Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh,

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Thông Nghị.

Sa môn Hám Sơn Thích Đức Thanh núi Nam Nhạc đời Minh soạn thuật.

Quyển Bốn

Mục 2. Phật khai thị Bất Không Như Lai tạng để chỉ bày thể Giả quán. Chia làm ba:

  1. Đương cơ trình bày chỗ nghi.

Bấy giờ ngài Phú Lâu Na Di La Ni Tử, từ trong đại chúng rời tòa đứng dậy, trật vai áo bên phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật rằng: “ Kính bạch Thế Tôn! Đấng đại oai đức thường khéo vì chúng sanh mà diễn bày Như Lai đệ nhất nghĩa đế. Thế Tôn thường khen con là người thuyết pháp giỏi nhất trong những người thuyết pháp. Nhưng hôm nay khi con nghe pháp âm vi diệu của Như Lai, thì giống như kẻ điếc muốn nghe tiếng muỗi mòng cách đó hơn vài trăm bước, muỗi mòng còn không thấy thì làm sao nghe. Bởi vậy lời Phật dạy dù con nghe rất rõ, đã giúp con trừ mê hoặc, nhưng con vẫn chưa hiểu trọn nghĩa này, vì mê hoặc chưa đoạn hẳn. Bạch Thế Tôn! Như các Ngài A nan..vì họ tuy đã khai ngộ nhưng tập lậu chưa trừ. Còn chúng con là những người đã được vị vô lậu trong chúng hội đây, mọi tập lậu đã sạch, nhưng khi nghe Như Lai thuyết pháp này, sao chúng con vẫn còn bối rối, nghi ngờ hối hận?

Nghị rằng: Khi sắp hiển bày tạng tánh bất không, ngài Phú Lâu Na thị hiện mối nghi để thỉnh Phật khai thị. Vì muốn thấu tỏ lý do sanh khởi nên mới có câu hỏi chợt sanh như vậy. Đây trước tiên trình bày về mối nghi. A nan đem sự việc đa văn mà chẳng ích gì đến việc tu chứng để khải thỉnh pháp này. Từ trước giờ Phật chỉ dạy tất cả do nghiệp nên liễu ngộ được pháp thân, tự tin chắc mình sẽ thành Phật không còn nghi ngờ nữa. Còn Phú Lâu Na tuy được tôn xưng là thuyết pháp giỏi nhất, cũng đồng thời được nghe lời khai thị mà chưa đạt đến chỗ không nghi. Điều đó đủ thấy pháp này chẳng phải thâm nhập từ miệng và tai.

  1. Chính thức trình bày về nghi tình.
  2. Nghi rằng chơn không thể dung vọng.

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả căn trần ấm xứ giới vv.. trong thế gian này đều là Như Lai tạng thanh tịnh bổn nhiên, vậy sao lại chợt sanh sơn hà đại địa các tướng hữu vi, cứ thứ lớp đổi dời, sau rồi lại trước?

  1. Nghi tứ đại chống trái nhau.

Như Thế Tôn đã nói, tánh của đất, nước, gió, lửa vốn viên dung, biến khắp pháp giới, trạm nhiên thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu tánh của đất là biến khắp, sao lại dung chứa được nước? Nếu tánh nước luôn biến khắp, đáng lẽ lửa không sanh? Vậy phải phân biện thế nào để hiểu tánh nước lửa kia đều biến khắp hư không, nhưng vẫn không tiêu diệt nhau.

Bạch Thế Tôn! Tánh của đất là chướng ngại, tánh của hư không là rỗng suốt, vậy sao hai tánh này đều châu biến pháp giới. Vì thế con không hiểu nghĩa này sẽ đi về đâu? Cúi mong Như Lai dủ lòng từ, vén mở mây mờ cho con và đại chúng. Tác bạch xong năm vóc gieo xuống đất để tỏ lòng khát ngưỡng, mong chờ Như lai Vô Thượng chỉ dạy.

Nghị rằng: Đoạn này Ngài phú Lâu Na trình bày mối nghi để thưa thỉnh. Tôn giả nhân những lời dạy trước đây của Như lai nói về Căn, Trần, Thức, Giới đã đều là Như Lai tạng tánh thanh tịnh bổn nhiên, cớ sao chợt sanh ra các tướng hữu vi như núi, sông, đất liền ư? Điều này do vì Tôn giả không biết nguyên nhân sanh khởi chúng sanh và thế giới. Lại cũng nghe bảy đại biến khắp và đất, nước, gió, lửa đều biến khắp pháp giới. Nhưng lửa và nước tiêu diệt lẫn nhau, đất và hư không chiếm đoạt lẫn nhau. Vậy tại sao nói mỗi mỗi cùng biến khắp ư? Vì ở đây không ngộ được chơn tánh viên dung. Cho nên mới hỏi một cách triệt để tận gốc. Nếu chẳng phải Nhất Thiết Chủng Trí của Như Lai thì làm sao có thể thấu tận nguyên nhân sinh khởi của nó ư?

  1. Đức Thế Tôn giảng bày rộng khắp. phân làm 5..

b.1 Phật bằng lòng khai thị và khuyên đại chúng hãy lắng nghe.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Phú Lâu Na và các vị lậu tận vô học A la hán trong hội rằng: Nay Như Lai sắp vì các chúng hội mà tuyên thuyết chơn thắng nghĩa tánh trong các thắng nghĩa. Để giúp hàng định tánh Thanh Văn và tất cả A la hán chưa đắc nhị không mà hướng về Thượng thừa trong hội này đều được đạo tràng nhất thừa tịch diệt. Vì đó chính là chốn chơn A lan nhã để chân chánh tu hành. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ Phú Lâu Na… vì ham mộ pháp âm của Phật nên im lặng lắng nghe.

Nghị rằng: Ở đây là lời hứa của Phật nói về tánh chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa. Thành Duy Thức luận nói Thắng Nghĩa có bốn:

  1. Thế Gian Thắng Nghĩa là Uẩn, Xứ, Giới vv.
  2. Đạo Lý Thắng Nghĩa là pháp Tứ Đế.
  3. Chứng Đắc Thắng Nghĩa là Chân Như Nhị Không.
  4. Thắng Nghĩa Thắng Nghĩa là Nhất Chân Pháp Giới.

Từ đây trở đi chính là trình bày về chỗ tột cùng của pháp giới duyên khởi. Cho nên nói là tánh chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa. A Luyện Nhã Trung Hoa dịch là Tịch diệt xứ. Hoa Nghiêm gọi Bồ Đề Đạo Tràng là A-lan-nhã-xứ, chính là nhất thừa tịch diệt tràng vậy. Vì lấy tánh pháp giới làm gốc tu nhân cho nên đây chính là chỗ chơn thật để tu hành. Phần sau làm rõ hai nghĩa Bất Không và Không Bất Không Như Lai tạng tánh. Để làm hiển bày luôn cả pháp giới viên dung, cho nên ý của Phật chấp nhận chỉ dạy là có chỗ căn cứ.

2- Khai thị về nghĩa vọng nương vào chơn mà khởi, chia làm năm.

  1. Lập nhất tâm làm gốc của mê ngộ.

Phật dạy: Này Phú-lâu-na, như lời ông nói, đã thanh tịnh bổn nhiên sao lại chợt sanh sơn hà đại địa? vậy ông không nghe Như Lai thường tuyên thuyết tánh giác diệu minh, bổn giác minh diệu sao?

Phú –lâu-na đáp: Đúng vậy, bạch Thế Tôn, con thường nghe Như Lai tuyên thuyết nghĩa ấy.

  1. Gạn hỏi liền hai môn làm nhân sanh khởi.

Phật dạy: Ông gọi giác minh, vì tánh nó tự Minh nên gọi là Giác,( gạn hỏi tâm chân như môn) hay vì tánh giác có phần không minh nên gọi Minh giác.(gạn hỏi về tâm sanh diệt môn)

Nghị rằng: Ở đây có hai lời gạn hỏi về nguồn vọng để chỉ bày nguyên do sanh khởi. Ngài Mãn Từ Tử hỏi “ Như Lai tạng đã thanh tịnh xưa nay thì lẽ ra nó phải hoàn toàn không có các tướng. Cớ sao trong pháp giới thanh tịnh bỗng nhiên sanh ra vật này. Bỗng nhiên sanh nghĩa là phát khởi một cách vô cớ. Đây là câu hỏi dồn xe vào chân tường thật khó mà mở miệng. Nếu ở trong Thiền Tông chỉ cần tiêu một gậy, một cú hét thì bèn dứt hết nghi tình. Nhưng nay nguồn giáo hải thăm thẳm không thể không truy tìm về khởi nguyên của nó. Cho nên với tâm thành tha thiết, Đức Thế Tôn đã ân cần chỉ dạy. Giờ đây, làm sáng tỏ lý vọng nương vào chơn khởi. Cho nên trước hết lập nguồn pháp giới nhất chân để làm cội gốc của mê ngộ. Đặc biệt niêm hai câu thường nói “Tánh giác diệu minh và bản giác minh diệu” cùng khai thị hai môn để gạn phú-lâu-na. Ý muốn nói Ông cho là giác là minh, vậy thì tánh giác vốn sáng suốt không nhờ vào minh mà gọi đó là giác. Câu hỏi này thuộc về chơn như môn. Hay là tánh giác không đó không minh mà phải nhờ vào minh rồi sau đó mới gọi là minh giác? Câu hỏi này thuộc sanh diệt môn. ở đây đức Thế Tôn lập ra hai then chốt để dẫn Phú Lâu Na trở về nhận định một câu sở minh và cho đó là đầu mối của sự tạo vọng.

Phật tánh có ba, đó là chánh nhân, duyên nhân và liễu nhân. Tánh mầu nhiệm sẳn có vốn tự viên thành  không nhờ vào công phu tu tập nên gọi là chánh nhân. Phải nhờ vào các duyên của minh sư, thiện hữu mới khai phát, đó gọi là phật chủng nhờ duyên khởi nên gọi duyên nhân. Vì nhờ sự tu tập rồi mới ngộ nên gọi là liễu nhân. Thế nên, tánh giác diệu minh được trình bày ở đây chính là Chánh Nhân Phật Tánh vậy. Còn bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật Tánh. Vì nhờ vào công phu thỉ giác mới làm hiển bày bản hữu. Nghĩa là phải tu rồi sau đó mới thành. Hai loại Phật tánh này quy tụ về nhất tâm nên cùng nêu một lúc để lập tông thể.

  1. Nhận vọng mất chơn.

Ngài Phú-lâu-na bạch Phật: Nếu từ phần bất minh mà gọi là giác, tức không có sở minh.

Nghị rằng: Ý của Phật muốn dẫn một câu sở minh để khai mở đầu mối mê vọng cho Phú Lâu Na. Nhưng Tôn giả vẫn nhận lầm tánh giác trong sanh diệt. Ý Tôn giả cho rằng nếu không nhờ vào minh để làm sáng tỏ tánh giác này thì chỉ có minh kia chứ không có tánh giác của sở minh. Ý muốn nói phải cần vào sở minh mới gọi là minh giác.

  1. Nương vào vô minh bất giác mà sanh tam tế trong sanh diệt môn.

Phật dạy: Theo ông, nếu không có sở minh thì không gọi là minh giác, nhưng ông phải biết đã có sở minh thì không gọi là giác, nhưng không có sở minh cũng không phải là minh. Và nếu không có minh thì cũng không phải là giác trạm minh tánh. Vậy phải biết tánh giác vốn minh (nghĩa giác) mà vọng thành minh giác( nghĩa bất giác) vì tánh giác không phải sở minh( nghiệp tướng) nên nếu nhờ minh lập sở( hiện tướng) và khi sở đã vọng lập thì sanh thành vọng năng của ông( chuyển tướng).

Nghị rằng: Ở đây Phật khai thị về nguồn gốc sanh vọng, nếu không có sở minh thì không có minh giác, đấy là lời tùy tiện vậy, nhưng ý then cốt là rút về một câu không có sở minh. Nghĩa là nếu thật sự không có sở minh thì không có sự vọng khởi về minh giác, há không tốt lắm ư! Kế tiếp xác định rằng “Tại sao có sở thì không phải là chơn giác” không có sở thì chẳng phải vọng minh. Còn nếu tuyệt nhiên không có cái bổn minh thì cũng chẳng có chơn thể của tánh giác trạm minh. Tánh giác phải minh, nghĩa là tánh giác nhất định phải diệu minh chứ không cần nhờ vào Minh để làm sáng tỏ. Vì đó là Phật tánh bản nhiên, nên luận thành nghĩa giác vậy. Còn vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một niệm sở minh thì chính là đánh mất tánh giác diệu minh, nên luận là nghĩa bất minh. Tánh giác chẳng phải sở minh, nhưng nếu có sở minh thì thuộc về vô minh. Nên ở đây phải luận là nghiệp tướng của tam tế. Vì do vô minh của cái vọng minh này mà bị mê che chân tâm tuyệt đối đãi thành sở tướng đối đãi. Một chữ sở này đã đoán được tướng hư không, thế giới, chúng sanh ở trong đây. Cho nên nói nhờ minh mà lập sở, nên nói nó thuộc hiện tướng vậy. Nhưng sở tướng đã vọng lập thì đối đãi sẽ là hình trạng. Nên mới chuyển trí quang bản nhiên tịch chiếu diệu minh thành vọng kiến của năng kiến. Vì thế nên nói sở đã do vọng lập sanh ra vọng năng của ông, đó chính là chuyển tướng vậy. Đến đây thì hiển rõ tướng của tam tế.

  1. Cảnh giới làm duyên trưỡng dưỡng lục thô. Chia thành ba chi.

–  Hiển chung lục thô.

Trong chỗ không dị đồng bỗng khởi thành dị.( thuyết minh nghĩa toàn chơn khởi vọng) khác với cái dị kia, tức nhơn dị lập đồng. Đồng dị đã phát minh, nên nhân đây mà lập tướng không đồng không dị.( trên là nêu chung vọng tướng, dưới đây chính thức trình bày về lục thô). Nhiễu loạn như thế là do đối đãi mà sanh lao nhọc. (trí tướng) lao nhọc lâu ngày thì phát sanh trần tượng( tướng tương tục) khiến tự tướng bị ô trược.( chấp thủ kế danh tự tướng). Do đó mà dẫn khởi trần lao phiền não.( khởi nghiệp hệ khổ tướng, sau đây tổng kết về vọng tướng),khởi lên làm thế giới, lắng xuống làm hư không. Mà hư không là đồng, thế giới là dị, còn tướng không đồng dị kia mới đúng là pháp hữu vi.

