LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 25

Phẩm thứ 6: PHÂN BIỆT HIỀN THÁNH, phần 4

Như trước đã nêu: Ứng quả (A-la-hán) thuộc loại bất động, trước có tận trí, sau khởi vô sinh trí. Như vậy các A-la-hán, như bậc Dự lưu v.v… là có sai biệt chăng? Cũng có. Là thế nào?

* Tụng viết:

A-la-hán có sáu

Là thoái đến bất động

Năm trước Tín giải sinh

Gọi chung Thời giải thoát.

Sau: Bất thời giải thoát

Từ Kiến chí trước sinh.

* Luận nêu: Ở trong Khế kinh nói A-la-hán do chủng tánh dị biệt nên có sáu loại: (1) Pháp Thoái. (2) Pháp Tư. (3) Pháp Hộ. (4) Pháp An trụ. (5) Pháp Gắng đạt. (6) Pháp Bất động. Trong sáu loại này thì năm loại trước là từ tánh của học vị Tín giải trước sinh. Tức năm loại này gọi là chung là Thời ái tâm giải thoát. Là luôn luôn ái hộ cùng tâm giải thoát. Cũng gọi là Thời giải thoát: Là do cần đợi thời cùng giải thoát. Lược bỏ từ đầu (Đãi: Đợi). Cũng như nói: Bình bơ, là chỉ cho bình đựng bơ. Do loại A-la-hán này phải đợi thời mới có thể nhập định. Nghĩa là đợi các thắng duyên như các vật dụng nuôi sống, nơi chốn không bệnh tật v.v…, hợp thời thì mới nhập định – tánh của pháp bất động gọi là sau. Tức vị A-la-hán này gọi là bất động tâm giải thoát, do không nghiêng động, không thoái chuyển cùng tâm giải thoát. Cũng được gọi là bất thời giải thoát, do không đợi thời cùng giải thoát. Nghĩa là Tam-ma-địa tùy theo ý muốn luôn hiện tiền, không chờ đợi thời có thắng duyên hòa hợp. Hoặc dựa vào giải thoát tạm thời, giải thoát rốt ráo để kiến lập danh hiệu Thời giải thoát, Bất thời giải thoát, do có thể có thời thoái đọa không có thời thoái đọa. Vị A-la-hán này từ tánh của học vị Kiến chí sinh.

Như thế là đã nêu rõ về chủng tánh hiện có của sáu loại A-lahán. Chủng tánh ấy là trước đã có hay là sau mới đạt được? Không nhất định. Là thế nào?

* Tụng viết:

Có trước là chủng tánh

Có sau luyện căn được.

* Luận nêu: Chủng tánh pháp Thoái tất là trước có, năm loại như pháp Tư v.v… thì cũng có sau đạt được. Nghĩa là có từ trước đến giờ là tánh của pháp Tư. Có trước là tánh của pháp Thoái, sau do luyện căn thành tư. Cho đến pháp Bất động, theo chỗ ứng hợp nên nói cũng thế. Nói pháp Thoái: Tức là loại A-la-hán gặp phải duyên thiếu liền thoái chuyển pháp đã đắc. Không phải là pháp Tư v.v… Nói pháp Tư: Nghĩa là do lo sợ về thoái thất nên luôn tư duy về việc tự hại. Nói pháp Hộ: Tức là đối với pháp đã chứng đắc thì hoan hỷ, luôn tự phòng hộ. Pháp An trụ: Là nếu lìa các duyên thoái chuyển mạnh mẽ, tuy không tự phòng hộ, cũng không thể thoái thất, lìa gia hạnh thù thắng cũng không tăng tiến. Pháp Gắng đạt: Tức tánh của loại A-la-hán này có thể gắng sức, ưa thích tu luyện căn, mau đạt pháp bất động. Pháp Bất động: Loại A-la-hán này tất không thoái chuyển.

Sáu chủng tánh này, trước ở trong vị hữu học, hai loại đầu là thiếu sự liên tục cùng tôn trọng gia hạnh, do căn có khác nên có sai biệt. Loại thứ ba chỉ có liên tục gia hạnh. Loại thứ tư chỉ có tôn trọng gia hạnh. Loại thứ năm thì có đủ hai thứ vừa nêu nhưng là độn căn. Loại thứ sáu là lợi căn và gồm đủ hai thứ gia hạnh. Chủng tánh pháp Thoái không phải tất định thoái chuyển, cho đến chủng tánh pháp Gắng đạt không phải tất có thể đạt đến bất động. Chỉ căn cứ theo tính chất có thể để kiến lập các danh hiệu ấy. Thế nên sáu loại A-la-hán là chung nơi ba cõi đều có. Nếu cho A-la-hán pháp Thoái nhất định phải thoái chuyển, cho đến A-la-hán pháp Gắng đạt tất có thể đạt đến bất động, theo chủ trương ấy thì: Nơi cõi dục là có đủ sáu loại A-lahán. Trong cõi sắc, cõi vô sắc chỉ có hai loại là pháp An trụ và pháp Bất động. Do nơi hai cõi kia không có thoái thất, không có tự hại, tự phòng hộ cùng tu luyện căn, nên chỉ có hai loại như đã nói.

Nơi sáu loại A-la-hán như vậy, loại nào từ đâu thoái chuyển, là từ tánh hay từ quả?

* Tụng viết:

Bốn từ chủng tánh thoái

Năm từ quả, không trước.

* Luận nêu: Chủng tánh bất động lý tất không thoái chuyển. Năm loại trước đều có nghĩa thoái chuyển, trong ấy, bốn loại sau là từ tánh thoái chuyển. Một loại pháp Thoái thì lý không có tánh thoái chuyển, do chủng tánh này là ở thấp nhất. Năm thứ đều có nghĩa từ quả thoái chuyển. Tuy cùng có thoái chuyển nhưng đều không phải là trước. Nghĩa là các Thánh giả vô học, trước ở trong vị hữu học đã trụ nơi chủng tánh. Chư Thánh giả kia, từ nơi chủng tánh này tất không có lý thoái chuyển. Do đạo hữu học, vô học đã thành tựu là kiên cố. Nếu các Thánh giả hữu học, trước ở trong phần vị phàm phu, đã trụ nơi chủng tánh, thì chư vị ấy từ nơi chủng tánh này cũng không có lý thoái chuyển. Do đạo thế tục và đạo xuất thế đã thành tựu là kiên cố. Nếu trụ nơi vị này, về sau tu luyện căn, đạt được bốn thứ chủng tánh như tư v.v…, thì chư vị kia, từ nơi chủng tánh ấy có thể có lý thoái thất. Trong hai vị trước, trụ nơi chủng tánh như tư v.v… tất cũng không có thoái thất quả đã được này. Chỉ có pháp Thoái ở trước là có nghĩa thoái thất quả. Lại cũng không có thoái thất quả trước đã được. Quả đạt được về sau thì có thể có nghĩa thoái thất. Vì vậy nhất định không có thoái thất quả Dự lưu. Do đấy nên quả thuộc loại A-la-hán pháp Thoái có ba: (1) Tăng tiến căn. (2) Thoái thất trở lại hàng hữu học. (3) Trụ nơi tự vị mà bát Niết-bàn. A-la-hán pháp thuộc pháp Tư có bốn: Tức ba trường hợp như trước, lại thêm một thứ là thoái thất, trở lại nơi hàng pháp Thoái. Ba loại A-la-hán còn lại, như thứ lớp có năm, sáu, bảy. Nên biết là càng về sau thì mỗi mỗi tăng. Bốn loại như pháp Tư v.v… lúc thoái thất trụ nơi vị học, trở lại trụ nơi pháp Thoái, không phải là pháp khác. Nếu khác với đây, thì khi được chủng tánh cao hơn, tức nên là tiến không phải là thoái.

