KINH TỨ ĐỒNG TỬ TAM MUỘI
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Xà Na Quật Đa, người nước Kiền Đà La, Bắc Ấn Độ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, Tuệ mạng A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng sinh mà trụ thêm một kiếp hay ít hơn một kiếp nữa. Vì sao? Vì nếu Thế Tôn còn trụ ở đời thì đại sự luôn hiện ra, để các đại sĩ chân thiện thường xuyên qua lại trong Diêm-phù-đề. Chúng sinh chúng con còn bấy nhiêu thời gian ở đây chiêm ngưỡng các Đại Bồ-tát và phụng thờ cúng dường. Lại trong thời gian ấy, kinh điển sẽ được lưu hành rộng rãi, thời gian đó chúng con còn được nghe ý nghĩa pháp Phật. Còn bao nhiêu thời gian, chúng con được thấy Thế Tôn và các đại sĩ hiện hóa đủ sức thần thông. Nếu ngày nay Thế Tôn không trụ ở đời mà nhập Niết-bàn, thì sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng sinh chúng con sẽ xa lìa ba việc. Đó là không thấy Phật, không được nghe chánh pháp và không thấy tâm từ ái rộng rãi của các bậc đại sĩ, cũng sẽ không còn được phụng thờ cúng dường; chúng con sẽ bị những mất mát to lớn như vậy.

Sau khi nói xong, Tuệ mạng A-nan buồn thảm, kêu gào thảm thiết, nước mắt đầm đìa, quằn quại trên đất giống như cây bị chặt ngã và lại xướng:

–Phật sao sớm xa lìa chúng con. Các Thiện tri thức cũng lại sớm biệt ly chúng con.

Khi ấy, trong chúng có Đại Bồ-tát tên Thiện Tư Nghĩa dùng kệ nói với A-nan:

A-nan chớ đau buồn
Các hành đều vô thường
Pháp đời muốn thường còn
Điều này không thể có.
Nếu nói có các hành
Lời ấy không thể có
Các pháp đều trống không
Cớ sao ông sầu khổ.
Các trí đều là không
Trí Phật cũng là không
Phật còn không thể đắc
Ông âu sầu làm gì.
Ông đừng có phân biệt
Người trí lìa phân biệt
Các hữu như hư không
Như quáng nắng tưởng nước.
Như thầy ảo thuật hóa
Voi, ngựa, xe vân vân…
Vườn rừng các xóm làng
Cây cối các hoa quả.
Thế đế cũng như vậy
Như huyễn hóa không thật
Chư Phật và Thanh văn Cũng vậy có khác gì.

Để trả lời Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa, A-nan dùng kệ nói:

Đúng như điều ông nói
Các pháp không có tướng
Thắng pháp tối thắng này
Nay tôi nghe lần cuối.
Làm sao đến Xá-vệ
Họ hỏi tôi nói sao!
A-nan! Phật ở đâu
Mắt trời khi nào đến?
Xưa tôi tới nơi này
Thường thấy Phật Thế Tôn
Nay đến thấy trống không
Đại trí tôi ở đâu.

Thiện nam Tịch Tịnh Chuyển dùng kệ nói với Tuệ mạng A-nan:

Dù ông khóc ức trăm
Việc này khó có được
A-nan, ông quán kỹ
Pháp giới khó thấy được.
Ví như thân cây chuối
Lột từng bẹ bỏ đi
Chính giữa không có lõi
Thể pháp cũng như vậy.
Giống như khi trời mưa
Rơi xuống những giọt nước
Nổi bong bóng rồi mất
Các hữu cũng như thế.
Như bọt nước kết lại
Người mắt sáng nhìn thấy
Nhưng nó không có thật
Tướng đời cũng như vậy.
Ví như bóng trong gương
Thể nó không có thật
Tướng ba cõi cũng thế
Người trí chớ khóc lóc.

Tuệ mạng A-nan dùng kệ trả lời Bồ-tát Tịch Tịnh:

Tôi đã biết điều này
Như người trí ông nói
Ba tướng đều vô thường
Trong kinh Đại tiên nói.
Nhưng vô số trời này
Đều khóc rơi nước mắt
Kêu la ở bên tôi
Do đó làm tôi khổ.
Thế Tôn sắp ra đi
Pháp nhãn bỏ chúng tôi
Chúng tôi sẽ đi đâu
Ai cứu giúp chúng tôi.
Nghe chánh pháp của ai
Tịch tĩnh không ai bằng
Tôi sẽ cúng dường ai
Than ôi, Phật khó gặp.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Phan Duyên dùng kệ nói với Tuệ mạng Anan:

A-nan! Hãy đứng dậy
Chỉ quán pháp chớ buồn
Pháp không tự đi đến
Cũng không có ra đi.
Ví như Phật có sinh
Chứng Bồ-đề cũng vậy
Ví như Chuyển pháp luân
Niết-bàn cũng như thế.
Chư Phật không hề sinh
Cũng không hề bị diệt
Trong chân pháp như thế
Vì sao A-nan khóc.
Ông nghe chân lông tôi
Phát ra tiếng như vậy
Các hữu không, tịch tĩnh
Bốn việc của chư Phật.