Nghị rằng: Đây vốn là lấy nguyên do của điên đảo vọng tưởng để làm sáng tỏ tướng lục thô. Trong cái không đồng dị bỗng nhiên thành dị, nghĩa là trong chân tâm thường trụ của pháp giới nhất chân kia vốn không có tướng dị đồng. Vì một niệm vọng động mà biến chân như chuyển theo duyên mà có sanh diệt bèn thành bất giác, tạo nên A lại da thức. Từ đó ắt biết được ba tướng vi tế và lục thô xuất hiện. Vậy nên vô số tướng sai biệt của thế giới chúng sanh hoát nhiên hiện lên trong tạng thức. Bởi lẽ nó vốn không có dị đồng mà nay lại có. Vì pháp pháp đều hiện nên gọi là thức nhiên. Bốn câu sau khác với cái dị đồng kia, chọn sự dị đồng trong mê từ một chữ sở để hiển bày tướng lục thô. Cái khác kia tức là bỗng nhiên thành dị. Nghĩa là vô minh thành thế giới năng dị đồng với sở dị. Nay ngay trong cái dị mà chọn một pháp không khác với thế giới năng dị chính là hư không. Đó gọi là mê vọng mà thành hư không. Vì do vô số cái dị của sự sai biệt trong thế giới mà lập hư không là đồng rồi luôn chấp vào đó. Vì hư không là tĩnh mà thế giới thì động, động tĩnh phát minh thì lập một pháp thành không đồng không dị, đó chính là chúng sanh. Vì chúng sanh có sắc tướng nên khác với hư không, có tri giác nên khác với thế giới. Đây chính là trong mê, từ hiện tướng tam tế mà có dị tướng của chúng sanh, thế giới và hư không. Đây chính là nương vào hư không để lập thế giới. Tri giác ở đây phải hiểu là chúng sanh, vì một niệm này vốn đầy đủ. Cho nên văn sau Phật tự giải thích. Sự nhiễu loạn như thế…là thuyết minh về tướng lục thô, đó là tánh trạm nhiên thường tịch trong tâm diệu viên của pháp giới nhất chân. Nay vì mê vọng mà thành ra có chúng sanh và thế giới. Sự động tĩnh trong hư không do nhiễu loạn nhau mà thành mõi mệt. Mõi mệt thì vọng sanh phân biệt nên nó thuộc về trí tướng của Thô. Mõi mệt lâu ngày bèn phát sanh trần tượng, mõi mệt lâu nên thuộc về tướng tương tục. Tự tướng bị ô trược, đó gọi là tự tâm chấp lấy tự tâm nên cũng chấp thủ tướng danh tự vậy. Do đó khiến cho dẫn khởi trần lao phiền não khởi nghiệp mà khổ ấy nhất định kéo theo, nên nghiệp ràng buộc thành thành khổ tướng. Bởi do động niệm một chữ sở nên ở trong cảnh thanh tịnh bổn nhiên mà vọng có các tướng hữu vi sơn, hà, đại địa lưu chuyển, do đó mà có sanh khởi cũng khởi vậy. Vì từ câu thế giới trở về sau là giải thích lý do của sự dị đồng trong mê ở phần trước. Đó chính là sự dị đồng đã nói ở trước vậy. Vì một khi khởi thì động nên hình thành thế giới, nhưng một khi lắng xuống thì chính là hư không. Vì vậy sợ cái không dị đồng kia lẫn lộn với chơn, chính là chỉ cho ý “ thật có pháp hữu vi chính là chúng sanh”. Đoạn trên đây là thuyết minh tổng quát về lý, do một sự mê vọng mà thành tam tế lục thô, từ đó hình thành tướng nghiệp quả chúng sanh và thế giới. Đoạn sau là khai thị nghĩa mãi mãi luân hồi, cho nên đặc biệt nói về nguyên nhân của ba món tương tục và căn do của tứ đại hỗ sanh vậy.

– Chỉ khai thị về nghĩa tương tục, chia làm ba.

. Phát khởi sự tương tục của thế giới.

 Do giác minh và không muội tiếp xúc nhau mà thành dao động. nên có phong luân chấp trì thế giới. Do ngoan không mà phát sanh rung chuyển, và chấp vào tánh minh kia mà thành ngăn ngại. Tức do minh giác mà lớp kim bảo ấy thành kiên cố, nên có kim luân bảo trì quốc độ. Do chấp chặt minh giác mà thành kim bảo, do cùng minh giác rung chuyển mà có phong luân. Rồi do phong luân kim luân ma sát nhau nên có hỏa quang làm tánh biến hóa. Lại do tánh minh mà kim bảo phát sanh sự thấm nhuần. Rồi do hỏa quang nung đốt nên có thủy luân chảy khắp trong mười phương. Lửa bốc lên, nước lắng xuống. do giao tiếp như thế mà thành bền chắc, khiến nơi thấp ước thành đại dương, nơi khô cao làm lục địa. Do nghĩa này mà trong biển lớn lại có hỏa quang thường phát khởi. Trong lục địa thường có sông ngòi tuôn chảy, khi thế lực của nước yếu hơn lửa thì kết thành núi cao, nên khi đá núi va đập nhau thì phát lửa, đem nung đốt thì tan thành nước. khi thế lực của đất yếu hơn nước thì cây cỏ nảy sanh, nên khi rừng cháy thì thành đất, ép gỗ thì thành nước. Do vọng mà có giao cảm phát sanh rồi nương nhau làm chủng tử. Do nhân duyên ấy mà có thế giới tương tục.

Nghị rằng: Ở đây thuyết minh về nguyên nhân tương tục của thế giới. Câu đầu nói rằng nhơn Minh mà lập Sở, vì chữ Sở chính là Hiện tướng chỉ cho thế giới chúng sanh vv. Nay nói thế giới chính là tướng phần sở biến của Duy Thức. Ban đầu do mê vọng mà có hư không, rồi nương vào hư không mà lập thành thế giới. Cho nên suy ra cái vô minh của minh giác là để đối với hư không của ngoan không, rồi từ đó làm nền tảng cho thế giới sanh khởi. Do ở trong cái không muội tối tăm kết nhóm sự tối tăm đó làm sắc. Đây chính là sự bắt đầu của việc kết sắc. Còn thế giới là Tứ Đại Chủng, chính Nho Gia cũng cho rằng đó là ngũ hành của Tiên thiên ( sự khởi thủy của trời đất). Nghĩa là do vô minh mà thành thế giới của tứ đại, thì trời đất cũng được hình thành từ đó, do tứ đại mà có ngũ hành. Nhờ sự sinh thành đó nên vạn vật cũng được nó dưỡng dục. Mà thế giới đó chính là cõi giới mà con người chúng ta trú ngụ chứ chẳng phải một thế giới nào khác. Người nói cũng chỉ nương vào văn tự trong kinh mà giải thích. Từ xưa tới nay cũng chưa ai phát minh rõ ràng. Cho nên giờ nhân nơi văn kinh mà đặt câu hỏi để làm sáng tỏ. Như vậy không những giải quyết được mối nghi cho hai họ mà đệ tử tôi cũng biết được ý chỉ của Duy Thức. Mong sao không rơi vào tâm trạng chán nản bởi phiền não.

Hỏi: Tại sao có Phong Luân chấp trì thế giới?

Đáp: Kinh nói “ giác minh không muội vv”. Nghĩa là do mê mờ chân tâm diệu minh trong pháp giới nhất chân mà thành vô minh của tánh giác minh vậy. Từ đó biến chơn không tịch diệt linh minh thành ngoan không hôn muội vô tri. Năng sở đối nghịch nhau, sáng tối chống trái nhau lâu ngày thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa hư vọng thành tập khí đầy ắp không trung, rồi biến thành tướng gió. Như phòng trống sanh gió hay phẩy quạt sanh gió. Tích chứa vọng tưởng hoài thì sức gió cũng tăng trưởng. Cho nên nói sức gió có thể chấp trì tất cả thế giới. Lại nữa tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà được tồn tại, cho nên có phong luân chấp trì thế giới. Đây thuộc về phong đại chủng vậy.( Lão Tử chỉ vô minh của giác minh là thể của đạo. Cho nên nói trong cái thăm thẳm mênh mông ấy lại chứa cái tinh minh. Lại lấy cái thể Không làm đại đạo của hư vô, chỉ tướng gió này là khí bốc lên, nên luyện khí cho đến độ chí nhu. Lại nói trong khoảng trời đất này giống như một ống bể. Đây là nguồn đạo của Lão Tử. Còn nhà Nho thì lấy thức thần làm tánh Thiên mệnh, chỉ không đại là Thái cực. Chỉ phong đại là một luồn khí hỗn nguyên. Từ một nguyên khí này mà sanh ra vạn vật. Tất cả đều do không biết duy thức sở biến. Cho nên cái thể trắng đen trên bức địa đồ của thái cực đan xen nhau. Màu trắng chỉ cho tánh giác, màu đen tượng trưng cho vô minh. Đó chính là chỉ cho sự hòa hợp của lý sanh diệt và bất sanh diệt hình thành A-lai-da-thức, để làm đầu mối sanh vạn pháp, bởi thức này có đủ ba phần. Mà hư không thế giới chính là tướng phần vậy.)

Hỏi: Tại sao thế giới lại lấy Kim Bảo làm thể?

Đáp: Kinh nói “ Do ngoan không mà phát sanh rung chuyển vv”. Nghĩa là do trong thể ngoan không kia phát sanh ra gió vọng tưởng dao động. Rồi thổi ngược vào cái minh giác vô tri trong thể tạng thức. Nhất động nhất tịnh sanh diệt không ngừng, ma xát lẫn nhau, rung chuyển nhau. Ma sát, rung chuyển lâu ngày thì cái chấp minh thể kia càng ngày càng kiên cố, rồi dần dần kết thành sắc. Tức thành ngoại sắc vô tri của tướng phần, cho nên nói kết sự tối tăm thành sắc. Lại Kim Bảo kia chính là sự kiên ngại do Minh Giác tạo thành, vì kim bảo có tính chói sáng nên nó được tánh kiên giác. Vì vậy nên có Kim Luân bảo trì quốc độ, Sắc tánh này là Địa Đại chủng. Vì nói theo thể nên gọi là Kim Bảo. Còn từ núi Tu Di trở xuống lòng đất là kim cương tế. ( Ở đây Nho gia cho rằng vừa âm vừa dương là Đạo, nghĩa là nó là nền tảng sanh Thiên Địa. Mà trong đó cái Không Tĩnh, cái u tối lại thuộc về âm, còn cái dao động, cái sáng suốt thì thuộc về dương. Cho nên nói động tĩnh có quy luật thường cương thì nhu đoạn. Do sự động tịnh này mà lấy việc hình thành Kim Luân làm Địa Đại chủng. Chính là sự khởi nguyên của thuở trời đất mới thành, cũng lấy động làm thể của Càn. Tĩnh là thể của Khôn, cho nên hình thành cái ở trên là trời mà tạo ra cái ở dưới gọi là đất. Đó chính là ý nói càn khôn hình thành mà được xếp thành vị trí khác ở trong đó. Ở đây âm dương chưa hình thành mà động tĩnh cương nhu đã đầy đủ, đó là sự biến dị của thuở ban sơ).

Hỏi: Tại sao có hỏa quang làm tánh biến hóa?

Đáp: Kinh nói “ Do kiên chấp minh giác mà thành kim bảo vv”. Nghĩa là do kim bảo của việc kiên chấp minh giác đã hình thành rồi nên phát ra gió của sự rung chuyển tánh minh. Cả hai cái đó đối lập nhau, vừa cứng vừa mềm ma xát nhau, rung chuyển nhau, cho nên có hỏa quang làm tánh biến hóa. Đây thuộc Hỏa Đại chủng vậy. ( Lý này theo Dịch trình bày, đó chính là cương nhu ma xát nhau mà thành biến hóa. Từ hình hướng lên trên trời thành tượng gọi là mặt trời, chính là hỏa tinh của thái dương. Từ hình trở xuống ở mặt đất thành hình làm hỏa chính là tánh biến hóa. Nói biến hóa chính là biến sống thành chín, biến có thành không. Vả lại sau này cho ngũ hành là gió là gỗ, cho nên mài cọ gỗ để lấy lửa, thì được cái tánh Tiên Thiên. Đó chính là hình ảnh mặt trời trong tứ tượng vậy).

Hỏi: Tại sao có thủy luân chảy khắp mười phương?

Đáp: Kinh nói “ Lại do tánh minh mà kim bảo phát sanh sự thấm nhuần vv”. Câu văn này ngược, phải đổi lại là do hỏa quang nung đốt nên tánh minh của kim bảo phát sanh sự thấm nhuần. Nghĩa là hỏa quang nung đốt kim bảo của kiên giác. Bảo kia bị lửa nung đốt phát sanh sự thấm nhuần nên biến thành nước chảy ra. Vì vậy mà có hiện tượng Thủy luân chảy khắp mười phương. Nghĩa của câu kinh này thật khó lãnh hội. Hơn nữa bảo là thể của đất thì tại sao khi lửa đốt cháy mà biến thành nước mưa từ không trung? Lấy kim bảo làm thể của đất thì núi Tu Di cũng gọi là Kim Cang sơn. Đại luận nói “ Núi Tu di là do bốn thứ báu tạo thành, đỉnh núi này chính là cõi trời thứ 32 nơi Đế Thích ở. Vậy thì thượng giới phải lấy kim cương làm địa thể(đất). Huống chi hình núi Tu Di như chiếc trống con. Vậy thì đất ở thượng giới được phủ ở dưới cũng như vậy. Mặt trời mặt trăng xoay quanh eo núi và tỏa chiếu khắp thiên hạ. Điều đó đủ biết khi ngẩng mặt nhìn lên thấy một màu xanh biên biếc kia chính là thể của đất báu cõi trời. Còn chúng sanh ở hạ giới do hỏa nghiệp thiêu đốt mà sanh thấm nhuần. Tức là những thứ như sương, tuyết, mù, mưa ở bầu khí quyển đều là chất nước do các thứ báu sanh ra. Thế thì chúng sanh thường được ở trong bảo giới. Mà trong bảo giới kia có nước, thì chẳng lẽ thủy luân kia không chảy khắp mười phương ư? ( Đây chính là quan niệm của Dịch. Cho rằng từ hình trở lên, ở trên trời thành nguyệt tượng, tinh thể của thái dương. Hình trở xuống là trạng thái tuôn chảy của các con sông, suối, biển cả. Ở đây đầy đủ tứ tượng vậy.) đây là do giác minh và không muội ở trước giao đối nhau mà có hai đại Phong, kim. Rồi do phong kim ma xát nhau  mà thành hỏa đại, rồi lại do hỏa nung đốt kim bảo chảy ra mà thành thủy đại. Thế thì do tứ đại mà hóa thành trời đất. Tứ tượng như âm dương, mặt trời, mặt trăng, tinh tú chính là quan niệm mà trong kinh Dịch nói “ Thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng. Đồng thời lấy đó làm thể của Bát quái. Cho nên nói “ Trời cao đất thấp thì càn khôn định”. Cao thấp thì sẽ lộ ra địa vị quý tiện. Động tĩnh thì sẽ phát sanh thường, cương, nhu, đoạn. Ở trên trời thì thành tượng, dưới đất thì thành hình, những thứ đó thấy được do sự biến hóa. Trên  đây còn nói đó là tướng sanh thành của trời đất. Sau đó mới nói nguyên do gốc ngọn của vạn vật. Từ đó suy ra thì có thể biết được rằng thế giới do duy thức của giác minh biến hiện ra, rõ ràng không sai sót mảy may. Ngày xưa tôi gặp một bậc phạm túc bảo tôi rằng “ Kinh Lăng Nghiêm bàn về chỗ tinh túy mầu nhiệm của ngũ hành. Cho nên nay tôi hết lòng nghiên cứu, môn đệ của tôi không thể không biết.

Hỏi: tại sao có tướng trạng tuôn chảy của sông suối ao hồ biển cả và sự khô ráo của đất liền?

