KINH TÔ MA HÔ ĐỒNG TỬ THỈNH HỎI
KINH SỐ 895B
Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Phụng Đại Phu Thí Hồng Lô Khanh_ Truyền Pháp Đại Sư (kẻ bầy tôi là) THI HỘ phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
BẠN LỮ PHẦN THỨ NHẤT
Bấy giờ Chấp Kim Cương Bồ Tát Đại Dược Xoa Tướng có dáng tôn nghiêm đáng sợ vượt hơn cả ngàn mặt trời, nhất Tâm mà trụ. Thời đấng Đại Bi Tô Ma Hô Đồng Tử (Subāhu-kumāraka: Diệu Tý Đồng Tử) từ chỗ ngồi đứng dậy, chân thành đỉnh lễ bàn chân của Bồ Tát Chấp Kim Cương (Vajra-dhāra), muốn hỏi Pháp thành tựu (Siddhi-dharma) của các vị Minh Chủ (Vidyādhipati) với nhóm Chân Ngôn (Mantra), cho nên nói lời như vầy: “Tôi thấy Thế Gian có người cầu Chân Ngôn, hạn chế việc ăn uống, trì tụng, chuyên Tâm siêng năng chịu khổ… Tu hành như vậy nhưng chẳng thành tựu. Nguyện xin Tôn Giả (Ayuṣmat, hay Sthavira) phân biệt, giải nói Nhân Duyên (Hetu-pratyaya) chẳng thành tựu.
Tôn Giả có Uy Đức như ánh sáng mặt trời tràn đầy, đã diễn bày Chân Ngôn hay phá các sự mờ tối, lại hay vệ hộ với diệt các tội. Vì sao tu Nhân (Hetu) lại chẳng được Quả (Phala)?!…Giả sử có tu đầy đủ mọi loại Tất Địa (Siddhi) thuộc Phẩm Thượng Trung Hạ của Chân Ngôn đã mong cầu, nhưng chẳng thành tựu!…Nếu đã y theo Pháp (Dharma) mà chẳng thành tựu thời liền vứt bỏ Chân Ngôn mà thuận theo Vô Minh (Avidya). Đức Phật nói dùng Tuệ (Prajñā) đắc được Tịch Diệt (Vyupaśama), dùng Si (Moha) che Tuệ thì chẳng thể chữa bệnh được. Nếu nói Chân Ngôn chẳng được thành tựu thì cũng như người che lấp Tuệ, không có thể chữa trị được. Nguyện xin Tôn Giả dùng Đại Bi (Mahā-kāruṇa) diễn bày Chân Ngôn, cứu thoát chúng sinh. Nếu kẻ kia niệm tụng kèm làm hộ hồng ma (Homa) thời vì sao vị Minh Chủ chẳng ban cho thành tựu? Vì Pháp chẳng đủ, vì không có sức lực ư? Vì do thời tiết, vì có tội ư? Vì Chân Ngôn có sự thêm bớt ư? Nguyện vì chúng sinh, phân biệt giải nói”.
_Thời Chấp Kim Cương Bồ Tát Đại Dược Xoa Tướng trực tiếp nghe Diệu Bạc (Subāhu: Diệu Tý) hỏi như vậy xong, trong khoảng thời gian ngắn (tu du: Murhūta) nhắm mắt lại suy nghĩ, liền chuyển bàn tay cầm Bạt Chiết La (Vajra: chày Kim Cương) màu nhiệm, mắt lộ tướng vui vẻ, nhìn kỹ rồi nói lời như vầy: “Lạ thay! Thương xót các loài chúng sinh giống như ánh sáng mặt trăng chiếu khắp Thế Gian. Do duyên (Pratyaya) với Tâm rất thanh tịnh này của ông, cho nên đã vượt hẳn tất cả các vị Đại Bồ Tát (Mahā-bodhisatva). Vị Bồ Đề Tát Đỏa (Bodhisatva:Bồ Tát) chẳng mong cầu niềm vui cho riêng mình, vì lợi hữu tình cho nên hay nhẫn chịu được nỗi khổ lớn. Chính vì thế cho nên Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh đau khổ thì Bồ Tát cũng đau khổ, nhìn thấy chúng sinh vui thích thì Bồ Tát cũng vui thích
Ta biết Tâm của ông. Cuối cùng chẳng vì mình mà vì lợi cho chúng sinh, cho nên phát ra câu hỏi như vậy. Thế nên trong phút chốc, nhất Tâm suy nghĩ, Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói Pháp Chân Ngôn màu nhiệm. Ông hãy nghe cho kỹ! Nếu có trì tụng Pháp Chân Ngôn của Ta thì nên làm như vầy
Trước tiên, đối với chư Phật phải khởi sự cung kính sâu xa. Tiếp theo, phát Tâm Vô Thượng Đại Bồ Đề, xa lìa nhóm Tham (Lobha, hay Rāga), Sân (Krodha, hay Dveṣa), Si (Moha), Kiêu Mạn (Adhi-māna). Lại đối với Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) nơm nớp ôm giữ sự tôn trọng, cũng nên chân thành sâu xa cung kính Ta cùng với tuân sùng Đại Kim Cương Bộ (Mahā-vajra-kulāya). Cần phải xa lìa sự giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thêu dệt phù phiếm, nói lời ác, nói hai lưỡi, cũng chẳng uống rượu với ăn thịt
Nếu có chúng sinh thực hành Tà Kiến (Mithyā-dṛṣṭi) tuy đem thân, miệng, ý làm Nghiệp tốt lành (Thiện Nghiệp: Kuśala-karma), do Tà Kiến cho nên biến thành việc chẳng tốt lành (bất thiện: A-kuśala), được quả tạp nhiễm. Ví như đồn điền y theo thời tiết làm, nếu hạt giống bị khô héo thì cuối cùng chẳng sinh ra mầm được. Kẻ ngu si Tà Kiến cũng lại như vậy, giả sử thực hành điều Thiện thì cuối cùng chẳng được quả. Chính vì thế cho nên cần phải xa lìa Tà Kiến, luôn y theo Chính Kiến (Samyag-dṛṣṭi) mà chẳng dao động, thường nên tu hành mười Pháp tốt lành (Thập Thiện Pháp: Daśakuśala-karmāṇi), tăng trưởng Pháp vi diệu thâm sâu.
Nếu có hàng Trời, Rồng, A Tu La với nhóm loại của các Quỷ ăn máu thịt…du hành Thế Gian tổn hại hữu tình, quấy rối người tu hành khiến cho thoái Tâm. Muốn khiến cho nhóm ấy chẳng gây tổn hại thì cần phải vào Pháp Đại Tam Muội Gia Mạn Trà La (Mahā-samaya-maṇḍala) này, nơi mà các chúng Đại Thánh cũng với chư Thiên đã cư trú. Thế nên gọi là Đại Mạn Trà La (Mahā-maṇḍala); cũng lại nên vào làm các việc Pháp, Diệu Mạn Trà La (Su-maṇḍala). Do tồi phục các loài gây chướng khiến cho điều phục, thế nên ân cần như Pháp đi vào. Cũng nên vào Tối Thắng Minh Chủ Đại Mạn Trà La chẳng nên gián đoạn. Ví như cỗ xe nếu thiếu vành bánh xe dầu sai người khéo điều khiển, cuối cùng chẳng thể đi được. Pháp Giới Vô Thắng cũng lại như vậy. Giả sử siêng năng thực hành, cuối cùng chẳng tăng trưởng.
Người cầu thành tựu, lại cần Thắng Bạn (bạn thù thắng). Song bạn lữ ấy cần có đủ Tuệ, tịnh khiết, đoan nghiêm, sinh trong nhà dòng tộc, y theo Pháp cứng mạnh điều phục các Căn, nói lời đáng yêu, ưa thích buông xả, đủ Đại Từ Bi, hay chịu đựng được sự đói khát với các khổ não, chẳng quy y hàng Trời khác cùng với cúng dường, thông minh khéo léo, thường ôn giữ Nhân Nghĩa; ở chỗ của Tam Bảo, thâm tâm cung kính. Người có Đức Hạnh đủ trang nghiêm như vậy thì ở thời này rất khó gặp được. Nếu người có đủ căn lành, có Đức Hạnh thì nên tìm cầu người bạn như vậy.
TÔ MA HÔ THỈNH HỎI PHÂN BIỆT NƠI CHỐN PHẦN THỨ HAI
Lại nữa, Hành Giả nếu muốn trì tụng Chân Ngôn mau thành thì nên ở chỗ mà chư Phật đã từng cư ngụ, hoặc ở chỗ mà Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã trụ. Trú Xứ như vậy thường được các hàng Trời, Rồng cúng dường với vệ hộ. Thế nên Hành Giả muốn tịnh Thân Tâm, thường đủ Giới Nghi, thường nên cư trú ở Thắng Xứ như vậy
Nếu chẳng gặp Phước Địa như vậy thì cũng nên dừng ở bên bờ con sông lớn, hoặc gần con sông nhỏ, hoặc trụ ở ao hồ có hoa thơm đẹp xum xuê, với lìa nơi tụ họp ồn ào. Nước ở đấy luôn luôn tuôn chảy trong trẻo đầy tràn, không có các động vật sinh sống dưới nước với loài trùng độc ác. Hoặc ở sườn núi, nơi nhàn tịnh có cỏ mềm mọc đầy mặt đất, hoa quả dư thừa. Hoặc trụ ở trong núi với trong hang đá không có các loài thú độc mạnh mẽ đáng sợ.
Nhóm đất như vậy đều nên đào xới, sâu khoảng một khuỷu tay kèm trừ bỏ hết thảy gai góc, gạch, đá vụn, vỏ trấu, xương, lông, tóc, tro, than, vị mặn với các tổ côn trùng…cho đến đào sâu xuống. Nếu chẳng cùng tận thì cần phải bỏ đi, tìm nơi chốn khác.
Chỗ đã đào xới nên dùng đất sạch lấp lại cho đầy. Ở trên đất ấy dựng lập Tinh Thất kiến thật bền chắc.
Như trên đã nói Diệu Tam Muội Gia khiến diệt tội, cho nên luôn phải nhập vào (tu nhập), cũng nên phải nhập vào Diệu Mạn Trà La của nhóm Sứ Giả (Ceṭaka) với vô lượng nhóm Minh Chủ Phi khác.
Như vậy vào khắp nhóm Phước, Mạn Trà La là nơi mà các Minh Chủ đã cư trú thời tất cả các Ma từ xa nhìn thấy người ắt Tâm ôm ấp sự sợ hãi đều tự chạy tan.
Do luôn vào các Mạn Trà La ấy, nên Uy Lực của chúng Thánh gia hộ người đấy, các Ma nhìn thấy thân kẻ ấy như Kim Cương, lại thấy nơi cư trú như đám lửa, nên thảy đều chạy tan, chẳng dám gây hại. Mau được thành tựu Chân Ngôn của các Minh Chủ mà Thế Gian (Loka, hay Laukika) đã nói với Xuất Thế Gian (Lokottara)
Nếu chẳng vào Đại Mạn Trà La này, chẳng đủ Từ Bi với Tâm Bồ Đề, chẳng kính chư Phật, quy y hàng Trời khác mà niệm trì Pháp của Ta, tức tự hại mình.
Nếu người niệm tụng chẳng thể làm vào khắp cả (Āviśa: Biến Nhập) các Mạn Trà La thì ở bên trong, tùy làm một Tam Muội Gia (Samaya), Tâm sâu xa cung kính, cũng cần phải tu nhập vào loại Dược Xoa (Yakṣa) với Địa Cư Thần (Bhūmy-avacaradevatā), Long Vương (Nāga-rāja), Võng Lượng với các Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) ác, Mãnh Hại Thiên…. chẳng thể gây não loạn người trì Giới. Ví như mầm giống tuy y theo đất sinh ra, do siêng năng tưới rót mới được tươi tốt. Thắng Pháp y theo Giới cũng lại như vậy, dùng Từ (Maitra) tưới rót khiến cho mầm thiện lành sinh
Đức Thế Tôn đã nói Pháp Biệt Giải Thoát (Prātimokṣa), Thi La (Śīla: Giới) thanh tịnh đủ nên tu hành. Nếu là Tục Lưu (người tại gia) đều trừ Tăng Phục (quần áo của chư Tăng) ra, tự Luật Nghi (Saṃvaraḥ) khác thảy đều nên hành. Như vậy xa lìa Pháp nhiễm, đầy đủ căn lành, diễn bày Giáo Môn, trì tụng Chân Ngôn, nếu sinh mệt mỏi thì nên đọc Kinh Điển Đại Thừa vi diệu.
Lại vì diệt tội, thường ở Không Nhàn (nơi vắng lặng) với nơi thanh tịnh. Hoặc dùng bùn thơm, hoặc lại ấn cát tạo lập Chế Đa (Caitya: cái tháp) bên trong an bài Kệ “Duyên Khởi Pháp Thân”, hoặc Xá Lợi (Śarīra) với trước Tôn Tượng dùng vòng hoa, hương đốt, hương xoa bôi, hoa, đèn, phướng, phan, lọng… với Diệu Tán Thán, thành Tâm cúng dường.
Thường làm cúng tế khác (tức Bà La Môn), như sáu Pháp này là Bản Tông của ngươi, nên trở lại phụng sự lửa với phụng sự vua, cũng nên lấy vợ sinh con nối dòng. Ngươi hành Pháp này mới được giải thoát. Tại sao lại trì tụng Chân Ngôn của Thích Giáo?!…
Nếu Hành Giả là Tộc chủng Sát Lợi (Kṣatriya) thì người kia đem đến nạn này: Ngươi là giống loài của Tộc Tính Sát Lợi, là Bản Tông của ngươi, nên trở lại kế thừa tồi phục Oán Địch. Ngươi hành Pháp này mới được giải thoát, ngươi chẳng nên học Chân Ngôn như vậy.
Nếu Hành Giả là giống loài Tỳ Xá (Vaiśya) thì người kia đem đến nạn này: Ngươi là giống loài Tỳ Xá hèn kém, nên làm các việc: cày bừa ruộng đất với nuôi dưỡng súc vật, kinh doang cầu lợi. Ngươi chẳng hợp với việc trì tụng Chân Ngôn.
Nếu Hành Giả là giống loài Thủ Đà (Śūdra) thì người kia đem đến nạn này: Ngươi là giống loài Thủ Đà rất hèn hạ, thường nên cúng dường Bà La Môn trong sạch, tại sao ngươi
Dùng mọi loại các nạn của nhóm như vậy, gây não loạn Hành Giả khiến cho thoái lui Tâm. Nhóm Ngoại Đạo ấy chẳng những trực tiếp gây tổn hại cho kẻ khác mà cũng tự gây tổn hại cho mình.
Pháp của Ngoại Đạo vẫn ăn quá giờ Ngọ, người tu Thánh Đạo chẳng đồng với điều ấy. Bởi thế chẳng nên đến nhà của Ngoại Đạo mà xin thức ăn.
Nếu luận về Pháp Thiện Ác, Nhân Quả thì giống loài Bà La Môn có Trí, không có Trí với nhóm Tỳ Xá, Thủ Đà đều ngang bằng nhau, không có sai biệt mà chỉ do Thế Gian vọng phân biệt, giả lập Tỳ Xá với Bà La Môn, Thủ Đà. Nếu hay tu Thiện sẽ chứng Niết Bàn, Sát Lợi gây tội cũng chẳng miễn trừ đường ác được.
_Lại nữa, chúng sinh từ vô thủy đến nay thì thân cấu uế chẳng phải do ăn thức trong sạch mà thân tâm được thanh tịnh. Chặt đứt nghiệp ác, tu các Pháp thiện mới có thể được thân tâm thanh tịnh. Ví như có người, thân bị tên bắn gây mụn nhọt, thì chỉ nghĩ đến việc: dùng thuốc, vật xoa bôi khiến cho khơi thông lỗ hổng cho (máu mủ) chảy ra để chữa trị cho khỏi
Cái thất ấy, an cửa ở phương Đông, Tây, Bắc… chỉ trừ mặt phía Nam thì chẳng nên làm cửa. Dựng lập cái thất xong, dùng phân bò xoa bôi trong cái thất ấy, tùy theo việc Pháp kia mà dùng phương tương ứng, an trí Tôn Tượng. Dung mạo của các Tôn ở chỗ ấy dùng màu sắc tô vễ, điêu khắc hoặc đúc thành.