Tuệ mạng A-nan dùng kệ nói với Đại Bồ-tát Vô Phan Duyên:

Không lâu các đại sĩ
Từng vị đi cõi khác
Thấy chư Phật cõi ấy
Nói diệu pháp cam lồ.
Ông nghe pháp Phật đó
Với diệu nghĩa thâm sâu
Thấy đồ chúng Phật ấy
Và các vị Bồ-tát.
Nay tôi cùng ức trời
Vây quanh mà khóc lóc
Thế Tôn Niết-bàn rồi
Thưa ngài, tôi đi đâu?
Ngàn số Ưu-bà-tắc
Nay nghe lời tôi nói
Rất khổ não đau buồn
Tôi an ủi sao đây?
Tam Thập Tam, Diệm Ma
Đâu Suất và Tha Hóa
Tự Tại và Phạm thiên
Các chư Thiên ấy đến.
Làm sao họ hoan hỷ
Sau khi Thích Vương diệt?
Làm sao giảng pháp họ
Tôi biện luận thế nào?
Khi chư Thiên hỏi tôi
A-nan! Phật ở đâu
Tôi trả lời thế nào
Nhân Ngưu Vương diệt rồi.
Hết thảy các mọi nơi
Thâm sâu Như Lai ở
Nơi rừng cây kinh hành
Nay tôi ở chỗ nào?

Thiện nam Khai Phu Thần Thông Đức dùng kệ nói Tuệ mạng Anan:

Tôi biết rõ hạnh ông
Hoàn toàn trong ba tháng
Sẽ luôn hiện bên ông
A-nan! Đừng khóc lóc.
Từ ngàn số Phật khác
Tôi sẽ nói cho ông
Chư Phật nói cho ông
Hóa làm thân họ Thích.
Chư Phật có từ bi
Vì ông kính thờ Phật
Đương lai ở bên ông
A-nan! Đừng khóc nữa!
Các trời và thế gian
Ngày nay mà đau buồn
Thì Đại Giáo Sư ta
Ẩn tịch không xuất hiện.
Xưa Như Lai từng nói
Thọ mạng trụ ức kiếp
Các hành diệt từng niệm
Tôi được nghe từ Phật.

Bấy giờ, Tuệ mạng A-nan ở sau Phật khóc ba lần và nói kệ:

Nơi chúng sinh nương tựa
Làm mắt sáng cho đời
Đạo sư nhập diệt rồi
Chúng sinh thành đui mù.
Thắng vương A-xà-thế
Nghe lời không lành này
Đạo sư nhập diệt rồi
Sầu khổ sống sao đây!
Thắng Nhân nay Niết-bàn
Các Lực sĩ sau này
Như vậy sẽ buồn khổ
Âu sầu và khóc lóc.
Sau khi họ tập trung
Nhìn Đạo sư lần cuối
Tâm cung kính tôn trọng
Đứng cúi mình chắp tay.
Đủ Trời, Rồng, Dạ-xoa
Bao khắp năm do-tuần
Không chỗ nào xen hở
Loài người không chỗ vào.
Mưa hoa thơm vi diệu
Ngập đầy tới đầu gối
Lại mưa các hương vụn
Cúng dường bậc Tối thắng.
Nan-đà, Ưu-ba-đà
Và sáu mươi ức rồng
Đều đến chỗ Niết-bàn
Nhìn Đạo sư lần cuối.
Ma-ha Tư-bà-luận
Rồng lớn Ta-già-la
Hầu-lâu, Mục-chân-đà
Vây quanh cả trăm ức.
Nổi mây mưa nước thơm
Rưới khắp đại địa này
Giáng mưa lớn mà đến
Nhìn Đạo sư lần cuối.
Các trời mưa hoa trời
Và mưa nước thơm sạch
Trời rồng đều cung kính
Cúng dường Phật Thế Tôn.
Long vương A-nậu-đạt
Cùng sáu mươi câu-chi
Mưa những trận mưa báu
Đến bên Ngưu Nhân Vương.
Y-la-bát khóc lóc
Tu-di-tử đại xà
Để cúng dường Thế Tôn
Phụng thờ Phật lần cuối.
Cả trăm ngàn các rồng
Ức số na-do-tha
Nổi mây dậy sấm chớp
Đến chỗ đức Đạo sư.
Tuôn xuống trận mưa lớn
Loại nước thơm thanh tịnh
Cũng là để cúng dường
Nhìn Thế Tôn lần cuối.
Cả ngàn ức Dạ-xoa
Hoặc trăm na-do-tha
Nghĩ các công đức Phật
Đều muốn đến thăm Phật.
Lại có Tứ Thiên vương
Buồn khóc lóc ràn rụa
Đến bên đức Đạo sư
Nhìn thấy Phật lần cuối.
Thích Đề-ma-na-dân
Có các trời vây quanh
Cả sáu mươi ba ngàn
Đã đến chỗ Đức Phật.
Họ chỉ mưa hoa trời
Mạn-đà-la vi diệu
Và mưa bột chiên-đàn
Cúng dường bậc Tối thắng.
Tỳ-cầu-luy-khốc Phạm
Hai Phạm chúng vây quanh
Buồn khóc đến chỗ Phật
Nhìn Như Lai lần cuối.
Đại Oai Lực Tịnh Cư
Hơn trăm ức chư Thiên
Kêu khóc đến chỗ Phật
Vì nay Phật Niết-bàn.
Trăm số ức chư Thiên
Cả thảy đều buồn khóc
Mời thỉnh đại Đạo sư
Xin trụ thêm một kiếp.
Ma tử đại trí tuệ
Tên Ta-đà-ba-ha
Cảm thương đến chỗ
Phật Vì Thắng Tiên Niết-bàn.
Nâng đỡ chân Thế Tôn
Cúi mình cầu thỉnh Phật
Vì thương xót chúng sinh
Thích Vương trụ kiếp nữa.
Nếu Thế Tôn trụ đời
Làm đại nhân các trời
Được lợi không thể bàn
Xin Phật trụ kiếp nữa.