Đáp: Kinh nói: “ Lửa bốc lên, nước lặn xuống vv”. ở trước đã nói càn khôn đã thành, âm dương đã phân thì trời đất được hình thành. Nhờ tứ đại chủng mà lấy ngũ hành của Thánh đời sau để sanh thành vạn vật. Thế nên trong đây hỏa cùng kim hợp sanh thủy, thủy cùng hỏa hợp sanh thổ. Nghĩa là do hỏa quang nung đốt mà bảo minh phát sanh tánh ướt. cho nên khi hỏa quang bốc lên thì thế nước lặn xuống, giao tiếp nhau trong khoảng hư không. Thủy hỏa đã giúp, âm dương hòa hợp mà sanh ra con. Cho nên thủy hỏa đều cứng quý mà thành hình. Trong khi đó bổn nguyên tánh ướt của nó tuôn chảy thành nước của bốn biển lớn. tánh hỏa, bổn nguyên của nó dần kết thành thổ, rộng lớn thì gọi là châu, nhỏ thì gọi là đơn. Cho nên có bốn châu lớn và các châu nhỏ. Chính vì lẽ đó mà thủy dung chứa tánh cha nên trong biển thường khởi hỏa quang. Còn thổ mang tính mẹ nên trong châu lục ao hồ thường chảy. Vì thủy hỏa chính là thủy hỏa hợp tánh nên ở trên trời thành tượng có trăng sao vv. ở dưới đất thành hình nên có tướng trạng của sông, suối, ao hồ, biển cả và tứ đại bộ châu. Cho nên nói do biến hóa mà thấy được vậy. Do sự giao phát này lập thành sự kiên chắc nên thủy hỏa nghịch nhau chính là thủy hỏa đã trợ giúp gọi là tương sanh. Thế nước ở dưới yếu hơn lửa nên có cỏ cây, đá núi đó chính là khắc nhau để sanh ra vạn vật.

Hỏi: Tại sao có núi sông cao thấp không bằng phẳng?

Đáp: kinh nói “ Thế nước yếu hơn lửa vv”. ở trước nói thủy hỏa đã giúp nhau mà thế thì đối nghịch nhau nên thành đất liền và biển cả. Nay thủy hỏa chưa giúp nhau mà thế thủy yếu hơn hỏa. Thế không đối nghịch nhau mà khi hỏa bốc lên thì liền kết thành núi cao, đá lớn. Vì nó thọ tánh của cha nên núi đá ma xát thì thành lửa. Vì mang tánh mẹ nên nung chảy thành nước. Như nay trong đá có hỏa, trên đỉnh núi có thủy, có thể thấy chúng cùng làm tươi tắn nhiều loại cây cối. Đây vẫn thuộc về tánh hỏa theo quan niệm của thánh xưa, nhưng do tánh không đối địch nhau nên tạo núi đá hữu hình.

Hỏi: Tại sao có các loại cây cỏ?

Đáp: Kinh nói “ Thế thổ yếu hơn thủy vv”.Ở đây theo ngũ hành, thủy thổ sanh mộc. Vì nó bẩm thọ khí phần của cha nên khi cây khô gặp lửa thì biến thành tro đất. Vì nó bẩm thọ khí phần của mẹ nên khi cỏ cây gặp bện lại thành nước. Do giác minh không muội, hai thứ vọng mà thành tập chủng của tứ đại. Rồi từ đó dần biến thành trời đất, mặt trời mặt trăng, tứ đại bộ châu, sông suối biển hồ, núi non cây cỏ. Mà hễ một luồn khí lưu hành thì âm dương rối ren, ngũ hành tương sanh, bát quái lưu biến đến 64 quẻ. Vì vậy Dịch Quái bắt đầu từ càn khôn mà kết thúc ở nơi đã giúp chưa giúp vậy. Cho nên nói các thứ hư vọng đó giao nhau mà phát sanh, thay đổi làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên ấy thế giới nối tiếp nhau.

Ngày xưa Thiền Sư Đại Huệ nói “ Kinh Lăng Nghiêm nói: “ Thế giới tương tục trình bày về ngũ hành thật tinh tường”. Bây giờ trình bày ra đây để dạy chúng, nhưng chưa phân biệt tỷ mỉ thôi.

Thuyết minh về lý chúng sanh tương tục.

Lại nữa, Phú-lâu-na, cái minh vọng đó chẳng phải là cái gì khác mà lỗi là ở giác minh. Cái sở minh hư vọng đã lập thì phạm vi của cái năng minh không vượt qua được. Do nhân duyên đó mà nghe không ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc. Sáu cái vọng sắc thanh hương vị xúc.. đã thành lập, từ đó phân ra có thấy nghe hay biết. Do đồng nghiệp mà ràng buộc lẫn nhau mà có hợp, có tan, có thành, có hóa. Do thấy sáng mà sắc phát ra, do sáng mà thấy nên tư tưởng thành. Rồi vì dị kiến mà thành ghét, cùng tư tưởng thì  thành yêu. Do rót dòng ái vào làm chủng tử, rồi vin nạp tưởng mà thành thai. Tức từ giao cấu mà phát sanh rồi hấp dẫn cái đồng nghiệp. Từ nhân duyên đó mà sanh ra yết-la-lam, yết-bồ-đàm.. bốn loài thai, noãn, thấp, hóa đều tùy chỗ cảm ứng. Như noãn chỉ do tưởng niệm mà sanh, thai thì do ái tình mà có, thấp sanh thì do cảm mà hợp, hóa sanh thì do phân lìa mà ứng ra. Lại từ tình và tưởng, hợp và ly thay đổi lẫn nhau, rồi theo nghiệp mà chịu thăng trầm. Do nhân duyên đó mà có chúng sanh tương tục.

Nghị rằng: Ở đây thuyết minh về nguyên nhân tương tục của chúng sanh. Minh vọng chẳng phải là cái khác cho đến hợp, ly, thành, hóa vv. Có lẽ nguyên nhân thọ hình của tứ sanh mà thân là gốc của khổ. Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sanh. Nhưng vì một niệm vọng động từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần biến thành căn nguyên sanh ra chúng sanh. Cho nên nói minh vọng chẳng phải là cái gì khác mà lỗi chính là do giác minh. Giác minh ở đây chỉ cho vô minh vậy. Vì thế vô minh dần hình thành sở tướng của tứ đại, hấp thụ tứ đại để làm thân. Cho nên khiến cho lý chơn minh không thể vượt thoát khỏi sắc thân. Rồi lôi cuốn lục trần của ngoại sắc tạo nên làm cảnh thọ dụng. Vì nhân duyên đó mà nghe không ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, vì sáu thứ vọng trần sắc thanh hương vị xúc đã đặt vào, thì khi căn trần hòa hợp bèn phát sanh sáu thức. Cái thể viên minh tròn lặng cũng do đó mà phân thành thấy nghe hay biết. Ba thứ căn trần thức hòa hợp làm nhân tạo nghiệp thì khổ quả tứ sanh cũng bám theo trọn vẹn. Cho nên đồng nghiệp ràng buộc nhau mà có hình thai sanh, noãn sanh. Còn hợp ly thành ứng với loài thấp, hóa. Vì chúng sanh trong loài tứ sanh này ban đầu do một niệm vô minh mà có. Do thấy sáng sắc phát cho đến Át-bồ-đàm vv câu này là chỉ tướng trạng đầu thai vậy. Lên xuống sáu đường không biết lúc nào ngừng nghỉ. Ở đây bàn về nhơn đạo, nghĩa là chúng sanh đã tạo vọng nghiệp thì sau khi chết đi vào thân trung ấm, đó gọi là du hồn. Đã gọi là ma thì không có sắc thân mà có ngũ thông, mắt nhìn thấy thật xa. Do tập khí ái nhiễm nên nhất định phải tìm một cảnh để yêu, phải tìm kiếm cho bằng được, tuy xa mấy ngàn dặm nhưng cảnh khả ái cũng chiêu cảm, cho nên nói thấy sáng thì sắc phát. Đã thấy cảnh ấy thì thức thần bèn chạy đến chỗ đó. Do sáng mà thấy nên tưởng hình thành, cho nên nói “ do sáng mà thấy nên Tưởng thành”. Nên ngay lúc nam nữ đang giao cấu thì thức thần vin lấy. Nếu là nam thì thương mẹ ghét cha. Nếu là nữ thì thương cha ghét mẹ. Cho nên nói “ dị kiến mà thành ghét, đồng tưởng thành yêu” theo sự giao cấu đó mà khát khao theo mãi. Hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình, cho nên nói rót dòng ái vào làm chủng tử. Tưởng bám lấy một chút tinh huyết của cha mẹ, nạp tưởng vào trong đó rồi chấp làm ngã. Cho nên nói “ nạp tưởng thành thai”. Bước khởi đầu trong quá trình thọ hình nhập thai có lẽ do việc giao cấu mà ra. Nếu luận về nam nữ thì do thương ghét hấp dẫn đồng nghiệp mà có khác nhau. Do nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên. Mà ở trong thai bảy ngày gọi là yết-la-lam( Trung Hoa dịch là Ngưng Hoạt). Át-bồ-đàm (Trung Hoa dịch là bào nhị thất chi trạng) Tế thi ( Trung Hoa dịch là nhuyễn nhục tam thất chi trạng). kiện nam (Trung Hoa gọi là kiên nhục tứ thất chi trạng. Bát-la-xa ( Trung hoa dịch là hình vị, nghĩa là hình thể ở trong khoảng 35 ngày, bấy giờ sáu căn mới đầy đủ. Những gì trên đây nói là nguyên nhân của sự đầu thai vậy. Còn như bốn loài thai, noãn, thấp, hóa không nhất định, tùy theo nghiệp đã tạo mà cảm ứng sanh vào loài nào. Đó gọi là theo nghiệp mà lưu chuyển. Noãn chỉ do tưởng sanh, thai do tình mà có, thấp do hợp mà thành, hóa do ly mà ứng. tưởng thì nhẹ nhàng mà tình lại nặng nề. Do tưởng mà có ái nên noãn đặt ở hàng đầu. Lại phù hợp với khí ẩm ướt mà sanh nên gọi là thấp sanh. Biến đổi hình dạng nên gọi là hóa sanh. Do tình tưởng hợp ly biến đổi lẫn nhau, theo nhân cảm quả, tức theo chỗ thọ nghiệp mà có thăng trầm. Bởi nhân duyên đó mà có chúng sanh tương tục.

Thuyết minh về nghiệp quả tương tục.

Này phú-lâu-na, do tưởng ái đồng kết, lòng thương chẳng thể rời, nên trong thế gian mới có cha mẹ, con cháu nối tiếp nhau sanh sản không dứt. Những người này họ lấy tham dục làm gốc. Do tham ái đồng thấm nhuần, khiến tham hoài không dứt, nên các loài noãn hóa thấp thai trong thế gian này đều tùy sức mạnh yếu mà ăn nuốt lẫn nhau, chúng lấy sát tham làm gốc. Vì người ăn thịt dê nên dê chết sanh làm người, người chết làm dê. Cứ thế mà cả mười loại chúng sanh cứ chết chết sống sống để ăn nuốt lẫn nhau. Rồi vì ác nghiệp mà cùng sanh đến tận đời vị lai. Các loài đây đều do tham thích cướp đoạt làm gốc. Ngươi mắc nợ ta, ta trả nợ cho ngươi. Do nhân duyên đó khiến trăm ngàn kiếp vẫn ở trong sanh tử. Ta yêu tâm ngươi, ngươi thương sắc ta. Do nhân duyên này mà trải qua trăm kiếp ngàn đời vẫn ở trong phiền trược. Chỉ do ba thứ sát, đạo, dâm làm căn bản, vì nhân duyên đó mà có nghiệp quả tương tục.

Nghị rằng: Ở đây trình bày nguyên nhân tương tục của nghiệp quả. Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời. Cha mẹ con cháu trong thế gian sanh nhau không dứt. Ở đây muốn nói sở dĩ chúng sanh không thể thoát khỏi khổ quả sanh tử mà phải chịu luân hồi là do gốc tham dục. Tham và ái trưỡng dưỡng nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Nghĩa là chấp lấy thân phần máu thịt của chúng sanh làm thức ăn nuôi lớn thân mình nên gọi là đồng tư. Vì ỷ mạnh hiếp yếu để làm thức ăn nên nói lấy sát tham làm gốc. Rồi người ăn thịt dê vv lấy tham thích cướp đoạt. Đó chính là không cho mà lấy. Cưỡng giết mạng chúng sanh để lấy thịt ăn, cho nên gọi là đạo. Ngươi mắc nợ mạng ta đó là do sát tham vậy. Ta đền nợ củ cho ngươi đó gọi là đạo tham vậy. Ngươi yêu tâm ngươi, ta mến sắc ngươi đó là dục tham vậy. Cho nên trải qua vô số kiếp bị ba nghiệp trói buộc làm gốc. Vì nhân duyên đó mà nghiệp quả tương tục vậy.

  1. Tổng kết hiển bày vọng tướng.

Này Phú-lâu-na! ba món điên đảo kia sở dĩ cứ tương tục, đều vì giác minh phát sanh minh liễu tri tánh, và từ tánh liễu tri đó mà phát tướng phần. Tức từ vọng kiến mà có núi sông đại địa các tướng hữu vi, cứ theo thứ lớp đổi dời, đều nhân cái hư vọng đó mà có xoay đi trở lại.

Nghị rằng: Ở đây Đức Phật đúc kết lại đầu mối của ba món hư vọng. Nghĩa là tướng của ba thứ điên đảo này xưa nay không có. Chỉ vì một niệm vọng động từ vô thủy mà biến thành vô minh cho nên nói giác minh. Rồi cũng từ vô minh này mà sanh ra vọng kiến nên nói minh liễu tri tánh. Từ vô minh phát sanh sở tướng tức là từ vô minh sanh ra các tướng hữu vi như núi sông đại địa. Từ đó biết được rằng câu đầu nói “ nhơn minh lập sở” tức là chỉ vì một chữ Sở mà tướng của ba thứ điên đảo đã gói gọn trong đó rồi. Bởi lẽ vọng kiến không dứt thì luân hồi cũng không bao giờ ngưng. Cho nên cứ phải chịu cảnh xoay đi trở lại mãi mãi.

Trên đây là ước về mê để khai thị vọng nương vào chơn khởi xong.

3- Khai thị nghĩa vốn không sanh diệt. Chia làm hai.

a- Chấp vọng nghi chơn.

Ngài Phú-lâu-na thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu cái diệu giác đó, bản tánh là diệu minh cùng với tâm Như Lai, không tăng không giảm. vậy vì cớ gì chợt sanh sơn hà đại địa các tướng hữu vi? Còn Như lai nay đã được tánh diệu không minh giác, vậy khi nào sanh sơn hà đại địa các tập khí hữu vi?

Nghị rằng: Ngài Mãn Từ Tử đã được khai thị từ ngộ đến mê, do nương vào diệu giác minh tâm mê vọng mà sanh ra núi sông đại địa. Rồi nghi Như Lai đã chứng diệu không minh giác thì bao giờ sanh lại núi sông đại địa. Vì Ngài muốn làm sáng tỏ nghĩa giác không sanh mê và chân tâm vốn không sanh diệt nên mới hỏi câu này.

b- Địa cầu vốn không sanh diệt.

Phật bảo Phú-lâu-na! thí như một người mê trong tụ lạc nọ, đã lầm phương Nam là phương Bắc. Vậy cái mê ấy do mê mà có hay nhân ngộ mà sanh?

Phú –lâu-na bạch Phật: Sự mê lầm của người kia không do mê cũng không do ngộ. Vì sao? Vì mê lầm đó không có căn nguyên nên đâu thể nói do mê, còn ngộ không sanh mê nên đâu thể nói do ngộ?

Phật dạy: Khi người mê kia đang mê, bỗng gặp người đã ngộ chỉ bày cho ngộ. phú lâu na! ý ông nghĩ sao, tuy người này trước đó đã mê, nhưng từ nay đối với phương hướng trong tụ lạc đó, họ có mê lại không?

Bạch Thế Tôn, không bao giờ.