Tranh vẽ ấy nên dùng tơ lụa trắng mịn màn chưa từng dùng qua, nhờ người thợ giỏi dệt thành, đừng cắt đứt hai đầu tấm vải. Trước tiên nên giặt rửa sạch sẽ. lại dùng nước thơm rưới vảy. Màu sắc tô vẽ, chẳng nên hòa với keo nấu bằng da thú… đem để trong vật khí mới, dùng lông bò làm bút, người vẽ màu ấy tắm gội thanh tịnh, nên thọ tám Giới như Pháp mà vẽ.
Tượng thành rồi, nên dùng hương xoa bôi, hương đốt, vòng hoa, thức ăn uống, đèn sáng… tán thán lễ bái., rộng cúng dường xong. Sau đó thì việc đã mong cầu mau được thành tựu.
Lại nữa, nếu Hành Nhân là người thế tục, cũng nên cạo đầu thì giữ lại phần tóc trên đỉnh đầu. Mặc quần áo nhuộm đất màu đỏ, hoặc mặc quần áo màu trắng với dùng áo bện bằng cỏ…hoặc mặc áo bằng vỏ cây, áo cỏ thô, áo vải. Cũng nên thọ trì bốn loại Ứng Khí (Patra: cái bát dùng để khất thực) là nhóm bát lằm bằng gỗ, sắt, gạch nung…rất ư tròn trịa, kín mịn không có sứt mẻ kèm chẳng được dò rỉ. Nên ôm vật khí này tuần tự đi xin thức ăn. Nơi cư ngụ cách thôn ấp ấy chẳng xa chẳng gần với chỗ ở của nhiều người, không có các Ngoại Đạo với thức ăn uống dư dả, thường ưa thích Tuệ Thí, quy tín Tam Bảo
Thế nhưng, Ngoại Đạo phá hoại, Ngã Mạn dựa vào Phước là Hào Tộc (dòng tộc hơn người) lại không có Từ Bi, hoặc thấy Hành Giả niệm tụng Pháp của Thích Giáo (Phật Giáo) dùng Tâm giận dữ gây não loạn. Nếu Hành Giả là dòng Bà La Môn thì kẻ ấy đến vấn nạn rằng: “Ngươi là dòng Bà La Môn tịnh hạnh, vì sao như Ta trì tụng Chân Ngôn của Thích Giáo? Ngươi nên tự học với dạy bảo người khác, tự thọ nhận của bố thí”
Cúng tế Thiên Thần, dùng Diệu Hoa cũng được, ấy là nhóm hoa sen xanh, hoa sen hồng với mọi loại hoa tạp mà ý ưa thích. Đi, đứng, ngồi… lập thông có thể niệm tụng, chỉ trừ khi nắm thời chẳng hứa tụng trì. Niệm tụng xong rồi, luôn nghĩ đến sáu niệm, quán sát mọi loại Công Đức của nhóm ấy.
TÔ MA HÔ THỈNH HỎI TƯỚNG CỦA PHÁP PHẦN THỨ BA
_Lại nữa, tất cả phiền não của nhóm tham cùng với Tâm tương ứng, gõi là sinh tử. Nếu trừ phiền não thì Tâm được thanh tịnh, chư Phật nói ấy là giải thoát. Ví như nước trong sạch ắt không có dơ bẩn, do bụi bặm nên khiến cho nước vị vẩn đục. Tâm Tính sạch trong cũng lại như vậy, do Khách Trần phiền não vẩn đục Tâm khiến cho vấy bẩn
_Lại nữa, Sổ Châu (tràng hạt) có nhiều loại làm Duyên: hạt Hoạt Nhi, hạt sen, Lộ Đà La Khất-Sa, thủy tinh, đồng, thiếc, hạt Mộc Hoạn, Lưu Ly, vàng, bạc, sắt… số ấy hơn một trăm, tùy chọn lấy một loại dùng làm sổ châu (tràng hạt), thành tâm cầm nắm như Pháp niệm tụng. Dùng hai tay cầm tràng hạt ấy tụng, hoặc dùng tay phải, hoặc dùng tay trái. Khi Chân Ngôn sắp xong thời nên chuyên Tâm tụng trì, đừng sai lầm thác loạn, cột buộc Tâm nơi Tôn (Bản Tôn) hoặc nơi Chân Ngôn cùng với Thủ ấn. Điều phục các Căn, ngồi ngay thẳng trước mặt Tôn, Tâm chẳng tán loạn, hơi động hai môi, niệm trì Chân Ngôn. Tâm này giống như gió, điện, khỉ vượn… lại như sóng biển, sóng hồ dao động quanh co, tự tại ham dính các Cảnh. Chính vì thế cho nên cần nhiếp Tâm chẳng tán loạn, trì tụng Chân Ngôn.
Nếu sinh mệt mỏi, hôn trầm, mê ngủ khiến Tâm tán loạn thì nên đứng dậy Kinh Hành (Caṅkramana), hoặc quán sát bốn phương, hoặc dùng nước rửa mặt khiến cho tỉnh táo. Nếu Hành Giả sinh Tâm đời động, liền nên làm như vậy để đối trị.
Tân này không có chủ. Do Nghiệp lưu chuyển tất cả các nẻo, không có nơi nương tựa. Sau khi buông xả thân này, lại nhận lấy hình ác. Nghiệp ác ấy nhân vào đây mà chẳng dứt, khổ : sinh, già, bệnh, chết, lo lắng, buồn rầu; khổ vì yêu thương mà bị cách biệt, khổ vì mong cầu chẳng được, khổ vì oán ghét mà cứ phải ở chung với nhau, khổ vì năm Uẩn hưng thịnh… tùy theo phương đã đến, cuối cùng chẳng được miễn trừ
Muỗi mòng, lạnh, nóng cùng với đói khát… nhóm khổ như vậy, nơi nơi đều có. Vì Tâm muốn chuyển, mới dùng cách này để đối trị”. Nếu tham (Rāga) muốn hưng thịnh thì nên tu quán xương trắng (bạch cốt quán). Hành Giả ăn uống cũng lại như vậy, chỉ trừ đói khát chứ chẳng ưu thích điều này.
Ví như có người đi vào bãi sa mạc sâu hiểm, bị đói khát bức bách nên ăn thịt con nhỏ. Hành Giả ăn uống cũng lại như vậy, chỉ trừ bệnh đói chứ chẳng vướng mùi vị ấy.
Ví như cân vật, tùy theo sức nặng mà đầu cân hạ xuống, nếu vật ấy nhẹ tức đầu cân cao lên, nếu vật quân bình thì cái ân ấy cũng ngang bằng. Hành Giả ăn uống cũng lại như vậy, chẳng được nhiều quá, chẳng nên thiếu quá.
Ví như căn nhà hư nát thời muốn nghiêng đổ. Vì chẳng cho hoại, nên dùng cây cột chống giữ. Hành Giả ăn uống cũng lại như vậy, chỉ vì giữ thân chứ chẳng tham mùi vị ấy.
Lại như cái xe di chuyển, nên dùng dầu xoa bôi. Vì tăng điều thiện lành cho nên cần ăn uống.
Chính vì thế cho nên Đức Thế Tôn nói Pháp như vậy, hữu tình ở cõi Dục (Kāmadhātu: Dục Giới) y theo thức ăn mà trụ.
Hành Giả quán Thân giống như cây chuối, đối với thức ăn uống, chẳng tham mùi vị của nó. Đối với bốn loại bát, tùy chọn lấy một thứ. Khi tuần hành khất thực thì quán phía trước khoảng bốn khủy tay. Đức Thế Tôn đã nói Trí Tuệ (Prajñā), Phương Tiện
(Upāya), điều phục sáu Căn đừng khiến cho phóng dật
Người nữ khiến cho sắc đẹp, cười xảo quyệt, nói lời giả dối, Tính yêu thích khoe sự trang điểm, bước đi, tư thái chuyển động xinh đẹp … mê hoặc Tâm người nam khiến cho say loạn. Giống như Tự Tính thành tựu Chân Ngôn, chẳng thà dùng lửa mạnh nung nóng cây thẻ sắt đâm chọc hai con mắt khiến cho không nhìn thấy, chứ chẳng dùng Tâm loạn quán nhìn mọi loại tướng mạo xinh đẹp của người nữ
Tùy theo Duyên đi xin thức ăn, đừng sinh trụ dính. Dùng sự suy nghĩ chính đúng (chính tư duy) điều phục Tâm ấy. Dùng hạnh Mâu Ni đi vào nhà người khác, chẳng lựa chọn nhà bậc thượng, bậc trung, bậc hạ, nghèo hèn. Lại chẳng nên vào chỗ có người mới sinh đẻ với nơi có nhiều người uống rượu, nơi có dâm nam dâm nữ phóng dật, nơi có nhiều con nít chơi đùa, nơi có hôn lễ, nơi có chó ác, nơi có nhiều người tụ hội bàn luận với nơi tấu âm nhạc để vui chơi…Đừng nên đi đến những nơi như bên trên
Xin được thức ăn xong, liền quay về chỗ cũ, dùng nước rửa chân, chia thức ăn làm ba phần: một phần cúng dường Bản Tôn, một phần thông không có ngại, một phần tự ăn
Y theo Thời mà ăn, một ngày tắm gội ba lần. Lại hiến hương, hoa, hương xoa bôi, khen ngợi… ba Thời đừng khuyết thiếu. Thức ăn cúng dường, đừng nên tạp uế. Khi niệm tụng thời nên ngồi trên cỏ tranh
Nếu Tâm chẳng làm được các vật cúng dường, chỉ phụng Bất Cộng Trụ (chẳng cùng trụ chung với nhau). Nếu Hành Giả suy nghĩ điều chẳng tốt lành thì nên mau chóng xa lìa…cũng lại như vậy cho đến một niệm chẳng giữ tại Tâm, ví như bên trong nhà thắp đèn đuốc, vì ngăn chận gió cho nên lửa đèn chuyển sáng, trì tụng Chân Ngôn lại thêm siêng năng mạnh mẽ thì Pháp lành tăng trưởng cũng lại như vậy
Lại nữa, Hành Giả nên đầy đủ Uy Nghi, chẳng được vỗ tay tấu âm nhạc, ca múa, hôn lễ, diễn kịch với đi đến nhìn ngó. Cũng chẳng chê bai Tại Gia (Gṛha-stha) Xuất Gia (Pravrajyā) với Mạn (Māna), Quá Mạn (Ati-māna), hợp nhau, khắc nhau cùng với lừa dối, ngủ say chẳng đúng thời, đàm luận điều vô nghĩa, tìm học văn chương với các Tà Pháp, giẫn dữ, uất hận, tham lam, kiêu mạn, phóng dật, lười biếng… đều nên xa lìa. Cũng chẳng ướng rượu cùng với ăn thịt, hành, tỏi, hẹ, kiệu, mè, củ cải với Dã Toán Bộ Để Na (Đời Đường nói là Lư Câu Đề), cặn dầu mè… đều chẳng nên ăn. Cũng chẳng được ăn tất cả thức ăn dư thừa, thức ăn tế Quỷ Thần kèm với thức ăn cúng dường. Nhóm thức ăn dư thừa như bên trên đều chẳng nên ăn.
Lại nữa, Hành Giả do siêng năng trì tụng, nên cân nhắc ngày đêm, niệm tụng xong rồi nên như Pháp phát khiển. Trải cỏ tranh ở chỗ kia mà ngồi, khi muốn ngủ thời trước tiên quán Từ Bi Hỷ xả kèm với Tam Bảo với tháp Xá Lợi, thâm tâm cung kính. Dùng như Pháp này sẽ diệt các tội.
Lại nữa, Hành Giả lại ăn ba thứ thức ăn màu trắng (sữa, váng sữa đặc, cơm gạo) hoặc rau, rễ, quả, sữa, váng sữa đặc (lạc) với bơ, Đại Mạch, miến, bánh, cặn dầu, nước tương, thức ăn cùng hòa chung, mọi loại cháo nhừ.
Nếu muốn thành tựu nhóm Pháp của Rồng (Nāga), Quỷ (Preta), Dược Xoa (Yakṣa), Khởi Thi (Vetāla), vào cung Tu La (Asura-pura), thành tựu mãnh lợi… thì nên ăn cặn mè hòa chung với nước cốt của sữa
TÔ MA HÔ THỈNH HỎI PHÂN BIỆT CHÀY KIM CƯƠNG PHẦN THỨ TƯ
Nay Ta sẽ nói Pháp Bạt Chiết La (Vajra: chày Kim Cương) người niệm tụng thường nên thọ trì, chày dài tám ngón tay, hoặc 10 ngón tay, hoặc 12 ngón tay, hoặc 16 ngón tay, lượng ấy dài nhất là 20 ngón tay
Nếu muốn thành tựu Đại Quý tự tại với cầu Trì Minh Tất Địa liền nên dùng vàng ròng làm Bạt Chiết La
Hoặc nhân lúc thấy hư hoại rửa nát thì tác các Bất Tịnh Quán. Nếu lửa sân nhiều thì tác Từ Bi Quán. Nếu Vô Minh (Avidya) nhiều thì tac Duyên Khởi Quán. Có khi Oan Gia trở ngược lại làm bạn thân, có khi bạn thân trở ngược lại làm Oan Gia. Lại biến đổi để làm nhóm oán thân, lại trải qua sự biến đổi thành nhà khác nên biết bạn thân đều có tướng chẳng định, người Trí chẳng nên vọng khởi dính mắc khắp Tâm ở khoảng giữa. Khi bạn thân muốn đi thời dùng Pháp Môn này nên tu đối trị.
Khi muốn niệm tụng với sau khi niệm tụng, thường chẳng nên luận đàm với nhóm Ngoại Đạo, Bà La Môn, Sát Lợi, Tỳ Thủ Đà, Hoàng Môn (Paṇḍaka: người nam bị thiến), đồng nam, đồng nữ
Việc Pháp xong rồi, khi muốn nói chuyện thời nên cùng với bạn lữ luận đàm Thiện Pháp. Khi vứt bỏ mũi rãi xong thì nên tẩy rửa, nếu đi tiểu đi cầu xong đều nên tắm gội sạch sẽ.
Mọi Công Đức đã được sinh từ sự hiến cúng Hương, hoa, đèn sáng, khen ngợi, trì Giới tinh cần cùng với niệm tụng… đều nên hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề (Agrabodhi). Ví như mọi dòng sông đều quy về biển lớn, vào biển ấy xong liền thành một Vị. Hồi hướng Bồ Đề cũng lại như vậy, tất cả gom tập cùng thành Phật Quả. Ví như có người cầy xới gieo trồng lúa gạo, chỉ cầu quả hạt chẳng vọng cầu thân cây. Quả hạt thành thục, thu hoạch xong thì thân cây chẳng cầu mà tự nhiên được. Như vậy, Hành Giả muốn được hạt giống Công Đức của mầm Bồ Đề thì chẳng vì niềm vui của đời. Dùng Vô Thượng Bồ Đề ví dụ cho quả hạt ấy, đem các niềm vui còn lại của đời so sánh với thân cỏ kia, chẳng cầu tự được.
Nếu lại có người vì cầu lợi nhỏ, cầu thỉnh Hành Nhân thì chẳng nên vì kẻ ấy mà thoái lùi Bản Nguyện. Nói lời như vầy mà đáp lại người kia: “Vì giữ gìn mà Ta được thân trường thọ với được mọi loại vật dụng hàng ngày khác. Dùng Tâm không chán ghét làm lợi cho chúng sinh, đầy đủ mọi loại nguyện đã mong cầu”.
Lại nữa, xa lìa tám Pháp của Thế Gian (Aṣṭa-loka-dharma) là: Xưng thiện (Yaśa: vinh), tên ác (Ayaśa: Nhục) cùng với khổ (Duḥkha: Khổ), vui (Sukha: Lạc), được lợi (Lābha: Lợi), mất lợi (Alābha: Suy), hủy báng (Nindā: Hủy), ca ngợi (Praśansa: Dự). Tám Pháp của đời này cần phải xa lìa vì hay sinh tất cả Pháp chẳng lành. Ví như biển lớn chẳng giữ xác chết một đêm với một sát na.
Nếu ăn thực phẩm dư thừa mà làm niệm tụng thì cuối cùng chẳng thành tựu tất cả việc Pháp.