Vì sao nhất định không có thoái thất từ quả trước tiên? Vì các phiền não do kiến đạo đoạn trừ không có chỗ dựa. Nghĩa là hữu thân kiến thì dựa nơi xứ ngã để chuyển. Nơi các Hoặc do kiến đạo đoạn thì kiến này là căn bản. Thể của ngã đã không, nên nói chỗ dựa là vô sự. Do vô sự nên tất là không có lý thoái thất.

Nếu như vậy thì nên nói các Hoặc này là không có đối tượng duyên chăng? Không phải. Chúng vẫn có cảnh là các đế, nhưng nơi các cảnh ấy, chúng duyên không đúng như thật. Trong các phiền não thì thứ gì là không như thế? Tuy đều như thế nhưng có sai biệt. Các Hoặc do tu đạo đoạn trừ đều có sự sai khác, tức là vừa ý không vừa ý v.v… nơi cảnh của đối tượng duyên. Tướng này không phải là không có. Các Hoặc do kiến đạo đoạn thì chấp có ngã v.v…, không phải cảnh của các đế có tướng như ngã v.v… Do vô sự nên cùng với các Hoặc do tu đạo đoạn có khác. Nghĩa là ở trong cảnh của đối tượng duyên như sắc v.v… vọng chấp ngã kiến tăng. Người tạo tác, người thọ nhận, tự tại chuyển. Không phải là tánh ngã thật. Biên chấp kiến v.v… theo đấy mà sinh. Nên đều nói là Hoặc dựa nơi vô sự. Nếu các Hoặc do tu đạo đoạn như tham sân mạn si, thì trong cảnh như sắc v.v… chỉ khởi nhiễm chấp tăng, với hành cao ngạo, chối bỏ, không hiểu rõ chuyển. Nên đều nói là Hoặc dựa nơi có sự. Lại, các Hoặc do kiến đạo đoạn, đối với lý của đế thì chấp ngã, ngã sở, đoạn kiến, thường kiến v.v… Không phải trong đế có một ít sự như ngã v.v… tham v.v… do kiến đạo đoạn, duyên nơi đấy mà sinh. Vì thế đều gọi là Hoặc dựa nơi vô sự. Các Hoặc do tu đạo đoạn, đối với sắc v.v… thì cho là tốt xấu v.v… Nhưng cảnh của sắc v.v… không phải là không có phần ít tốt xấu v.v… có khác nhau. Vì vậy có thể gọi là Hoặc dựa nơi có sự. Lại, các Hoặc do kiến đạo đoạn thì mê lầm nơi lý của đế dấy khởi, gọi là dựa nơi vô sự. Các Hoặc do tu đạo đoạn thì mê lầm nơi sự thô sinh khởi, gọi là dựa nơi có sự. Lý của đế là chân thật, sáng rõ, nên nhất định có thể dựa. Thánh tuệ đã chứng tất không có lý thoái thất. Tướng của sự thì hư hão không định để có thể nương dựa. Đoạn trừ mê lầm nơi Hoặc kia, có khi mất niệm thoái chuyển. Hoặc là các Hoặc do tu đạo đoạn là từ không suy xét kỹ sinh, vì tánh là chậm, tối. Các Hoặc do kiến đạo đoạn thì do suy xét kỹ sinh, vì tánh là suy lường. Thánh giả không suy xét kỹ, ở trong sự thô bị mất niệm nên Hoặc sinh. Suy xét kỹ thì không như vậy. Như đối với sợi dây v.v… đột nhiên cho là con rắn. Thế nên đối với Hoặc do tu đạo đoạn, Thánh giả có khởi thoái thất. Không phải là đột nhiên có thể khởi đối với Hoặc do kiến đạo đoạn. Vì Thánh giả nếu suy xét kỹ liền thấy lý của đế. Vậy nên Thánh giả đối với Hoặc do kiến đạo đoạn nhất định không có nghĩa thoái chuyển.

Các Sư Kinh Bộ nói: Từ quả vị A-la-hán cũng không có nghĩa thoái chuyển. Thuyết ấy là hợp lý. Vì sao nhận biết như thế? Là do giáo, lý nên nhận biết. Do giáo là thế nào? Tức như kinh nói: “Bí-sô dùng Thánh tuệ đoạn trừ Hoặc, gọi là thật sự đoạn trừ”. Lại, Khế kinh nói: “Ta nói là hàng hữu học tức nên không phóng dật, không phải là A-la-hán”. Hoặc có kinh nói: “Đức Phật nói với Tôn giả Khánh Hỷ: Ta nói các thứ lợi dưỡng v.v… cũng tạo chướng ngại đối với A-la-hán, nhưng không nói thoái thất quả A-la-hán, chỉ nói thoái thất nơi hiện pháp lạc trụ”. Lại như kinh nói: “Tâm bất động giải thoát, thân tác chứng, Ta nói nhất định không có nhân duyên từ đấy thoái chuyển”. Nếu cho là có thoái thất do kinh đã nói có “Thời ái giải thoát”, thì chúng tôi cũng thừa nhận như thế, chỉ nên quán xét về chỗ thoái thất kia là tánh của Ứng quả, hay là tĩnh lự v.v… Nhưng đẳng trì của tĩnh lự căn bản ấy chủ yếu là phải đợi thời hiện tiền, nên gọi là thời giải thoát. Thánh giả kia vì đạt được hiện pháp lạc trụ, thường mong hiện tiền nên gọi là ái. Có thuyết cho: Định này là đã ái vị. Các quả A-la-hán tánh là giải thoát luôn gắn liền, tức không nên gọi là thời. Lại không vui cầu nên không gọi là ái. Nếu tánh của Ứng quả có thể có thoái thất, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói hiện pháp lạc trụ đã chứng đắc là có thể có lý thoái thất. Do đấy chứng biết, các quả A-la-hán tánh là giải thoát tất là bất động. Nhưng do lợi dưỡng v.v… làm nhiễu loạn khiến có lỗi lầm, nên đối với hiện pháp lạc trụ đã thoái thất mọi thứ tự tại. Nghĩa là các hàng độn căn, nếu là chư vị lợi căn thì không có thoái thất.

Do ở nơi hiện pháp lạc trụ đã đạt được, có thoái thất không thoái thất, nên gọi là pháp thoái, pháp không thoái. Như vậy, pháp Tư v.v… như lý nên suy xét.