Này phú-lâu-na, mười phương Như Lai cũng như vậy. Vì mê lầm này vốn không có cội gốc, tánh rốt ráo là không. Bởi xưa vốn không mê nên nay chỉ tợ có mê và giác. Nay giác được cái mê thì mê liền diệt mà cái giác kia chẳng sanh mê. Cũng như người bị nhặm mắt nên thấy trong hư không có hoa đốm. Nay bệnh nhặm nếu hết thì hoa đốm giữa hư không cũng diệt. nhưng kẻ ngu kia chợt ngồi nhìn giữa hư không, nơi hoa đốm đã diệt để chờ hư không sanh hoa trở lại. ông xem kẻ ấy là trí hay ngu?

Phú Lâu Na thưa: Hư không không có hoa đốm, vậy mà vọng thấy có hoa sanh hoa diệt. thấy có hoa diệt trong hư không đã là điên đảo, nay lại còn ngồi mong hoa kia sanh trở lại thì thật quá cuồng si, nên đâu cần nói kẻ cuồng kia là ngu hay trí.

Phật dạy: Ông đã hiểu như thế, sao còn hỏi “ Chư Phật Như lai đã chứng Diệu Giác Không Minh bao giờ lại sanh sơn hà đại địa”. Lại như vàng ròng còn lẫn trong quặng, nhưng khi vàng kia đã được tinh thuần thì không bao giờ trở lại trạng thái cũ. Ví như cây đã thành tro thì không bao giờ trở lại thành cây nữa. chư Phật Như Lai đã chứng bồ đề niết bàn cũng giống như thế.

Nghị rằng: Ngài Mãn Từ Tử hỏi câu này là muốn hiển bày mê ngộ đồng một nguồn vốn không sanh diệt. Cho nên Đức Như Lai đưa ra bốn thí dụ liên tiếp để đáp. Một thí dụ về bên mê khiến cho biết được xưa vốn không mê thì nay cũng không ngộ. Một thí dụ về hoa đốm hư không khiến cho biết được nguồn chơn không có vọng và ngộ rồi thì không mê trở lại nữa. Thí dụ về vàng ròng là chỉ cho tánh giác bất biến. Thí dụ về tro là chỉ cho quả đức vô sanh.

Trên đây trả lời rằng “ Tại sao gọi là chợt sanh?”

Dưới đáp rằng “ Tứ đại xung khắc nhau”

4- Hiển bày lý sự vô ngại.

Này Phú lâu na, ông lại hỏi “ nếu bản tánh của đất nước gió lửa là viên dung, là biến khắp pháp giới. Vậy sao hai tánh nước lửa lại không xâm đoạt nhau? Và nếu hư không cùng đại địa đều biến khắp pháp giới thì không thể dung hợp nhau. Này Phú lâu na, cũng như thể của hư không vốn không phải các tướng, nhưng cũng không chống trái khi các tướng phát huy. Vì sao? Này phú lâu na, như thái hư kia, khi có mặt trời chiếu sáng thì sáng, mây đùn thì tối, gió thổi thì động, tạnh ráo thì trong trẻo, mù đọng thì đục, bụi nổi thì mịt mù, nước lóng thì lắng trong. Ý ông nghĩ sao? Mỗi mỗi tướng hữu vi đó là do mặt trời vv. sanh ra, hay từ hư không mà có? Phú lâu na nếu do mặt trời sanh ra vv..vậy khi mặt trời chiếu thì gọi là sáng, tức bấy giờ mười phương thế giới đều chan hòa một sắc sáng của mặt trời. vậy sao còn thấy một mặt trời tròn giữa hư không? Hơn nữa, nếu do hư không mà có ánh sáng, tức tự hư không đã có khả năng chiếu sáng. Vậy sao vào lúc nữa đêm hay khi mây mù thì hư không không sáng. Nên biết ánh sáng này không do mặt trời cũng chẳng do hư không, nhưng cũng không lìa hư không, cũng không xa mặt trời. Hãy quán các tướng vốn vọng nên không thể chỉ bày. Vậy ông sẽ như người kia, ngồi chờ không hoa kết thành không quả, vậy cớ sao còn hỏi nghĩa các tướng có lăng diệt nhau không? Rồi quán tánh vốn chơn, nên chỉ là một diệu giác minh. Đã là diệu giác minh, tức trước đây không phải là nước và lửa. Vậy sao còn thắc mắc các đại không tương dung nhau. Tánh diệu giác minh cũng lại như vậy, khi ông phát minh về không thì hư không hiện, phát minh ra các thứ đất nước gió lửa, mỗi thứ phát minh đều hiện đủ, hoặc phát minh tất cả thì tất cả đều hiện.

Thế nào là đều hiện? này Phú Lâu Na, như khi mặt trời hiện bóng trên một dòng sông và hai người cùng thấy một mặt trời trên dòng sông ấy. Sau đó người đi về phương Đông, người đi về phương Tây. Nhưng cả hai đều thấy có một mặt trời đang đi theo mình, rồi vì một đông một tây nên trước mặt mất chuẩn đích. Vậy không nên thắc mắc : Tại sao chỉ có một mặt trời mà đều đi theo mỗi người, vì khi mỗi người đi đều có mặt trời đi theo, tức mặt trời đã thành hai chứ đâu phải một? Bởi có thắc mắc hay xoay trở thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là hư vọng không có gì để làm bằng cứ.

Nghị rằng: Đoạn này trở đi là hiển bày nghĩa sự lý vô ngại để khai thị Bất Không Tạng Tánh. Ngài Mãn Từ Tử nghi tánh nước và lửa không xung khắc nhau, rồi nghi hư không đại địa không dung hợp nhau. Đức Như Lai đưa ra một thí dụ về hư không để làm sáng tỏ đạo lý Sự Lý vô ngại. Nên nói thí như thể của hư không vốn không phải là một tập hợp tướng cũng không chống trái khi các tướng phát huy. Để dụ cho thể không trong tánh diệu giác dứt bặt mọi hư vọng mà không ngại đến sự tùy nghiệp phát hiện. Hơn nữa các tướng sáng tối trong hư không vốn chẳng phải thuộc hư không nhưng cũng không khác với hư không, thế nên biết rằng diệu giác minh tâm phát hiện các tướng vốn chẳng phải diệu minh và cũng chẳng khác diệu minh. Đến đây thì nghĩa Bất Không đã được hiển bày vậy. Quán sát các tướng vốn vọng, quán tánh vốn chơn. Chỉ có tâm diệu minh vốn chẳng phải nước, lửa. Cớ sao còn hỏi không dung nhau? Bởi vì chân tâm diệu giác có đủ nghiệp dụng rộng lớn nên mới tùy nghiệp phát hiện.Vì vậy các thứ đất nước gió lửa mà mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi đều hiện. Nếu đồng thời phát minh thì đồng thời phát hiện. Nhưng đồng thời hiện như bóng mặt trời kia hiện trên dòng sông tùy theo mỗi người đi mỗi hướng đông tây thì không thể biết nó là một hay khác được. Từ đó biết được rằng tứ đại đều biến khắp, nên lưới nghi cũng tan rã.

Những thí dụ trên làm sáng tỏ lý sự vô ngại.

5- Hiển bày mê ngộ đồng nguồn để quy kết về nghĩa sự lý vô ngại.

Này Phú Lâu Na, ông cho rằng trong Như Lai tạng, sắc không luôn khuynh đoạt nhau, nên Như Lai tạng cũng theo đó mà làm sắc không để biến khắp pháp giới, khiến trong đó có gió động, hư không lặng, mặt trời sáng, có mây mù và có cả chúng sanh do mê muội mà bối giác hiệp trần, rồi phát khởi trần lao để có các tướng thế gian. Ta nay sẽ dùng diệu minh bất sanh bất diệt này hợp với Như Lai tạng, vì Như lai tạng chỉ là một diệu giác minh viên chiếu pháp giới. Thế nên ở trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Đạo tràng bất động biến khắp mười phương cõi nước, bao trùm mười phương hư không vô tận. Trong một mảy trần mà hiện cõi Bảo vương, ngồi trong một vi trần mà chuyển đại pháp luân. Nhờ diệt trần hợp giác nên phát khởi chơn như diệu giác minh tánh.

Nghị rằng: Ở đây đúc kết lại ý hiển sự lý vô ngại để hiển bày luôn cả sự sự vô ngại. Nghĩa là Như Lai tạng tánh vốn chiếu khắp trọn vẹn. Nếu do sắc không khuynh đoạt nhau thì Như lai tạng cũng sẽ theo sắc không biến khắp pháp giới. Hơn nữa nếu sự biến khắp thì lý cũng biến khắp. Nhưng vì chúng sanh mê muội không ngộ, trái giác hiệp trần nên phát sanh trần lao để có các tướng thế gian. Đó là hiển bày sự lý vô ngại vậy. Ta sẽ dùng diệu minh bất sanh bất diệt này hợp với Như Lai tạng. Vì như lai tạng đó chính là tánh giác diệu minh chiếu soi khắp pháp giới. Cho nên mới có khả năng một nhiều bao bọc nhau, lớn nhỏ dung nhiếp nhau. Trên đầu sợi lông hiện cõi nước Phật, trong mảy bụi trần chuyển bánh xe pháp. Bởi nhờ diệt trần quay về giác tánh nên phát khởi chân như diệu giác minh tánh. Đến đây là đồng thời hiển bày ý nghĩa sự sự vô ngại vậy.

Đoạn trên Đức Phật đã khai thị về bất không Như Lai tạng.

Mục III. Khai thị về nghĩa không bất không Như Lai tạng để chỉ thể phần trung đạo quán.

1- Mượn lý ngăn chiếu để hiển viên, chia làm bốn.

  1. Cùng ngăn để hiển viên.

Nhưng Như Lai tạng bổn diệu viên tâm đây vốn không phải tâm cũng không phải hư không, chẳng phải đất nước gió lửa. Không phải nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Không phải sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Không phải minh, vô minh. Không phải cả minh và vô minh diệt. Cho đến không phải lão, không phải tử, không phải cả lão tử diệt. Không phải khổ tập diệt đạo, không phải trí không phải đắc. Không phải đàn-na, thi-la, tỳ-lê-da, sằn-đề, thiền-na, bát lặc nhã, ba la mật. Như thế cho đến không phải đát thát ha kiệt( Trung Hoa dịch là Như Lai), A-na-ha ( Trung Hoa dịch là Ứng Cúng)-tam-da-tam-bồ. (Trung Hoa dịch là Chánh Biến Tri), chẳng phải đại niết bàn và thường, lạc, ngã, tịnh.

  1. Ước theo song chiếu để hiển viên.

Thế nên tất cả pháp thế và xuất thế đều không phải. Tức Như Lai tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, tức là tâm tức là không, tức là địa thủy hỏa phong, tức là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý; tức là sắc thanh hương vị xúc pháp; tức là nhãn thức giới cho đến tức là ý thức giới; tức là minh, tức là vô minh, tức là minh tức là vô minh tận, như thế cho đến tức là lão, tức là tử tức là lão tử tận; tức là khổ tập diệt đạo; tức là trí tức là đắc; tức bố thí, trì giới, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, tức là ba la mật đa. Như thế cho đến tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết Bàn, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

  1. Ước về đồng thời để hiển diệu.

Tóm lại trong như lai tạng đều tức tất cả các pháp thế và xuất thế gian. Tức Như Lai tạng Diệu Minh Tâm Nguyên vốn lìa “tức” và “phi”. Nghĩa là “tức” nhưng không phải “tức”.

  1. Tổng kết khai thị ly ngôn.

Làm sao chúng sanh trong ba cõi và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác xuất thế gian, đem tâm sở tri để trắc lường cảnh giới vô thượng bồ đề của Như Lai? Muốn dùng ngôn ngữ thế gian để mong hội nhập Phật tri kiến? Như trong các thứ đàn Cầm, Sắc, Không, Hầu, Tỳ Bà, tuy sẳn tiếng hay. Nhưng nếu không có bàn tay khéo thì tiếng hay kia không sao phát được. Ông cùng tất cả chúng sanh cũng như vậy, vì ai ai cũng có đủ chơn tâm bảo giác. Nhưng khi ta ấn ngón chân thì hải ấn phát quang, còn khi các ông vừa móng tâm thì trần lao khởi trước. Do không siêng năng cầu đạo vô thượng giác, chỉ ham thích pháp tiểu thừa, nên vừa được chút ít đã cho là đủ.

Nghị rằng: Ở đây là ước về nghĩa ngăn, chiếu để hiển viên. Mà Như Lai tạng vốn thanh tịnh bản nhiên, không hề lập một mảy may, lìa tất cả pháp, đối với mười pháp giới tướng hoàn toàn bất khả đắc. Còn đoạn này ước về song giá hiển viên. Thế nên tất cả pháp thế và xuất thế đều không phải. Mà Như Lai tạng tức tất cả pháp, nó không bỏ một pháp nào dù thế hay xuất thế. Đoạn kế đây lại ước về song chiếu để hiển viên. Như ngay nơi ngôn ngữ mà chẳng phải ngôn ngữ tức giá chiếu vẫn chưa tột nguồn nhất tâm. Nhưng lìa tức lìa phi là tức chẳng phải tức, ngăn chiếu đồng thời, dứt bặt đường ngôn ngữ mới hiển bày chỗ mầu nhiệm của nhất tâm thôi. Đến đây thì biển quả viên dung đồng thời bặt dứt mọi ngôn ngữ suy lường. Đâu thể đem vọng tâm sở tri mà có thể đo lường được, cũng đâu thể dùng ngôn ngữ thế gian vào tri kiến Phật. Vậy thì phải viên ngộ viên tu mới khế hội đến chỗ nhiệm mầu của nhất tâm thôi. Cho nên mượn thí dụ của cây Cầm, Sắc v.v tuy nó sẳn có tiếng hay nhưng nếu không có bàn tay khéo léo để khảy thì không bao giờ phát ra tiếng được. Ở đây, bàn tay khéo léo dụ cho quán hạnh. Nhưng ông cùng tất cả chúng sanh đều sẵn đủ bảo giác chơn tâm chẳng khác gì ta. Nhưng khi ta ấn ngón chân thì Hải Ấn phát quang, còn khi các ông vừa móng tâm thì trần lao khởi trước. Sao vậy? Bởi vì ham thích pháp Tiểu Thừa không chịu siêng năng cầu đại thừa, được chút ít cho là đủ.

Trên đây đã khai thị nghĩa Không Bất Không Như Lai tạng làm thể Trung Đạo quán.

Từ quyển đầu đến đây khai thị chung về ba loại tạng tánh làm thể tam quán.

2: Khai thị nhất tâm để hiển bày đốn ngộ chóng đắc.

Ngài Phú lâu na thưa: “ Chân tâm tròn sáng, trong sạch nhiệm mầu của con và Như lai đều tròn đầy không hai. Vậy mà từ xưa đến nay mắc lấy vọng tưởng mãi chìm đắmtrong luân hồi, đến nay cũng chỉ được quả A la hán, chứ chưa được rốt ráo, còn Thế Tôn thì các vọng đều diệt sạch, chỉ còn lại chân thường nhiệm mầu. Vậy con xin hỏi Như lai, tất cả chúng sanh vì đâu mà có vọng để tự che lấp tánh diệu minh, cam chịu cảnh trầm luân như vậy.

Phật bảo Phú Lâu Na: “ Ông tuy đã trừ được nghi ngờ, nhưng chưa hết lậu hoặc. Ta nay sẽ lấy các thứ hiện có trước mắt để hỏi ông. Chắc ông đã nghe Diễn Nhã Đạt Đa trong thành Thất La Phiệt kia, một sáng nọ khi dùng gương soi mặt, bỗng nhiên ưa thích cái mặt trong gương, vì cho rằng mặt mày ấy thấy được. Bèn giận cái đầu thiệt của mình, bởi vì sao không thấy mặt mày, cho là loài yêu quái rồi vô cớ phát cuồng bỏ chạy. ý ông thế nào? Người ấy vì nguyên nhân gì mà khi không phát điên bỏ chạy?