Đồng tử Vô Phan Duyên dùng kệ nói với tất cả Trời, người, Phạm thiên vương, thương chủ Ma vương tử:

Các ông đều không biết
Như trẻ con, khỉ vượn
Tâm luôn luôn buông lung
Vì sao kêu khóc lóc.
Giống như heo ngủ nghỉ
Bỗng thức không biết gì
Khi bị dao lột xẻ Kinh hãi vội bỏ chạy.
Theo ta thấy cũng vậy
Các ngươi cũng giống thế
Xưa ai không nghe pháp
Vì tham dục buông lung.
Nay đây đèn trí tuệ
Sắp tắt không còn nữa
Phật hiện còn trên đời
Ngươi nên tạo nghiệp thiện.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tuệ mạng A-nan và Phú-lâu-na Tu-bồ-đề cùng Bồ-tát Bất Không Kiến Vương Đồng Tử, Thượng tọa Ca-diếp, Đại Câu-hy và các Thượng tọa:

–Nay Ta nói với Tỳ-kheo, các ông hãy đưa tay phải cho Ta.

Nghe Thế Tôn nói vậy, các Tỳ-kheo liền thưa:

–Quý thay bạch Thế Tôn!

Khi ấy cả một ngàn Tỳ-kheo mỗi người đều đưa tay phải cho Thế Tôn. Thế Tôn lại dùng tay trái nắm tất cả tay phải của các Tỳ-kheo. Nắm xong Thế Tôn lại lấy tay phải cầm tay La-hầu-la và A-nan, di chúc:

–Này các Tỳ-kheo! Nay Ta giao phó A-nan và La-hầu-la cho các ông.

Ngay khi đó bỗng đại chúng òa tiếng khóc to. Tiếng kêu buồn khóc lóc ấy làm chấn động cả trời đất. Tiếng ấy vang khắp cả cõi Phật. Trong lúc La-hầu-la và A-nan đang được giao phó thì trong chúng năm trăm Tỳ-kheo thấy vậy liền xả thân mạng. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo ấy không nỡ nhìn Phật nhập Niết-bàn. Họ nghĩ như vầy: “Thà chúng ta nhập Niết-bàn trước, chớ không nỡ nhìn Ngọn Đèn Lớn của thế gian, Thầy dẫn đường, đấng Đại Từ Bi phụ của thế gian, bậc Thiện tri thức toàn thiện, thương xót chúng sinh thường ban vui cho đời nay sắp nhập diệt. Ta đâu nỡ nhìn”. Vừa lúc đó năm trăm chư Phật trụ riêng cõi của mình đều duỗi tay phải cho Thích Ca Mâu Ni.

Bấy giờ, Thế Tôn lại lấy tay trái cầm tay Thượng tọa A-nan và La-hầu-la đặt trong tay của chư Như Lai ấy và nói kệ:

Đây La-hầu con Ta
A-nan thị giả Ta
Nay ở trước chư Phật
Ta giao hai người này.
Vào cuối đêm hôm nay
Ta sẽ nhập Niết-bàn
Không còn thấy Ta nữa
Trời, rồng, người vân vân…
Không còn chỗ nương tựa
Cứu hộ và thương xót
Chỉ có chư Thế Tôn
Từ bi không nghĩ bàn.
Ta thấy các thế gian
Vô lượng không thể bàn
Nay không thấy chúng sinh
Thì ta sống cho ai.
Vô lượng ngàn số kiếp
Giống như cát sông Hằng
Với số kiếp như vậy
Sống vì một chúng sinh.
Ta đã làm lợi ích
Cho người tâm kính tín
Còn ai không tín tâm
Ức Phật không thể dạy.

Lúc đó, năm trăm chư Phật đồng thanh nói kệ:

Ngài làm lợi chúng sinh
Và Phật sự đã xong
Hiện đủ các thần thông
Đánh trống Đại Pháp rồi.
Làm sung mãn chúng sinh
Như mây mưa thấm đất
Rút tên độc chúng sinh
Đại tiên nhân họ Thích.

