chỉ là khổ. Ở nơi khổ không phải là có, thấy chỉ không phải là có. Ở đây, đối với nghĩa của Thánh đế có trái nghịch gì? Vì sao không phải là có mà có thể lập làm Thánh đế thứ ba? Nơi vô gián thứ hai, Thánh thấy cùng nêu bày nên thành thứ ba. Nếu pháp vô vi, về Thể chỉ là không, thì thức của Niết-bàn không tức nên duyên nơi không cảnh. Duyên này không cảnh cũng không có lỗi. Biện về khứ lai tức nên xét chọn rộng. Nếu cho vô vi riêng có Thể thật thì nên có lỗi gì? Lại có đức gì? Thừa nhận tức ủng hộ Tông Tỳ-bà-sa, đó gọi là đức. Nếu có thể ủng hộ thì thiên thần nhất định nhận biết tự sẽ ủng hộ. Nhưng thừa nhận thật có để làm rõ chỉ là kiến chấp hư vọng, đó gọi là lỗi. Vì sao? Vì Thể này không phải là có, có thể thủ đắc như sắc thọ v.v… Cũng không phải là có dụng có thể đạt được như mắt, tai v.v… Lại, nếu là riêng có, vì sao có thể lập sự kia là diệt? Chuyển thanh thứ sáu, do diệt cùng với sự không phải là đều cùng thuộc về nhau. Đây kia cùng hướng về nhau không phải là nhân quả. Chỉ ngăn chận sự kia, nên thứ sáu có thể thành. Sự kia đã không có gọi là diệt. Diệt tuy có riêng nhưng do sự kia, nên lúc Hoặc được đoạn trừ mới đắc diệt này, tức có thể nói diệt này thuộc nơi sự kia. Do đâu diệt này nhất định thuộc nơi đắc ở đây? Như Khế kinh nói: Bí-sô đạt được Niết-bàn hiện pháp, vì sao không phải là có để có thể nói là đạt được? Do đắc đối trị liền đạt được hoàn toàn trái với phiền não, là chỗ dựa nơi thân của hữu sau, nên gọi là đắc Niết-bàn. Lại có Thánh giáo có thể hiển bày Niết-bàn chỉ do không phải là có làm tự tánh. Nghĩa là như Khế kinh nói: Các khổ hiện có đều đoạn trừ trọn vẹn, đều riêng trừ bỏ, lìa hết nhiễm diệt, tĩnh dứt hoàn toàn. Các khổ còn lại không nối tiếp không nhận lấy không sinh. Đây là hết sức tĩnh lặng, vô cùng tốt đẹp. Nghĩa là xả bỏ các thứ nương dựa cùng tất cả ái, lìa hết nhiễm dứt gọi là Niết-bàn. Vì sao không cho nói là chẳng sinh? Do dựa nơi không sinh này nên nói là chẳng sinh. Chúng ta thấy chuyển thanh thứ bảy này, ở nơi chứng diệt là có nhưng đều không công sức. Do ý gì nên nói là dựa nơi không sinh ấy? Nếu dựa vào lời ấy cho là thuộc về nghĩa đã có, nên vốn không sinh, tức Niết-bàn là thường. Nếu dựa vào lời ấy, là thuộc về nghĩa đã được, tức là nên thừa nhận dựa nơi đạo đạt được. Nên chỉ dựa nơi đạo, hoặc dựa nơi đạo đạt được khiến khổ không sinh. Ông nên tin nhận. Do ở đây khéo giải thích, như kinh nói dụ: Như ánh sáng của đèn, Niết-bàn nơi tâm giải thoát cũng vậy. Kinh này ý nói: Như ngọn đèn, Niết-bàn chỉ là ánh sáng của đèn đã tắt không riêng có vật. Như vậy, tâm của Đức Thế Tôn được giải thoát, chỉ là các uẩn diệt lại không hiện có. A-tỳ-đạt-ma cũng nói: Thế nào là pháp vô sự? Nghĩa là các pháp vô vi. Nói vô sự: Nghĩa là không có thể tánh. Sư Tỳ-bàsa không thừa nhận giải thích này. Nếu thế thì các Sư kia giải thích nghĩa của sự là thế nào? Sư kia nói: Sự, lược có năm thứ. (1) Sự tự tánh. Như có xứ nói: Nếu đã được sự này thì người kia thành tựu sự ấy. (2) Sự đối tượng duyên. Như có xứ nói: Tất cả đối tượng nhận biết của pháp trí là tùy theo sự kia. (3) Sự trói buộc. Như có xứ nói: Nếu ở nơi sự này kiết ái đã trói buộc, thì người kia ở nơi sự ấy cũng bị kiết sân trói buộc chăng? (4) Sự đối tượng nhân. Như có xứ nói: Thế nào là pháp có sự? Nghĩa là các pháp hữu vi. (5) Sự được gồm thâu. Như có xứ nói: Sự ruộng đất, nhà cửa, sự vợ con v.v… Nay ở trong đây, nói nhân gọi là sự, là làm rõ về pháp vô vi đều không có nhân. Do vậy, vô vi tuy là vật (Pháp) có thật, nhưng thường không có dụng, nên không nhân không quả. Luận chung đã xong. Ở trong các quả, nên nói quả nào do nhân nào được?