Ngài Phú lâu na đáp: “ Do tâm người ấy điên cuồng chứ không có lý do nào khác?”

Phật nói: “ Tánh diệu giác tròn đầy vốn sáng suốt, nhiệm mầu tròn khắp. Đã gọi là vọng thì làm sao có nhân. Đã có nguyên nhân thì sao gọi là vọng. Chỉ do các vọng tưởng tự xoay chuyển làm nhân cho nhau, để từ mê chưa thêm mê mà trải qua vô số kiếp nhiều như các bụi. Nên dù được Phật chỉ rõ ra nhưng vẫn không phản tỉnh. Mê nhơn như thế là do mê tự có. Vậy nếu đã biết mê là không duyên cớ, biết vọng không có chỗ nương thì phải hiểu, sanh còn không sanh, vậy nay muốn diệt là diệt cái gì? Người được bồ đề cũng như người khi tỉnh giấc, kể lại chuyện trong chiêm bao, dù có nhớ rõ ràng cũng đâu còn cách nào giữ được những vật trong mộng. huống nữa là vọng kia vốn không có nhân cớ, vốn không sự thật. Như anh chàng Diễn Nhã đạt đa trong thành kia nào có nhân duyên gì, bỗng tự sợ cái đầu mình rồi bỏ chạy. đến khi cuồng si chợt hết, chiếc đầu thật cũng không do bên ngoài mà được lại. vì ngay khi cuồng tánh chưa dứt, đầu mình cũng không mất. Nên này Phú Lâu Na, tánh của vọng cũng vậy, đâu có nguyên nhân. Nên  ông chỉ không tùy theo phân biệt ba món tương tục nghiệp quả, thế gian và chúng sanh. Vì ba duyên dứt nên ba nhân không sanh. Ngay lúc đó tánh cuồng của Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự dứt. Dứt tức bồ đề, thắng tịnh minh tâm thường châu biến pháp giới, chứ không từ người nào mà được, nên cũng không cần lao nhọc cầu tu chứng. Thí như có người ở trong áo mình buộc một hạt châu như ý mà không hay biết, nên phải xin ăn lưu lạc phương xa, nghèo nàn gầy ốm. Tuy ngheo khốn vô cùng mà hạt châu không mất, đến một hôm chợt gặp người trí chỉ cho biết hạt châu kia, liền muốn gì có nấy, thành người giàu sang phú quý, mới biết thần châu kia không phải từ ngoài mà được.

Nghị rằng: Đoạn trước đã khai thị ba món tạng tánh, tuy là thể của tam quán nhưng vẫn còn thuộc về tu chứng và nằm trong lãnh vực tiệm thứ. Cho nên ngài Mãn Từ Tử lại hỏi do đâu mà có vọng. Phải nói rõ nguồn vọng vốn không duyên cớ để hiển bày nghĩa đốn ngộ đốn chứng. Tới đây mới thấy rõ được diệu tánh bản nhiên vốn tự viên thành. Không nhờ khổ công tu tập cũng chẳng phải từ ngoài mà có. Một câu hỏi do đâu có vọng của Mãn Từ thật là thấu triệt nguồn cơn. Hành giả phải luôn đem câu này tham cứu trong từng giây từng phút. Đừng cho rằng trong giáo môn không có Tổ Sư Ý. Đức Thế Tôn bất đắc dĩ buộc miệng tạm mượn chuyên Diễn Nhã Đạt Đa mê cái đầu để chứng minh cho điều đó. Nhằm khai thị cho chúng ta biết nguồn vọng vốn không nhân. Và việc thấy đầu mình cũng không do bên ngoài được. Bởi diệu giác minh tâm xưa nay không hư vọng, mà đã gọi là vọng thì đâu có nhân gì, vì có nhân thì không gọi là vọng. Nhưng tự các vọng tưởng đó làm nhân cho nhau, từ mê tích mê thôi. Mê nhân như thế chính là nhân mê tự có, nếu biết mê vốn không nhân thì vọng cũng không do đâu nương gá. Huống gì đã không có sanh thì làm gì có diệt. Như người lúc tỉnh giấc kể lại chuyên trong mộng vậy. Bản chất của vọng là thế thì nhân nào mà có, chỉ cần ông không phân biệt theo ba thứ tương tục, khi ba duyên đã dứt thì ba nhân cũng không do đâu sanh. Ba duyên tức là sát đạo dâm, ba nhân chính là hai thứ vô minh phát nghiệp, nhuận sanh, hai thứ hai làm nhân cho ba duyên. Nghĩa là nếu liễu đạt ba duyên vốn không và căn bản vô minh ngay đó không sanh. Thì diệu giác minh tâm xưa nay không mê. Hễ chứng đắc ngay được thì cũng giống như tâm cuồng của Diễn Nhã đạt Đa nếu dứt thì biết đầu kia không phải do bên ngoài mà được. Cũng đâu cần khổ công lao nhọc để tu chứng làm gì. Cho nên sự việc đó cũng giống như chàng cùng tử buộc châu trong chéo áo, nó vốn không mất và cũng chẳng phải do bên ngoài mà được. Tới đây thì ý chỉ đốn ngộ được tỏ bày vậy.

Trên đây là chỉ thẳng nhất tâm để hiển bày đốn ngộ xong.

3- Khai thị chân vọng đều bặt để hiển diệu, chia hai phần.

  1. Đương cơ chấp mê vẫn còn nghi nhân duyên tự nhiên.

Bấy giờ A nan ở trong đại chúng, đứng dậy đảnh lễ chân phật, bạch rằng: “ Thế tôn đang nói ba nghiệp sát, đạo, dâm, rồi lại nói nếu ba duyên đoạn sạch thì ba nhân không do đâu sanh. Bấy giờ tánh cuồng trong tâm diễn-nhã-đạt-đa cũng tự dứt. Dứt tức bồ đề, không từ người khác mà được. Vậy rõ ràng đây là lý nhân duyên, sao Như Lai đành vứt bỏ, trong khi con cũng nhờ lý này mà tâm được khai ngộ. Bạch Thế Tôn! Nghĩa này không riêng hàng Thanh văn nhỏ tuổi hữu học như chúng con đã được nghe, mà trong chúng hội này, các ngài Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề vv..vốn xuất thân từ dòng phạm chí sau khi nghe Phật thuyết pháp nhân duyên mà phát tâm khai ngộ đắc quả vô lậu. Nếu Phật nói bồ đề không từ nhân duyên mà được thì các chủ thuyết Tự Nhiên của nhóm Câu-xá-lê ở thành vương xá này sẽ thành đệ nhất nghĩa đế. Cúi mong đấng đại từ mở lòng thương xót khai mở sự mê muội này cho chúng con.

Nghị rằng: A nan nghe Phật nói diệu tâm đốn chứng không nhờ sự tu hành. Nhưng tôn giả vẫn đuỗi theo mối nghi nhân duyên để đề khởi câu hỏi về tự nhiên. Bởi tôn giả cho rằng xưa nay Phật tánh nhờ nhân duyên mà hiển bày. Nay nó là thứ sẵn có chứ không phải do tu mà được, đó là nói Phật tánh tự nhiên. Thì chủ thuyết Tự Nhiên về thần ngã của ngoại đạo kia thành đệ nhất nghĩa. Đây là ước về nghĩa Phật tánh không nhờ công phu tu tập làm tự nhiên. Chẳng phải cái ý tự nhiên do vọng kiến phân biệt ở trước.

  1. Đức Thế Tôn uyển chuyển mượn bàng thông tức sự để hiển bày chân tâm tuyệt đối đãi. Phân làm sáu.
  2. Hiển bày chung nghĩa mê ngộ đều phi.

Phật bảo A nan: Như diễn nhã đạt đa trong thành kia, nếu nhân duyên cuồng tánh kia đã diệt trừ, thì tánh không cuồng kia tự nhiên xuất hiện. Nghĩa lý nhân duyên tự nhiên rốt cuộc chỉ là vậy.

  1. Hiển bày chơn vọng đều bặt. Chia làm hai.

– Trình bày về chơn bặt. Chia hai phần.

Phá tự nhiên.

Này A nan, như đầu của Diễn Nhã Đạt Đa vốn là tự nhiên. Đã tự nhiên thì đáng lẽ chẳng có lúc nào không tự nhiên. Vậy do nhân duyên gì lại sợ cái đầu rồi phát cuồng bỏ chạy.

Phá nhân duyên.

Còn nếu đầu này tự nhiên do nhân duyên mà phát cuồng. Vậy tại sao không tự nhiên theo nhân duyên kia mà mất? đầu thiệt đã không mất, nên biết sự cuồng sợ kia chỉ do vọng phát. Vì đầu thật chưa từng biến đổi, nên đâu nhờ tới nhân duyên.

Trình bày về nghĩa vọng dứt, chia làm hai.

Phá tự nhiên.

Nếu gốc của cuồng tánh là tự nhiên, thì tánh cuồng sợ kia lẽ ra sẵn có. Vậy khi chưa phát cuồng thì tánh cuồng ấy núp ở đâu?

Phá nhân duyên.

Còn nếu tánh không cuồng cũng là tự nhiên, tức đầu kia là thật chứ không phải giả. Vậy sao lại phát cuồng rồi bỏ chạy.

  1. Tổng kết sự mầu nhiệm kia vốn bặt ngôn ngữ suy lường.

Nếu đã hiểu đầu thật không mất thì biết tại sao phát cuồng bỏ chạy. Vậy nói nhân duyên tự nhiên đều là hý luận.

  1. Khiển trách vọng duyên.

Thế nên Ta nói ba duyên đoạn dứt tức bồ đề tâm. Còn nếu vẫn thấy tâm bồ đề sanh, tâm sanh diệt diệt thì vẫn là sanh diệt.

  1. Quán, trí cùng bặt.

Phải diệt và sanh cùng hết mới là vô công dụng đạo. Nếu còn nói tâm không sanh diệt là tự nhiên, thì rõ ràng vẫn còn tâm tự nhiên sanh, tâm sanh diệt diệt, tức vẫn là sanh diệt. phải không sanh diệt mới là tự nhiên. Giống như các tướng trong thế gian khi hòa lẫn vào một thể thì gọi là hòa hợp tánh. Nếu không hòa hợp mới gọi là tánh bổn nhiên. Bổn nhiên nhưng không phải bổn nhiên, hòa hợp mà không phải hòa hợp. Vậy bổn nhiên và hòa hợp đều phải lìa.

3- Bặt dứt nghĩa đồng biển quả.

Rồi ly hợp cũng phải bỏ, một câu đây mới đáng gọi là pháp vô hý luận.

4- Kết trách khuyến tu để phát hạnh.

Nhưng Bồ Đề Niết Bàn vẫn còn rất xa, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng năng tu chứng, thì tuy có ghi nhớ thanh tịnh diệu lý trong mười hai bộ kinh của mười phương Như Lai nhiều như cát sông hằng, cũng chỉ tăng thêm hý luận. Ông tuy có thể luận đàm lý nhân duyên, tự nhiên rất rành rẽ. Người đời đều khen ông là đa văn đệ nhất. Nhưng dù ông trải qua nhiều kiếp huân tập đa văn như thế, vẫn không thoát được nạn Ma Đăng Già. Phải nhờ Phật Đảnh thần chú của ta, thì lửa dâm trong tâm Ma-đăng-già mới dứt. Và sau khi được quả A na hàm, cô ấy trở thành rừng tinh tấn trong giáo pháp của ta. Nhờ sông ái cạn khô, mới  để ông được giải thoát. Bởi vậy, này A nan, dù ông trải qua nhiều kiếp ghi nhớ được tất cả pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai, cũng không bằng một ngày siêng tu vô lậu nghiệp, để xa lìa hai khổ thương ghét trong thế gian. Ma-đăng-già vốn là dâm nữ, nhưng nhờ sức thần chú, tiêu tan lòng ái dục. Nay trong pháp ta, cô ấy được gọi là Tánh tỳ kheo ni, cùng mẹ của La-hầu-la là Da-du-đà-la đồng ngộ túc nhơn, biết rõ tham ái chính là nguyên nhân để phải khổ đau trong nhiều kiếp. Nhờ một niệm huân tu vô lậu thiện mà một người đã thoát ly triền phược, một người được thọ ký. Còn ông sao cứ tự khinh mình để vướng mãi trong chỗ thấy nghe?

Nghị rằng: Ở đây tức sự làm thí dụ để hiển bày chân tâm tuyệt đối đãi. Tôn giả A nan xưa nay luôn chấp vào quan niệm nhân duyên, tự nhiên cũng là việc thường tình thôi. Làm sao có thể thâm nhập vào chân tâm tuyệt đối đãi. Cho nên đức Thế Tôn mượn câu chuyện mê đầu của Diễn-nhã-đạt-đa để trách. Tức sự việc mê mất đầu của Diễn nhã kia, nếu nhân duyên tánh cuồng kia diệt trừ thì tự nhiên thấy có đầu xuất hiện. Nhưng xét kỹ lúc chưa cuồng thì làm gì có nhân duyên tự nhiên, cho nên nói lý ấy rốt cuộc cũng chỉ là vậy. Đoạn sau Phật chỉ bày nó vốn không có nhân duyên tự nhiên. Cho nên đồng thời biện biệt về tướng ấy. Nghĩa là ông cho rằng lìa tất cả nhân duyên bèn thành tự nhiên. Vả lại như đầu của Diễn nhã vốn tự nhiên thì rốt cuộc là tự nhiên. Thế thì vì nhân duyên gì sợ mất đầu rồi vô cớ phát cuồng bỏ chạy, vậy đâu phải tự nhiên nữa, đến đây thì dứt bặt lý tự nhiên. Còn nếu đầu vốn tự nhiên thì do nhân duyên mà phát cuồng. Tại sao vốn không có đầu tự nhiên lại vì nhân duyên mà mất. Tuy phát cuồng nhưng cái đầu vốn không mất, chỉ vì cuồng sợ mà vọng xuất thôi. Mặc dù bị cuồng loạn nhưng cái đầu vẫn không hề thay đổi thì cớ sao lại nhờ đến nhân duyên ư? Đến đây đã đoạn hẳn nhân duyên. Trên đây luận bàn về lẽ cái đầu kia vốn không do nhân duyên, tự nhiên mà có được mất. Từ đó đủ biết chân tánh không thuộc nhân duyên hay tự nhiên. Đoạn sau biện biệt về sự cuồng loạn, nghĩa là không những cái đầu kia không thuộc nhân duyên tự nhiên mà ngay nơi tánh cuồng cũng không phải nhân duyên tự nhiên. Nếu cuồng là tự nhiên thì trước lúc chưa phát cuồng, nó núp ở đâu? ở đây nói cuồng chẳng phải tự nhiên. Nếu cuồng không phải tự nhiên mà cái đầu vốn không vọng, vậy tại sao phát cuồng bỏ chạy. Cuồng cũng chẳng phải nhân duyên. Từ đó đủ biết vọng cũng không thuộc nhân duyên hay tự nhiên. Nói tóm lại hễ bàn đến nhân duyên tự nhiên đều vướng vào tập khí vọng chấp ngôn ngữ. Tất cả chỉ vì chưa ngộ được cái đầu thật của mình thôi. Nếu ngộ được cái đầu thật và biết rõ sự cuồng loạn bỏ chạy thì nhân duyên tự nhiên đều là pháp hý luận. Từ đó quán sát thì biết được diệu tánh bản nhiên vốn không thuộc nhân duyên hay tự nhiên nào cả. Cho nên dưới đây cùng hiển bày biển quả diệu tuyệt mọi ngôn ngữ suy lường. Vì thế Ta nói ba duyên đoạn trừ chính là bồ đề tâm vậy. Ở đây chỉ đoạn vọng duyên chỉ còn giác tánh sanh khởi, thế thì sanh diệt chỉ là chuyện bên lề. Nếu cái sanh diệt này đều bặt dứt hết đến chỗ vô công dụng đạo thì ở đây tuy thuộc quán trí mà đối đãi chưa mất. Nếu có tự nhiên thì gọi là tâm tự nhiên sanh, tâm sanh diệt diệt. Đến đây vẫn còn thuộc về biên độ của sanh diệt. Lại chỉ cái vô sanh diệt là tự nhiên, thì không phải vọng kiến là còn gì. Trí tuy bặt mà lý chưa vong, đến đây Thiền Tông chỉ cho rằng đó là chuyện bên lề của pháp thân. Chưa đạt đến trình độ hướng thượng của pháp thân. Cũng giống như ở thế gian, khi các tướng hòa hợp thành một thể thì gọi là hòa hợp tánh còn không thì chỉ gọi là tánh bản nhiên thôi. Lý này chẳng phải chân tâm tuyệt đối đãi vậy. Bổn nhiên nhưng không phải bổn nhiên, hòa hợp mà không phải hòa hợp. Vậy bổn nhiên và hòa hợp đều phải lìa, rồi ly hợp đều phải bỏ. Đến đây thì quán trí đều dứt, tâm cảnh đều vong, thánh phàm tình lặng, mê ngộ cùng bặt, không đọa mất pháp thân. Chan hòa đồng biển quả, vượt khỏi đường ngôn ngữ. Câu này mới xứng đáng gọi là pháp vô hý luận. Trước kia A nan đã trình bày về sở ngộ, cho rằng không cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà được pháp thân. Đến đây lại nghi ngờ về nhân duyên tự nhiên. Chính là do chưa dứt hết tập khí giỏi văn chương giàu ngôn từ. Thì đâu có thể dùng ngôn từ hý luận để cầu lấy bồ đề niết bàn ư? Cho nên đức Như lai vô cùng thương xót trách vấn để khuyên gắng tu rằng: “ Bồ đề niết bàn vẫn còn xa lắm, nếu ông không siêng năng trải qua nhiều kiếp tu hành  thì không thể chứng đắc được. Nên dù ông giỏi ghi nhớ mười hai bộ kinh cũng chỉ làm tăng thêm hý luận thôi. Hơn nữa sở dĩ ông đa văn là do nhiều kiếp huân tập. Cớ sao không tránh khỏi nạn Ma-đăng-già, mà phải nhờ thần chú của ta đến mới giải cứu cho ông được? bởi vậy ông tuy trải qua nhiều kiếp ghi nhớ nhưng không bằng một ngày tu vô lậu nghiệp. Đến như dâm nữ Ma đăng già và Da du chỉ cần một niệm huân tu vô lậu thiện, mà một người đã thoát ly triền phược, một người được thọ ký. Còn ông là một nam tử đại trượng phu cớ sao không dõng mãnh huân tu mà còn bị mắc lại trong dấu vết của thấy nghe, quán sát.