Nếu người chẳng làm việc như thế thì một lòng như Pháp niệm tụng
_Lại nữa, Hành Giả! Vật thành tựu có 18 loại là: Thư Hoàng, Ngưu Hoàng, An Thiện Na, Chu Sa, Thổ Tha Hương, Hùng Hoàng, Bạt Chiết La, Ngưu Tô, Xương Bồ, Quang Minh Chu, Tỏa Tử, Giáp Y, Đan Trập Bố Thường Nhất Cổ Xoa, Lộc Bì, Hoạnh Đao, Quyến Sách, Thiết Khải, Tam Cổ Xoa
Như trên đã nói vật thành tựu đều có đầy đủ ba loại thành tựu. Giả sử trong Pháp Chân Ngôn khác đã nói các vật đều chẳng lìa ba loại thành tựu này
_Lại nữa, Thế Gian có các Tỳ Na Dạ Ca gây chướng nạn là tìm lỗi lầm, theo đuổi người niệm tụng. Ở trong phật biệt chung có bốn Bộ. Nhóm nào là bốn? Một là Tồi Hoại, hai là Dã Can Nha, ba là Nhất Nha, bốn là Long Tượng. Từ bốn Bộ này tuôn ra vô lượng Tỳ Na Dạ Ca
Chủ của Tồi Hoại Bộ tên là Vô Ưu Đại Tướng. Trong Bộ ấy có 7 a tăng kỳ dùng làm quyến thuộc. Chân Ngôn do Hộ Thế Tứ Vương đã nói, có người trì tụng thì loài ấy gây chướng nạn
Chủ của Dã Can Bộ tên là Tượng Đầu. Ở trong Bộ ấy lại có 8 câu chi quyến thuộc. Chân Ngôn do Ma Hề Thủ La đã nói, có người trì tụng thì loài ấy gây chướng nạn
Chủ của Nhất Nha Bộ tên là Nghiêm Kế. Bộ ấy cũng có 130 câu chi quyến thuộc. Chân Ngôn do hàng Đại Phạm Thiên, Kiều Thi Ca, Nhật Nguyệt Thiên Tử, Na La Diên Thần, Phong Thần đã nói, có người trì tụng thì loài ấy gây chướng nạn
Chủ của Long Tượng Bộ tên là Đỉnh Hành. Ở trong Bộ ấy một câu chi na dữu đa một ngàn ba đầu ma dùng làm quyến thuộc. Chân Ngôn do Ma Hề Thủ LThích Giáo đã nói, có người trì tụng thì loài ấy gây chướng nạn
Lại con của Ha Lợi Đế Mẫu (Hārītī) tên là Ái Tử (Priya, hay Piṅgala). Chân Ngôn do Bát Chỉ Ca Tướng (Pañcika) đã nói thì vị ấy gây chướng nạn
Lại con của Ma Ni Hiền Tướng (Maṇi-bhadra) tên là Mãn Hiền (Pūrṇa). Chân Ngôn do Ma Ni Bộ (Maṇi-kulāya) nói, có người trì tụng thì người con Mãn Hiền kia gây chướng nạn.
Các loại Tỳ Na Dạ Ca như vậy đều đối với Bản Bộ mà gây chướng nạn, chẳng ưa thích Hành Giả được thành tựu, tự biến hóa làm Chủ của Bản Chân Ngôn, nhận sự cúng dường của Hành Giả thành tựu, thời Minh Chủ đi đến nhìn thấy việc này thì quay trở về cung của mình.
Cầu phú quý thì thuần dùng bạc làm (bạt chiết la: chày Kim Cương)
Thành tựu Pháp Hải Long Vương thì dùng đồng đã tôi luyện làm
Vào cung Tu La thì dùng Diệu Thạch (đá quý) làm
Muốn thông thành tựu tất cả Pháp. Dùng vàng, đồng, bạc hòa chung với nhau rồi làm
Nếu muốn thành tựu phá tan chúng Dược Xoa thì nên dùng sắt làm
Vì muốn được không có bệnh với cầu tiền tài. Dùng cây Thất Lợi Bát Ni, hoặc cây Sát Lỗ Bà mà làm Kim Cương (Vajra: chày Kim Cương)
Muốn chữa trị sự bám dính của tất cả Quỷ Mỵ. Dùng cây Khước Đạt La làm Bạt
Chiết La (Vajra: chày Kim Cương)
Nếu muốn thành tựu Dược Xoa Nữ. Dùng cây Ma Độ Ca làm Bạt Chiết La
Muốn cầu diệt tội. Dùng A Thuyết Tha làm Bạt Chiết La
Nếu muốn tồi phục các oán địch. Dùng cây Hại Nhân làm Bạt Chiết La
Muốn hại oán địch cực ác thì dùng xương người làm Bas5t Chiết La
Muốn thành huyễn hóa. Dùng Thủy Tinh làm
Nếu khiến cho người ghét lẫn nhau. Dùng cây Khổ Luyện làm Bạt Chiết La
Thành tựu loài Quỷ với khiến cho người héo gầy, tranh đấu thì dùng cây Tỳ Lê Lặc làm Bạt Chiết La
Nếu muốn thành tựu Trời, Rồng, Dược Xoa, Cán Thát Bà, Tu La… nên dùng Thiên Mộc làm Bạt Chiết La
Nếu muốn thành tựu Pháp Long Nữ kính nhớ thì dùng gốc rễ Long Mộc làm Bạt Chiết La
Nếu muốn thành tựu Pháp biến hình. Dùng bùn làm
Nếu muốn thành tựu Pháp khiến cho người chết sống lại (khởi tử) thì nên dùng cây Ca Đàm Bà làm
Nếu muốn cầu tiền tài, nên dùng cây Át Ca hoặc dùng Long Mộc, hoặc cây Vô Ưu làm
Nếu muốn thành tựu đối địch. Nên dùng cây Thất Lợi Bát Ni hoặc cây Yểm Một La, hoặc cây Át Thuận Na, hoặc cây Liễu làm
Nếu cầu Pháp thành tựu niềm vui của Ý. Dùng cây Bạch Đàn, hoặc dùng cây Tử Đàn làm Bạt Chiết La
Như bên trên đã nói các chày Bạt Chiết La, mỗi mỗi đều nên như thế làm chày Ngũ Cổ, Tam Cổ…các đầu, ngạnh màu nhiệm khiến cho không có hư hoại thiếu sót
Khi muốn niệm tụng thời dùng nhóm hương xoa bôi để làm cúng dường, phát Tâm Đại từ, tay cầm chày Kim Cương, niệm tụng Chân Ngôn. Việc Pháp xong rồi, lại cúng dường lần nữa, để dưới bàn chân của Tôn. Sau khi niệm tụng thời cũng như vậy
Nếu chẳng cầm nắm Bạt Chiết La màu nhiệm thì có Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaja) tên là Ô Hắc, hình thể rất lớn. Khi hiến hương đốt, nếu Pháp có thiếu sót thì loài ấy từ đất đi ra liền nhập vào thân khiến cho Hành Giả dấy khởi các phiền não là: tham lam, quanh co dua nịnh, giận dữ… luôn thường bị mất Tinh, khiến thân chẳng trong sạch
Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Đăng Đỉnh. Khi hiến đèn, nếu Pháp có thiếu sót thời loài ấy liền nhập vào thân, khiến cho Hành Giả sinh mọi loại bệnh là Tim đau nhức, nóng bức, tổn hại tim
Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Tiếu Hoa. Khi hiến hoa, nếu Pháp bị thiếu thời loại kia liền được dịp thuận tiện khiến cho Hành Giả dấy lên mọi loại chướng ngại là: nóng sốt cao, mũi bị nghẹt, hay chảy máu. Trong mắt tuôn lệ, xương cốt đau nhức cùng với bạn lữ tranh giành, lìa tan
Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Nghiêm Kế. Khi niệm tụng, nếu Pháp bị thiếu thời loại kia liền được dịp thuận tiện khiến cho Hành Giả dấy lên các bệnh là: nóng sốt cao, tiêu tiểu chẳng được
Các Tỳ Na Dạ Ca nhập vào thân, lớn mạnh khiến cho Tâm bị mê hoặc, đem phương Đông làm phương Tây, tác các tưởng quái dị. Hoặc liền ngâm vịnh, hoặc không có duyên sự muốn được đi chơi. Tâm ôm ấp tưởng khác lạ, có chỗ chẳng quyết định, liền dấy lên Tà Kiến nói lời như vầy: “Hoặc nói không có Đại Ngã Chân Ngôn cũng không có Thiên Đường với người hay ở trên đó. Cũng không có thiện ác với nhân quả của thiện ác. Cũng không có sự ràng buộc cùng với giải thoát. Nói người trì tụng uổng phí công phu”. Dùng Tà Kiến này cùng Tâm tương ứng, liền nói ra lời này đánh tan Nhân Quả, dùng tay ngắt cỏ với đùa nghịch khối đất, khi ngủ say thời nghiến răng. Hoặc dấy lên tưởng ham muốn với muốn lấy vợ. Tự mình yêu thích mà người kia chẳng yêu mình, tức thọ nhận yêu thích nhưng chẳng được thuận ý nên nằm mà chẳng ngủ được, muốn làm Tà Hạnh suốt đêm chẳng ngủ say. Giả sử được điềm báo (thụy) thì mộng thấy loài trùng lớn, sư tử, cọp, sói, heo, chó đuổi theo… Lạc Đà, lừa, mèo với Quỷ, loài Dã Can, chim Thứu (loài kên kên), con cò, Uyên Ương, loài chồn hoang. Hoặc có lúc mộng thấy mặc áo rách cũ, người chẳng trong sạch. Hoặc có lúc mộng thấy khỏa thân, chắt tóc, người có thân thể màu đen. Hoặc có lúc thấy Ngoại Đạo lõa thể, hoặc thấy ao khô cạn cùng với giếng khô cạn. Hoặc thấy đầu lâu, hoặc thấy đống xương…. Lại tác niệm như vầy: “Vì sao Đức Như Lai hứa cho loài kia Thệ Nguyện não loạn người tu hành, khiến cho Pháp chẳng thành?!…”
Như chướng nạn này, giả sử Phạm Vương với Kiều Thi Ca, các hàng Trời Rồng chẳng thể phá Thệ Nguyện gây chướng nạn của loài Tỳ Na Dạ Ca kia thì chỉ có Giáo Pháp của Đại Minh Chân Ngôn như Pháp tu hành mời miễn trừ được chướng nạn. Thế nên, Hành Giả tụng đủ số xong, lại nên vào Thành Tựu Chư Sự Diệu Mạn Trà La làm Pháp này xong thì loài gây chướng kia liền lui tan
Lại nữa, trì tụng cúng dường cùng với Hộ Ma chẳng y theo Pháp Giáo thì nhóm kia (Tỳ Na Dạ Ca) được dịp thuận tiện để gây chướng nạn.
Lại nữa, Hành Giả tâm thường do dự, niệm niệm sinh nghi ngờ: “Vì tụng Minh Chủ này? Vì tụng điều kia ư?”, Tác niệm như vậy thì loài kia (Tỳ Na Dạ Ca) được dịp thuận tiện
Lại nữa, Hành Giả phần lớn nói lời không có nghĩa, bàn luận việc Thế Tục, hoặc nói kinh doanh cầu lợi, hoặc nói cầy bừa làm ruộng, hoặc luận danh lợi… Nói nhóm lời này thì loài gây chướng nạn kia tự nhiên được dịp thuận tiện, mỗi mỗi Bộ tùy theo loại khiến cho Tâm tán loạn. Ví như có người tìn dòng nước để di, bóng ảnh nhập vào nước hiện ra hình ảnh tùy theo suốt chẳng cùng nhau buông lìa. Tỳ Na Dạ Ca nhập vào thân của Hành Giả chẳng buông lìa cũng lại như vậy
Lại có Tỳ Na Dạ Ca khi tắm gội thời được dịp thuận tiện nhập vào thân. Hoặc có khi nằm ngủ thời được dịp thuận tiện nhập vào thân. Có khi cúng dường thời được dịp thuận tiện nhập vào thân. Ví như ánh sáng mặt trời soi chiếu thì dùng viên ngọc lửa (hỏa châu) rồi liên luôn ra lửa, Tỳ Na Dạ Ca nhập vào thân của Hành Giả khi niệm tụng thời khiến cho Tâm tán loạn, tăng trưởng nhóm lửa tham sân si cũng lại như vậy.
Tỳ Na Dạ Ca tên là Thủy Hành. Khi tắm rửa, nếu Pháp có thiếu sót thì loài kia liền nhập vào thân lại khiến cho Hành giả dấy lên mọi thứ bệnh là: đói, khát, ho hắng, lười biếng, ngủ nhiều, tứ chi nặng nề tăng thêm nhiều sự tức giận.
Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Thực Hương. Khi hiến hương xoa bôi, nếu Pháp có thiếu sót thì loài kia liền nhập vào thân khiến cho cái bụng của Hành Giả có bệnh dấy lên, ấy là nghĩ tưởng, nhớ nơi sinh duyên, hoặc nghĩ nơi khác, hoặc nghĩ quả nhân rồi sinh lười biếng. Hoặc nghĩ muốn tưởng phân biệt các cảnh.
Lại bốn cái bình theo thứ tự nên quán làm Pháp thì nơi vướng mắc chương kia liền được giải thoát. Mạn Trà La này chẳng phải hay trừ một mình Tỳ Na Dạ Ca mà cũng hay mãn mọi loại Thắng Nguyện của chúng sinh. Nhóm việc như vậy không có gì chẳng xứng với Tâm (tức vừa ý). Nơi vướng Võng Lượng võng bệnh nóng sốt cao, trẻ con bị Quỷ Mỵ bám dính với Linh Quỷ hút Tinh Khí, thường thấy mộng ác, nhóm bệnh điên cuồng, tất cả bệnh… làm Pháp Mạn Trà La tự quán đỉnh xong thì nơi mong cầu nhóm loại như trên nếu có thiếu sót thì thảy đều đầy đủ. Các bệnh còn lại dựa theo đây cũng hay trừ khỏi, lại hay tiêu diệt vô lượng tội chướng.
TÔ MA HÔ THỈNH HỎI PHÂN BIỆT TƯỚNG THÀNH TỰU PHẦN THỨ NĂM
Khi Hành Giả kia đối với chướng nạn được giải thoát xong thì thân tâm trong sạch, không có các dơ uế. Ví như trăng sáng ra khỏi đám mây, gió thổi xua mây, rực rỡ đẹp đẽ sáng cả bầu trời. Mọi loại Công Đức mà Hành Giả đã tu, thảy đều tiêu diệt nơi mà Tỳ Na Dạ Ca đã gây chướng nạn … cũng lại như vậy
Sở dĩ Chân Ngôn chẳng được thành tựu, ví như hạt giống nhân vào đất với thời kèm theo mưa tưới thấm, gió tốt điều thuận ắt có thể sinh mầm cho đến thành tựu. Song, hạt giống ấy nếu ở ngay trong kho thì mầm chẳng thể sinh huống chi lại có cành lá với hoa, quả trái
Trì tụng Chân Ngôn chẳng y theo Phép Tắc với chẳng cúng dường, cũng chẳng trong sạch. Chữ của Chân Ngôn ấy hoặc có thêm có bớt, tướng tiếng chẳng chính đúng… chẳng thành các Tất Địa màu nhiệm rộng lớn cũng lại như vậy. Ví như kéo mây tuôn mưa, tùy theo các cỏ cây mà dung chứa tươi tốt, hoa quả lớn nhỏ sai khác chẳng bằng nhau. Chân Ngôn đã nói cũng lại như vậy. Công lao mà người trì Tụng đã làm tùy theo sự thêm bớt ấy mà được Phước nhiều ít, nơi được thành tựu cũng lại như vậy
Nếu Hành Giả ấy ở nơi thanh tịnh với y theo thời tiết, Pháp đã định ra, cũng dần tiêu diệt tội cợt đùa vi phạm, viên mãn nhóm Phước, hay được Chân Ngôn thấm đượm với thành tựu
Nếu tội chẳng diệt, Công Đức chẳng sinh, chẳng y theo phép tắc, mộng thấy nơi vứt bỏ của người phá hoại, hoặc thấy đá đuổi theo. Hoặc thấy người gây nạn khủng bố đáng sợ, tay cầm dao với các khí trượng đâm chém muốn đến gây hại….ṭrong mộng nên thấy biết là tướng ác. Nếu có tướng này, tức Tỳ Na Dạ Ca cā nhóm kia khiến gây chướng nạn. Hành Giả liền dùng Quân Trà Lợi Phẫn Nộ Minh Chủ để làm hộ thân, như Hộ Ma đã nói bên trên thì chướng nạn đều được giải thoát, chẳng thể não loạn. Nếu có người niệm tụng Chân Ngôn ấy thì các Tỳ Na Dạ Ca trọn chẳng được dịp thuận tiện.