* Tụng viết:

Nhân sau quả dị thục

Nhân trước quả tăng thượng

Đồng loại, biến đẳng lưu

Câu, tương ưng, sĩ dụng.

* Luận nêu: Nói nhân sau: Nghĩa là nhân dị thục, ở trong sáu nhân được nói sau cùng. Thứ nhất là quả dị thục, do nhân này đạt được. Nói nhân trước: Nghĩa là nhân năng tác, ở trong sáu nhân được nói trước tiên. Quả tăng thượng sau là do nhân này đạt được. Quả của tăng thượng gọi là quả tăng thượng. Chỉ không trụ nơi chướng thì có tăng thượng gì? Tức do không chướng ngại nên được mang tên là tăng thượng. Hoặc nhân năng tác cũng có lực hơn hẳn. Như mười xứ giới đối với năm thức thân. Nghiệp của các hữu tình đối với khí thế giới. Tai v.v… đối với nhãn thức sinh v.v… cũng có lực tăng thượng lần lượt sinh. Nghe rồi liền sinh vui thích thấy dục v.v… Những thứ tăng thượng ấy như chỗ ứng hợp nên suy xét. Nhân đồng loại, biến hành được quả đẳng lưu. Quả của hai nhân này đều giống với nhân. Nhân câu hữu, tương ưng được quả sĩ dụng. Không phải vượt bỏ Thể của sĩ phu mà có riêng sĩ dụng. Tức chỗ đạt được này gọi là quả sĩ dụng. Sĩ dụng này gọi là nêu rõ về pháp nào? Tức nêu rõ về tác dụng hiện có của các pháp. Như sĩ dụng (Tác dụng của sĩ phu) nên được mang tên là sĩ dụng. Như nơi thế gian nói: Chân quạ, cỏ thuốc, voi say, tướng quân. Do chỉ hai thứ nhân ấy là có quả sĩ dụng, hay là thứ khác cũng thế. Có thuyết nói: Nhân khác cũng có quả này, chỉ trừ nhân dị thục. Do quả sĩ dụng cùng với nhân cùng sinh, hoặc là vô gián sinh. Dị thục thì không như vậy. Có Sư khác nói: Nhân dị thục này cũng có cách vượt xa đối với quả sĩ dụng. Ví như nông phu đã thu hoạch quả thật. Các quả như dị thục về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Dị thục pháp vô ký

Hữu tình hữu ký sinh

Đẳng lưu giống tự nhân

Ly hệ do tuệ tận.

Hoặc nhân lực kia sinh

Quả ấy gọi sĩ dụng

Pháp hữu vi trước khác

Hữu vi quả tăng thượng.