Trên đây Phật khai thị ba loại tạng tánh để làm thể của tam quán. Cuối cùng tha thiết khuyên tu trì, nên sau đây thỉnh hành.

Mục II. Trình bày rõ về các hạnh để khai thị tướng của tam quán. Chia làm hai.

  1. Đặc biệt thỉnh Phật khai thị hạnh môn.

A nan và cả chúng hội nghe Phật chỉ dạy xong, mọi nghi hoặc đều tiêu trừ, tâm ngộ được Thật Tướng, khiến thân tâm khinh an, được điều chưa từng có. Sau đó lại buồn khóc, đảnh lễ chân Phật, quỳ xuống chắp tay bạch Phật rằng: “ Kính bạch đấng vô thượng đại bi, đấng bảo vương thanh tịnh đã khéo khai mở tâm con. Ngài đã khéo dùng những nhân duyên và phương tiện như thế để dìu dắt tất cả chúng sanh đang trầm mê thoát khỏi biển khổ.

Bạch Thế Tôn! Con nay nhờ pháp âm của Như Lai mà hiểu được Như Lai tạng Diệu Giác Minh tâm vốn biến khắp mười phương cõi, vốn bao hàm mười phương quốc độ thanh tịnh bảo nghiêm, diệu giác vương sát của Như Lai. Như Lai lại trách đa văn cũng chẳng ích gì, không bằng nổ lực tu tập, nên giờ đây con như người đang phiêu bạt, bỗng được vua ban cho ngôi nhà đẹp. Mặc dù được ngôi nhà nguy nga nhưng cần biết cửa để vào. Cúi mong như Lai đừng bỏ lòng thương xót mà chỉ dạy cho con cùng những người đang mờ mịt trong hội này, dứt bỏ con đường Tiểu Thừa để đi vào con đường phát tâm căn bản đến vô dư niết bàn của Chư Phật. Đồng thời giúp cho hàng hữu học biết phải nương đâu để nhiếp phục được tâm phan duyên trong nhiều kiếp, được tổng trì đà-la-ni, nhập tri kiến Phật.

A nan thưa xong, năm vóc gieo xuống đất cùng chúng hội một lòng đợi Phật từ bi chỉ dạy.

Nghị rằng: Ở đây A nan thỉnh Phật chỉ dạy pháp tu. Cổ đức phán thành Tu Đạo phần. Kẻ ngu phu này phán phần này làm phần khai thị quán tướng. Vì ngài A nan đầu tiên thỉnh Phật khai thị về Tam Quán. Trước chỉ ước về lý đã hiển để làm quán thể. Nay A nan phát tâm tu hành, với mong mỏi được chứng đắc bồ đề. Chẳng nhờ quán hạnh thì không thể thâm nhập. Lấy việc quán tướng vọng để làm pháp tu. Cho nên phần sau mười phương Như Lai đồng nói kệ chính là khai thị quán tướng. Mà hai mươi thánh vị viên thông chính là khai thị phương tiện cho mỗi người tùy theo căn cơ của mình mà quán tướng. Ở đây A nan được Phật khai thị, đồng thời đã ngộ được chơn thể của pháp thân. Tin tưởng tâm giác ngộ mầu nhiệm sáng suốt kia vốn viên dung biến khắp, bao trùm mười phương cõi nước chư Phật. Như Lai hiện nay kết trách cho rằng bồ đề niết bàn vẫn còn xa lắm, chẳng trải qua nhiều kiếp tu hành thì không cách nào chứng đắc, dù có đa văn cũng vô ích. Ở đây ví như thiên vương ban cho nhà đẹp, nhưng phải biết cửa mới vào được. cho nên A nan phải thỉnh Phật chỉ cho phương tiện vào cửa. Bằng tam quán chính là cửa để bước vào pháp giới. Nay vì khắc ước chỉ thú kinh này nên cho đó là phần khai thị quán tướng.

Đức Thế Tôn uyển chuyển khai thị hành tướng. chia làm hai.

  1. Khai thị nghĩa lý hạnh diệu viên trong việc tự lợi. chia làm bốn.

-Khai thị chung cội gốc mê ngộ. chia làm bốn.

*Khai thị tổng quát về sự phát giác sơ tâm.

Bấy giờ đức Thế Tôn vì thương xót hàng Thanh văn, Duyên Giác trong chúng hội này, đối với tâm bồ đề vẫn chưa được tự tại, cũng vì muốn giúp đời tương lai, sau khi Phật diệt độ, những chúng sanh trong đời mạt pháp được nương đây để phát tâm bồ đề, đồng thời khai mở vô thượng thừa, đó là con đường tu hành vi diệu. Ngài bèn dạy A nan và toàn thể chúng hội rằng. “ Nay các ông đã quyết định phát tâm bồ đề, đối với pháp tam ma đề mầu nhiệm của Như Lai chẳng sanh lòng mệt mỏi. Vậy trước hết các ông phải hiểu rõ hai nghĩa quyết định để phát giác sơ tâm.

*Khai thị riêng về hai nghĩa quyết định, chia hai phần.

+ Lấy tâm không sanh diệt làm nhân tu căn bản. phân làm ba.

_ Khai thị tâm năng quán.

  Thế nào là hai nghĩa quyết định của sơ tâm? A nan! Nghĩa thứ nhất là, nếu các ông muốn rời bỏ Thanh Văn mà tu Bồ Tát thừa, nhập Phật tri kiến thì phải quán kỹ nhơn địa phát tâm cùng quả địa giác là đồng hay khác. A nan! Nếu ở nơi nhân địa đã dùng tâm phân biệt làm gốc tu nhơn, để mong cầu Phật thừa không sanh diệt thì không thể có chuyện ấy được. Vì lẽ đó nên nay ông phải thấy rõ các pháp khí thế gian đều là pháp tạo tác nên rốt cuộc cũng sẽ biến diệt. A nan, ông cũng phải quán sát các pháp tạo tác trong thế gian, có pháp nào mà không hoại diệt. Trong khi đó, chưa nghe ai nói hư không kia bị hoại diệt. Vì sao? Vì hư không không phải là pháp tạo tác, cho nên không bao giờ hoại diệt được.

* Khai thị cảnh sở quán. Phân làm hai.

Khai thị nguồn gốc sanh diệt.

Vậy trong thân ông, tướng cứng là đất. Sự thấm nhuần là nước. Hơi nóng là lửa. Sự chuyển động là gió. Đây là bốn món triền phược, vì đã phân tán tánh viên trạm diệu giác minh tâm của ông ra thành thấy nghe hay biết, để từ đầu đến cuối tạo thành năm lớp uế trược.

Dụ tướng sanh diệt.

Vậy thế nào là trược? này A nan! Như nước trong kia vốn thanh khiết, còn bản chất của bụi, đất, tro, cát chính là các thứ trở ngại. Thể của hai tánh này xưa nay là vậy, vốn không hợp nhau. Bởi vậy, trong thế gian nếu có ai lấy đất bụi kia bỏ vào trong nước sạch thì đất sẽ mất tánh trở ngại, nước sẽ mất sự thanh khiết. Vì dung mạo cả hai đều bị vẫn đục như thế nên gọi là trược. Năm lớp ô trược của ông cũng giống như vậy.

Nghị rằng: Đoạn sau đây chính là khai thị về cội gốc sanh diệt. Trước hết lập hai nghĩa quyết định để làm điều kiện phát giác sơ tâm. Rồi khai thị tiếp tâm không sanh diệt để làm chánh nhân tu hành. Đầu tiên khai thị về tướng sanh diệt của năm trược. Ý muốn ngay nơi sanh diệt để chứng vô sanh, ngay nơi ngũ trược để chứng pháp thân. Sở dĩ chúng sanh mê muội điên đảo là do mê nhất tâm mà thành nghiệp thức. Dựa vào kiến tướng mà thành sắc tâm, dựa vào sắc tâm mà thành ngũ trược. Do vọng tưởng phân biệt căn, trần, thức giới. Chỉ lấy ngũ uẩn làm căn bản sanh tử. Nay bỏ vọng quay về chơn, nếu lìa thân tâm năm trược này thì chẳng còn nơi nào khác để tu. Cho nên dùng pháp quán năm uẩn để làm phương tiện nhập đạo. Nếu nhân địa đảo lại thì nhân địa khởi. Phần trước trưng tâm biện kiến là để phá kiến chấp nghĩa là phá cái thân tâm năm uẩn này là vọng thôi. Mà việc hội quy về tạng tánh phải xuất phát từ năm uẩn làm gốc. Sở dĩ chúng sanh cứ tương tục mãi cũng vì gốc khổ năm uẩn. Cho nên nay muốn tu hành phải quán sát vọng tướng năm uẩn để làm điểm khởi phát. Chính là cuối cùng khai thị về ấm ma, bởi quán năm uẩn chưa đạt đến chỗ mầu nhiệm của nó nên phải rơi vào quyến thuộc của ma. Rốt cùng Phật khai thị chung về biên tế của năm uẩn để khiến chúng ta biết chỗ quay về với bản tâm của mình. Ở đây chính là bổn hoài trong việc thị hiện ra nơi đời để thuyết pháp của Như lai, ngài chuyên đả phá thân tâm ngũ uẩn của chúng sanh. Mà chỉ có kinh này là trọn vẹn nhất. Cho nên khiến cho hành giả quán sát trước hết phải đạt được then chốt này. Hoặc lý hay quán đều phải có chỗ quay về. Trước khi đức Thế Tôn bằng lòng thuyết giảng, Ngài bèn nói: Người không sanh tâm nhàm mỏi đối với pháp tam ma đề mầu nhiệm của chư Phật Thế Tôn, đầu tiên ngài dạy rằng: “ Có tam ma đề gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương. Nay trước tiên răn dạy khiến cho chúng đừng sanh tâm mỏi mệt đối với đại định này. Vì chứng nghiệm được lẽ này nên trước đây đã làm sáng tỏ lý là quán. Nay nói về hạnh môn là tướng của quán, điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Hai nghĩa quyết định là quyết định chứ không hề thay đổi. Thứ nhất là thẩm định lại nhân địa phát tâm, thứ hai là căn bản phiền não. Ý nói nếu đem cái sanh diệt nhập vào quán chiếu thì ngay đó là chơn thường. Nếu biết được cội gốc phiền não thì quay dao trở lại chẻ. Yếu chỉ của việc tu hành chẳng dính dáng gì tới nghĩa này cho nên khiến cho chúng ta thẩm định lại nhân địa phát tâm cùng với quả địa giác ngộ là giống hay khác. Ý Phật muốn chúng ta lấy quả địa giác ngộ làm nhơn địa phát tâm. Thế thì tâm sanh diệt làm sao không khế hợp với tâm bất sanh được, quả đúng như vậy. Cho nên khiến cho A nan thấu rõ các pháp sanh diệt ở thế gian đều là những tướng có thể biến hoại. Chỉ có hư không không biến hoại vì nó là pháp không tạo tác. Ở đây muốn đích thị chỉ cho diệu hạnh vô tác là căn bản. Hơn nữa cái không sanh diệt chính là chỉ cho chơn tâm thanh tịnh diệu minh viên trạm. Chỉ vì một niệm vọng động đầu tiên mà biến thành vô minh. Rồi dần dần tạo nên sở tướng mà trở thành vọng sắc của tứ đại. Vì khởi vọng kiến nên bám víu lấy tứ đại làm thân mình. Đồng thời do bốn thứ triền phược này phân tán tâm sáng suốt viên mãn làm thấy nghe hay biết rồi biến thành chúng sanh ngũ uẩn. Cũng thí như nước trong kia vốn thanh khiết, nhưng đem tro cát bụi đất ném vào nước thì nó trở nên vẫn đục không thể phân biệt được. Nguyên nhân ô trược của năm uẩn này xuất phát từ đây vậy.

* Thuyết minh riêng về sanh diệt.

A nan! Ông hãy nhìn hư không đang biến khắp trong mười phương cõi nước kia, rồi nhìn trở lại khi Không và Kiến chưa phân, bấy giờ chỉ có một cái Không nhưng không có Thể, chỉ có một cái Thấy mà không có Giác, nhưng đã cùng nhau giao dệt để vọng thành lớp thứ nhất, đó là Kiếp Trược.

Như thân ông hiện đang vin tứ đại làm thể, nên khiến kiến văn giác tri của ông bị che lấp, bị trở ngại, và khiến bốn đại địa, thủy, hỏa, phong kia xoay lại mà thành giác tri, để cùng nhau giao dệt thành lớp thứ hai, đó là Kiến trược.