Lại nữa, muốn trừ chướng nạn mà người kia đã bị vướng mắc, khiến cho giải thoát. Liền nên y theo Diệu Mạn Trà La này: nơi có đàn bò cư trú, hoặc dưới cái cây, hoặc miếu có vị Thần, hoặc ngã tư đường, hoặc nhà trống vắng an ổn, hoặc ở trong rừng… dùng năm màu sắc làm Mạn Trà La. Năm màu ấy là: loại màu trắng, màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu đen…. Lượng ấy sắp xếp vuông vức bốn khuỷu tay, an lập bốn cửa. Ở chính giữa vuông vức khoảng hai khuỷu tay đào một cái hầm, bên trong hầm rải bày cỏ tranh. Bên ngoài cái hầm khoảng hai khuỷu tay đều phân chia vị trí tòa ngồi, an trí nhóm Minh Vương Chân Ngôn Chủ. Ở tám phương sở đều vẽ vị Đại Thần theo phương của mình (bản phương)
Lại lấy bốn cái bình mới, chẳng được dùng thứ bị nung cháy xém lớn có màu đen, chứa đầy nước hương với đem năm loại báu kèm với hoa sen đỏ, các cành cây hoa đều để bên trong cái bình, dùng năm sợi dây quấn ràng cổ bình ấy rồn an ở bốn góc. Sau đó, thỉnh nhóm Minh Chủ kia, đem các vật cúng dường mà cúng dường. Lại dùng rưỡu, thịt, củ cải (la bặc) cùng với mọi thức ăn Đa Ba La La cúng dường Đại Thần ở tám Phương của nhóm ấy với tất cả Tỳ Na Dạ Ca.
Gọi người bị vướng chướng nạn kia khiến vào trong cái hầm, hướng về phương Đông mà ngồi. Sau đó, lấy cái bình đã đặt để kia, dùng Chân Ngôn của nhóm Quân Trà Lợi Minh Chủ (Kuṇḍali), La Chỉ Đảng Khứ Già (đây nói là: hình màu đỏ)
Minh Chủ (Raktāṅga) với Kế-Lợi Cát La Minh Chủ (Kilikila), Nại-La Nhĩ LươngNoa Minh Chủ trì tụng vào cái bình ấy số hơn một trăm rồi rưới rót lên đỉnh đầu người bị chướng nạn
Như vậy được vào mộng thấy bày Nhân của chướng nạn, nói Chân Ngôn, chữ có thêm bớt. Hoặc Pháp chẳng đủ, nhưng các Minh Chủ tự nói Pháp này có điều Hành Dụng hiện bày nơi phá tướng tốt, giống như sông biển trọn chẳng trái ngược với thời. Kỳ thật Chân Ngôn trọn chẳng đem phá hoại, cũng chẳng đem chặt đứt, cùng với nối theo nhau cột buộc. Ví như có hai người bạn thân, trong đó có một người nói với người bạn kia rằng: “Từ nay trở đi, đừng có đến nhà người tên là…. cho đến nói với người kia hãy thận trọng với người đó”. Do chẳng trái ngược với lời khuyên răn ấy liền chẳng đi đến, hoặc cùng nói chuyện. Pháp Chân Ngôn ấy cũng lại như vậy, cho nên Hành Nhân chẳng nên đem phá Minh Chủ với Chân Ngôn cho đến nối theo nhau cột buộc cùng với cấm đoán. Diệu Mạn Trà La chẳng nên trao cho sự thêm bớt, Chân Ngôn cũng lại chẳng nên sửa đổi
Pháp ấy cũng lại chẳng nên A Phệ Thiết Na (Aveśana: phẫn nộ), chẳng nên đánh đập cột trói gây hại cho kẻ kia, chẳng nên Hộ Ma (Homa) với tổn hại chi tiết, tồi diệt
Quỷ Tộc (Preta-kulāya). Cũng lại chẳng nên khiến cho người khác bị si độn cùng với ngủ nghỉ buồn bực. Chẳng nên giáng phạt loài Long Mỵ. Chẳng nên khiến cho người phát khởi ganh ghét lẫn nhau với hao tổn, chán ghét, cột trói. Chẳng nên chữa trị cho trẻ con bị Ma Quỷ gây bệnh. Chẳng nên chài lưới bắt các loại chúng sinh khiến gây tổn hại.
_Lại nữa, Tông bên ngoài (ngoại tông) khác nói đủ 10 Pháp thì Chân Ngôn được thành, ấy là: người hành, Chân Ngôn, bạn bè, vật thành tựu, sự tinh cần, nơi chốn, đất thanh tịnh, thời tiết, Bản Tôn, tài vật. Đủ 10 Pháp này thì Chân Ngôn được thành tựu.
Lại Tông khác nói có đủ ba loại Pháp thì Chân Ngôn được thành, ấy là: Chân Ngôn, người hành, bạn bè
Lại Tông khác nói có đủ bốn loại Pháp thì Chân Ngôn mới thành, ấy là: nơi chốn, sự tinh cần, thời tiết, y theo Pháp
Lại Tông khác nói có đủ năm loại Pháp thì Chân Ngôn được thành, ấy là: Chân Ngôn, nơi vật thành tựu, nơi chốn, Bản Tôn, vật
Như vậy, các Tông hoặc nói mười Pháp, hoặc nói tám Pháp, hoặc sáu, hoặc bốn, hoặc ba, hoặc hai đều ở Bản Pháp diễn nói chẳng giống nhau
Song, Thích (tức Phật giáo) này dạy bảo có hai Pháp thì Chân Ngôn mới thành. Một là người hành, hai là Chân Ngôn.
.)Người hành cần đầy đủ Giới Luật, chính cần, tinh tiến, đối với lợi dưỡng của người khác chẳng khởi tham lam ganh ghét. Đối với thân, mạng, tiền của thường không có vướng dính.
.)Văn tự của Chân Ngôn tự tròn đủ, tướng tiếng rõ ràng, Pháp có thể thành tựu, thảy đều đầy đủ nơi mà Phật Bồ Tát đã cư ngụ
Nói chẳng thành thì trở ngược lại điều bên trên sẽ biết
_Lại nữa, Hành Giả ở lúc niệm tụng nếu khoảng trong gian có chỗ khuyết phạm, hoặc có gián đoạn, vứt bỏ Bản đã tụng, riêng trì Minh Chủ khác, tự đem Pháp đã trì trao cho người khác thì tuy niệm tụng đủ biến số nhưng chẳng thành.
Lại nữa, nên tu mỗi ngày ba Thời, như Pháp cúng dường, niệm tụng đủ mười vạn biến số, liền nên như Pháp Hộ Ma, nên dùng: Đại Mạch, dùng hoa gạo, hoặc dùng Cự Thắng (tên riêng của mè đen), dùng hạt cải trắng… tùy chọn lấy một thứ hòa chung với bơ đủ mười ngàn số, hoặc tám mươi ngàn, hoặc bốn, ba (biểu thị cho số chẳng nhiều) ngàn. Dùng câu Ưu Đàm Bát La, hoặc cây A Thuyết Tha, hoặc cây ba La Xa, hoặc cây Át Ca, hoặc dùng Long Mộc, hoặc dùng cây Vô Ưu, hoặc cây Mộc Lỗ Bà, hoặc cây Ni Câu Đà, hoặc cây Yểm Một La, hoặc cây Khước La, hoặc cây Xa Di, hoặc cây Bát Lạc, hoặc cây A Ba Mạt Già, hoặc cây Mạt Độ Ca, hoặc cây Trạm Mẫu Ca… tùy chọn một loại cây, thô tế như ngón tay, chặt dài mười ngón tay rồi tẩm bơ, mật, lạc ở hai đầu, mỗi ngày Hộ Ma, số như bên trên nói thì chỗ bị khuyết phạm lúc trước trở lại được thanh tịnh, sau đó mới cầu Chân Ngôn Tất Địa không có chỗ chướng nạn
_Lại nữa, Hành Giả ngoài Chân Ngôn đã trì, còn trì tụng cột trói Minh Chủ, hoặc đóng hoặc đánh, hoặc chặt hoặc phá… khiến chẳng thành tựu. Liền cần phải làm hình tượng Bản Tôn, nên để ở dưới bàn chân Bộ Chủ của các Bộb, nên cùng đối mặt với nhau. Sau đó dùng Đại Uy Chân Ngôn của các Bộ Minh Chủ thuộc nhóm Kế Lợi Cát La (Kīlikīla) tụng trì vào bơ mật rưới tắm Bản Tôn. Như vậy, mười nhày làm Pháp này xong thì chỗ bị cột trói khác liền được giải thoát.
_Lại nữa, Hành Giả đối với các Pháp đã chế trong Chân Ngôn thảy đều tu hành, mỗi mỗi không có thiếu sót nhưng lại chẳng thành. Liền nên dùng các thứ độc làm hình của Tôn ấy, dùng Chân Ngôn của các Bộ Minh Chủ thuộc nhóm Kế Lợi Cát La, chặt hình của tượng ấy, mỗi mỗi chặt đứt thành miếng, hòa với dầu hạt cải trắng, mỗi ngày ba Thời mà làm Hộ Ma… như vậy bảy ngày liền được Tất Địa (Siddhi). Nếu chẳng thành thì tổn hoại niềm vui. Thế nên các Pháp đều từ Tâm sinh ra, chẳng phải là tự nhiên hiện ra, cũng chẳng do Thời, lại chẳng phải là Trời Tự Tại, chẳng phải là không có Nhân Duyên, cũng chẳng từ cái Ta (Ātman: Ngã) hay sinh ra các Pháp… chỉ do Vô Minh lưu chuyển sinh tử, bốn Đại hòa hợp, tạm mượn gọi là hình sắc (Rūpa: Sắc), hình sắc chẳng phải là cái Ta, cái Ta chẳng phải là hình sắc. Hình sắc chẳng phải là cái của Ta (Mama-kāra: Ngã sở), cái của Ta chẳng phải là hình sắc. Như vậy năm Uẩn (Pañca-skandha) nên biết là trống rỗng (Sūnya: Không): hình sắc (Rūpa) là không có thường giống như bọt nước tụ, cảm giác (Vedanā: Thọ) như bong bóng nổi, tri giác (Saṃjñā: Tưởng) như bóng ảnh của ánh nắng mặt trời, hoạt động của Tâm Ý (Saṃskāra: Hành) như cây chuối, sự nhận Thức (Vijñāna: Thức) như huyễn hóa…. Thấy như vậy gọi là Chính Kiến (Samyag-dṛṣṭi), nếu người thấy khác thì gọi là Tà Kiến (Mithyā-darśana)
_Lại nữa, niệm tụng đủ số, muốn gần sát Tất Địa, liền đưa tới trong mộng thấy việc như vầy: hoặc thấy thân mình đi lên lầu gác cao, hoặc nhảy lên cây to lớn.
Hoặc cỡi Sư Tử, con trùng lớn với ngựa đi lên ngọn núi cao, ở trong hư không nghe tiếng sấm lớn.
Hoặc cỡi Tê Ngưu (con Tê Giác có hình dạng như con trâu), voi trắng, con bò đực
Hoặc được tiền tài, vòng hoa với áo
Hoặc được rượu, thịt, quả mọc dưới nước
Hoặc được hoa sen hồng, Kinh với làm khách quý
Hoặc được con Lạc Đà kèm với con bò nhỏ
Hoặc được cái xe chứa đầy cây phất màu trắng xua đuổi ruồi nhặng, kèm với được giày da
Hoặc được cây đao đeo nằm ngang, cây quạt kết bằng đuôi chim công, chuỗi Anh Lạc bằng vàng, ngọc báu, vỏ sò xoắn ốc, Thương Khước (Śaṅkha), người nữ xinh đẹp đoan nghiêm
Hoặc thấy mẹ của mình
Hoặc được các thứ báu, vật dụng nghiêm thân với được giường nằm được che phủ bới cái áo trắng
Hoặc thấy thân mình đi thuyền vượt qua biển lớn với vượt qua sông lớn, sông nhỏ, ao Rồng, đầm, hồ….. cùng với uống, tắm
Hoặc thấy dùng máu tắm gội thân mình
Hoặc thấy vào chùa, Chế Để (Caitye), phòng của Tăng
Hoặc thấy Như Lai, Bồ Tát, Duyên Giác, Thánh Tăng Vô Lậu (Thánh Tăng không có phiền não), Chúng Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tư Ca (Cận Sự Nam), Thiên Thần, quốc vương
Hoặc thấy cây đao lớn, chúng A Tu La, Bà La Môn trong sạch
Hoặc thấy Trượng Phu cùng với người nữ mà ý ưa thích, Trưởng giả giàu sang có
Tâm hiền thiện ngay thẳng
Hoặc thấy che mẹ cùng với thân quyến cùng tụ hội một chỗ
Hoặc thấy Trì Minh Chủ, các vị Tiên, người khéo trì tụng
Hoặc thấy ăn nuốt mặt trời, mặt trăng
Hoặc thấy tự tùy ở hầm phân
Hoặc uống Tinh của con người với ăn thịt người, vào ở đám lửa
Hoặc thấy người nữ nhập vào bên trong thân
Được nhóm mộng thù thắng như vậy xong, nên biết một tháng cùng với nửa tháng sẽ được thành tựu.
*********
GẦN SÁT VỚI TẤT ĐỊA TƯỚNG TRÌ TỤNG PHẦN THỨ SÁU
_Lại nữa, như Pháp niệm tụng tức liền sẽ được thành tựu Ý Lạc (niềm vui của Ý) ví như Sư Tử bị sự đói khát áp bức, dùng thế lực lớn giết hại con voi lớn, hoặc Dã Can với các thú nhỏ. Thế lực đã thự hành ấy cùng với sự giết con voi kia là một, không có khác. Hành Giả thành tựu việc Thượng Trung Hạ thì sự tinh cần đã phát ra cũng lại như vậy
Nếu Hành Giả trụ ở nơi ồn áo náo nhiệt, liền bị các thứ khổ của muỗi mòng, nóng lạnh… ép bức thân với nghe mọi loại âm thanh của trống, nhạc. Hoặc nghe các tiếng ca vịnh, nhảy múa của con người. Hoặc nghe tiếng của các loài chim kèm với nước sông. Hoặc nghe âm thanh Anh Lạc của phụ nữ. Do Duyên này cho nên khiến Tâm tán loạn, thế nên Hành Nhân thường nên xa lìa
_Lại nữa, Hành Nhân niệm tụng chẳng nên quá chậm, chẳng nên quá gấp. Tiếng chẳng nên cao cũng chẳng nên nhỏ, chẳng nên gián đoạn để nói chuyện, đừng khiến Duyên với cảnh khác. Thể của chữ, tên gọi… chẳng nên sai lầm. Ví như con sông lớn lưu chú ngày đêm, luôn không có ngừng nghỉ, Người trì Chân Ngôn: nơi làm cúng dường, lễ tán, các Công Đức khác… ngày đêm lưu chuyển tăng thêm, cũng lại như thế.
Khi niệm tụng thời Tâm chẳng bám dính duyên với cảnh tạp nhiễm. Hoặc giao cho sự lười biếng, hoặc sinh tưởng ham muốn… thì nên mau hồi tâm, nắm lấy chữ của Chân Ngôn hoặc quán Bản Tôn, hoặc quán Thủ Ấn. Ví như người Quán Hạnh để Tâm ở tam tinh khiến cho chẳng tán loạn, Cảnh lúc sau, chí Tâm nếu chẳng động thì người ấy tức gọi là Quán Hạnh Thành Tựu
Người niệm tụng: nơi Tâm đã duyên, nêu chẳng lay động tức gọi là Thành Tựu (Siddhi). Thế nên Hành Giả muốn cấu Tất Địa (Siddhi) cần phải nhiếp Tâm vào một cảnh, Tâm ấy điều phục liền sinh vui vẻ. Tùy theo sự vui vẻ ấy tức thân nhẹ nhàng an ổn. Tùy theo sự nhẹ nhàng an ổn của Thân tức thân an vui. Tùy theo thân an vui liền được Tâm định. Tùy theo Tâm định ấy tức ở niệm tụng, Tâm không có nghi ngờ, tuỳ theo sự niệm tụng ấy tức liền diệt tội. Tùy theo tội diệt ấy tức Tâm thanh tịnh. Vì Tâm thanh tịnh cho nên liền được thành tựu.
Chính vì thế cho nên Như Lai làm Thuyết như vầy: Tất cả các Pháp dùng Tâm làm gốc, do Tâm thanh tịnh đắc được sự khoái lạc thù thắng của người, Trời. Do Tâm tạp nhiễm liền rơi vào Địa Ngục, cho đến Bàng Sinh, nghẻo túng chịu khổ. Do Tâm rất trong sạch mới chứng xa lìa đất, nước, lửa, gió, sinh, già, bệnh, chết… chẳng vướng hai bên, tịch diệt giải thoát
Do Tâm thiếu trong sạch thì Chân Ngôn cũng thành, sẽ được Chủ của vô thường cúng dường Bản Tôn, sau đó cúng dường Tôn vốn đã trì giữ. Tiếp, lại phát Tâm Bồ Đề màu nhiệm lần nữa, Từ Bi rộng lớn để độ tất cả chúng sinh bị chìm đắm trong sinh, già, bệnh, chết.