* Luận nêu: Chỉ ở trong pháp vô phú vô ký có quả dị thục. Vì quả này cũng chung nơi số phi hữu tình. Chỉ giới hạn nơi hữu tình là chung cho đẳng lưu cùng được nuôi lớn, nên biết chỉ là hữu ký sinh ra. Tất cả pháp hữu lậu bất thiện và thiện có thể ghi nhận (Ký) về dị thục nên gọi là hữu ký. Trừ pháp kia, thời gian sau dị thục mới khởi, không phải cùng là vô gián, gọi là hữu ký sinh. Như thế gọi là tướng của quả dị thục. Không phải là số hữu tình nhưng cũng là từ nghiệp sinh, sao không phải là dị thục? Do là cùng có. Nghĩa là thứ khác cũng có thể thọ dụng như thế. Phàm là quả dị thục tất không có nghĩa có thể dùng thọ dụng. Không phải thứ khác tạo nghiệp, thứ khác có thể nhân đấy thọ nhận quả dị thục. Quả tăng thượng kia cũng do nghiệp sinh, sao được cùng thọ nhận? Vì là cộng nghiệp sinh. Giống với pháp của tự nhân gọi là quả đẳng lưu. Nghĩa là giống với hai nhân đồng loại và biến hành. Nếu nhân biến hành cũng được quả đẳng lưu thì sao không cho nhân này tức là nhân đồng loại? Vì quả này chỉ do địa cùng nhiễm ô nên so với nhân là tương tợ, không do chủng loại. Nếu do chủng loại thì quả cũng giống với nhân. Quả này là đối tượng nhân của nhân kia mới gọi là đồng loại. Nên nêu câu hỏi: Nếu là nhân đồng loại thì cũng là nhân biến hành chăng? Tức tạo ra bốn trường hợp: (1) Không phải pháp biến hành là nhân đồng loại. (2) Pháp biến hành của bộ khác là nhân biến hành.

(3) Pháp biến hành của tự bộ là nhân biến hành. (4) Trừ các tướng đã nêu trước.

Do tuệ tận pháp gọi là quả ly hệ. Diệt nên gọi là tận. Trạch nên gọi là tuệ. Tức nói trạch diệt gọi là quả ly hệ. Nếu pháp nhân nơi thế mạnh kia sinh khởi tức nói pháp này gọi là quả sĩ dụng. Như nhân nơi sức của tâm gia hạnh thuộc địa dưới, thì hữu lậu vô lậu của địa trên nhất định sinh. Cùng nhân nơi sức của tâm tĩnh lự thanh tịnh, tâm biến hóa sinh. Các loại trạch diệt như thế nên gọi là do đạo lực đạt được. Các pháp hữu vi, trừ đã sinh trước, hữu vi còn lại là quả tăng thượng. Hai quả sĩ dụng và tăng thượng khác nhau như thế nào? Quả sĩ dụng gọi là chỉ đối nơi người tạo tác. Quả tăng thượng gọi là đối chung với các thứ khác ở đây. Như đối tượng tạo thành của người thợ đối với chủ thể tạo thành là người thợ. Tức được mang tên đủ là quả sĩ dụng, quả tăng thượng. Nếu đối với các thứ khác không phải là người thợ thì chỉ là quả tăng thượng.

Ở trên đã nói về sáu thứ nhân. Trong ấy, vị nào nơi nhân nào nhận quả và cho quả?

* Tụng viết:

Năm nhận quả chỉ hiện

Hai cho quả cũng thế

Quả hiện cho hai nhân

Một cho chỉ quá khứ.

* Luận nêu: Năm nhận quả chỉ ở nơi hiện tại, định rõ không phải là quá khứ, do quá khứ đã nhận rồi. Cũng không phải vị lai, vì vị lai không có dụng. Cũng nên nói như thế này: Nhân năng tác không nhất định có quả nên ở đây không nói. Nhân câu hữu, tương ưng cho quả cũng như thế, chỉ ở nơi hiện tại. Do hai nhân này nhận quả cho quả tất cùng thời. Hai nhân đồng loại, biến hành cho quả chung nơi quá khứ hiện tại. Quá khứ đúng là như thế, còn vì sao là hiện tại? Vì ở hiện tại có cùng với quả đẳng lưu có quả đẳng lưu vô gián sinh. Nếu quả đã sinh thì nhân thành quá khứ, gọi là đã cho quả, không nên cho nữa. Nhân đồng loại thiện có lúc nhận quả nhưng không cho quả nên nêu ra bốn trường hợp. (1) Nghĩa là lúc đoạn căn thiện, xả bỏ sau cùng là được. (2) Là lúc căn thiện nối tiếp, đầu tiên đạt được là được. Nên nói bấy giờ nối tiếp với trước nên được. (3) Là căn thiện không đoạn, ở nơi các phần vị còn lại. (4) Là trừ các tướng đã nêu trước.