Vậy pháp Không thoái, An trụ và Bất động có sai biệt gì? Không do luyện căn đạt được gọi là không thoái. Do luyện căn đạt được gọi là bất động. Hai loại này đã khởi đẳng chí thù thắng, nếu như gặp duyên thoái thất, cũng không có lý thoái chuyển. Pháp An trụ thì chỉ ở nơi các thắng đức đã trụ, có thể không thoái thất, nhưng không thể lại dẫn sinh thắng đức khác. Nếu lại dẫn sinh thắng đức khác thì từ đấy có thể thoái. Đó là những sai biệt của ba pháp Không thoái, An trụ, Bất động. Tuy nhiên, trường hợp Kiều-để-ca ngày xưa, ở nơi vị hữu học đối với thời giải thoát là rất tham vị, lại do độn căn nên thường xuyên thoái thất, tự mình chán ghét sâu xa nên dùng dao tự hại. Do đối với thân mạng không chút luyến tiếc, tức khi sắp mạng chung đắc A-la-hán, liền bát Niết-bàn. Thế nên Kiều-để-ca cũng không thoái thất quả A-la-hán. Lại như Kinh Tăng Thập nói: “Có một pháp nên khởi, nghĩa là thời ái tâm giải thoát. Có một pháp nên chứng đắc, nghĩa là bất động tâm giải thoát”. Nếu tánh của Ứng quả gọi là thời ái tâm giải thoát, thì vì sao ở trong Kinh Tăng Thập này lại nói là Ứng quả? Lại, từng không có xứ nào nói quả A-la-hán gọi là nên khởi, chỉ nói là nên chứng? Lại nói do thuộc về hàng độn căn nên Ứng quả gọi là nên khởi, thì ở đây là làm rõ về nghĩa gì? Nếu cho là làm rõ về nghĩa vị kia “Có thể khởi” hiện tiền, thì hàng lợi căn còn lại cũng rất nên là có thể khởi. Nếu cho là nhằm làm rõ về nghĩa vị kia “Nên khởi” hiện tiền, thì chư vị lợi căn khác cũng đều rất “Nên khởi”. Vì thế thời giải thoát không phải là tánh của Ứng quả.

Nếu vậy thì vì sao nói A-la-hán thời giải thoát? Nghĩa là do có A-la-hán căn tánh trì độn nên cần phải đợi thời thì định mới hiện tiền. Nếu cùng với hàng độn căn kia trái nhau thì gọi là bất thời giải thoát.

A-tỳ-đạt-ma cũng nói: Tùy miên dục tham do ba xứ khởi: (1) Tùy miên dục tham chưa được đoạn trừ, nhận biết khắp. (2) Thuận theo pháp triền kia đang hiện tiền. (3) Tác ý phi lý đối với tùy miên kia đang khởi. Nếu cho tùy miên kia là căn cứ theo đủ nhân sinh khởi để nói. Nhưng lại có pháp nào nhân không đủ mà sinh? Đó gọi là do giáo. Do lý là thế nào? Nếu A-la-hán có đạo đối trị đã sinh khiến các phiền não hoàn toàn không khởi. Tức là không nên nói A-la-hán đã thoái thất do khởi phiền não. Nếu A-la-hán đối với đạo ấy chưa sinh thì chưa thể vĩnh viễn nhổ hết chủng từ của các phiền não, tức nên không phải là lậu tận. Nếu không phải là lậu tận thì sao nói là A-lahán? Đó gọi là do lý chứng. Nếu thế thì nên giải thích thế nào về Khế kinh Thán Dụ? Như kinh ấy nói: “Các Thánh đệ tử đa văn hoặc hành hoặc trụ, có nơi có lúc mất niệm nên sinh giác (Tầm) ác bất thiện”. Kinh này chỉ nói quả A-la-hán. Do kinh này nói “Thánh đệ tử kia, tâm ở nơi đêm dài sinh tử, luôn tùy thuận xa lìa. Nói rộng cho đến sắp nhập Niết-bàn”. Trong Khế kinh khác cũng có nói về sự tùy thuận xa lìa này, gọi là lực của Ứng quả. Lại, nơi kinh này còn nói: “Thánh đệ tử đa văn kia, đối với tất cả pháp thuận theo lậu đã có thể hoàn toàn tẩy sạch, nên được trong mát”. Do đó, nhất định biết đấy là A-la-hán.

Thật sự đoạn kinh sau đã nói là A-la-hán. Nhưng chư vị ấy, cho đến vào lúc hành trụ, chưa khéo thông đạt nên có các sự việc như thế. Nghĩa là các vị hữu học, nơi lúc hành trụ do mất niệm nên có thể khởi phiền não. Sau thành bậc vô học thì không còn khởi nữa. Trước là dựa nơi vị hữu học, nên chỗ nêu bày kia không có lỗi. Sư Tỳ-bà-sa nhất định cho: Quả A-la-hán cũng có nghĩa thoái thất.

Chỉ chủng tánh của A-la-hán là có sáu loại, hay là các hàng Thánh giả khác cũng có sáu chủng tánh như thế? Nếu có thì đều có tu luyện căn chăng?

* Tụng viết:

Học phàm phu cũng sáu

Luyện căn không kiến đạo.

* Luận nêu: Hữu học, phàm phu, về chủng tánh cũng có sáu. Sáu chủng tánh A-la-hán là có từ các chủng tánh kia. Nhưng nơi vị kiến đạo tất không có luyện căn. Do nơi vị này không thể khởi gia hạnh. Chỉ ở trong một vị Tín giải, phàm phu thì có thể tu luyện căn, như nơi vị vô học. Như Khế kinh nói: “Ta nói do tâm tăng thượng của bốn thứ hiện pháp lạc trụ đã chứng đắc ấy, tùy một thứ đều có thoái thất. Nhưng bất động tâm giải thoát thân tác chứng, thì Ta quyết định nói là không có nhân duyên từ đấy thoái thất”.

Vì sao A-la-hán pháp bất động thoái thất hiện pháp lạc trụ?

* Tụng viết:

Nên biết thoái có ba

Đã, chưa đắc thọ dụng

Phật chỉ có loại cuối

Lợi giữa sau, độn ba.

* Luận nêu: Nên biết các thứ thoái thất gồm có ba loại: * (1) Thoái thất pháp đã được. Nghĩa là thoái thất các công đức thù thắng đã đạt được. (2) Thoái thất pháp chưa được. Nghĩa là chưa có thể đạt được công đức thù thắng. (3) Thoái thất các pháp thọ dụng. Nghĩa là các công đức thù thắng đã đạt được không còn hiện tiền. Trong ba thứ này, Đức Thế Tôn chỉ có một loại là thoái chuyển các pháp thọ dụng. Do gồm đủ các đức, nên không thể trong một thời tức thì hiện tiền. A-la-hán pháp bất động thì có hai thứ thoái thất giữa (Thoái thất pháp chưa được) và sau (Thoái thất pháp thọ dụng). Tức cũng do đối với các công đức thù thắng hơn mình đều chưa đạt được. Năm chủng tánh còn lại đều có đủ cả ba thứ. Tức cũng có thể thoái thất công đức đã đạt được.