Lại nữa, nên tiết tục đọc Kinh Đại Tập hoặc Kệ Cát Tường, hoặc Kinh Pháp Luân, hoặc Bí Mật của Như Lai, hoặc Kinh Đại Đăng… ở bên trong tùy đọc một bộ Kinh xong, sau đó liền nên chuyên tâm kết tám phương, kết tám Phương Giới kèm kết Hư Không với Địa Giới. Lại dùng Chân Ngôn tự thân mặc áo giáp.
Lại như bên trên đã nói, các Mạn Trà La dùng màu sắc sạch, tùy làm một Hộ Bát Phương Thần, thiết yếu nên an trí nhóm ấy, hay đập nát tai nạn của các Bộ.
Tiếp lại nên dùng Sư Tử Tòa Minh Vương (Siṃhāsana-vidyā-rāja) tụng niệm Tòa ấy, an bên trong Mạn Trà La.
Pháp Hộ Thân ấy. Lấy vật đã thành an trong đất kia, trì tụng vật ấy, khoảng phút chốc lại dùng nước thơm rưới vảy. Dùng Pháp tương ứng Hộ Ma một ngàn lần. Trước tiên lấy 3 cái lá A Thuyết Tha (Aśvattha là một tên gọi khác của cây Pippala), đem vật đã thành tựu để ở trên lá ấy. Lại lấy 4 cái lá che trùm vật ấy. Liền như Pháp chuyên niệm tụng, cho đến khi thấy 3 loại Tướng hiện ra, tăng trưởng Khí (?hơi ấm), sự chói lọi (?khói), ánh sáng hiện ra
_Thứ tự thành tựu ba loại Tất Địa. Nếu được Khí (?hơi ấm) xuất ra, tức là Tất Địa (Siddhi), mọi người kính niệm. Nếu được sự chói lọi (?khói) xuất ra là Chuyển Hình Tất Địa. Nếu được ánh sáng xuất ra tức là thành tựu Trì Minh Tiên (Vidyādhāra-Ṛṣi), được khắp thân vi tế thanh tịnh. Ví như cái chết đến thì hơi lạnh tiếp chạm khắp thân, lại như Trung Uẩn (Antarā-bhava: Trung Hữu, Trung Ấm) đi đến nhập vào bào thai (Garbha), ví như ánh sáng mặt trời đã soi chiếu thì Hỏa Châu (viên ngọc lửa) liền tuôn ra lửa ấy. Tất Địa nhập vào thân cũng lại như vậy. Đây gọi là Pháp thành tựu.
Nếu dùng việc thành tựu bên trong. Tướng ấy nếu hiện ra tức liền được Tất Địa, nghĩa là trên tượng kia thấy vòng hoa lay động, thấy lông mày lay động, hoặc thấy các Anh Lạc nghiêm thân lay động, hoặc thấy trong hư không có mọi loại hoa Trời chuyển động theo làn gió nhẹ, hoặc mưa nhỏ rơi xuống, hoặc biết đất lay động, hoặc nghe tiếng trong hư không nói lời như vầy: “Điều ngươi đã cầu nguyện, nay hãy nói ra”. Hoặc thấy lửa của ngọn đèn tăng trưởng tỏa màu sắc sáng bóng chói lọi như ánh sáng vàng ròng. Hoặc lại hết dầu mà ánh sáng của đèn vẫn chuyển tăng… Thấy nhóm tướng này, liền được Tất Địa (Siddhi)
Hoặc biết Bạch Hào (Ūrṇa: sợi lông trắng ở tam tinh), lông dựng đứng khắp. Hoặc nghe âm thanh của nhạc Trời trong hư không. Hoặc nghe tiếng Anh Lạc (Muktāhāra) của chư Thiên. Hoặc nhìn thấy Bản Tôn ở trong hư không
_Lại nữa, Ta nói Thành Tựu chuyển gần sát Tất Địa. Đối với việc niệm tụng, cực lực dùng Tâm yêu thích, chẳng bám níu cảnh tạp nhiễm của Duyên, cũng không có nỗi khổ của nhóm đói khát, nóng lạnh. Đối với cảnh thuộc tướng bên ngoài của Pháp trái ngược, Tâm chẳng dao động. Các trùng độc của nhóm bọ với ruồi, rắn đều chẳng dám hại. Các loài Quỷ khác thuộc nhóm Tỳ Xá Trà Quỷ (Piśāca), Phú Đan Na (Pūtana) chẳng dám đến gần trong bóng ảnh của Hành Giả. Thảy đều tin nhận lời dạy bảo đã nói ra, chuyển thêm Thông Tuệ, khéo tô điểm văn chương. Đối với các sách, đoán định, chuyển thành xảo diệu. Tâm ưa thích Pháp hiền thiện, siêng năng mạnh mẽ hành yên tĩnh. Lại thấy sự ẩn tàng của đất (địa tàng), cũng không có bệnh của thân với bẩn thỉu dơ bẩn. Thân có mùi thơm
Nếu có người nhìn thấy, với đã nghe tên đều sinh Tâm kính nhớ. Cũng các Mỵ Nữ tự đi đến hô gọi tên, do dùng Tâm trong sạch cho nên không có Ý dục nhiễm. Ở trong hư không nghe ngôn ngữ của chư Thiên, lại thấy hình ấy với loài Càn Thát Bà,
Dạ Xoa. Người trì tụng ấy nếu thấy tướng tốt thù thắng màu nhiệm của nhóm này, tức nên tự biết: nay Ta gần sát với Chân Ngôn Tất Địa. Liền nên tu làm việc Pháp thành tựu
_Lại nữa Hành Giả bắt đầu Tất Địa thì nên đủ 8 Giới, hoặc 2, 3 ngày cũng nên nhịn ăn, sau đó khởi thành
_Bấy giờ, Diệu Bạc Đồng Tử (Subahū-kumāra: Diệu Tý Đồng Tử) bạch với Chấp Kim Cương Bồ Tát (Vajra-dhāra-bodhisattva) rằng: “Tôn Giả! Trưới kia nói: chẳng do ăn cho nên được thanh tịnh. Tại sao lại nói cần phải nhịn ăn. Đức Thế Tôn nói: “Việc ăn như cái xe có dầu mỡ”, chưa biết nhịn ăn. Việc ấy như thế nào?”
Chấp Kim Cương Bồ Tát nói lời Diệu Thuần, tiếng như tiếng sấm, tác Thuyết như vầy: “Chẳng vì Tâm trong sạch, cho nên dạy bảo khiến nhịn ăn. Nhưng mà các chúng sinh dùng da ràng buộc máu, thịt, não, gan, ruột, thận, phổi, mỡ béo, đàm, màng bọc, phân, nước tiểu.. thường tuôn chảy mọi loại vật dơ chẳng sạch. Cái thân như vậy do đất, nước, lửa, gió giả hợp thành lập như bốn con rắn độc được để ở một cái rương. Vì muốn khiến cho phân, nước tiểu, nước dãi, máu, não… hôi dơ chẳng tuôn chảy ra, cho nên cần nhịn ăn. Chẳng phải là trở ngại Đạo cho nên khiến nhịn ăn.
Hành Giả nếu sinh tưởng dâm. Như thân Bất Tịnh đã nói bên trên, dùng Huệ quán sát thì Tâm Dục đã dấy lên tức liền tiêu diệt, đối với thân mệnh, tiền của cũng không nên dính mắc
Hành Giả đủ Pháp Chân Ngôn mới xong. Lại biết tự thân thành tựu chẳng xa, liền nên chọn ngày 8, hoặc ngày 14, hoặc ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt… dùng Cồ Ma (Gomayī: phân bò) xoa tô đất cho sạch, tiếp dùng nhóm hương xoa bôi củng với tán thán, trước tiên cúng dường Phật,
Tiếp lại bậc hạ xuống dùng hoa cúng dường, đèn cũng như vậy. Muốn biết như Pháp cho đến trong mộng vì mình nói các việc, như trên đã nói
Pháp Tư Na giáng hạ đều tu hành đầy đủ, nhưng chẳng giáng hạ. Liền nên một ngày nhịn ăn, giữ đủ 8 Giới. Hoặc ở Chế Để (Caitya: tháp miếu), hoặc ở trước Tượng đoan nghiêm, phát Đại Từ Bi, hoặc lấy Bộ Chủ Chân Ngôn làm Pháp Áp đó niệm tụng, rất nên chuyên tâm, chẳng được dao động thân với lông mày, con mắt… ngồi trên cỏ tranh, số đủ 1 Lạc Xoa hoặc 2 Lạc Xoa, hoặc Ý vừa đủ
Nếu làm Pháp này, hô chữ Án (OṂ) của Ta (Chấp Kim Cương) thì cây khô còn nhập vào được huống chi là nơi con người
Nếu muốn khiến cho Đồng Tử là nơi giáng hạ, liền nên chọn lấy 10 hoặc 8, hoặc 7, 5, 4, 3, 2 (Đồng Tử) khoảng 12 tuổi hoặc 10 tuổi có thân phần, mạch máu với các lóng xương đều chẳng hiện ra, viên mãn đầy đủ, mặt mắt đoan chính trong trắng rõ ràng, giống như đầy đủ răng trắng khít bằng nhau; bàn tay ngón tay thon dài cũng không có lỗ hổng kẽ hở. Cẳng chân, cánh tay, cổ tay tròn trĩnh, ngực vú đẫy đà, bắp đùi và bắp tay tròn đầy, lông rất nhỏ mỗi mỗi ló ra, tóc trên đầu như mật đen, rốn sâu, eo nhỏ, Tâm có 3 vật, đầy đủ sắc tướng… có người nhìn thấy đều sinh tâm yêu thích
Nếu được đồng nam với đồng nữ như vậy. Vào ngày 8 hoặc ngày 14, hoặc ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, tắm gội sạch sẽ, mặc áo trắng mới, cho thọ nhận 8 Giới. Ngày ấy nhịn ăn, khiến ngồi trước mặt, nói bên trong Mạn Trà La. Tiếp theo liền dùng hoa, đèn sáng, hương xoa bôi, hương đốt, mọi loại thức ăn uống… cúng dường Bản Tôn với Đại Thần ở 8 phương, với A Tu La, các loài Quỷ khác. Mỗi mỗi lại đem hoa màu nhiệm rải tán lên Đồng Tử kia với dùng xoa bôi thân. Sau đó, tay bưng lò hương, đội trên đỉnh đầu niệm tụng. Ở Chân Ngôn ấy, trước tiên để chữ Hồng (HŪṂ), khoảng giữa nên hô câu Cật-lật ha-noa (Gṛhṇa) [tức là nắm chặt, bắt ép], lại hô câu a tỳ xá (Āviśa) [tức là nhập vào khắp], lại hô khất-sáp bát-la (Kṣai-prya: tức là mau chóng) Tư Na giáng xuống xong, tức có tướng này hiện ra. Ấy là: mặt mắt vui thích, nhìn chẳng chớp mắt, không có hơi thở ra vào, tức nên tự biết
Tư Na đã giáng xuống, liền dùng Át Già (Argha), đốt hương cúng dường, Tâm niệm Tối Thắng Minh Chân Ngôn, liền nên kính hỏi: “Tôn là loài nào?” Hết thảy sự nghi ngờ của ta người liền nên mau chóng hỏi.
Thân của Tôn ấy với quyến thuộc vây quanh, liền nên dùng hoa chứa đầy trong vật khí sạch tràn đầy nước thơm, lại để 5 thứ báu, đây là Át Già (Argha). Liền khen ngợi, tương ứng cúng dường. Dùng sự cung kính sâu xa, quỳ gối, cúi đầu, cân nhắc Bản Công Phu, liền nên cầu nguyện. Đã được nguyện xong, vui vẻ lễ bái. Lại dùng Át Già cúng dường khen ngợi. Dùng Chân Ngôn đã trì đối trước vị kia tụng xong, sau đó liền nên như Pháp Phát Khiển.
Tất cả Chân Ngôn Pháp nên như vậy
(không thấy ghi chép PHẦN THỨ BẢY)
BÁT TƯ NA GIÁNG HẠ PHẦN THỨ TÁM
Nếu muốn hỏi việc vị Bát Tư Na giáng xuống ở nơi như vậy, cần phải thỉnh triệu. Ấy là: ngón tay, cái gương bằng đồng, nước trong, cây đao nằm ngang, lửa đèn, đất báu, hư không, Tôn Tượng, Đồng Tử, trân châu, đám lửa, đá… Ở nơi như vậy, Bát Tư Na giáng xuống.
Thỉnh triệu đến xong, sẽ tự nói các việc thiện, ác trên Trời, nhân gian với quá khứ vị lai hiện tại, vượt qua ba đời… mỗi mỗi nói đầy đủ
Pháp nếu chẳng nghe, chẳng y theo Pháp, trì Chân Ngôn mà số chữ có tăng giảm, chẳng Kinh Tụng, chẳng đủ Chính Tín, cũng chẳng cúng dường, ở đất chẳng sạch, trời chẳng sáng tỏ, thân phần của Đồng Tử hoặc hơn hoặc kém… có nhóm lỗi này thì Tư Na chẳng giáng hạ
Nếu muốn thỉnh giáng hạ, thoạt tiên nên trì tụng Tư Na Chân Ngôn. Trì tụng công xong, liền ở ngày 8 hoặc ngày 14, hoặc ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, ngày đó nhịn ăn, dùng Cồ Ma (phân bò) xoa tô đất ấy như tượng Ngưu Bì. Liền cho Đồng Tử tắm gội sạch sẽ, mặc áo trắng mới, ngồi ở trên ấy (Ngưu Bì) rồi làm cúng dường, tự mình cũng ở bên trong, hướng mặt về phương đông, ngồi trên cỏ tranh.
Nếu muốn khiến cho vị kia (Tư Na) giáng xuống mặt gương, bàn tay để nhìn.
Trước tiên lấy cái gương ấy, dùng tro Hộ Ma của Bà La Môn có Phạm Hạnh (Brahma-caryā), lau chùi khiến cho sạch sẽ. Hoặc 7, 8 biến cho đến 10 biến tức thời để ở trong chỗ bên trong Mạn Trà La, ngửa lên nhìn thì trong cái gương liền hiện ra việc của Thế Gian với Xuất Thế Gian
Hoặc lại có Pháp muốn giáng xuống cây đao nằm ngang thì cũng như cái gương. Nếu muốn khiến giáng xuống ngón tay để nhìn, trước tiên lấy nước Tử Quáng rửa đầu ngón tay của mình, sau đó dùng dầu thơm xoa bôi.
Nếu muốn khiến giáng hạ ở trong nước để nhìn thì rót nước đã lọc sạch vào bên trong cái bình, sau đó Đồng Tử nhìn thấy việc ở trong nước đó
Nếu muốn khiến giáng xuống nơi đất trống với trân châu để nhìn thì dùng nước sạch rưới vảy.
Nếu muốn khiến ở nơi thân của Tôn Tượng….. (?)
Hoặc kẻ giết Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di trì Giới thanh tịnh…ḥoặc đốt chốn Già Lam. Người phạm tội này, giả sử khiến cho siêng năng cực khổ cũng chẳng thành tựu. Người đối với chỗ của Tam Bảo có Tâm gây hại hoặc chút phần tổn hại… Nay Ta lược nói nơi chịu báo ứng ấy.
Nhóm người như vậy bị đọa vào ngục Vô Gián (Avīci). Từ chỗ ấy thoát ra, do nghiệp Bất Thiện (Akuśala-karma) cho nên sinh vào nhà nghèo hèn, tuy mới đầu phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi) nhưng sau lại lễ bái hàng Trời Ngoại Đạo nên các Thiên Thần kia đối với chỗ của người ấy lại sinh giận dữ gây hại…. vì thế trì tụng Chân Ngôn cuối cùng chẳng thành tựu.
Kẻ kia từ lúc phát Tâm Bồ Đề sau đó chư Thiên với con người liền nên cúng dường. kẻ kia cũng gánh vác tất cả chúng sinh với ban cho sự không có sợ hãi, nối tiếp kế thừa Tam Bảo.