Bấy giờ, Tuệ mạng A-nan, La-hầu-la quỳ gối sát đất dùng kệ thưa chư Phật ấy:

Xin Đại Trượng Phu thỉnh
Để Phật trụ một kiếp
Nhờ oai đức của Phật
Bậc Nhất Thiết Kiến Nhãn.
Bậc Nhị túc Tối Thắng
Đại trí trụ nơi đời
Có nhiều chúng sinh tin
Được lợi không nghĩ bàn.
Khiến Trời, Người tăng trưởng
A-tu-la suy giảm
Thanh văn và Bồ-tát
Nhiều không thể nghĩ bàn.

Lúc này, năm trăm chư Phật ấy nói với Tuệ mạng A-nan và Lahầu-la:

–Này các thiện nam! Các ông chớ quá buồn khóc, chớ quá âu sầu, vì bản tánh là như vậy, pháp đã tận là như vậy, chân thật như vậy, các hành như vậy, tất cả pháp hữu vi, tất cả tác pháp, tất cả pháp thế đều như vậy, chấm dứt là như vậy, chỉ có bỏ thân mạng hành hạnh Như Lai mới là vô lượng. Vì pháp thế đế là như vậy, không được tự tại. Như Lai là pháp thân, chẳng phải thân hữu vi, không có pháp nào trụ ở đời. Các ông không nên thỉnh xin Như Lai trụ ở đời.

Này các thiện nam! Các ông đừng đến cõi Phật của Ta. Vì Thích Ca Như Lai ngay đây sẽ duỗi tay phải ra phóng ánh sáng. Ánh sáng đó chiếu sáng khắp cõi của Ta. Sau khi nơi đó chiếu sáng, các ông trở lại thấy Thích Ca Phật đang đứng trước các ông nói pháp. Cho nên các ông đừng quá âu sầu như thế.

Bấy giờ, Thế Tôn nhập vào Tam-muội. Sau khi trụ trong Tammuội, Thế Tôn liền duỗi tay phải ra, trong bàn tay phải cho đến đầu ngón tay cái. Còn tay trái, các phần của thân cho đến ngàn nan hoa ở trong tướng chân, tướng lưới báu mềm mại trong tay chân, móng màu đồng đỏ và giữa ngón tay có những vằn quý báu đẹp đẽ, tất cả đều phóng ra trăm ngàn ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa trăm ngàn ức hoa sen. Mỗi đài hoa hóa trăm ngàn ức cao tòa sư tử. Trên mỗi tòa hiện một Đức Phật đang ngồi. Mỗi hóa Phật giáo hóa vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh. Trong số đó có vị đắc lậu tận, hoặc có vị đắc ly dục địa. Trong tất cả tướng tốt phát ra ánh sáng như thế, sự tướng đều như vậy. Giữa rốn và tướng âm mã tàng, giữa mặt và hàng lông mi cũng như vậy.

Khi ấy, từ trên đỉnh đầu Thế Tôn phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa trăm ngàn ức hoa sen. Mỗi đài hoa hóa trăm ngàn cao tòa sư tử. Trên mỗi tòa hóa một Đức Phật đang giảng pháp vi diệu. Chư Như Lai ấy không giảng nói pháp nào khác cả, chỉ giảng nói Bồtát Nhật Tạng Tu-đa-la và chương cú Đà-la-ni hoặc giảng rõ ba luân thanh tịnh, các lực, pháp vô sở úy của Như Lai. Nhờ pháp môn này mà mỗi hóa Phật nói mỗi pháp, làm thanh tịnh vô lượng vô biên chúng sinh trụ vào địa Bất Thoái chuyển, hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng.

Khi ấy, ở giữa Ta-la Song thọ, Như Lai nằm trên giường sư tử, hông nghiêng bên phải, hóa một Đức Phật cũng nằm nghiêng bên phải. Sau khi hóa xong, Đức Phật đích thân đi vào đại địa ngục Hoạt. Đến đó, từ thân tướng của Ngài phóng ra ánh sáng chiếu khắp cả địa ngục Hoạt và sau khi dùng ánh sáng chiếu đại địa ngục Hoạt rồi, Thế Tôn nói kệ:

Vô số chúng sinh chết
Luôn trở lại ngục Hoạt
Không bỏ tư tưởng ấy
Nên sinh các khổ não.
Có Thánh nhân ra đời
Thế Tôn làm ánh sáng
Giảng nói các chánh pháp
Diệt trừ các khổ não.
Vô vi cũng vô tận
Vô diệt cũng vô hành
Ai hiểu được như vậy
Không rơi vào đường ác.

Sau khi Như Lai nói kệ, trong khoảng sát-na có ba mươi ức chúng sinh đang chịu khổ não trong địa ngục Hoạt, liền được bỏ thân mạng sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba. Đến cõi trời Ba Mươi Ba Thế Tôn nói lại kệ này. Nhờ thần lực của Phật nên âm thanh vang khắp tất cả các đại địa ngục. Vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh trong cõi địa ngục được bỏ thân sinh lên cung trời Đâu-suất-đà. Sau khi sinh lên cõi trời ấy, hết thảy chúng sinh đều nhớ lại những giáo pháp đã được nghe trước đây và chứng đắc quả A-na-hàm. Các vị trời ấy đã đắc pháp rồi, chứng quả, nhập vào các pháp và cùng nhau nói kệ:

Ví như đường hoang rộng
Có chủ buôn trí tuệ
Cứu thoát nhiều chúng sinh
Bị giặc và ác thú.
Thế Tôn cũng như vậy
Là chủ buôn Vô thượng
Cứu thoát muôn chúng sinh
Bị trói trong sinh tử.
Chúng ta nương tựa Phật
Đại chủ buôn Quang Minh
Có lòng thương xót ta
Cứu thoát các khổ não.
Chúng ta nương tựa pháp
Bản thân ta đã chứng
Chúng ta nương tựa Tăng
Công đức khó nghĩ bàn.