Căn cứ theo sự thoái thất pháp thọ dụng nên nói A-la-hán pháp bất động có thoái thất hiện pháp lạc, là không có lỗi mâu thuẫn. Luận giả chủ trương không có thoái thất nói như thế này: Các thứ giải thoát vô lậu đều gọi là bất động. Nhưng lập riêng pháp thứ sáu là bất động, như trước đã giải thích rõ. Vậy không nên nêu vấn nạn.

Các A-la-hán đã cho là thoái thất quả là có sinh lại không? Lúc chư vị trụ nơi quả đã không làm các sự việc thì khi thoái thất có làm không? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Tất cả từ quả thoái

Tất được không mạng chung

Trụ quả đã không làm

Hổ tăng nên không tạo.

* Luận nêu: Không có trong khoảng từ quả thoái thất mà mạng chung. Thoái thất rồi thì trong chốc lát tất trở lại được. Như Khế kinh nói: “Bí-sô nên biết! Các Thánh đệ tử đa văn như thế thoái mất chánh niệm, nhưng lại mau chóng có thể khiến sự thoái thất kia hoàn toàn mất hết, diệt hết”. Nếu cho là không như vậy, thì quả của sự việc tu trì phạm hạnh không còn là xứ an ổn để tin tưởng. Lại, trụ nơi vị quả đã không thể làm những sự việc trái với quả, thì do hổ thẹn tăng, nên khi tạm thời thoái thất, tất cũng không tạo. Ví như tráng sĩ tuy bị nghiêng động nhưng không té ngã.

Như trên đã nêu: Có trường hợp chư vị hữu học vô học luyện căn đạt được chủng tánh cao hơn. Như vậy vào lúc đang luyện căn đều có bao nhiêu đạo vô gián, đạo giải thoát? Thuộc về tánh gì? Dựa vào gì?

* Tụng viết:

Vị vô học luyện căn

Chín vô gián, giải thoát

Tập lâu nên học một

Vô lậu dựa người ba.

Vô học dựa chín địa

Hữu học chỉ dựa sáu

Bỏ quả, đạo quả thắng

Chỉ đạt được đạo quả.

* Luận nêu: Thánh giả cầu đạt chủng tánh cao hơn, tu luyện căn, thì trong vị vô học chuyển mỗi mỗi tánh đều có chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Như đắc Ứng quả. Vì sao? Do chư vị kia là hàng độn căn, phải thường xuyên hành tập lâu, không phải thiếu công sức mà có thể khiến chuyển. Do đạo học vô học đã thành là kiên cố. Nơi vị hữu học thì chuyển mỗi mỗi tánh đều có một đạo vô gián, một đạo giải thoát. Như đắc quả thứ nhất. Là cùng trái với trên. Do các phần vị của đạo gia hạnh nơi chư vị kia đều là một. Đạo vô gián và đạo giải thoát như thế, tất cả chỉ thuộc về tánh vô lậu. Thánh giả về lý tất không dùng đạo hữu lậu để chuyển căn, vì đấy không phải là pháp tăng thượng. Nương dựa nghĩa là thân, địa. Ở đây, chỗ dựa là thân thì chỉ là người nơi ba châu. Số xứ còn lại là không thoái thất. Chỗ dựa là địa ở đây: Bậc vô học thì chung nơi chín địa, là vị chí, trung gian, bốn định căn bản và ba định vô sắc. Hàng hữu học chỉ dựa nơi sáu địa, tức là trừ ba thứ sau (Ba định vô sắc). Vì sao? Phàm là chuyển căn thì cùng có xả bỏ quả và đạo của quả cao hơn, chỗ đạt được chỉ là quả không phải là hướng đạo, nên không có quả hữu học thuộc địa vô sắc. Thế nên hàng hữu học luyện căn chỉ dựa nơi sáu địa.

Các Bổ-đặc-già-la của vị vô học gồm có bao nhiêu loại? Do gì nên có sai biệt?

* Tụng viết:

Bảy Thanh văn, hai Phật

Sai biệt do chín căn.

* Luận nêu: Thánh giả ở tại vị vô học có chín. Tức là bảy Thanh văn cùng hai Giác giả. Năm loại như pháp Thoái v.v… cùng pháp Bất động được phân hai. Sau trước có sai biệt nên gọi là bảy Thanh văn. Độc giác, Đại giác gọi là hai Giác giả. Do chín phẩm căn như hạ hạ khác nhau, khiến Thánh giả vô học thành chín loại sai biệt. Vị học vô học có bảy Thanh giả, hết thảy Thánh giả đều được gồm thâu trong ấy: (1) Tùy tín hành. (2) Tùy pháp hành. (3) Tín giải. (4) Kiến chí. (5) Thân chứng. (6) Tuệ giải thoát. (7) Câu giải thoát. Dựa nơi gì để lập bảy? Sự sai biệt có bao nhiêu thứ?

* Tụng viết:

Gia hạnh, căn, định diệt

Giải thoát nên thành bảy

Sự này riêng chỉ sáu

Nơi ba đạo đều hai.

* Luận nêu: Dựa nơi gia hạnh có khác nhau nên lập hai loại đầu. Nghĩa là dựa nơi thời gian trước tùy theo kẻ khác cùng với pháp nơi nghĩa đã cầu tìm nhân đấy tu gia hạnh, nên lập danh hiệu Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Dựa nơi căn chẳng đồng nên lập hai loại tiếp theo. Nghĩa là dựa nơi căn độn, lợi, tín tuệ tăng, như thứ lớp ấy gọi là Tín giải, Kiến chí. Dựa vào việc đắc định diệt tận lập danh hiệu Thân chứng, do thân chứng đã đắc định diệt tận. Dựa theo giải thoát có dị biệt để lập hai loại sau. Nghĩa là dựa nơi Thánh giả chỉ dùng tuệ để lìa phiền não chướng, thì lập là Tuệ giải thoát. Dựa nơi cùng đắc định, lìa chướng đạt giải thoát, nên lập là Câu giải thoát.

Ở đây, danh hiệu tuy có bảy, nhưng sự riêng chỉ có sáu. Nghĩa là trong kiến đạo có hai Thánh giả là Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Đến tu đạo thì lập riêng hai danh hiệu là Tín giải và Kiến chí. Đến vị vô học lại lập hai danh hiệu là Thời giải thoát, Bất thời giải thoát. Nên biết trong đây: Một loại Tùy tín hành do căn nên thành ba, là hạ trung thượng. Do tánh nên thành năm, là pháp Thoái v.v… Do đạo nên thành mười lăm, nghĩa là tám nhẫn, bảy trí. Do lìa nhiễm nên thành bảy mươi ba. Nghĩa là hàng Cụ phược, chín loại tiếp theo lìa nhiễm của tám địa. Dựa nơi thân nên thành chín (Ba châu của nẻo người và sáu trời thuộc cõi dục). Nếu là căn tánh đạo lìa nhiễm, dựa nơi thân cùng nhân với nhau hợp thành một ức bốn vạn bảy ngàn tám trăm hai mươi năm thứ. Các loại khác như Tùy pháp hành v.v… , như lý nên suy xét.