Bởi thế, chẳng nên lễ bái chư Thiên, hoặc làm việc mãnh hại với giết Tiên Nhân, phá Minh Chủ Chân Ngôn. Do tâm giận dữ nên chẳng lại cúng dường
Chúng không có lý do mà dùng tay ngắt hoại cây cỏ, dùng bàn chân dẫm đạp hoa sen với các Khế Ấn. Cũng lại lễ bái đẳng loại Dược Xoa, lại ăn thức ăn cúng dường với tế tự Quỷ Thần, hoặc ăn thức ăn đã vứt bỏ dưới đất. Hoặc đối với súc sinh hành Hạnh Phi Pháp (A-dharma-caryā), hoặc cùng với người nữ ở nơi thanh tịnh làm việc Phi Pháp. Dùng vô minh (Avidyā) với thuốc (Bhaiṣajya) bắt các loại rắn. Hoặc cỡi voi, ngựa với chó, bò, lừa… muốn khiến cho nó đi mà dùng gậy đánh thúc. Đối với người bị bệnh hoạn với gặp nạn khổ…chẳng phát Từ Bi
Nhóm người như vậy thì Chân Ngôn chẳng thành. Ví như hư không cuối cùng không có hạn lượng. Ở chỗ của Tam Bảo, hành Dục thời trở ngược chịu tổn hại. Được báo Thiện Ác cũng lại như vậy.
Lại dùng lưới, sợi dây với các phương tiện gây thương tích tổn hại chúng sinh với nuôi dưỡng súc vật nhỏ, dê đen; dùng lồng giam giữ chim Anh Vũ với các loài chim… Người như vậy thì đời này đời sau cũng chẳng thành tựu.
Bởi vậy, chẳng nên nhận dùng vật đã cúng dường Đức Thế Tôn. Thức ăn đã cúng dường cũng chẳng nên dẫm lên. Chẳng nên ăn hoặc đạp lên thức ăn đã rơi xuống đất với vật cúng dường. Chẳng nên đội trên đỉnh đầu, chẳng nên lễ bái Đại Tự Tại (Maheśvara), Nhật (Sūrya-deva), Nguyệt Thiên (Candra-deva), Hỏa Thiên (Agnideva) cùng với Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa-deva)… liền khiến cho gặp khổ. Cũng chẳng nên lễ, chẳng nên tập đọc sự dạy bảo mà (chư thiên) ấy đã nói, chẳng nên cúng dường người hành Pháp ấy.
Đối với việc trong 3 đời: được lợi, mất lợi với được khổ vui mà vị kia (Tư Na) tự sẽ nói… đã nghe sự chỉ giáo thì thích hợp nhận thọ trì, đừng sinh nghi ngờ. Đã hỏi việc xong liền mau Phát Khiển
Nếu đủ Pháp này thì Tư Na mau giáng xuống. Nếu chẳng y theo Pháp thì chẳng được thành tựu, bị người chê cười
Lại nữa, nếu Tư Na tự giáng xuống thì Đồng Tử kia có diện mạo vui vẻ, dung nhan tươi tắn, con mắt rộng dài nhiểu quanh con ngươi đen, vòng quanh bên ngoài có màu đỏ, tinh thần ý khí có tướng Đại Nhân, hơi thở ra vào liền ngưng, mắt cũng chẳng nháy, tức nên ứng biết là Tư Na thật. Nếu nhóm Ma giáng xuống liền riêng có tướng.
Mắt đỏ lại tròn như người giận dữ nhìn, con ngươi chẳng chuyển, há miệng đáng sợ, cũng không có hơi thở ra vào, con mắt cũng chẳng nháy, tức cần phải biết là hàng Dược Xoa giáng xuống. Mau chóng nên Phát Khiển. Nếu chẳng chịu đi, tức liền nên tụng Diệu Cát Tường Kệ, hoặc tụng Bất Tịnh Phẫn Nộ Kim Cương Chân Ngôn, hoặc tụng Giáng Tư Ni Sứ Giả Chân Ngôn, hoặc tụng Kim Cương Chân Ngôn, hoặc đọc Đại Tập Đà La Ni Kinh
Đọc tụng như bên trên, nếu chẳng đi, liền dùng Sư Tử Tọa Chân Ngôn, dùng cây Át Ca, hoặc cây Ba La Xa cùng cung cấp tương ứng Hộ Ma 100 biến. Hoặc dùng mè, hoặc hoa lúa đạo, bơ, mật hòa với nhau Hộ Ma 100 biến. Cuối cùng dùng Quân Trà Lợi Chân Ngôn Hộ Ma 7 biến, hoặc 3 biến, tức (Dạ Xoa) liền bỏ đi
Người Trí khéo hiểu Diệu Pháp như vậy. Lại hay mỗi mỗi như Pháp tu hành, chẳng lao khổ lâu dài mà được thành tựu
PHÂN BIỆT NẠN NGĂN CHE PHẦN THỨ CHÍN
Lại nữa, người giết A La Hán với giết cha mẹ, phá Hòa Hợp Tăng, dùng Tâm sân hận làm cho thân Phật đổ máu… mà cầu Tất Địa thì cuối cùng chẳng thành tựu.
Người phá Tốt Đổ Ba (Stūpa: tháp) với giết Bồ Tát, làm ô nhiễm mẹ của La Hán, dạy người khiến giết hại, trộm tài vật của Tăng, hoặc ít hoặc nhiều. Đức Thế Tôn nói: “5 loại Vô Gián đó, nếu phạm tội này thì đọa vào Ngục Vô Gián, chịu khổ một Kiếp”. Giả sử siêng năng cực khổ niệm tụng Chân Ngôn thì cuối cùng chẳng được thành tựu
Lại Kinh Điển vi diệu mà chư Phật đã nói, lại sinh Tâm gây tổn hoại, hoặc phóng lửa thiêu đốt, hoặc vứt trong nước, hoặc chê bai Pháp…
Chính phân biệt là chẳng nên cho nhóm loại voi, ngựa, dê, gà, chó đấu với nhau; với khiến cho Nam Nữ đâm, đánh lẫn nhau. Cũng chẳng đến nhìn xem sự vui đùa như bên trên
Nói Chính Niệm là: chẳng nói luận về vương quốc với xứ sở. Luận bàn chiến đấu, đánh nhau, dâm nữ cùng với lời nói mê hoặc, nói việc đã trải qua xưa kia với việc làm ô nhiễm nghiệp nhà.
Hành Giả y theo Pháp Chân Ngôn, khi niệm tụng cho đến thành tựu xong thì khoảng trung gian chẳng nên vào thành, làng, xóm, Sinh Duyên Già Lam,Tháp miếu thờ Thần của Ngoại Đạo với vườn, rừng, ao, sông ở nơi cư trú ấy. Các nơi như vậy đều chẳng nên đến.
Lại nữa, ở nhà trống vắng, một lòng niệm tụng, hoặc trong một năm, trừ lúc an cư, ngoài hai thời Xuân Thu thì tùy ý du hành
Ở núi, rừng, bên bờ sông, suối, ao, nhà trống vắng… chuyên tâm niệm tụng. Ví như thành an cư của Bật Sô thì người niệm tụng cũng lại như vậy.
Hành Nhân niệm tụng tuy đủ biến số, đến mùa Hạ an cư thì đừng làm Pháp thành tựu. Dựa theo lúc trước, niệm tụng chẳng được gián đoạn, sau khi giải Hạ thì như Pháp hộ thân mới có thể thành tựu.
PHÂN BIỆT HỘ MA PHẦN THỨ MƯỜI
Lại nữa, nên nói Pháp làm lò sai khác của Hộ Ma. Hoặc làm tròn trịa, hoặc làm ba góc, hoặc làm vuông vức, hoặc như hình hoa sen… đều nên có nền, miệng lò an môi, dùng bùn lau chùi cho láng mịn, nền bên ngoài thảy đều nên cứng chắc.
Làm việc thiện lành với cầu tiền tài, khiến cho người khác kính nhớ thì thựa hành Pháp Tức Tai, lò ấy nên tròn trịa
Nếu cầu thành tựu tất cả các việc, hoặc cầu người nữ với nhóm Đồng Tử thì lò ấy nên làm hình hoa sen
Nếu làm Pháp hành ác, hoặc nhóm việc khiến cho bỏ chạy thì lò nên làm ba góc (hình tam giác)
Nếu muốn điều phục các Rồng với loài Quỷ khác, hoặc khiến cho lửa thiêu đốt, hoặc khiến cho đau đớn thì lò ấy nên vuông vức
Nền, môi với lò… dùng Cồ Ma (Gomayī: phân bò) xoa bôi. Lại dùng cỏ tranh bày ở trên nền, khắp bốn bên bên dưới thềm bậc cùng xoa bôi Cồ Ma, rải cỏ tranh đầy khắp, an trí vật Hộ Ma trên nền với an dưới nền, rải hoa ở chỗ xoa bôi. Nhóm Pháp kia chẳng sinh giận dữ, người hành Pháp kia cũng chẳng tùy vui, chẳng nên tụng Chân Ngôn kia khen ngợi
Giả sử có tiền thì dùng Từ Bi bố thí. Trước tiên nên lễ bái tất cả chư Phật với nơi đã cư ngụ. Tiếp theo nên lễ các chúng Bồ Tát. Tiếp theo lễ chúng Duyên Giác, Thanh Văn. Ví như trăng mới mọc tuy chưa tròn đầy, nhưng các hàng người đi đến tôn kính lễ bái. Bồ Tát cũng như thế, tuy chưa Giác Ngộ trọn vẹn nhưng dần dần sẽ thành mặt trăng Bồ Đề tròn đầy. Thế nên, lễ bái chúng Bồ Tát thì nhóm kia sao có thể phụ rẫy tất cả chúng sinh. Vì cứu giúp cho nên phát Đại Từ Bi
Nghĩ kỹ, có chúng sinh ngu si hèn kém chẳng chịu lễ bái. Các Bồ Tát kia, có Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn, đủ đại tinh tiến. Nếu người chẳng lễ thì chẳng tới thẳng, Chân Ngôn chẳng thành, cũng vì thế mới hủy báng chư Phật. Ví như từ hoa mới thành quả trái. Hoa như Bồ Tát, Quả ví dụ cho Bồ Đề
Bồ Tát tuy lại đối với người hành Dục thị hiện bày hành Dục. Đối với người cương cường thì hiện bày cương cường. Đối với người nhu nhuyễn thì hiện bày Từ Bi. Song, Bồ Tát kia thật không có yêu ghét. Vì sao chẳng lễ nhóm Bồ Tát kia?
Lại dùng mọi loại hình của Chân Ngôn Chủ. Tùy theo loại hay mãn Tâm của các chúng sinh. Lại hay biết rõ tất cả Nghiệp quả. Bởi thế nên lễ Chân Ngôn Tôn Sư
PHÂN BIỆT THÁNH ĐẠO PHẦN THỨ MƯỜI MỘT
Lại nữa, sẽ nói Pháp 8 Thánh Đạo là Chính Kiến (Samyag-dṛṣṭi), Chính Phân Biệt (Samyak-saṃkalpa), Chính Ngữ (Samyag-vāc), Chính Nghiệp (Samyakkarmānta), Chính Mệnh (Samyag-ājīva), Chính Cần (Samyag-vyāyāma), Chính Niệm (Samyak-smṛti), Chính Định (Samyak-samādhi). Đây là con đường mà chư Phật đã tu hành
Người tu hành con đường này thì Chân Ngôn mới thành. Lại sinh vào nơi màu nhiệm thắng thượng của Người, Trời
Chư Phật quá khư tu hành con đường này cho nên thành Đẳng Chính Giác. (chư Phật) hiện tại, vị lai cũng lại như vậy
Công Đức mà nghiệp thân miệng ý đã tu, thường y theo Chính Giáo, chẳng sinh sự bỏ quên Tâm thiết tha thành khẩn, Tu hành như vậy mới gọi là Chính Nghiệp
Thức ăn uống, quần áo, giường nằm, vật dụng, thuốc thang… thường ôm giữ sự biết đủ, chẳng sinh nhiễm dính. Đây gọi là Chính Mệnh
Chẳng khen thân mình, chẳng chê người khác, xa lìa các lỗi lầm như tránh lửa nóng cùng với thú mạnh, thường ưa thích vắng lặng. Đây gọi là Chính Ngữ
Chẳng học xem bói tướng tốt xấu, nhóm việc nam nữ, Thiên Văn, Địa Lý, Pháp điều khiển voi điều khiển ngựa, nghề bắn tên, ghi chép, tính toán, ngôn luận của Thế Gian, Điển không có ích… xa lìa lỗi này. Đây gọi là Chính Kiến
Lời nói chẳng y theo Pháp Tắc thì chẳng đến thẳng, chẳng thành, sũng sẽ tự hại mình. Người niệm tụng dầu chẳng y theo Pháp thì các Chân Ngôn Chủ cuối cùng cũng chẳng gây tổn hại, Nhưng hàng hầu cận, nhìn thấy lỗi kia tức liền gây tổn hại.
Lại nữa, nếu muốn niệm tụng với muốn thành tựu kèm thực hành các việc mà không có các việc khó, mau được Tất Địa thì đem các thức ăn uống cúng tế chư Thiên (Deva), Tu La (Asura), Dược Xoa (Yakṣa), Rồng (Nāga), Già Lộ Trà (Garuḍa: Kim Xí Điểu), Cộng Mệnh Điểu (Jiva-jiva)…, Yết Tra Bố Đan Na (Kaṭa-pūtana), Càn Thát Bà (Gandharva), Bộ Đa (Bhūta), các hàng Quỷ (Preta), Mỵ (Grahā)… hoặc ở trên mặt đất, hoặc ở tại hư không
Hành Giả quỳ gối phải sát đất, nói lời Khải Thỉnh là: “Chư Thiên, Bộ Đa ở núi Diệu Cao, cư trụ ở vườn Hoan Hỷ với cung Trời khác, ở cung Nhật Nguyệt với 7 núi vàng. Hoặc ở sông lớn, hoặc trụ bên biển, ở hồ đầm. Hoặc ở suối, giếng. Hoặc ở làng xóm với các miếu Thần. Hoặc ở nhà trống vắng. Hoặc ở thất thờ Trời. Hoặc ở tại Già Lam. Hoặc ở Chế Để (Caitya: tháp miếu). Hoặc ở am cỏ của Ngoại Đạo. Hoặc ở thất thờ hình tượng. Hoặc ở kho tàng. Hoặc ở đường cái, đường tắt. Hoặc ở chỗ của ngã tư đường.Hoặc ở dưới cái cây đứng một mình. Hoặc ở con đường lớn. Hoặc ở mồ mả. Hoặc ở rừng lớn. Hoặc ở nơi có Sư Tử, trùng lớn du hành. Hoặc ở sa mạc lớn. Hoặc ở nơi chốn thượng diệu của các Châu…. Đều sinh vui vẻ cùng các Quyến Thuộc giáng lâm nơi này. Tôi đã bày biện vòng hoa, hương xoa bôi, hương đốt, thức ăn uống với đèn sáng màu nhiệm. Nguyện rũ thương hưởng sự tốt đẹp khiến cho việc mà tôi đã mong cầu được đầy đủ Quả ấy”
Đây là cúng dường các Quỷ Thần. Sau đó nên ở ngày riêng, cúng dường chư Thần hộ Phương. Như lúc trước bày biện vật cúng, chắp tay quỳ gối, liền nên thỉnh là: “Cẩn thỉnh Đông Phương: Kiều Thi Ca Thiên với các Quyến Thuộc đi đến giáng
xuống nơi này. Con đã cúng dường, nguyện rũ thương nhận lấy” Tiếp đến Đông Nam thỉnh Hỏa Thiên.
Tiếp đến phương Nam thỉnh Diệm Ma.
Tiếp đến phương Tây Nam thỉnh Nễ Lý Để Bộ Đa Đại Vương.
Tiếp đến phương Tây thỉnh Phộc Lỗ Noa Long Vương.
Tiếp đến phương Tây Bắc thỉnh Phong Thần Vương. Tiếp đến phương Bắc thỉnh Đa Văn Thiên Vương Tiếp đến phương Đông Bắc thỉnh Y Xá Na.
Tiếp đến phương bên trên thỉnh hàng Phạm Thiên Vương
[?thiếu: Tiếp đến phương bên dưới thỉnh Địa Thiên]
Nhóm hương xoa bôi, tùy theo vật bày biện… cúng dường Tam Bảo với Bản Bộ Chủ kèm với các hành Minh Chủ, Chân Ngôn Chủ. Dùng quạt sinh ra lửa, chẳng được dùng miệng thổi lửa. Dùng gạo, bơ. Hoặc mè hòa với bơ. Dùng Bản Bộ Minh Chủ Chân Ngôn Hộ Ma 7 biến, hoặc 8, hoặc 10 cho đến 20… cúng dường Minh Chủ
Dùng cỏ tranh trải bày, ngối hướng mặt về phương Đông. Đem bơ, mật, váng sữa đặc hòa với nhau rồi để trong một vật khí. Cây dùng để Hộ Ma thì tẩm vào đầu cây ấy.