Lại trong tâm ông, những sự nhớ biết học tập phát sanh tri kiến, và dung chứa hiện ra lục trần. Rời trần thì không có tướng, rời hay biết thì không có tánh. Nhưng tánh tướng đây lại cùng nhau giao dệt vọng thành lớp thứ ba, đó là Phiền Não Trược.

Vì tâm ông sớm tối sanh diệt không ngừng nên ý thức ông dù muốn trường tồn cùng thế gian, nhưng nghiệp xoay chuyển thì khiến cho luân chuyển đi trong các cõi, để cùng nhau giao dệt làm thành lớp thứ tư, đó là chúng sanh trược.

Tánh thấy nghe của ông vốn không khác nhau, nhưng do các trần mà thành trở ngại, nên vốn không khác mà thành khác. Tức trong tánh thì biết nhau, nhưng trong Dụng lại chống trái nhau, khiến Đồng Dị đều mất chuẩn đích để cùng nhau đan dệt vọng thành lớp thứ năm, đó là Mạng Trược.

Nghị rằng: Đoạn trên đây là hiển bày chung về căn nguyên sanh diệt của ngũ trược. Đoạn kế sẽ khai thị riêng về tướng trạng sanh diệt của ngũ trược. Nhưng ngũ trược lại nương vào ngũ uẩn mà lập. Ý muốn nói rằng trong cảnh giới thanh tịnh kia vốn không có chúng sanh, thì làm sao có những chuyện như kiếp, kiến, chúng sanh, phiền não, mạng trược kia được? Chỉ vì mê mất gốc nguyên minh rồi kết thành vọng sắc mà làm chúng sanh của năm uẩn, tức là làm vẫn đục chơn tâm nên có vọng tướng của năm món trược này. Kiến và Không giao dệt nhau làm Kiếp Trược, ý này là ước vào sắc uẩn để nói về Kiếp Trược vậy. Kiếp Phạn ngữ gọi là Kiếp-ba, Trung Hoa dịch là Thời Phần. Tức là chỉ cho một mốc thời gian dài vậy. Hơn nữa ở đây nói nương vào sắc uẩn chính là nói tứ đại ràng buộc nhau. Nay nói về Không Kiến tức là từ cái mê vọng đầu tiên có hư không mà thành sắc thể. Cũng chính là cái sở vin đầu tiên của vọng kiến. Cho nên nhân nơi ngoan không làm vẫn đục chơn tâm mà biến thành vọng kiến. Vọng kiến này thu hút tướng không lâu ngày kết làm sắc rồi biến thành sắc tâm. Từ đó nó che lấp chơn tâm nên ước vào Không để thuyết minh sắc uẩn. Sự đan dệt nhau trong đây, nếu nói về nghĩa thì đó chính là sự ràng buộc nhau một cách chằng chịt không thể phân giải được. Nếu nói về sự sanh diệt không ngừng thì lại mang nghĩa dệt thành. Chẳng phải như cách kết nối sợi ngang sợi dọc ở đời gọi là dệt. Không Kiến bất phân nghĩa là chỉ cho sự mê muội. Diệu không mà thành ngoan không thì cái không kia vốn đã biến đổi vậy. Mê diệu minh mà thành vọng kiến thì Kiến kia cũng biến. Vì hai thứ vọng kia hỗn hợp thành một nên nói là bất phân. Hơn nữa không kia vốn là thật thể của chân như, kiến vốn là diệu giác của viên minh. Nhưng nay do mê mà lẫn lộn thành một. Nó được ví như chuyện ném tro bùn vào nước trong, lúc bấy giờ cả hai thể đều mất. Cho nên chỉ có Không mà không còn chơn thể, chỉ có Kiến mà không còn chơn giác. Do hai thứ vọng sanh diệt này ràng buộc nhau sanh ra sắc tâm nên trở thành mấu chốt tạo nên sắc uẩn. Còn luận về Kiếp Trược, thì trong thế giới thanh tịnh kia vốn không có ý niệm về thời gian, nay do lúc sắc tâm mới nhóm họp bèn trở thành căn nguyên của thời gian lâu dài. Cho nên y theo sắc uẩn gọi là Kiếp Trược. Thân ông hiện đang vin lấy tứ đại vv là Kiến Trược. Câu này ý muốn chỉ Thọ uẩn là Kiến Trược. Kiến này chính là vọng kiến của năm thức chấp thọ. Chỉ tứ đại lục căn là kiến trược, bởi vì vọng nhận tứ đại làm thân mình rồi trở thành vọng kiến. Ý nói sắc thân của ông vốn chẳng có nhưng lại vin lấy tứ đại làm tự thể, nên khiến cho tâm mầu nhiệm sáng suốt tròn lặng kia bị che lấp và ngăn ngại. Phân tán cái thấy nghe hay biết trở thành ngăn ngại, càng không được thông suốt. Vả lại bốn đại kia vốn là thứ không có tri giác. Nay thức tâm bị mắc kẹt trong đó, xoay trở cái vô tri kia thành hữu tri, rồi chấp thọ làm ngã. Đem cái vô tri kia bỏ vào trong tri kiến, bấy giờ tri giác bèn dung hòa vào trong vô tri kia. Tự tướng vẫn đục nên sanh diệt không ngừng. Vọng kiến chấp nó làm thọ dụng căn, vì trong tâm thanh tịnh vọng kiến có sắc căn của sự chấp thọ này nên nương vào Thọ Uẩn gọi là Kiến Trược.

Lại nữa, trong tâm ông những sự nhớ biết, tụng tập vv..gọi là phiền não trược, đoạn này nương vào Tưởng Uẩn để lập. Tưởng chính là vọng tưởng của thức thứ sáu, như phiền não vốn không tánh thì vọng tưởng này cũng chẳng có. Do trong tâm ông thường ngày đọc tụng thông thuộc khiến cho thói quen đối với chuyện xưa nổi dậy bên trong, bỗng nhiên khởi niệm muốn có cảnh để biết để thấy. Vì làm khơi dậy thói quen xưa nên gọi là tánh phát tri kiến. Duỗi theo vọng tưởng đó mà khiến cho trần cảnh mình đang nghĩ đến liền được rõ ràng y như trong tâm vọng tưởng. Ở đây ý muốn nói vọng nhận bóng dáng của lục trần làm tướng của tự tâm nên nói là “ dung hiện lục trần”. nhưng vọng tưởng này do duyên trần mà có, lìa trần thì không có thực thể. Lìa giác thì hoàn toàn không có tự tánh. Vì vọng tưởng này sanh diệt không ngừng, quấy nhiễu trong tâm thanh tịnh của chúng sanh. Nên y theo Tưởng Uẩn gọi là Phiền Não Trược.

Lại như trong tâm ông sớm tối sanh diệt không ngừng vv.. gọi là chúng sanh trược. Đoạn này y theo Hành Uẩn mà lập. Ý nói ở đây vốn không có chúng sanh. Do vọng tưởng trong tâm ông sanh diệt không ngừng và ý thức của ông muốn lưu lại mãi ở thế gian nên niệm niệm tạo nghiệp, và nghiệp lực thiện ác kia cũng niệm niệm lưu chuyển vào trong mười hai loại chúng sanh. Vì quá khứ lưu chuyển sanh diệt làm căn nguyên sanh ra chúng sanh, làm vẫn đục chơn tâm, nên y vào Hành Uẩn gọi là Chúng Sanh Trược.

Tánh thấy nghe của các ông vốn không khác nhau vv..gọi là mạng trược. đoạn này y vào thức uẩn để lập. Nhưng mạng căn này vốn không thật có. Vì chơn tâm diệu viên của ông vốn không có tướng dị đồng. Mà bởi do tứ đại ngăn lấp thức tánh nên thành thấy nghe hay biết. Từ đó dẫn đến các trần ngăn ngại nên không có tướng trạng thành ra khác nhau. Bởi nơi thức tánh kia vốn là một thể nên gọi là biết nhau. Nhưng trong Dụng, lục căn kích bác nhau nên gọi là chống trái nhau. Cho nên đồng mà không có cái đồng nhất định. Khác mà không có cái khác riêng biệt. Cả hai cái đều mất chuẩn đích. Thức này luôn bám níu sắc tâm để làm mạng căn. Đồng dị lẫn lộn đan dệt nhau vọng thành. Cho nên y vào thức uẩn này gọi là mạng trược. Ban đầu năm trược này hoàn toàn không hề hiện hữu trong tâm diệu viên. Nhưng do năm uẩn sanh diệt vẫn đục chơn tâm nên mới thành uế trược thôi. Tất cả đều là nguồn mê vọng mà ra. Cho nên đoạn sau ước theo nghĩa bỏ vọng quay về chơn để khai thị quán hạnh.

+ Khai thị nhân quán hạnh. Phân làm ba.

* Thuyết minh về nghĩa nhân chơn quả chánh。

A nan! Ông nay muốn cho kiến văn giác tri xa khế với Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, trước hết phải biết lựa bỏ Căn Bản Sanh Tử, để y vào Tánh Bất Sanh Diệt mà viên thành Tánh Viên Trạm. Tức dùng tánh viên trạm để xoay cái hư vọng kia diệt luôn không sanh lại, tức đã phục được sanh diệt kia trở về nơi bổn nguyên giác tánh, đã dùng được tánh nguyên minh giác vô sanh diệt làm nhơn địa tâm, để sẽ viên thành quả vị tu chứng.

* Dụ đoạn hoặc sâu cạn, phân làm hai.

Dụ tiệm đoạn.

Như muốn lóng nước đục thì phải chứa nước trong đồ sạch. Lắng lâu không động, đất cát tự chìm, nước trong tự hiện. Đó chính là sơ phục khách trần phiền não.

Dụ đốn đoạn.

Và khi đã bỏ hết bùn thì chỉ còn nước trong. Đó chính là lúc đã vĩnh đoạn căn bản vô minh.

* Quy kết về chân như đoạn sạch vọng kiến.

Bấy giờ sẽ cùng minh tướng thuần tịnh này mà tùy nguyện biến hiện nơi tất cả cõi, chứ không còn  phiền não. Vì đã khế hợp với diệu đức thanh tịnh của niết bàn.

Nghị rằng: đoạn này Đức Phật khai thị sơ lược về tướng của quán hạnh. Ý muốn khiến cho ngay nơi kiến văn giác tri vẫn đục này mà xa khế hợp với diệu đức thanh tịnh của niết bàn. Nhưng trước hết phải biết lựa bỏ căn bản sanh tử. Chữ trạch ở đây cũng giống như chữ trích. Đồng thời xoay các thứ sanh diệt kia trở về với tánh bất sanh diệt. Chữ toàn ở đây cũng giống như chữ triền. Nó giống như hình ảnh của nước xoáy vậy. Nghĩa là từng niệm từng niệm xoay về chơn như. Tức đã phục được cái sanh diệt kia trở về nơi bổn nguyên giác tánh, đạt được tánh giác minh vô sanh diệt làm nhân địa tâm. Như thế mới có thể viên thành quả vị tu chứng. Như lóng nước đục đến khi nước trong hiện lên, đó gọi là bắt đầu dẹp phục khách trần phiền não. Đây gọi là tiệm đoạn. Và khi bỏ hết nước bùn chỉ còn lại nước trong, đó chính là lúc đã đoạn sạch căn bản vô minh. Đây gọi là đốn đoạn. Tới đây tương đương với địa vị hậu tâm của Đẳng Giác và chuẩn bị bước vào địa vị Diệu Giác. Một khi đạt đến tột cùng nguồn chân thì vọng hoặc cũng được đoạn hết, bấy giờ chính là lúc thật sự khế hợp với diệu đức thanh tịnh của niết bàn. Thành quả này có được nhờ công phu quán hạnh của tâm bất sanh diệt.

  1. 2. Xét rõ gốc rễ phiền não, ý muốn chọn viên căn. Phân làm sáu.
  2. Chỉ dạy hãy cứu xét kỷ lưỡng.

Nghĩa thứ hai, nếu các ông quyết phát bồ đề tâm. Tức đối với Bồ Tát thừa, đã phát tâm đại dõng mãnh, quyết định trừ bỏ mọi tướng hữu vi, thì nay phải xét rõ căn bản phiền não, để xem từ vô thủy đến nay, nơi chỗ phát nghiệp và nhuận sanh ấy, ai làm ai chịu. A nan! Ông tuy muốn tu đạo bồ đề, nhưng nếu không quán biết căn bản phiền não, thì làm sao biết do đâu mà có căn trần hư vọng điên đảo. Chỗ điên đảo còn không biết thì làm sao hàng phục để thành quả vị Như Lai.

  1. Chỉ bày nút căn.

A nan! Ông hãy xem những người mở nút trong thế gian. Nếu không biết chỗ gút thì làm sao mở được? trong khi đó, sao không nghe hư không bị ai phá nát? Vì cớ sao? Vì hư không chẳng có hình tướng nên không có cột mở. Như ông hiện nay mắt tai mũi lưỡi cùng thân tâm, sáu chỗ ấy luôn làm môi giới cho giặc, để tự cướp mất gia bảo của ông. Vì thế mà tất cả chúng sanh trong thế giới này, từ vô thủy đến nay vẫn thường sanh khởi phiền trược, nên ở mãi trong khí thế gian không sao vượt thoát.

Nghị rằng: Đoạn đây là xét rõ căn bản phiền não. Trong khi đó phát nghiệp là căn bản vô minh. Nhuận sanh là hai món hoặc ái, thủ. Và sanh tử trong thế gian quả thật cũng từ hai thứ này mà có, nên gọi chung là phiền não. Nhưng hai loại này đều nương vào căn mà biện biệt. Nghĩa là hai pháp này vốn không có thật thể. Chỉ nương vào vọng tưởng của thức thứ sáu làm dụng. Cho nên ở nơi cửa ngõ sáu căn, duyên trần chấp cảnh, toàn là vô minh, rồi dùng nó để nuôi dưỡng ái thủ. Vì thế mà phát sanh hiện trạng niệm niệm ái thủ thì xứ xứ tham đắm. Nút sanh tử bị kết vào trong căn trần. Thế nên, Phật dạy đã xét rõ biết căn trần vốn hư vọng thì làm sao có điên đảo. Vì mối gút của căn trần chính là then chốt của điên đảo. Đồng thời cũng chính là chỗ kết căn(mối gút) của sanh tử. Nếu muốn mở gút thì phải nhằm ngay vào mối gút kia để mở. Cho nên phải xét rõ chỗ hơn kém của sáu căn. Ý muốn lấy cái viên căn như hư không để cho dễ mở. Cho nên mượn đó để chọn lựa thôi. Khi chọn viên căn, trước tiên chỉ bày sự hơn kém của lục căn, giúp chúng ta biết đâu để chọn vậy.

  1. Hiển bày nhân của căn vốn do vọng dệt.

A nan! Sao gọi là chúng sanh thế giới? Thế là dời đổi, giới là nơi chốn. Ông phải biết Đông Tây Nam Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng Hạ gọi là giới. Quá khứ vị lai gọi là thế. Vị trí của giới có mười, sự lưu bố đổi dời của thế có ba. Tất cả đều do chúng sanh đan dệt vọng thành. Nên trong thân hễ có thay đổi thì nơi thế và giới cũng có tương quan. Tánh của giới này tuy có lập thành mười phương, nhưng vị trí không rõ ràng nhất định. Vì trong thế gian này, ta chỉ thấy được bốn phương Đông Tây Nam Bắc còn hai phương Thượng Hạ không có vị trí. Các góc giữa vị trí cũng không cố định. Tóm lại, chỉ có bốn phương là rõ ràng để cùng với thế có tương quan. Nhưng dù ba nhân bốn hay bốn nhân ba, dù xoay qua chuyển lại cũng đều thành mười hai. Và khi lưu biến qua ba lớp thì sẽ từ một thành mười, mười thành trăm, trăm thành ngàn. Tổng cọng trước sau, trong mỗi sáu căn đều được một ngàn hai trăm công đức.