Thế rồi, Đức Thế Tôn dùng ánh sáng mát dịu chiếu khắp địa ngục A-tỳ để trừ diệt những nóng bức khổ não và làm thành tựu ngàn ức pháp, để tất cả đều được an vui, thương xót và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, an ủi hòa nhã, thương xót, vui vẻ, giáo hóa chúng sinh nhập vào ba môn Không: Vô tướng, Vô tác và Vô nguyện, rồi dùng kệ nói với chúng sinh ở địa ngục ấy:

Pháp không và vô tướng
Không sinh cũng không diệt
Nếu ai hiểu pháp đó
Thì thoát khỏi đường ác.

Bấy giờ, có tám trăm ngàn chúng đều được nghe kệ. Bài kệ này được nói ra ba đời mà không bị trở ngại. Các pháp này được chia thành một trăm ngàn loại. Một khi đã lọt vào tai rồi thì làm cho thanh tịnh vi diệu và bỏ thân đại địa ngục A-tỳ sinh lên cung trời Tha Hóa Tự Tại. Ở cung trời Phạm thiên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Chúng sinh rất an lạc
Không có các khổ não
Với danh tướng đã nói
Và các tưởng điên đảo.
Người mạnh nên xả bỏ
Thoát khỏi các khổ não
Các tưởng đều điên đảo
Và chấp tưởng vô sắc.
Ba cõi có gì vui
Luôn luôn bị luân hồi
Chết rồi sống trở lại
Khổ tăng trưởng liên tục.
Ai dùng trí biết không
Cũng không vướng vào không
Tức là người biết không
Không chấp chỗ biết không.
Đã biết nghĩa pháp này
Cũng không có bản ngã
Ngã đã không có rồi
Ở đây có gì khổ.
Không là pháp vô vi
Tướng cũng không thể đắc
Ai hiểu biết vô ngã
Chính là chân Phật tử.

Lúc này, năm trăm ngàn ức chúng sinh, sinh ra nơi nào cũng đều đắc diệu quả thiên tiên vô lậu, liền nhớ lại kiếp trước mình bị khổ trong địa ngục. Lại nhớ đến công đức cao thượng của Như Lai, biết báo ân Phật nên nhập diệt trước, lại không nỡ nhìn Như Lai nhập Niết-bàn. Sau khi đắc quả, các vị trời đồng thanh nói kệ:

Chúng con không nỡ nhìn Đại từ
Điều Ngự Trượng Phu nhập Niết-bàn
Hãy làm ánh sáng cho chúng sinh
Con không nỡ nhìn, nên diệt trước.

Vừa nói xong, các vị trời nhập diệt tại chỗ. Trong khoảng sát-na, Thế Tôn từ cung trời Phạm thiên liền biến mất rồi đến rừng Ta-la Song thọ. Khi ấy Thế Tôn nghĩ như vầy: “Đêm nay Ta nhập Niết-bàn, đây là nhìn chúng sinh lần cuối. Ta hãy làm cho họ vui vẻ để tiêu trừ tất cả khổ, được hưởng an lạc. Ta hãy hiện sức đại thần thông của Như Lai để chúng sinh ấy được vào cửa an ổn, muốn làm sáng rõ Niết-bàn vô dư của Như Lai, vì phù hợp với ý của chư Phật nên hiện thần thông”. Nghĩ vậy xong, Đức Như Lai nằm nghiêng hông bên phải giống như sư tử, không chút gì sợ hãi. Sau khi quán sát tất cả đại chúng khắp mười phương, giống như Đại Long Tượng, Thế Tôn dùng ngón chân cái bên phải chạm đại địa làm phát ra âm thanh lớn, chấn động đủ sáu cách, rung chuyển khắp mười phương, thị hiện ánh sáng vô ngại, không thể nghĩ bàn, chiếu sáng rực rỡ khắp mười phương. Từ các tướng trên thân Như Lai phóng ra ánh sáng lớn. Mỗi lỗ chân lông cũng phát ra Hằng hà sa ánh sáng vi diệu. Mỗi ánh sáng chiếu khắp Hằng hà sa cõi Phật. Ánh sáng không rời nhau mà nhập vào không chút gì trở ngại. Từ mỗi lỗ chân lông lần lượt phóng ra các ánh sáng vi diệu. Như vậy, mỗi lỗ chân lông cứ tuần tự phóng ra ánh sáng và lại chiếu khắp như trước. Lúc ấy, Thế Tôn lại hiện các thần thông. Nhờ thần lực của Phật và sức hộ trì của Phật khiến các chúng sinh được thấy đầy đủ cảnh giới giống như nhìn bằng Phật nhãn. Các chúng sinh trụ vào cõi Phật này đều thấy tất cả cõi Phật, đó là nhờ ánh sáng của Như Lai chiếu.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông thấy thế giới phương Đông có thành dài rộng một ngàn do-tuần và trên dưới cũng lớn rộng như thế. Quốc thành này chứa đầy cả trăm ngàn ức vi trần. Các ông đã thấy chưa?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy.