Sau đó làm thành tựu Bản Chân Ngôn. Cho nên như Pháp Hộ Ma, ở trong lửa ấy, dùng tiếng lửa nổ, nên xem xét tướng thành tựu, chẳng thành tựu
Lửa ấy không có khói, lửa như màu vàng ròng, nơi dấy lên đám lửa thì uyển chuyển xoay theo bên phải. Lửa, gió cũng nhiều… màu ấy hoặc trắng, hoặc như màu hồng, hoặc cực đỏ khắp giống như San Hô, sắc tướng giống như tẩm ướt. Lửa ấy bốc lên xong lại tuôn rộng xuống dưới, hoặc như ánh sáng của màu mặt trăng trắng
Hình trạng của đám lửa ấy nếu như cái bình, cây phướng, dù lọng, hạt Cát Tường… Hình là chữ Vạn; là vỏ ốc, hoa sen. Hoặc như cái thìa bơ Hộ Ma, như cây đinh ba với Bạt Tích La (Vajra), Hoặc như cây đao nằm ngang, hình dạng như bó cỏ, hoặc như hình cái xe, hoặc như cây phất trần. Tiếng như mọi loại âm thanh của nhóm tiếng thổi tiêu, thổi sáo. Hoặc như tiếng loa. Hơi ấy giống như đốt hương Tô Chi, lại không có bốc lên hừng hực. Lửa ấy chẳng quạt tự nhiên nhóm lên. Như tướng này hiện ra ắt sẽ đắc được Thành Tựu rộng lớn.
Hoặc dấy lên nhiểu lửa, cũng lại bốc lên hừng hực. Lửa ấy khó phát, nếu muốn cho phát thì lại chẳng tăng trưởng, lại thời mau diệt giống như không có lửa. Màu lửa tiêu tụy, đen như mây tối, như Ba La Xa. Hình giống như nhóm tướng của cái đinh ba có một chia, Bá Ky (công cụ tuốt vỏ trấu của gạo), Nam Căn, sừng bò. Tiếng như lừa kêu. Lửa ấy chạy tán loạn thiêu đốt người trì tụng. Hơi ấy giống như hơi thiêu đốt xác chết. Như tướng này hiện ra, tức chẳng thành tựu
Hành Giả nhìn thấy tướng chẳng lành này. Liền nên dùng Xích Thân Chủ, hoặc Kế Lợi Cát La, hoặc dùng Bất Tịnh Phẫn Nộ Chân Ngôn mà làm Hộ Ma thì tướng chẳng tốt ấy liền sẽ tiêu diệt
Lại nữa, Hành Giả chẳng nên dùng lông được cạo ở ba chỗ. Cũng chẳng nên thiêu đốt sáp bôi, thuốc rơi xuống cùng với lấy tay nhổ bứt. Ví như có người cầm cây đao bén, nếu chẳng khéo hiểu thì tự sẽ bị tổn hại
Trì vô lượng Minh với các Chân Ngôn mà Đức Thế Tôn ấy đã nói. Trong ấy có nhập vào bên trong Kim Cương Bộ, cũng có nhập vào trong Liên Hoa Bộ, cũng có nhập vào bát Chi Ca Bộ, cũng có nhập vào bên trong Ma Ni Bộ, cũng có xuyên qua chỗ của Phi Bộ như vậy
Như bên trên đã nói Chân Ngôn, lược dạy bảo các Pháp Tắc. Ở 5 Bộ này đều nên tu hành
Lại có chư Thiên đã nói Chân Ngôn y theo Đức Thế Tôn thì cũng nên tu hành
Pháp Tắc như vậy. Nếu Hành Giả nương theo Pháp này thì người nương theo liền được thành tựu ý muốn
Lại nữa, Thế Tôn! Báu màu nhiệm thắng thượng ở bên trong ba Hữu (3 cõi) từ đây lại tuôn chảy Pháp Bảo cứu cánh, từ đây lại sinh ra mọi báu chẳng thoái lùi của 8 Đại Trượng Phu. Như vậy, Tam Bảo là báu mà đời đã xưng tán, thế nên nứu muốn Hành Giả diệt tội sinh Phước, Bản Tôn mau được hiện ra trước mặt, thời ở lúc niệm tụng, đầu tiên nên quy mệnh Tam Bảo
Nếu lại tụng trì Chân Ngôn bên trong Kim Cương Bộ. Đầu tiên quy Tam Bảo xong, tiếp theo nói “Na mô thất chiến noa bạt chiết la bà nãi duệ, ma ha dược xoa tế na bát đát duệ” (NAMO ŚCAṆḌA-VAJRA-PĀṆĀYE MAHĀ-YAKṢA- SENAPATĀYE). Tiếp theo, liền tụng Chân Ngôn
Lại nữa, Kiên Hoa Bộ Minh cũng như vậy
Nhóm Bát Chi Ca Bộ, Ma Ni Bộ cũng lại như vậy. Đầu tiên quy Tam Bảo, tiếp theo quy Bộ Chủ, sau đó mới có thể tụng trì Chân Ngôn
Nếu chẳng quy tin Thích Giáo, lại hành Thanh Văn Thừa với Duyên Giác Thừa. Niềm tin chẳng đầy đủ, bên trong ôm giữ sự suy bại thối nát, bên ngoài bày tinh tiến, lại ôm giữ sự tham lam keo kiệt thì chẳng nên cầm Bạt Thích La (Vajra: chày Kim Cương) này của Ta dạy bảo
Nếu có một vị Bật Sô, Bật Sô Ni, Ưu Bà Tắc Ca, Ưu Bà Tư Ca chế diễu, chỉ trích Đại Thừa thâm sâu màu nhiệm, nói: “Điều đã nói này đều là sự dạy bảo của Ma” lại ôm giữ sự ngu si nói Chấp Kim Cương (Vajra-dhāra) là Dược Xoa (Yakṣa), lại chẳng kính lễ các Đại Bồ Tát, người trì tụng Diệu Chân Ngôn như vậy… thì chẳng bao lâu tự sẽ tổn hại thân mạng
Các Phật Bồ Tát cuối cùng chẳng có hại người. Nhưng, ở trong Bộ có các loài Quỷ thấy người ngu si sằng bậy cầm chày Kim Cương (thuộc Kim Cương Tộc của Tôi, kèm trì tụng Diệu Chân Ngôn thuộc Giáo của Tôi thì các quyến thuộc ấy liền dùng mắt giận dữ nhìn cho đến phá hoại thân mệnh)
Tiếp theo, hết thảy các Đại Thẩn Vương Địa Cư cùng các quyến thuộc đi đến giáng xuống nơi này, đều trụ Bản Phương. “Vật cúng mà tôi đã bày biện, nguyện rũ thương nhận lấy. Lại nguyện thường thời vệ hộ cho tôi”.
Như vậy cúng dường các hàng Quỷ Thần với Hộ Phương Thần thì Hành Giả không có các nạn, việc mà ý đã cầu nguyện thảy đều đầy đủ
PHÂN BIỆT CÁC BỘ PHẦN THỨ MƯỜI HAI
Lại nữa, Đức Thế Tôn vì lợi ích chúng sinh cho nên nói 3 câu chi 5 lạc xoa Chân Ngôn với Minh, tên là Trì Minh Tạng (Vidyā-dhara-piṭaka)
Lại Thánh Quán Tự Tại nói 3 câu chi 5 lạc xoa Chân Ngôn. Ở trong Bộ này Chân Ngôn Chủ tên là Hà Gia Cật Lật Bà (Hayagrīva: Mã Đầu).
Mạn Trà La của Bộ này nói là Nễ Tỳ-Gia (Nitya) lại có 7 Chân Ngôn Chủ là: Thập Nhị Tý Chân Ngôn Chủ (Dva-daśa-bhūja), Lục Tý (Ṣaḍ-bhūja), Thượng Kế, Mãn Như Ý Nguyện, Tứ Diện (Catur-mukha), Bất Không Quyến Sách (Amoghapāśa), Nhị Tý (Dva-bhūja) giống như ánh sáng mặt trời chiếu sáng Thế Gian. 7 Chân Ngôn Chủ của Nhóm này đều là chỗ quán của Mã Đầu
Lại có 8 Minh Phi (Vidyā-rāñji) là: Mục Tinh (Tārā), Diệu Bạch (Suśveta), Cư Bạch (Pāṇḍara-vāsinī), Quán Thế (Vilokini), Độc Kế (Eka-jaṭa), Kim Giáp (Suvarṇamukha), Danh Xưng (Yaśa), Bật Cú Chi (Bhṛkuṭī). Nhóm này đều là Minh Phi trong Liên Hoa Bộ
Lại nói mọi loại Diệu Mạn Trà La với các Thủ Ấn
Ta vì lợi ích cho chúng sinh nghèo túng với đập nát các loài Quỷ cho nên nói 7 câu chi Chân Ngôn với Mạn Trà La
Lại có 7 Sứ Giả, 7 Minh Phi. Lại có 64 Tần (Nữ Quan), lại có 8 Đại Tâm Chân Ngôn, lại có vô lượng Phẫn Nộ của hàng Quân Trà Lợi, lại có vô lượng Chân Ngôn Chủ của hàng Tối Thắng Minh… thế nên Bộ này có tên là Quảng Đại Bạt Tích La Bộ (Quảng Đại Kim Cương Bộ)
Lại có Đại Thần tên là Bát Chi Ca (Pañcika) nói 2 vạn Chân Ngôn. Vị Thần ấy có Phi (vợ) tên là Di Khước La (Mikara) nói một vạn Chân Ngôn. Đây lại gọi là Bát Chi Ca Bộ (Pañcika-kula)
Lại có Đại Thần tên là Ma Ni Bát Đà La (Maṇi-bhadra: Bảo Hiền) nói 10 vạn Chân Ngôn. Đa Văn Thiên Vương (Vaiśravaṇa) nói 3 vạn Chân Ngôn. Đây lại gọi là Ma Ni Bộ (Maṇi-kula)
Lại có chư Thiên với A Tu La cầu nơi Pháp Tắc, lại tu hành đầy đủ, niệm tụng chẳng gián đoạn. Người như vậy mau được thành tựu, cứu thoát các khổ, lại hay diệt tội, hay cho đời này với đời sau được niềm vui
Ngoài Chân Ngôn lại không có Pháp khác. Ví như lửa Trời giáng xuống cùng với sương, mưa đá hay tổn hại các vật, không thứ già có thể tránh thoát. Uy Lực của Chân Ngôn cũng lại như vậy, hay đập tan khổ não với các tội chướng. Như cây báu Như Ý hay tỏa mãn mọi loại ý nguyện của hữu tình. Pháp màu nhiệm của Chân Ngôn cũng lại như vậy, hay ban cho thành tựu, hoặc ban cho phú quý, thảy đều hay ban cho: sắc đẹp, sức mạnh, sống lâu
Có các Bồ Tát quán sát Hữu Tình gặp các nạn khổ với sự sợ hãi khác, sự khổ đau vì nạn vua chúa, giặc ác, lửa, mưa đá… tức tự biến thân làm hình Chân Ngôn Chủ cứu giúp chúng sinh
Nếu lại có người tuy ở tại nhà thọ nhận các sự yêu thích, đối với Pháp Tắc đã nói bên trong Chân Ngôn, người kia mỗi ngày chẳng thiếu sót, số niệm tụng chưa đầy đủ, hoặc đủ thời xong, hoặc nghiệm hiện xong, tức lìa năm Dục đủ Giới thanh tịnh, vào nơi Tịnh Thất lại tụng Chân Ngôn đủ 10 vạn biến, sau đó cầu thành tựu, chẳng lâu liền được Chân Ngôn Tất Địa mà Ý đã ưa thích
_Lại nữa, Hành Giả nếu muốn tắm rửa, lấy đất sạch hòa với nước xoa bôi khắp thân ấy. Sau đó vào trong nước lớn thanh tịnh, tùy ý tẩy rửa xong. Hoặc hướng mặt về phương Đông, hoặc hướng mặt về phương Bắc, rửa tay chân xong, chỉ ngồi xổm. nên để 2 bàn tay ở khoảng giữa 2 đầu gối, dùng nước rưới khắp thân thể. Đừng để cho nước phát ra tiếng, liền dùng bàn tay phải làm Pháp bụm nước, ở trong lòng bàn tay ấy đừng để nước có bọt, Chú vào nước 3 lần, rồi uống nước ấy 3 lần, đừng để phát ra tiếng. Đem ngón cái của bàn tay lau chùi miệng 2 lần với rưới lên thân, tức làm Hộ Thân xong
Đột nhiên, sau đó kẽ răng vướng chất cấu uế mà lưỡi tiếp chạm biết được. Hoặc lại ho hắng, khạc nhổ, chảy nước mũi. Hoặc lại ép lồng ngực… liền nên như bên trên tụng vào nước rồi uống nước, cho đến súc miệng tắm gội xong rồi, liền đến Tịnh Thất, khoảng trung gian chẳng cùng với người ngoài, hoặc nam hoặc nữ, người xuất gia, Bà La Môn thanh tịnh, Đồng Nam, Đồng Nữ với Hoàng Môn (kẻ bán nam bán nữ)… nói chuyện với cùng tiếp chạm nhau. Nếu có tiếp chạm nhau thì lại như lúc trước tắm gội vời dùng nước súc miệng, sau đó niệm tụng
Như ưa thích tắm gội, sau đó ưa thích niệm tụng. Đối với các hữu tình có đủ sự thương xót, lại chẳng yêu lợi dưỡng của người khác, đi xin thức ăn để ăn
Chân Ngôn chẳng đúng Pháp (phi pháp) liền sinh giận dữ, tức hại mạng kia
Nếu có trì tụng Đại Thừa Phương Quảng, lại hay tin nhận, cững ưa thích vì người khác rộng nói, dũng mãnh tinh tiến, bền chắc Bồ Đề Thắng Tâm. Người như vậy trì tụng Chân Ngôn, chẳng lâu sẽ được thành tựu điều mà Ý ưa thích
Ông đã thỉnh hỏi, Ta đã vì ông nói chính đúng Nhất Thiết Phật Giáo Chân
Ngôn Đô Giáo Pháp
Lại nữa, bên cạnh đó nói về lời dạy bảo (ngôn giáo) của Ngoại Đạo, ông nên nghe cho kỹ! Ma Hề Thủ La Thiên (Maheśvara) nói 10 câu chi Chân Ngôn, bên dưới đó các hàng Trời, Rồng với nhóm Phi mỗi mỗi đều nói số ngàn vạn Chân Ngôn với Thủ Ấn, Mạn Trà La… y theo Pháp thọ trì. Nếu trái ngược với sự dạy bảo (giáo) này
thì chẳng đến thẳng, chẳng thành tựu, cũng sẽ tự hại mình
PHÂN BIỆT TÁM PHÁP PHẦN THỨ MƯỜI BA
Lại nữa, hết thảy Pháp thành tựu của Thế Gian tổng cộng có 8 loại là:
- Pháp thành Chân Ngôn
- Pháp thành trường niên (sống lâu)
- Pháp Xuất Phục Tàng (lấy kho tàng)
- Pháp vào cung Tu La
- Pháp hợp thành vàng (luyện Kim)
- Pháp đất thành vàng (chỉ đá hóa vàng)
- Pháp thành Kim Thủy (nước vàng ròng)
- Pháp thành Vô Giá Bảo (báu vô giá)
Đây gọi là 8 Pháp, ở trong đó có 3: Pháp thành Chân Ngôn, Pháp vào cung Tu
La, Pháp thành Trường Niên… 3 Pháp này là bậc Thượng
Pháp thành Vô Giá Bảo, Pháp Độ thành Kim, Pháp Xuất Phục Tàng… 3 Pháp này là bậc Trung
Pháp hợp thành kim, Pháp thành kim thủy … 2 Pháp này là bậc Hạ
Nếu có chúng sinh có đủ Giới Huệ cũng lại ưa thích Pháp, người như vậy ưa thích làm Thượng Thành Tựu
Nếu có chúng sinh có Tính nhiều tham dục, người như vậy làm Trung Thành Tựu
Nếu có chúng sinh có nhiều sự ngu si thì làm Hạ Thành Tựu
Chẳng nên cầu bậc Hạ. Nếu còn sót sự nghèo túng thì hành chẳng tự tại, ắt nên cầu Trung Phẩm, vẫn chẳng cầu bậc Hạ
Nếu muốn đắc được mọi loại thành tựu như bên trên đã nói thì cần phải tu Phước (Puṇya). Người có đủ Phước, cầu niềm vui của người, Trời. Giả sử cầu kính niệm nhóm việc: kéo dài mạng được sống lâu (diên mệnh trường thọ), uy lực tự tại, đoan chính, thông tuệ, văn trì… đều được thành tựu
Nếu không có vương vấn dính vào sự ưa thích, tu hành Thiện Hạnh (Kuśalacaryā). Phật Pháp Tăng Bảo thường chẳng lìa Tâm.