Lại, ở trong nhân đồng loại bất thiện cũng có bốn trường hợp. (1) Là lúc lìa dục tham, xả bỏ sau cùng là được. (2) Là lúc thoái chuyển dục tham, đầu tiên đạt được là được. Nên nói bấy giờ thoái chuyển trước nên được. (3) Là chưa lìa dục tham, ở nơi các phần vị còn lại. (4) Là trừ các tướng đã nêu trước.

Trong nhân đồng loại hữu phú vô ký: Cũng có bốn trường hợp. Đối với A-la-hán, lúc đắc lúc thoái, chưa đắc cùng phần còn lại, như lý nên nói. Nơi nhân đồng loại vô phú vô ký, có thuận với trường hợp sau: Nghĩa là lúc cho quả tất cũng nhận quả. Hoặc lúc nhận quả nhưng không cho quả. Nghĩa là các uẩn sau cùng của A-la-hán, căn cứ theo sát-na sai biệt nơi đối tượng duyên hiện có. Nhân đồng loại thiện cũng có bốn trường hợp. (1) Là tâm thiện vô gián khởi tâm nhiễm và vô ký. (2) Là cùng với trên trái nhau. (3) Là tâm thiện vô gián trở lại khởi tâm thiện. (4) Là trừ các tướng nêu trước.

Tâm bất thiện v.v… như chỗ thích hợp, cũng có bốn trường hợp. Căn cứ theo chỗ đối chiếu nên nói. Nhận quả cho quả về nghĩa là thế nào? Có thể làm chủng loại kia nên gọi là nhận quả. Đang cùng với lực kia nên gọi là cho quả. Dị thục cho quả chỉ ở nơi quá khứ do quả dị thục không cùng với nhân kết hợp và vô gián. Lại có Sư khác nói: Ngoài năm quả trước, riêng nói về bốn quả. (1) Là quả an lập. Nghĩa là như thủy luân là quả của phong luân, cho đến cỏ v.v… là quả của đại địa. (2) Là quả gia hạnh. Như vô sinh trí về xa là quả của quán bất tịnh. (3) Là quả hòa hợp. Như nhãn thức là quả của nhãn thức. (4) Là quả tu tập. Là như tâm biến hóa v.v… là quả của các tĩnh lự. Bốn quả như thế đều là thuộc về quả sĩ dụng, quả tăng thượng. Nói về nhân quả rồi lại nên xét chọn. Ở đây, pháp gì, có bao nhiêu nhân đã sinh? Pháp lược có bốn: Nghĩa là pháp nhiễm ô, pháp dị thục sinh, pháp vô lậu đầu tiên, pháp còn lại ngoài ba pháp kia. Pháp còn lại là gì? Nghĩa là trừ dị thục, còn lại là pháp vô ký. Trừ vô lậu đầu tiên, còn lại là các pháp thiện. Bốn pháp là như thế.

* Tụng viết:

Nhiễm ô dị thục sinh

Còn đầu Thánh như tiếp

Trừ dị thục biến hai

Cùng đồng loại, còn sinh

Đây là tâm tâm sở

Còn cùng trừ tương ưng.

* Luận nêu: Các pháp nhiễm ô, trừ nhân dị thục, năm nhân còn lại sinh. Pháp dị thục sinh, trừ nhân biến hành, năm nhân còn lại sinh. Pháp còn lại ngoài ba pháp kia: Cùng trừ hai nhân dị thục, biến hành, bốn nhân còn lại sinh. Pháp vô lậu đầu tiên: Cùng trừ hai nhân trước và nhân đồng loại, ba nhân còn lại sinh. Bốn pháp như thế là nói về những gì? Nghĩa là tâm, tâm sở, tâm bất tương ưng hành cùng sắc là bốn pháp. Lại do bao nhiêu nhân sinh? Như tâm tâm sở là ngoài nhân còn lại và trừ nhân tương ưng. Nên biết các pháp khác, là từ bốn, ba, hai nhân còn lại sinh. Ở đây, pháp nhiễm ô, pháp dị thục sinh, là bốn nhân còn lại sinh. Pháp còn lại ngoài ba pháp kia: Do ba nhân còn lại sinh. Pháp vô lậu đầu tiên: Do hai nhân còn lại sinh. Pháp do một nhân sinh quyết định là không có.

HẾT – QUYỂN 6