Những gì gọi là Tuệ giải thoát, Câu giải thoát?

* Tụng viết:

Câu do đắc định diệt

Khác gọi Tuệ giải thoát.

* Luận nêu: Các vị A-la-hán chứng đắc được định diệt tận gọi là Câu giải thoát. Do lực của tuệ, định nên giải thoát khỏi phiền não, giải thoát khỏi chướng. Số còn lại chưa đắc định diệt tận, thì gọi là Tuệ giải thoát. Tức chỉ do lực của tuệ, nên đối với các phiền não chướng được giải thoát.

Như Đức Thế Tôn nói: Người đã đoạn trừ năm thứ phiền não, không còn có thể dẫn dắt đến vị lai, gọi là học mãn. Vậy nơi các vị hữu học vô học, do bao nhiêu nhân, ở trong các vị ấy, riêng xưng là mãn?

* Tụng viết:

Hữu học gọi là mãn

Do căn quả định ba

Vô học được tên mãn

Chỉ do căn định hai.

* Luận nêu: Bậc hữu học ở nơi vị hữu học riêng được mang tên mãn là do đủ ba nhân: Là căn, quả và định. Có vị hữu học chỉ do căn, cũng được gọi là mãn. Nghĩa là các vị Kiến chí chưa lìa nhiễm của cõi dục. Có vị hữu học chỉ do quả cũng được gọi là mãn. Nghĩa là vị Bất hoàn – Tín giải chưa đạt được định diệt tận. Có vị hữu học do căn quả nên cũng được mang danh hiệu là mãn. Nghĩa là vị Bất hoàn – Kiến chí chưa đắc định diệt tận. Có vị hữu học do quả định nên cũng được mang danh hiệu là mãn. Nghĩa là vị Tín giải đã được định diệt tận. Có vị hữu học do gồm đủ ba nhân nên riêng được mang danh hiệu là mãn. Nghĩa là vị Kiến chí đã đắc định diệt tận. Không có vị hữu học chỉ do định cùng căn định, nên cũng được gọi là mãn. Các Thánh giả vô học ở nơi vị vô học, do hai thứ căn định nên riêng được mang danh hiệu là mãn. Trong vị vô học không có Thánh giả nào là không mãn về quả, nên không do quả để lập danh hiệu mãn. Có vị vô học chỉ do căn cũng được gọi là mãn. Nghĩa là các A-la-hán bất thời giải thoát chưa đắc định diệt tận. Có vị vô học chỉ do định cũng được gọi là mãn. Nghĩa là A-la-hán thời giải thoát đắc định diệt tận. Có vị vô học do đủ hai nhân, riêng gọi là mãn. Nghĩa là các A-la-hán bất thời giải thoát đã được định diệt tận.

Nói rộng về các đạo có sai biệt là vô lượng. Nghĩa là đạo thế tục, đạo xuất thế, kiến đạo, tu đạo, đạo vô học v.v… Lược nói thì có bao nhiêu đạo có thể gồm thâu khắp?

* Tụng viết:

Nên biết tất cả đạo

Lược nói chỉ có bốn:

Đạo gia hạnh, vô gián

Đạo giải thoát, thắng tấn.

* Luận nêu: Đạo gia hạnh: Là từ nơi đạo này, đạo vô gián sau đó mới sinh. Đạo vô gián: Là đạo này có thể đoạn trừ chướng ngại nên đoạn trừ. Đạo giải thoát: Là đạo được sinh khởi trước tiên do đã giải thoát khỏi chướng ngại được đạo vô gián đoạn trừ. Đạo thắng tấn: Là đạo còn lại ngoài ba đạo trên.

Nghĩa của đạo là gì? Tức là con đường của Niết-bàn. Nhân nơi con đường ấy nên có thể đi đến thành Niết-bàn. Hoặc lại đạo: Nghĩa là cầu tìm chỗ dựa. Dựa nơi đấy để tìm cầu quả Niết-bàn.

Đạo giải thoát, đạo thắng tấn vì sao được gọi là đạo? Do cùng với loại đạo là đồng, là chuyển tăng phẩm thượng. Hoặc từ lực dụng của các phần trước dẫn đến các phần sau. Hoặc có thể hướng nhập Niết-bàn vô dư y.

Đạo ở nơi xứ khác được lập tên là thông hành. Do có thể thông đạt hướng đến Niết-bàn. Thông hành này có bao nhiêu thứ, dựa vào gì để kiến lập?

* Tụng viết:

Thông hành có bốn thứ

Lạc dựa định căn bản

Khổ dựa nơi địa khác

 Trì, tốc: Căn độn lợi.

* Luận nêu: Kinh nói thông hành gồm có bốn thứ: (1) Khổ trì thông hành. (2) Khổ tốc thông hành. (3) Lạc trì thông hành. (4) Lạc tốc thông hành. Đạo dựa nơi bốn tĩnh lự căn bản sinh gọi là lạc thông hành. Do thâu nhận chi tĩnh lự, chỉ quán bình đẳng, tự nhiên chuyển. Đạo dựa nơi định vô sắc, tĩnh lự vị chí, tĩnh lự trung gian sinh gọi là khổ thông hành. Do không thâu nhận các chi tĩnh lự, chỉ quán không bình đẳng, chuyển rất khó khăn. Nghĩa là nơi định vô sắc thì quán giảm chỉ tăng. Trong tĩnh lự vị chí, trung gian thì quán tăng chỉ giảm. Tức trong hai thông hành lạc khổ này, hàng độn căn gọi là trì (Chậm), hàng lợi căn gọi là tốc (Nhanh). Hai hành ở nơi cảnh, thông đạt đến chậm, nên gọi là trì thông. Trái với đây gọi là tốc thông. Hoặc người trì độn phát khởi thông hành gọi là trì thông hành. Tốc thông hành là cùng trái với đây.

Đạo cũng được gọi là pháp Bồ-đề phần (Giác phần). Ở đây có bao nhiêu thứ, danh nghĩa thế nào?

* Tụng viết:

Giác phần ba mươi bảy

Là như bốn niệm trụ v.v…

Giác là tận vô sinh

Thuận đấy nên gọi phần.

* Luận nêu: Kinh nói giác phần có ba mươi bảy thứ. Nghĩa là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi. Tận trí, vô sinh trí, gọi là giác. Thuận theo bậc giác nên lập riêng ba Bồ-đề: Là Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Độc giác và Bồ-đề Vô thượng. Tùy miên vô minh v.v… đều vĩnh viễn đoạn trừ, cũng nhận biết như thật về sự việc đã làm xong không còn tạo tác nữa. Hai thứ ấy gọi là giác. Ba mươi bảy pháp thuận hướng đến Bồ-đề, nên đều gọi là pháp Bồ-đề phần. Thể của ba mươi bảy pháp này đều là riêng chăng? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Đây thật sự chỉ mười

Là tuệ cần định tín

Niệm hỷ xả khinh an

Và giới tầm làm Thể.