Chân Ngôn Dược Xoa Phụ (phụ nữ Dược Xoa) cũng lại như vậy, tuy ở chung với nhau, cuối cùng không có ý tốt lành, giả bộ trợ giúp nhưng lại rình tìm lỗi lầm, sẽ gây tổn hại. Do ngu si cho nên, nếu thành Pháp này thì chẳng phải là ngay thẳng, phạm vào lỗi của Tà Hạnh này cũng lại tự mình sẽ có sự tổn hại
Chân Ngôn mà chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã nói…. với Chân Ngôn mà nhóm loại Trời, Rồng, Dược Xoa, Tu La đối trước mặt Phật đã nói… Đức Như Lai vì lợi các hữu tình cho nên thảy đều chứng hứa, lại ôm giữ gia bị. Chân Ngôn của nhóm kia đều có 3 Phẩm
Thành Thượng Phẩm là bay lên hư không, vào cung Tu La, tự tại biến hình, làm Thiên Chủ của nữ Dược Xoa, Pháp hóa tuổi già thành trẻ thơ, tự biến thân của mình làm hàng Mật Tích (Guhya-pāda)…
Thành Trung Phẩm là đắc được tiền tài cho đến phú quý
Hạ Phẩm ấy là khiến tướng người tăng thêm với hay nhiếp triệu đến, khiến rời khỏi đất nước cho đến khiến cho khô khốc
Hạ Trung Hạ (bậc Hạ trong Hạ) là chữa trị sự mê hoặc của nhóm loại Quỷ Mỵ, Long Mỵ, Anh Nhi Mỵ…khiến cho người ngủ mê…. thì tụng vào bàn tay, nâng quyền (nắm tay) lên đẩy sự ôm giữ cột trói (của Quỷ Mỵ) và nói : “dời ngươi đi” với A Phệ Thiết Na (Āveśana: phẫn nộ) liền khua đánh khiến cho đi cho đển tổn hại, với khiến mọi người cùng chung tụng Chân Ngôn, hoặc khiến mọi người dùng bàn chân đạp lên đất, thì người bị Quỷ Mỵ bám dính sẽ choáng váng ngã xuống đất… để ở ngã tư đường, dùng lụa trắng che phủ người đưa đến, khiến xướng rằng: “mỗi mỗi hãy nhìn ngó”. Lại khiến một người từ bàn chân dần dần nhấc tấm lụa trắng trên cho đến khi nhấc mở hết tấm lụa thì người bệnh được phục hồi Bản Tâm
Với chữa trị chất độc của loài chuột thì làm thay cho Môn Nhân (đệ tử), miệng hô triệu các Rồng cột trói chúng, chẳng để cho gieo mầm chủng độc đến nhiều người.
Chữa trị người bị chất độc và hay dời chất độc cùng với chất độc của con người.
Chất độc thành con mắt của người cũng lại chữa trị được.
Người bị chất độc thì ngăn cấm khiến chẳng cho chất độc dẫn phát.
Phát khiển loài rắn khiến gây thượng tật cho người khác với thành Sứ Giả.
Cũng hiện Nhân Long dùng Pháp âm nhạc rưới vảy lên người bị vướng Mỵ.
Nhóm như vậy là Ngoại Pháp
_Lại có rắn độc có 80 loại, trong số đó có 20 loại ngóc đầu lên mà đi. Ở trong đó có 6 loại dừng trụ liền quấn khoanh thân. Trong đó có 12 loại tuy cắn nhưng không có chất độc. Bên trong số đó có 30 loại là vua trong mặt đất. Ngoài ra còn có loài rắn khác tuy lại cắn người thì có khi bị chất độc
_Người như vậy thì Pháp Chân Ngôn màu nhiệm trong sáng nhập vào thân cầu thành tựu
Khi niệm tụng thời, nếu có Thí Chủ (Dānapati) bố thí quần áo, vàng, bạc, châu báu, yên ngựa, xe cộ, vật dụng trang nghiêm, hương xoa bôi, hương đốt, thức ăn uống, giường nằm… nhóm vật như trân cho đến lượng cực nhỏ thì chẳng nên nhận lấy
Lại nữa, đi tiêu đi tiểu xong rồng, nên dùng 5 đám đất: 3 đám tẩy rửa phía sau, một đám tẩy rửa phía trước… một lần tiếp chạm thì tẩy rửa rồi ra khỏi nơi uế ác
Lại ở nơi thanh tịnh, phân chia đất thành 10 đám. Trước tiên dùng 3 đám tiếp chạm tẩy rửa bàn tay trái. Lại dùng 7 đám tẩy rửa 2 bàn tay: 3 đám trong đó trước tiên tẩy rửa bên trong phía trái, một đám tẩy rửa vai lưng, 3 đám sau cùng thông với tẩy rửa bên trong bên ngoài của 2 bàn tay khiến cho sạch sẽ. Sau đó, dùng Ý nhận dùng đất, nước tẩy rữa thanh tịnh.
Nếu nơi đi tiểu liền dùng 3 đám đất: 2 đám dùng cho nơi đi tiêu, một đám dùng tiếp chạm tẩy rửa. Liền ở nơi thanh tịnh, lại dùng 3 đám đất, lại tẩy rửa sạch sẽ. Ví như thời Xuân, gió lay cây cối thì tự nhiên phát ra lửa, dùng Vô Công Dụng thiêu đốt các thứ cỏ. Dùng lửa niệm tụng, dùng gió Tịnh Giới, dùng tướng siêng năng lay động thiêu đốt hết cỏ tội lỗi cũng lại như vậy
Lại như sương lạnh, mặt trời soi chiếu liền tiêu tan. Dùng ánh sáng tỏ niệm tụng của mặt trời Giới niệm tụng khiến tiêu hết tuyết tội lỗi cũng lại như vậy
Ví như trong nhà bị ám tối đã lâu, nếu đem đèn vào tức liền diệt hết sự ám tối. Dùng Đèn niệm tụng chiếu thân ám tối của tội lỗi, cũng lại như vậy
Hành Giả trì tụng cho đến Hộ Ma mà Chân Ngôn đã trì vẫn chẳng thành tựu thì nên dùng bùn hương, hoặc gần bên sông lớn sông nhỏ, lấy cát sạch, kính tạo 10 vạn tháp tượng Tốt Đổ Ba (Stūpa) ắt nghiệp chướng đã gây tạo từ vô thủy đến nay liền được tiêu diệt, Đời này sẽ được thành tựu Hiện Báo
Pháp của Chân Ngôn dùng Giới (Śīla) làm gốc rễ (Mūla). Tiếp theo lại Tinh Tiến (vīrya) cũng với Nhẫn Nhục (Kṣānti), ở chỗ của chư Phật ôm giữ sự cung kính sâu xa, chưa từng chuyển lùi Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta), nơi niệm tụng ấy cũng không có lười biếng. Ví như quốc vương có đủ 7 loại Pháp hay ở trong người dân với tự mình an vui. Người trì tụng có đủ 7 Pháp này liền diệt các tội rồi được thành tựu
Đầu tiên nên như Pháp niệm tụng Chân Ngôn, tiếp lại Hộ Ma. Hộ Ma xong rồi thì Bản Tôn vui vẻ tức liền ban cho thành tựu sự ưa thích của Ý (ý lạc)
_Lại nữa, nếu muốn thành tựu Pháp nhiếp lấy người vui (nhiếp hỷ nhân), hoặc cho đến từ khoảng cách 100 do tuần trở lại đều là phụ nữ Dược Xoa (Yaksaṣī). Nếu vì sự ham muốn (dục) cho nên thành Dược Xoa Nữ, giả sử khiến cho Tất Địa thì trở lại cùng với phụ nữ Dược Xoa. Ví như khoe mình bán nữ sắc, vì kiếm tiền cho nên cùng với người hành Dục.
Vì đói quá cho nên đâm bắt chúng sinh khiến cho tâm người bị loạn. Hoặc ca hoặc múa, hoặc vui hoặc buồn, hoặc ôm giữ sự sầu não, hoặc có lúc nói năng lung tung… Làm mọi loại tướng khác lạ như vậy khiến cho người cười quái dị… Liền nên dùng Kim Cương Câu, hoặc dùng Chân Ngôn của nhóm Phẫn Nộ Kim Cương chữa trị được trừ khỏi bệnh
Lại có Hỏa Thần Chân Ngôn, Phong Thần, Ma Hề Thủ La với Nhật Nguyệt Thiên, Đại Phạm Thiên Vương, Long Vương, Na La Diên Thần, Đa Văn Thiên Vương, các Dược Xoa Vương, Kim Sí Điểu Vương, Đao Lợi Thiên Vương… nhóm
Quỷ Mỵ kia chẳng sợ Thiên Thần ngoài nhóm như vậy ra. Nếu nghe danh hiệu của Kim Cương Câu thì tự nhiên lui tan
Người Trí biết Tính Hạnh của Quỷ Mỵ ấy với Pháp chữa trị, sau đó không có sợ hãi mà tồi phục Quỷ Mỵ
Chân Ngôn mà chư Phật, Bồ Tát đã nói được Đức Như Lai gia bị. Ngoài ra, Chân Ngôn của mọi loại Thiên Thần khác chẳng thể phá hoại Chân Ngôn của Như Lai
_Lại muốn diệt tội. Ở nơi Không Nhàn yên tịnh, nên dùng bùn hương. Hoặc ở gần sông lớn sông nhỏ, dùng cát làm Chế Để (Caitye: tháp miếu), bên trong an Kệ Duyên Khởi Pháp Thân. Bấy giờ, Phạm Vương, chư Thiên, Dược Xoa, Trì Minh Đại Tiên, nhóm loại Ca Lâu La, Càn Thát Bà, Bộ Đa…thấy nghe Pháp này liền cung kính lễ bái, một thời chắp tay nói lời như vầy: “Thật hiếm có! Tôn Giả thương xót chúng sinh. Thật hiếm có Thắng Hạnh vi diệu như vậy!”
Hoặc thấy Tôn Giả tay cầm chày Kim Cương lớn (đại bạt chiết la) tỏa sáng rực rỡ, hoặc tay cầm chày sắt kiên cố, hoặc tay cầm bánh xe lớn mạnh bén, hoặc thấy tay cầm sợi dây Bất Không, hoặc thấy tay cầm cây chỉa ba lớn, hoặc thấy tay cầm cây đao nằm ngang lớn, hoặc thấy tay cầm cây cung, hoặc thấy tay cầm cây gậy, hoặc thấy đủ mọi loại khí trượng thù đặc đáng sợ hiếm có, hoặc thấy tướng tốt đoan nghiên khiến người ưa thích, hoặc thấy Tôn Giả là tướng Dược Xoa
“Chúng tôi quy mệnh Bồ Tát như vậy là nơi mà hàng Trời, A Tu La… cung kính. Nếu có người dân quy y Tôn Giả thì chẳng lâu sẽ được Trì Minh Đại Tiên, cho đến phú quý. Nếu có tu hành Chính Pháp như vậy thì người kia màu lìa sự nghèo túng, khổ lớn, được uy diệu, cùng lúc không bị chất độc”
_Lại có nhóm loại: cóc, tắc kè, nhện, rắn hổ mang, với loài trùng gây độc… Như vậy, phân biệt số ấy tuy nhiều nhưng số có hành độc chỉ có 6 loại
1_Dính vào phân dơ của loài trùng ấy thì thân tức liền có chất độc
2_Nước tiểu dính vào thân ấy tức liền có chất độc
3_ Nơi chạm dính vào thân tức liền có chất độc
4_Phát ra nước rãi, nhổ dính vào thân tức liền có chất độc
5_Nơi bị con mắt nhìn ngó vào tức liền có chất độc
6_Chỗ bị răng cắn vào tức liền có chất độc
Như vậy phẩm thượng trung hạ của các chất độc, phân biệt liền thành số loại. Thế nên Thần, Trời khác nói nhóm Pháp Liệu Độc Chân Ngôn này. Như vậy các loài trùng hoặc dùng chất độc làm cho hôn mê mà phóng chất độc mạnh. Hoặc vì giận dữ, hoặc khủng bố, hoặc đói khát, hoặc ôm giữ oán hận cho nên khi cái chết đến thời phóng ra chất độc mạnh
_Chất độc ở răng ấy lại có 4 loại: một là Thương, hai là Huyết Đồ, ba là Cực
Tổn, bốn là Mệnh Chung
Nơi bị cắn chỉ có một dấu răng thì chất độc ít ỏi. Đây gọi là Thương
Nơi bị cắn có 2 dấu răng, có máu chảy ra thì gọi là Huyết Đồ
Nơi bị cắn có 3 dấu răng để lại vết thương bên trong ấy thì gọi là Cực Tổn Nơi bị cắn có 4 dấu răng liền ràng quấn thân ấy. Đây gọi là Mệnh Chung
Một loại độc này, dầu cho dùng Chân Ngôn Diệu Dược cũng chẳng thể trị khỏi. Ví như lửa mạnh thiêu đốt thân, hoặc cùng dao cắt. Người bị chất độc cũng lại như vậy. Nếu dùng thuốc trị ắt chẳng theo kịp Chân Ngôn, như lửa lớn hưng thịnh nếu dùng nước tưới lên thì lửa ấy liền tắt. Chân Ngôn nhiếp độc cũng như vậy, người Trí khéo hiểu mọi loại chất độc cũng lại trì tụng Đại Uy Chân Ngôn cùng đùa giỡn với các chất độc không có một chút sợ hãi, giống như Sư Tử đi vào bên trong đàn bò vậy
_Lại nữa, Thiên Mỵ, A Tu La Mỵ, Dược Xoa Mỵ, Long Mỵ, Trì Minh Mỵ, Càn Thát Bà Mỵ, Ngạ Quỷ Mỵ, mọi loại các Mỵ của nhóm Tỳ Xá Xà… Vì cầu cúng tế cho nên, hoặc trêu ghẹo đùa giỡn, hoặc giết hại, du hành Thế Gian thường ăn máu thịt… rình tìm lỗi lầm, hoặc dùng sự giận dữ đâm bắt chúng sinh, hoặc gây phiền não, hoặc khiến cho đói…
“Thế Gian như mặt trời hiện ra thì chúng tôi vệ hộ Hành Giả như vậy chẳng khiến cho Tâm tán loạn, cho đến thường được thành tựu như ý”
Hàng Phạm Thiên Vương nói lời này xong thì rất ư vui vẻ, cúi đầu mặt lễ bàn chân, đều ngồi trên tòa lớn, lui tan mà đi
Chư Thiên đi xong thì Chấp Kim Cương Thánh Giả lại bảo Diệu Bạc Đồng Tử (Subahū-kumāra): “Nay Ta đã nói, hàng Trời đã nghe. Nay ông có thể đi lưu hành cho nhân gian”
Diệu Bạc (Subahū) nhận sự dạy bảo, đỉnh lễ rồi lui ra. Liền ở Thế Gian rộng vì người nói 8 Minh Phi Chủ trong Phẩm thứ mười hai là: Đa La (Tārā: đây nói là Mục Tinh), Tùng Đa Át Chỉ Gia (Su-śveta: đây nói là Bạch Minh), Bán Noa La Phộc Tùng Ninh (Pāṇḍara-vāsinī: đây nói là Bạch Y), Vi Lộ Yết Ninh (Vilokini: đây nói là Quán), Ê Ca Nhiệt Tra (Eka-jaṭa: đây nói là Độc Kế), Kiệu Lý (Gaurī: đây nói là Kim Sắc Tướng), Dã Xả Mạt Để (Yaśa-mati: đây nói là Danh Xưng Tuệ), Bật Cú Chi (Bhṛkuṭī: đây nói là Phẫn Tượng).
Nhóm này đều là Chủ của Minh Phi trong Liên Hoa Bộ
KINH TÔ MA HÔ ĐỒNG TỬ THỈNH HỎI (Hết)_
Bên trên do Đại Đường_Tam Tạng của nước Trung Thiên Trúc là THÂU BÀ CA LA (Đời Đường nói là Thiện Vô Úy) dịch (Sa Môn Nhất Hạnh cầm bút ghi chép)
Thừa Lịch, năm thứ ba, tháng 3, ngày mồng một_ Ở Đại Cốc A Xà Lê Ngự Phòng phụng nhận xong
Dịch xong một Bộ gồm 2 quyển vào ngày 23/04/2016