Phật lại dạy:

–Này các Tỳ-kheo! Các ông nghĩ thế nào số vi trần này có nhiều không?

–Thưa Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

–Này các Tỳ-kheo! Đối với các pháp mà người nào biết được pháp vô vi nhiều như vậy mà không sinh không diệt, vô lậu vô vi thì người biết ấy cứu thoát chúng sinh ra khỏi đường ác. Ngay khi ấy có ba mươi ức chúng sinh đã nghe pháp được đắc quả A-na-hàm. Sau khi được đắc quả, tất cả đồng thanh nói kệ:

Pháp vô vi vô tận
Vô lậu cũng không diệt
Biết Thánh pháp như thế
Chúng con chứng tịch diệt.
Nếu biết được như vậy
Là thật biết các căn
Vì thương xót chúng sinh
Thị hiện pháp nhân duyên.
Như Lai dạy chúng con
Nhổ trừ mũi tên độc
Nhất Thiết Trí ban vui
Rồi cùng vào Niết-bàn.
Đuốc trí cháy nhanh quá
Mắt trí sắp diệt mất
Bị muôn khổ hành hạ
Ra khỏi địa ngục Hoạt.
Thầy thuốc giỏi nhổ tên
Trị bệnh cho chúng sinh
Cứu độ vô số chúng
Không còn nơi đường ác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đứng trên thành địa ngục Hắc Thằng phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp cả đại địa ngục ấy, cứu vớt vô lượng chúng sinh ở đó rồi đưa lên trời. Ở địa ngục Đại Nhiệt Não và địa ngục Nhiệt Não cũng vậy. Đại địa ngục Kiếu Hoán – địa ngục Kiếu Hoán, đại địa ngục Chúng Hợp – địa ngục Chúng Hợp, Ngài cứu vô lượng chúng sinh ở các cõi ấy đặt vào cõi thiện và đạo Niết-bàn. Thế Tôn lại dùng ánh sáng màu vàng ròng chiếu tám đại địa ngục. Nhờ sức ánh sáng ấy làm cho chúng sinh xúc chạm vào thân tâm an lạc, khắp thân thể được thấm nhuần, thân tâm hoan hỷ, khổ não đều tiêu trừ, mắt thấy đến đâu niềm vui đến đó. Do từ bi sinh ra mà làm cho thân an ổn như vậy. Sau khi ánh sáng chiếu khắp đại địa ngục thì diệt trừ được hết sự nóng khổ, được thư thái nhẹ nhàng. Tất cả chúng sinh trong đại địa ngục, nếu ai bị thiêu đốt cháy rực thì làm cho họ được an ổn. Từ các lỗ chân lông theo thứ lớp, Phật phóng ra ánh sáng như vậy.

Lúc này, Thế Tôn dùng ánh sáng lớn che khắp tất cả vô số chúng sinh khiến tâm họ thư thái, thọ nhận pháp khí và đầy đủ vô lượng trăm ngàn công đức. Bằng lời vi diệu mà nói kệ:

Ta cho đời an lạc
Giải thoát các ưu khổ
Bị các khổ hành hạ
Thị hiện đạo Niết-bàn.
Các pháp mà ta nói
Tịch tĩnh, lạc, vô úy
Ai biết pháp như thế
Không đọa vào đường ác.
Ai quy y Đức Phật
Người đó được lợi lớn
Qua trăm ngàn ức kiếp
Không còn bị các khổ.

Như Lai nói kệ xong, trong khoảng sát-na, có chúng Tỳ-kheo và chúng sinh nhiều hơn số trước. Lại có vô lượng vô biên chư Phật nằm trên giường sư tử nghiêng hông bên phải. Chư Thế Tôn ấy ra khỏi giường sư tử rồi trở lại thị hiện thần thông. Lúc ấy, bốn bộ chúng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chư Phật này trong khoảng sát-na nhập Niếtbàn và hiện thần thông giống như Thế Tôn đã hiện hôm nay.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Chư Phật ấy đồng một danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni đều nằm trên giường sư tử giữa cây Song thọ rừng Ta-la nơi vùng đất Lực sĩ. Vào cuối đêm nay sẽ nhập Niết-bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói khắp các Tỳ-kheo ở mười phương: Nam – Tây Nam, phương Bắc – Tây Bắc, phương Bắc – Đông Bắc, phương Đông – Đông Nam và hai phương trên dưới:

–Này các Tỳ-kheo! Các ông thấy vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn ở phương Đông chứng đắc Bồ-đề vô thượng không?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy. Chúng con thấy bằng Thế đế chứ chẳng phải dùng Đệ nhất nghĩa đế.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ví như vi trần đầy khắp bốn thiên hạ, từ nền Kim cang cho đến cung trời Phạm thiên. Này các Tỳ-kheo! Ý các ông thế nào? Có người nào biết số đó không? Nếu dùng ví dụ thì có thể biết số đó không?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không. Không thể biết được.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ví như vi trần mà trên đây đã ví dụ, vậy bốn thiên hạ thế giới, trăm ngàn ức thế giới đều chứa đầy vi trần – thì này các Tỳ-kheo, tất cả vi trần như vi trần ấy, Ta dùng nhục nhãn đều thấy tất cả. Chư Phật Thế Tôn ở thế giới này trụ tại phương Đông, mỗi bước trên mặt đất chỉ dùng nhục nhãn không ngăn ngại, không phân biệt thì thấy thế giới trước mặt như đã nói vừa rồi. Như vậy phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc trên dưới cũng như vậy.