* Luận nêu: Giác phần này danh tuy có ba mươi bảy, nhưng thật sự chỉ có mười, tức như tuệ, cần v.v… Nghĩa là bốn niệm trụ, tuệ căn, tuệ lực, giác chi trạch pháp, chánh kiến đều dùng tuệ làm Thể. Bốn chánh đoạn, tinh tấn căn, tinh tấn lực, giác chi tinh tấn, chánh tinh tấn thì dùng cần làm Thể. Bốn thần túc, định căn, định lực, giác chi định, chánh định thì dùng định làm Thể. Tín căn, tín lực thì dùng tín làm Thể. Niệm căn, niệm lực, giác chi niệm, chánh niệm thì dùng niệm làm Thể. Giác chi hỷ dùng hỷ làm Thể. Giác chi xả dùng hành xả làm Thể. Giác chi khinh an dùng khinh an làm Thể. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng dùng giới làm Thể. Chánh tư duy dùng tầm làm Thể. Như vậy, giác phần về sự chỉ có mười thứ, tức là năm căn, năm lực như tín v.v… nêu trên, lại thêm: hỷ xả khinh an giới tầm.

Sư Tỳ-bà-sa nói: Có mười một sự. Do thân nghiệp ngữ nghiệp không xen tạp nên giới phân làm hai. Chín thứ còn lại đồng với trước.

Ba thứ Bồ-đề phần như bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, về danh không thuộc riêng, vì sao riêng nói Thể là tuệ, cần, định?

* Tụng viết:

Bốn niệm trụ, chánh đoạn

Thần túc tùy tăng thượng

Nói là tuệ cần định

Thật các gia hạnh thiện.

* Luận nêu: Ba thứ như bốn niệm trụ v.v… thì Thể là phẩm pháp thiện, thật sự là gồm thâu khắp các gia hạnh thiện. Nhưng theo căn thiện tăng thượng của phẩm đồng, nên như thứ lớp nói Thể là tuệ, cần và định.

Vì sao ở nơi tuệ lập tên là niệm trụ? Sư Tỳ-bà-sa nói: Tuệ do lực của niệm giữ vững khiến trụ. Lý thật thì do tuệ khiến niệm trụ nơi cảnh. Người thấy như thật tức có thể ghi nhận rõ. Như trong phần niệm trụ đã thành lập rộng.

Vì sao nói cần là Thể của chánh đoạn? Do đối với sự việc tu tập đúng đắn để đoạn trừ, trong phần vị tu, thì lực của cần ấy có thể đoạn dứt mọi thứ biếng trễ. Hoặc gọi là chánh thắng. Tức ở trong sự việc giữ gìn thúc đẩy đúng đắn thân ngữ ý, thì cần ấy là hơn hết.

Vì sao đối với định lập tên thần túc? Do định là nơi chốn nương dựa của các đức linh diệu. Có Sư khác cho: Thần tức là định. Túc nghĩa là bốn pháp như dục v.v… Theo thuyết kia thì sự của giác phần nên có mười ba, tức là thêm dục, tâm. Nhưng lại trái với Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Ta nay vì ông thuyết giảng về thần túc v.v… Thần nghĩa là thọ dụng vô số thần cảnh, phân một làm nhiều, cho đến nói rộng. Túc nghĩa là bốn Tam-ma-địa như dục v.v… Ở đây là Đức Phật đã nói về quả của định gọi là thần. Các đẳng trì đã sinh như dục v.v… gọi là túc.

Vì sao tín v.v… trước nói là căn, sau gọi là lực? Do năm pháp này dựa nơi phẩm hạ thượng nên phân trước sau. Lại, dựa nơi tính chất có thể khuất phục, không thể khuất phục. Các căn, lực như tín v.v… vì sao theo thứ lớp như thế? Nghĩa là ở nơi nhân quả, trước khởi tâm tín, vì quả tu nhân. Tiếp theo khởi tinh tấn. Do tinh tấn nên niệm trụ nơi đối tượng duyên. Do lực của niệm giữ vững nên tâm liền được định. Tâm được định nên có thể nhận biết như thật. Vì vậy, tín v.v… đã theo thứ lớp như thế.

Nên nói các giác phần nào được tăng ở nơi phần vị nào?

* Tụng viết:

Nghiệp đầu thuận quyết trạch

Cùng vị tu kiến đạo

Bảy phẩm như niệm trụ v.v…

Nên biết thứ lớp tăng.

* Luận nêu: Trong phần vị nghiệp đầu có thể xét kỹ, chiếu rõ về bốn cảnh như thân v.v… (Bốn niệm trụ). Dụng của tuệ là hơn nên nói niệm trụ tăng. Nơi phần vị pháp noãn, có thể chứng đắc phẩm công đức thù thắng khác, thì dụng nơi cần là hơn, nên nói chánh đoạn tăng. Trong phần vị pháp đảnh, có thể giữ vững thiện thù thắng hướng đến đức không thoái thất, thì dụng của định là hơn, nên nói thần túc tăng. Nơi phần vị pháp nhẫn tất không thoái thất, căn thiện thêm bền chắc, đạt được nghĩa tăng thượng nên nói căn tăng. Trong phần vị pháp thế đệ nhất, không phải phiền não nơi pháp thế gian có thể khuất phục, đạt được nghĩa không khuất phục, nên nói lực tăng. Nơi phần vị tu đạo, gần với quả vị Bồ-đề, hỗ trợ giác là hơn nên nói giác chi tăng. Trong phần vị kiến đạo, mau chóng chuyển biến, thông hành là hơn, nên nói đạo chi tăng. Nhưng trong Khế kinh, tùy theo số lượng tăng, nên nói bảy trước tám sau, không phải là thứ lớp của tu. Trong tám chi Thánh đạo, thì chánh kiến là đạo cũng là đạo chi. Các thứ còn lại là đạo chi, không phải là đạo. Nơi bảy giác chi thì trạch pháp là giác cũng là giác chi. Sáu thứ còn lại là giác chi, không phải là giác. Sư Tỳ-bà-sa đã thuyết minh như thế.

Có thuyết cho: Ở đây không phá bỏ thứ lớp đã được nói đến nơi Khế kinh khi lập các giác phần như niệm trụ v.v… Nghĩa là hành giả tu tập, lúc sắp tu hành, ở trong nhiều cảnh tâm mình phân tán, dong ruổi. Nên trước tu niệm trụ để chế ngự tâm ấy. Khế kinh nêu rõ: “Bốn niệm trụ này, ở nơi cảnh giới có thể buộc giữ tâm kia cùng chính thức xua trừ các thứ thị dục dựa nơi niệm”. Vì thế niệm trụ được nói đến trước nhất. Do uy lực ấy nên cần bèn tăng trưởng. Vì thành bốn sự đang thúc đẩy giữ vững tâm, nên chánh đoạn được nói đến tiếp theo. Do tinh tấn nên tâm không ưu hối, liền có khả năng tu trị định thù thắng. Do đấy, thần túc được nói ở thứ ba. Định thù thắng làm chỗ dựa tức khiến tín v.v… cùng với pháp xuất thế làm duyên tăng. Vì vậy, thứ tư là nói về năm căn. Nghĩa của căn đã lập, có thể chính thức điều phục, loại trừ các thứ hiện hành cần được đối trị, dẫn sinh Thánh pháp. Thế nên thứ năm là nói về năm lực. Ở nơi vị kiến đạo kiến lập giác chi, tức nhận biết đúng như thật về bốn Thánh đế. Chung nơi hai vị kiến, tu kiến lập đạo chi, cùng thông thẳng đến thành Niết-bàn. Như nơi Khế kinh nói: “Đối với tám đạo chi tu tập viên mãn, thì ở nơi bốn niệm trụ đến bảy giác chi cũng tu tập viên mãn”. Lại, Khế kinh nói: “Bí-sô nên biết! Dụ tuyên nói như thật là nói về bốn Thánh đế. Dụ khiến dựa nơi đường gốc để mau chóng đi ra là khiến tu tập tám Thánh đạo chi”. Vậy nên biết tám đạo chi là dựa chung nơi hai vị để nói. Nêu thứ lớp theo vị tăng đã như thế, là lý thật nên nói.

Ba mươi bảy pháp giác phần này, bao nhiêu thứ là chung nơi hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

* Tụng viết:

Bảy giác, tám đạo chi

Hoàn toàn là vô lậu

Ba bốn năm căn lực

Đều chung nơi hai thứ.

* Luận nêu: Ở đây, bảy giác chi, tám Thánh đạo chi chỉ là vô lậu, chỉ ở trong vị kiến đạo tu đạo mới kiến lập. Thế gian cũng có các pháp như chánh kiến v.v…, nhưng chúng không được mang tên là Thánh đạo chi. Các thứ còn lại đều chung nơi hữu lậu vô lậu. Ba mươi bảy pháp giác phần này, nơi địa nào có bao nhiêu thứ?

* Tụng viết:

Tĩnh lự đầu: tất cả

Vị chí trừ hỷ căn

Tĩnh lự hai trừ tầm

Ba, bốn, trung: trừ hai.

Ba địa vô sắc trước

Trừ giới, hai thứ trước

Nơi cõi dục, Hữu đảnh

Trừ giác chi, đạo chi.

* Luận nêu: Trong tĩnh lự thứ nhất có đủ ba mươi bảy pháp. Nơi địa vị chí trừ giác chi hỷ. Do nơi địa cận phần đã gắng sức chuyển. Đối với pháp của địa dưới cũng còn nghi, lo. Tĩnh lự thứ hai thì trừ chánh tư duy. Do trong tĩnh lự ấy đã không có tầm. Như thế là hai địa này đều có ba mươi sáu. Tĩnh lự thứ ba, thứ tư và trung gian đều trừ cả hỷ tầm, tức đều có ba mươi lăm. Ba định vô sắc trước trừ ba chi giới và trừ hỷ tầm, tức đều có ba mươi hai. Cõi dục, xứ Hữu đảnh thì trừ giác chi, đạo chi, là đều có hai mươi hai, do không có vô lậu.

Khi giác phần chuyển tất đạt được chứng tịnh. Pháp này có bao nhiêu thứ? Dựa nơi vị nào để được Thể thật? Đó là pháp hữu lậu, vô lậu.

* Tụng viết:

Chứng tịnh có bốn thứ

Là Phật Pháp Tăng Giới

Kiến ba được Pháp, Giới

Kiến đạo gồm Phật, Tăng.

Pháp: Toàn bộ ba đế

Đạo Bồ-tát, Độc giác

Tín giới hai làm Thể

Bốn đều chỉ vô lậu.

* Luận nêu: Kinh nói chứng tịnh gồm có bốn thứ: (1) Chứng tịnh đối với Phật. (2) Chứng tịnh đối với Pháp. (3) Chứng tịnh đối với Tăng. (4) Chứng tịnh của Thánh giới.

Nơi vị kiến đạo, lúc kiến ba đế, mỗi mỗi chỉ được chứng tịnh của Pháp, Giới. Nơi vị kiến đạo đế thì gồm đắc Phật, Tăng. Nghĩa là vào bấy giờ, đối với các pháp vô học thành Phật cùng pháp hữu học vô học thành Thanh văn Tăng cũng được chứng tịnh. Nói gồm là làm rõ lúc kiến đạo đế cũng được chứng tịnh đối với Pháp và Giới. Nhưng pháp được tín lược có hai loại: Là riêng và chung. Chung là chung nơi bốn đế. Riêng là chỉ có ba đế. Hoàn toàn là đạo Bồ-tát, Độc giác, nên khi kiến bốn đế đều đạt được chứng tịnh nơi pháp. Giới được bậc Thánh yêu thích cùng với hiện quán kết hợp hiện hành, nên nơi tất cả thời đều đạt được. Do chỗ tín riêng khác nên gọi là có bốn. Nên biết về sự thật chỉ có hai loại. Nghĩa là đối với ba thứ chứng tịnh như Phật v.v… dùng tín làm Thể. Chứng tịnh nơi Thánh giới thì dùng giới làm Thể. Nên chỉ có hai (Tín, giới). Bốn thứ chứng tịnh như vậy chỉ là vô lậu, do pháp hữu lậu không phải là chứng tịnh.

Dựa nơi nghĩa nào để lập tên gọi chứng tịnh? Do hiểu biết đúng như thật về lý của bốn Thánh đế, nên gọi là chứng. Sự tin tưởng nơi Tam bảo cùng Thi la vi diệu đều gọi là tịnh. Lìa bỏ cấu uế của tâm bất tín, cấu uế của hành phá giới. Do chứng được tịnh nên lập danh hiệu chứng tịnh. Như khi xuất quán đã hiện khởi thứ lớp, nên nói quán thứ lớp bên trong như thế.

Vì sao lúc xuất thì thứ lớp hiện khởi? Nghĩa là nơi phần vị xuất quán, trước hết tin Đức Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác. Tiếp theo, ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da tin là đã thuyết giảng về thiện. Sau thì tin Thánh Tăng là chúng hành diệu. Chánh tín Tam bảo cũng như lương y, cũng như thuốc hay và người chăm sóc bệnh. Do tâm tịnh nên phát khởi Thi la tịnh. Vì thế Thi la (Giới) nói là chứng tịnh thứ tư. Chủ yếu là gồm đủ tín tịnh thì pháp ấy mới hiện tiền. Như gặp đủ ba duyên thì bệnh mới khỏi. Hoặc bốn thứ ấy cũng như vị thầy dẫn đường, con đường đi, thương khách cùng vật dùng chuyên chở là chiếc xe.

Kinh nói: “Vị hữu học thành tựu tám chi. Trong vị vô học thành tựu đủ mười. Vì sao trong vị hữu học không nói có chánh giải thoát cùng chánh trí? Chánh giải thoát, chánh trí, Thể của chúng là gì?