Này các Tỳ-kheo! Ví như các thế giới trong bốn thiên hạ có trăm ngàn ức vi trần đầy khắp, từ nền Kim cang cho đến cung trời Phạm thiên. Mỗi phương có bao nhiêu vi trần thì có bao nhiêu chư Phật Thế Tôn. Ở mỗi phương, Ta đều thấy chư Thế Tôn ấy ngồi nơi đạo tràng. Có vị đã ngồi hoặc mới ngồi. Hết thảy chư Phật Thế Tôn ấy đồng một danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, có vô lượng chư Phật đồng một danh hiệu Phật Nhiên Đăng. Ta thấy có chư Phật Thế Tôn với danh tiếng hơn tất cả mà cũng đồng hiệu. Như vậy tất cả chư Phật đồng danh hiệu Liên Hoa Thượng, cũng như chư Phật trên đồng một danh hiệu. Những vị danh xưng trên đồng một danh hiệu như danh hiệu Phật Câulưu-tôn, đồng một danh hiệu Phật Câu-na-hàm, đồng một danh hiệu Phật Ca-diếp. Như vậy các Đức Phật đồng một danh hiệu, ở đây ta đều thấy rõ. Đối với thế gian ta đã đắc tối thắng, pháp vi diệu, pháp vô cực. Nếu ai khen ngợi danh hiệu đó đều được căn lành, những danh hiệu của chư Phật đó nhiều vô lượng như vậy. Ở đây, Ta đều thấy rõ chư Phật Thế Tôn ấy. Như vậy hết thảy danh hiệu hiện tại ở thế gian như có vị nhập vào Niết-bàn vô dư, có vị còn trụ ở đời đang chuyển pháp luân, ở đây Ta đều thấy rõ. Với nhục nhãn vô ngại của Ta đều thấy được như trước mắt.

Này các Tỳ-kheo! Như Lai lại siêu việt hơn sự hiểu biết ấy. Sự hiểu biết siêu việt không thể nghĩ bàn, lại vô lượng vô biên sự không nghĩ bàn. Lại có vô lượng vô biên những tri kiến vô lượng ấy.

Này các Tỳ-kheo! Vì nghĩa đó mà Như Lai có vô biên tri kiến. Như vậy, vô biên không thể tính đếm được. Vậy không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn, chỉ dùng nhục nhãn còn thấy, huống gì dùng hết trí pháp của chư Phật.

Này các Tỳ-kheo! Ví như tất cả chúng sinh tại gia hay xuất gia trong cõi này. Giả sử họ đều chứng Bồ-đề vô thượng, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy. Chư Thế Tôn ấy được một thiện nam đem bốn món cúng dường thờ phụng, tôn trọng, cung kính dư một kiếp. Những vật cụ, những sự trang nghiêm nhiều vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Lại có thiện nam, thiện nữ có lòng tin vào những pháp môn mà hết thảy chư Phật đã nói ra cho Ta hiển hiện, thậm chí chỉ trong một niệm sinh tư tưởng chân chánh không có tâm nghi ngờ thì công đức của người khi phát tâm gần bằng công đức của chư Như Lai, lại vượt hơn tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, chứng đắc Nhất Thiết Trí của chư

Phật. Trải qua nhiều kiếp cúng dường đạt được phước đức tuy nhiều nhưng không bằng người chỉ trong một niệm mà có lòng tin pháp môn này. Nếu có Bồ-tát tin trí này thì vị ấy gần chứng Bồ-đề vô thượng.

Khi Thế Tôn nói công đức của nhục nhãn này thì có sáu mươi hai ức chúng sinh hồi hướng lên ngôi Bồ-đề vô thượng lại sinh thoái tâm. Vì sao? Vì Bồ-đề vô thượng của Phật khó chứng đắc. Ở đây chúng ta chỉ diệt tận các khổ chứng quả lậu tận. Lại có vô lượng vô biên chúng sinh trụ ở học địa. Lại có mười na-do-tha Bồ-tát thành tựu sự phát tâm Bồ-đề đầu tiên. Có ba mươi hai ức Bồ-tát đắc pháp nhẫn Vô sinh. Khi ấy Ma vương Ba-tuần sững sốt khổ não khóc giàn giụa thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con làm gì để Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác sớm nhập Niết-bàn làm cho vô lượng vô biên chúng sinh ra khỏi cảnh giới của con. Bạch Thế Tôn! Nay mặt trời sáng phương Đông chưa xuất hiện. Những Phật sự đã làm trụ một kiếp hay gồm một kiếp cũng chưa có thể hơn sự lợi ích độ thoát số chúng sinh này. Đó là làm cho họ trụ vào đạo Niết-ban . Ngày nay, Như Lai làm cho cảnh giới của con đều trống không.