* Tụng viết:

Hữu học còn bị buộc

Không chi chánh thoát trí

Giải thoát là vô vi

Tức thắng giải, Hoặc diệt.

Hữu vi chi vô học

Tức hai giải thoát uẩn

Chánh trí như nói giác

Là tận, vô sinh trí.

* Luận nêu: Trong vị hữu học hãy còn có những trói buộc khác chưa được giải thoát nên không có chi giải thoát. Không phải lìa một ít trói buộc thì có thể gọi là giải thoát. Không có Thể tánh của giải thoát thì không thể lập trí giải thoát. Bậc vô học đã thoát khỏi trói buộc của các phiền não, lại có thể khởi hai trí thấu tỏ về giải thoát. Do hai trí ấy hiển bày nên có thể lập hai chi. Hàng hữu học thì không như thế, nên chỉ thành tám. Thể của giải thoát có hai, là hữu vi, vô vi. Giải thoát hữu vi nghĩa là thắng giải vô học. Giải thoát vô vi nghĩa là tất cả Hoặc diệt. Giải thoát hữu vi gọi là chi vô học. Do lập tên chi là dựa nơi hữu vi, nên thuộc về chi. Giải thoát lại có hai thứ. Tức như nơi kinh khác nói: Tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nên biết hai thứ ấy tức là giải thoát uẩn. Nếu như thế thì không hợp như trong Khế kinh đã giải thích: “Thế nào là giải thoát thanh tịnh tối thắng? Nghĩa là tâm từ tham lìa nhiễm giải thoát. Cùng từ sân si lìa nhiễm giải thoát. Đối với giải thoát uẩn chưa viên mãn thì làm cho viên mãn. Đã viên mãn thì khiến gồm thâu tu tập dục, cần v.v… ”. Thế nên giải thoát uẩn không phải chỉ là thắng giải. Như vậy là thế nào? Có Sư khác nói: Do lực của chân trí trừ vỏ tham sân si, tức tâm lìa cấu uế gọi là giải thoát uẩn.

Như thế là đã nói về Thể của chánh giải thoát. Thể của chánh trí như trước đã nói về giác.

Tức trước nói là tận trí, vô sinh trí.

Tâm ở nơi đời nào thì chính thức được giải thoát để nói là tâm vô học giải thoát?

* Tụng viết:

Tâm vô học lúc sinh

Chính từ chướng giải thoát.

* Luận nêu: Như Bản luận nói: Tâm vô học đầu tiên khi ở vị lai sinh thì từ chướng được giải thoát. Thế nào gọi là chướng? Nghĩa là các thứ phiền não đã có được. Do chúng có thể ngăn chận tâm ấy sinh. Trong phần vị định kim cang dụ đang diệt trừ Hoặc, thì các thứ phiền não có được kia đang được đoạn dứt. Tâm vô học đầu tiên, nơi phần vị ấy đang sinh, chính là được giải thoát. Nơi phần vị định kim cang dụ đã diệt, thì các phiền não có được kia đã đoạn. Tâm vô học đầu tiên ở nơi phần vị ấy đã sinh, gọi là đã giải thoát.

Tâm vô học chưa sinh cùng tâm thế tục, sẽ ở nơi bấy giờ cũng gọi là là giải thoát. Nhưng nay lại nói quyết định sinh, là do nơi bấy giờ thân đang ở tại đời. Các tâm thế tục từ nơi gì được giải thoát? Tức cũng từ nơi tâm vô học đầu tiên kia sinh, sau khi đã đoạn trừ chướng ngại do các phiền não có được tạo nên.

Nơi phần vị chưa giải thoát, những tâm ấy chẳng phải là không sinh? Tuy có sinh nhưng không giống với hiện nay. Chỗ giống của tâm ấy là thế nào? Là cùng với phiền não đều cùng được. Tâm ấy về sau nếu sinh thì không cùng được với phiền não.

Đạo ở tại phần vị nào sinh khiến chướng được đoạn trừ?

* Tụng viết:

Đạo chỉ vị chánh diệt

Có thể khiến chướng đoạn.

* Luận nêu: Nói vị chánh diệt là làm rõ ở hiện tại. Nói chánh sinh là làm rõ về đời vị lai. Đạo có thể đoạn trừ chướng chỉ ở nơi lúc đang diệt. Ở nơi phần vị khác nhất định không dụng đoạn trừ chướng. Không phải như giải thoát thì chung nơi chưa sinh, do sinh chưa sinh, về lìa chướng là đồng.

Kinh nói có ba cõi: Là cõi đoạn, lìa, diệt. Chúng dùng gì làm Thể, có sai biệt thế nào?

* Tụng viết:

Vô vi nói ba cõi

Cõi lìa chỉ lìa tham

Cõi đoạn, đoạn kiết khác

Cõi diệt, diệt sự kia.

* Luận nêu: Ba cõi như đoạn v.v… tức dùng giải thoát vô vi đã nói ờ trước làm tự thể. Nói cõi lìa: Nghĩa là chỉ lìa tham. Nói cõi đoạn: Nghĩa là đoạn trừ các kiết khác. Nói cõi diệt: Nghĩa là diệt trừ các tùy miên còn lại như tham v.v… đã có sự tùy tăng.

Kinh nói ba cõi tức là giải thoát vô vi. Nếu đối với sự có thể chán bỏ, tất có thể lìa chăng? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Chán: Tuệ duyên khổ tập

Lìa: Duyên bốn hay đoạn

Tương đối cùng rộng hẹp

Nên thành bốn trường hợp.

* Luận nêu: Chỉ duyên nơi khổ tập, khởi nhẫn trí, gọi là chán. Ngoài ra thì không như thế. Trong cảnh của bốn đế đã khởi nhẫn trí, có thể đoạn trừ Hoặc đều được mang tên là lìa. Do rộng hẹp có khác nên thành bốn trường hợp:

Có chán không phải là lìa: Nghĩa là duyên nơi khổ tập, nhẫn trí hiện có, nhưng không khiến Hoặc được đoạn trừ. Do duyên nơi cảnh của chán, không phải là lìa nhiễm.

Có lìa không phải là chán: Nghĩa là duyên nơi diệt đạo, nhẫn trí hiện có, có thể khiến Hoặc được đoạn trừ. Do duyên nơi cảnh vui có thể lìa nhiễm.

Có chán cũng là lìa: Nghĩa là duyên nơi khổ tập, nhẫn trí hiện có, có thể khiến Hoặc được đoạn trừ.

Có không phải là chán cũng không phải là lìa: Nghĩa là duyên nơi diệt đạo, nhẫn trí hiện có, không khiến Hoặc được đoạn trừ.

Nên biết ở đây, trước lìa dục nhiễm, sau kiến đế, thì trong pháp nhẫn cùng pháp trí hiện có, thuộc đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn, đều không khiến Hoặc được đoạn trừ. Do Hoặc đã đoạn. Do không phải là đoạn bằng đối trị.

HẾT – QUYỂN 25