Sau khi ma Ba-tuần nói vậy, Đức Phật dạy:

–Các người chớ khóc lóc. Này Ba-tuần! Ngươi còn có những kẻ không làm việc thiện và không có lòng tin. Đó là bạn bè của ngươi đang ở trong cảnh giới của ngươi. Ngươi là bạn của chúng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng móng tay lấy bụi trên mặt đất rồi nói với Ba-tuần:

–Này Ba-tuần! Ý ngươi thế nào? Bụi trên móng tay Ta nhiều hay là bụi trên mặt đất nhiều?

Như Lai vừa nói xong, Ba-tuần thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bụi trên móng tay rất ít, không đáng nói.

Ba-tuần thưa xong, Phật dạy:

–Ví như bụi đất trên móng tay rất ít. Chúng sinh mà Phật độ nhập Niết-bàn lại ít hơn bụi đất trên móng tay này. Ví như bụi đất trên đại địa nhiều vô lượng vô biên, chúng sinh trong cảnh giới của ngươi cũng nhiều vô lượng vô biên. Này Ba-tuần! Ngươi đừng buồn rầu mà phải hoan hỷ lên. Vì chúng sinh trong cảnh giới của ngươi nhiều như bụi trên mặt đất này. Này Ba-tuần! Nhưng chúng sinh tự tạo nghiệp bất thiện, cách xa Niết-bàn, chứ chẳng phải do ngươi làm ra. Vì sao? Vì cõi chúng sinh không có biên vực. Này Ba-tuần! Ngươi muốn làm gì thì cứ làm. Vào cuối đêm nay, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Này các Tỳ-kheo! Các ông thấy chư Phật ở thế giới này không?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Các cõi Phật này nhiều vô lượng. Các ông thấy biết sự trang nghiêm của cõi Phật này không? Có thấy sự trang nghiêm thanh tịnh của các Bồ-tát không? Có thấy sự trang nghiêm của các Thanh văn không?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Chúng con đã thấy.

Phật lại dạy:

–Như Lai đã thấy biết như vậy, gấp bội sự thấy biết ở trên. Lại liễu tri vô lượng hơn đó nữa.

Này các Tỳ-kheo! Giả sử trong một kiếp Ta nói về sự trang nghiêm của cõi Phật như vậy thì Ta thấy thế giới mười phương cũng như vậy. Giả sử một trăm kiếp, ngàn kiếp, ức số kiếp, na-do-tha kiếp, thí dụ gấp bội hay phân biệt nhiều đi nữa cũng không nói hết. Nhưng này các Tỳ-kheo, những việc làm của đấng Đạo sư làm thì Ta đã làm cho Thanh văn rồi, Ta cũng đã nói với tất cả mọi nơi rồi. Ta đã chỉ rõ các pháp nội – ngoại và thị hiện chân tâm cũng đã nói hết. Chư Phật không còn giữ riêng một pháp nào cả. Không có việc gì mà không sáng suốt, thậm chí một cọng cỏ, sợi lông mảy tóc, Ta cũng đều cho. Các Tỳ-kheo! Từ nay trở đi nên tu như pháp, siêng năng tu hành. Ta đã thị hiện Niết-bàn cho các ông. Ta đã nói đạo Niết-bàn cho các ông rồi và đã thành tựu căn lành cho chúng sinh. Ta được chứng đắc Bồ-đề vô thượng chính là nhờ xưa kia Ta đã tu hành những hạnh rất khổ mà thế gian khó hành, nên ngày nay đối với Đại pháp ấy, các ông nên thọ trì đầy đủ, đừng để chìm mất. Các ông nên tu hạnh như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn hiện đại thần thông, tất cả chư Phật ở mười phương nói pháp và chỗ nói pháp thì chúng sinh ở cõi này đều được nghe biết. Tất cả những lời răn dạy của chư Như Lai ấy làm cho hết thảy giáo pháp mà chúng sinh giữ gìn đều đã chứng tri. Lại có Hằng hà sa chúng sinh trụ vào Tam Chủng Trí. Có mười ức trăm ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề trụ vào Chánh giác Vô thượng. Có mười trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh trụ vào địa Phật-bích-chi. Còn các chúng sinh khác chứng đắc lậu tận. Lần lượt như vậy vô lượng vô biên a-tăngkỳ không thể đếm, không thể lường, không nghĩ bàn, có na-do-tha chúng sinh sau khi nghe pháp này đều được lợi ích lớn.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Này các Tỳ-kheo! Các ông nên biết không còn bao lâu nữa Ta sẽ Niết-bàn. Các ông nên bảo vệ giữ gìn giáo pháp của Như Lai vì lợi mình và lợi người. Tỳ-kheo các ông nên tu học như vậy.

Sau khi nghe Phật giảng nói kinh này xong, A-nan và Trời, Người, Rồng, A-tu-la, Càn-thát-bà v.v… tất cả thế gian đều đảnh lễ phụng hành.

Pages: 1 2 3