  1. Hiển bày lực dụng không đều, phân làm sáu.

* Công năng của nhãn căn.

A nan, ông hãy xét rõ trong sáu căn đó, hơn kém thế nào? Như khi con mắt nhìn thì phía sau tối, phía trước sáng. Phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối. Và khi nhìn bên phải, bên trái thì chỉ được hai phần ba. Tóm lại, công đức của nhãn căn không toàn vẹn, trong ba phần thì một phần không có. Vậy nên biết nhãn căn chỉ có tám trăm công đức.

* Công năng của nhĩ căn.

Như nhĩ căn nghe khắp mười phương không sót. Động thì như có xa có gần, tĩnh thì không có bờ bến. Nên biết nhĩ căn có đủ một ngàn hai trăm công đức.

* Công đức của Tỷ căn.

Khi tỷ căn ngửi mùi, biết cả lúc thở ra thở vào. Có ra có vào mà thiếu khoảng giao tiếp giữa ra và vào. Nghiệm biết trong ba phần công năng, tỳ căn thiếu một. Nên biết rằng tỷ căn chỉ có tám trăm công đức.

* Công năng của thiệt căn.

Như thiệt căn thường tuyên dương được tất cả trí huệ thế gian, xuất thế gian. Bởi vậy, lời nói tuy có giới hạn, mà nghĩa lý trong lời thì vô tận. Nên biết thiệt căn đầy đủ một ngàn hai trăm công năng.

* Công năng của thân căn.

Khi thân căn biết chạm xúc thì biết cả cảm xúc dễ chịu và khó chịu. khi hợp thì biết khi rời thì không. Rời chỉ có một phần, hợp thì có hai phần, nên nghiệm nơi thân căn ba phần thiếu một. Vì thế biết rằng thân căn chỉ có tám trăm công đức.

* Công năng của ý căn.

Như ý căn thầm dung hội tất cả pháp thế gian và xuất thế gian trong mười phương ba đời của thánh phàm, bao trùm ngầm chứa tất cả đến nơi đến chốn. nên biết ý căn viên mãn một ngàn hai trăm công đức.

  1. Phật khuyên phải chọn viên căn.

A nan! Ông nay muốn ngược dòng ái dục sanh tử, để quay về tận nguồn của dòng này, tức về nơi không sanh diệt, thì ông phải nghiệm xem trong sáu thọ dụng căn này, căn nào hợp, căn nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên mãn. Nếu ở nơi đó ngộ được căn viên thông, mới đi nghịch được dòng vọng nghiệp đã đan dệt từ vô thủy. Bởi vậy mà một ngày tu theo viên căn, sẽ bằng một kiếp tu theo một căn không viên thông. Ta nay đã nói rõ công năng và số lượng của sáu căn tròn lặng sáng suốt. Ông hãy chọn kỷ để xem căn nào để dễ thâm nhập. Ta sẽ phát minh để giúp ông được tăng tiến.

* khuyến răn thâm nhập một môn.

Mười phương Như Lai ở nơi mười tám giới, dù các Ngài nương vào một giới nào để tu hành, cũng đều viên mãn được đạo vô thượng bồ đề. Nên trong các giới đó đều không có chỗ nào hơn kém. Nhưng riêng ông căn tánh còn hạ liệt, nên ở trong mười tám giới ấy ông chưa được trí huệ tự tại viên dung. Vì vậy ta phải tuyên dương sáu căn cho ông chọn một căn mà thâm nhập. nhập một căn nào đó đến không còn vọng, thì cả sáu căn kia đồng thời thanh tịnh.

Nghị rằng: Ở đây đức Phật trình bày về sự ưu liệt của sáu căn. Đoạn trước nói “ do thế giới chúng sanh sanh ra sự trói buộc lẫn nhau nên không thể vượt khỏi khí thế gian”. Cho nên biết rằng thế giới chúng sanh chỉ nhằm vào thân chánh báo mà nói. Định nghĩa về thế giới, thì thế là ước theo sự chuyển đổi không ngừng của vọng niệm, giới là ước theo một thân mà có trái phải, trước sau. Vì một niệm vừa móng khởi thì bỗng nhiên thiên biến thành ba đời. Phương tuy có mười nhưng ở đây chỉ nói bốn phương. Ba đời và bốn phương chỉ nhằm vào một thân mà quán, cho nên nói sự dời đổi nơi thân. Vì thế và giới  có dính dáng lẫn nhau nên nói dệt vọng mà thành. Dù ba nhân bốn hay bốn nhân ba, dẫu có xoay qua đổi lại cũng thành mười hai. Ý nói một niệm như thế bao hàm ba đời và biến khắp cả một thân, không ra ngoài bốn phương trái phải trước sau. Vì mỗi phương đều có ba đời nên nhân lên ba lần bốn thành mười hai. Bốn phương ấy bao trùm hết cả sự quán thông của một niệm thì mỗi đời đều có bốn phương, nên nhân nó lên thành mười hai. Vì nó đan dệt nhau nên gọi là uyển chuyển. Đầu tiên thì một niệm làm một lớp, nên chỉ có mười hai thôi. Vọng niệm xoay chuyển lại, niệm trước diệt, niệm sau tiếp tục sanh khởi một cách cực kỳ vi tế. Bởi một niệm vừa móng khởi kia vốn không, tức một niệm này đã bao hàm cả ba đời, bủa khắp bốn phương nên thành mười hai. Đây là lớp thứ nhất. Còn lớp thứ hai tức là ba đời ở phương Đông, mỗi đời đều có một căn bản, tổng cọng thành ba mươi. Vậy khi hợp bốn phương lại nữa thì thành 120, nên gọi là trăm, đó là lớp thứ hai. Nói về lớp thứ ba, thì trong số 120, mỗi mỗi đều có mười nhân lên thành 1200. Ở đây lấy nghĩa thế gắn với chữ phương thì từ đó có thể biết về nghĩa chữ Giới. Bởi một niệm đầu tiên không lập bổn, thì cũng từ cái vô trụ bổn mà lập tất cả pháp. Nhưng vọng niệm tuôn chảy thật vi tế, ý nói trong một niệm có 90 sát na. trong mỗi sát na có 900 lần sanh diệt. Thật ra từng sát na từng sát na đến cùng kiếp không dứt. Nay chỉ đề cập đến ba lớp, nghĩa là ước theo một niệm sanh diệt hằng biến chuyển như thế mà gom trọn cả ba đời. Tuy cùng kiếp cũng chỉ nói là ba đời thôi. Cho nên nhằm vào thân căn sanh diệt để thuyết minh nghiệp dụng của sáu căn. Mỗi mỗi bổn gồm thâu 1200 công năng. Nay chỉ ước xứ biến và bất biến, căn viên và không viên để định về lực dụng ưu liệt của nó thôi. Nếu đôi mắt thấy những cảnh trước mắt mà không thấy được cảnh phía sau. Nếu ước theo công năng mà không thấy được khắp chốn thì trong ba phần thiếu một, nên chỉ đủ tám trăm công đức. Còn nhĩ căn viên thông khắp mười phương nên trọn đủ 1200 công đức. Còn tỷ căn thì ước theo công năng thở ra hít vào, nhưng thiếu hơi thở giao tiếp nên cũng chỉ có tám trăm công đức. Như thiệt căn thì thường tuyên dương diệu lý nên thiệt căn trọn đủ 1200 công đức. Nhưng đối với thân căn thì căn cứ vào sự ly và hợp cảm xúc, ly thì không biết nên nó chỉ có tám trăm công đức. Ý căn luôn thầm dung hội tất cả pháp trong khắp mười phương ba đời nên nó trọn đủ 1200 công đức. Đoạn này toàn nương vào công năng để luận. Sự hơn kém của sáu căn đã được trình bày rõ ràng ở đây. Chúng sanh điên đảo trong sanh tử nên không thể vượt thoát được. Nhưng y theo sáu căn duyên trần chấp lấy cảnh, vô minh phát nghiệp ái thủ nhuận sanh khởi hoặc tạo nghiệp kết thành căn nguyên sanh tử, nên mãi mãi chìm đắm trong sanh tử. Nay muốn nghịch dòng ái dục sanh tử để bỏ vọng quay về chơn. Chỉ cần nhằm ngay vào cửa ngỏ của sáu căn này để quay về tận nguồn cội của dòng này đến nơi không sanh diệt. Không cần bỏ đây để tìm cầu một thứ nào khác. Vì cội gốc của sáu căn này là vật được hiển hiện trong chơn tâm diệu minh. Cho nên căn căn trần trần đều quay về nguồn cội. Nay chỉ cần nhắm ngay vào căn viên thông để chọn căn nào dễ thâm nhập, công dụng dễ thành. Cho nên phải lựa chọn kỹ để thâm nhập vào một môn. Và nếu có thể thâm nhập một căn đến không còn vọng thì sáu căn kia đồng thời thanh tịnh.

  1. Trình bày sơ lược về nghĩa vọng sạch quay về nguồn. chia làm hai.

a- Đương cơ thỉnh Phật giải trừ mối nghi.

A nan bạch Phật: “ Bạch Thế Tôn! Sao chỉ ngược dòng vào sâu một căn lại có thể khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh?

b- Thế Tôn chỉ rõ cách đoạn trừ. Chia làm 10.

b1. Thông minh căn cơ cạn mỏng, giáo pháp thâm sâu.

Phật bảo A nan! Ông nay đã được quả Tu Đà Hoàn, đã diệt được kiến hoặc của chúng sanh thế gian ba cõi, nhưng vẫn chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy. Các tập khí đó cần phải nhờ vào sự tu tập mới đoạn được. Huống chi những phân loại, số mục sanh trụ dị diệt ở trong đó.

b2. Khiến cho quán một sáu hư vọng.

Ông nay hãy quán xem trong sáu căn hiện giờ là một hay là sáu?

A nan, nếu nói là một thì sao tai chẳng thấy, mắt chẳng nghe được, sao đầu không thể đi, chân sao không nói được? nếu sáu căn này nhất định là sáu thì khi Ta ở trong hội này sẽ tuyên dương pháp môn vi diệu cho ông, thì trong sáu căn của ông căn nào lãnh hội?

A nan thưa: Con dùng tai để nghe.

Phật dạy: nếu tai ông tự nghe thì dính dáng gì đến thân miệng ông. Vậy khi miệng ông hỏi pháp ta, sao thân ông lại đứng lên để kính vâng lãnh thọ? Thế nên phải biết một thì không phải sáu, sáu không phải là một, nhưng trong căn tánh của ông, tuyệt đối không có một và sáu.

b3. Chỉ rõ chơn vọng đều mất.  

A nan, ông phải biết trong căn tánh đây, vốn không có sáu cũng không có một. Vì từ vô thủy đến nay luôn chìm đắm trong điên đảo, nên trong tánh viên trạm mà sanh ra nghĩa một và sáu này.

b4. Như ông đã chứng Tu Đà Hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu nhưng vẫn chưa dứt cái một.

b5. Dụ thoát khỏi hình tướng và danh ngôn.

Như hư không kia bao hàm muôn vật, rồi vì hình trạng các vật khác mà nói hư không là khác. Nhưng khi bỏ vạn vật rồi quán lại hư không, bấy giờ sẽ nói hư không là một, trong khi đó bầu hư không kia, đâu vì lời ông nói mà thành giống hay khác, huống là thành một hay chẳng phải một. Thế thì sáu căn thọ dụng hay biết của ông cũng lại như thế.

b6. Khai thị riêng nguồn vọng. chia làm hai.

b6.1. Hiển bày riêng về nguồn vọng. chia thành sáu.

6.1a. Nhãn căn.

Do hai tướng sáng tối, khiến trong tánh viên trạm mà dính tánh trạm để phát thành kiến tinh. Cái kiến tinh dọi ra cái sắc, kết sắc thành căn. Gốc căn gọi là bốn đại thanh tịnh, nhưng vì hình thể của con mắt mà nói nó giống trái bồ đào. Rồi từ phù căn bốn trần này mà phát thức, để rong ruổi buông lung chạy theo các sắc.

6.1b. Nhĩ căn.

Lại do hai tướng động tịnh thường đối chọi nhau, bèn ở trong tánh viên diệu mà niêm tánh trạm, để phát thành tánh nghe. Tánh nghe đây lại dọi thành tiếng , cuốn âm thanh lại để thành căn. Căn đây vốn là thanh tịnh tứ đại , nhưng y vào hình thể lỗ tai mà nói nó giống chiếc lá non. Rồi từ phù căn bốn trần này mà có thức để rong ruỗi buông lung chạy theo các thanh tướng.

6.1c. Tỷ căn.

Do hai hai thứ thông bít nương nhau phát sanh, bèn ở trong tánh diệu viên mà niêm tánh trạm lại để phát thành tánh ngửi. Tánh ngửi đây phóng dọi ra hương, thu nạp hương lại để thành căn. Căn đây vốn là thanh tịnh tứ đại, nhưng y vào hình thể của mũi mà nói giống hai móng tay duỗi xuống. Rồi từ phù căn bốn trần này mà có thức để rong ruỗi chạy theo hương.

6.1d. Thiệt căn.

Do hai vị lạt biến xen nhau, nên trong tánh viên diệu mà bèn niêm tánh trạm viên lại để phát thành tánh nếm. Cái nếm dọi phóng ra mùi vị, thắt cái vị lại thành căn. Căn đây vốn là tứ đại thanh tịnh, nhưng y vào hình thể của lưỡi mà nói nó giống vành trăng non. Rồi từ phù căn bốn trần này mà có thức để rong ruỗi chạy theo vị.

6.1g. Thân căn.

Do ly hợp hai tướng ma sát nhau, khiến trong tánh viên diệu mà đã niêm tánh trạm lại để phát thành xúc giác. Xúc giác đây dọi vào xúc trần, nắm bắt xúc trần để thành căn. Căn này vốn là tứ đại thanh tịnh, nhưng y vào hình dáng của thân mà nói nó giống trống cơm. Rồi từ phù căn bốn trần đó mà có thức để rong ruỗi chạy theo các xúc.

6.1h. Ý căn.

Do hai tướng sanh diệt thường tương tục, bèn ở trong tánh viên diệu mà niêm tánh trạm lại để phát thành cái biết. Tánh biết này lại dọi vào pháp trần, vin pháp trần mà thành căn. Căn đây vốn là tứ đại thanh tịnh, nhưng y vào tướng trạng của ý tư mà nói nó giống cái thấy trong nhà tối. Rồi từ phù căn này mà có thức để rong ruỗi chạy theo pháp trần.

6.2. Tổng kết các căn hư vọng.

A nan! Sáu căn như vậy là do giác minh. Tức do giác minh mà khởi chấp minh nên thể tinh liễu ẩn mất, khiến sáu căn tri bị niêm đóng trong tứ đại vọng trần mà phát quang. Nên khi ông lìa tối lìa sáng thì không có kiến thể. Lìa động lìa tịnh, cái nghe không còn thể chất. không có thông không có bít, tánh ngửi không sanh. Không có lạt, không có biến, tánh nếm không phát. Không có ly, không hợp thì cảm giác vốn không. Không sanh, không có diệt, thì tánh liễu tri cũng không có nơi nương gá.

b.7 Chỉ dạy quay về quán tâm.

Nên ông chỉ cần không theo động tịnh, ly hợp, lạt biến, thông bít, sanh diệt, sáng tối mười hai hành tướng hữu vi đó, rồi tùy ông đem hẳn một căn ra khỏi sự niêm đóng đó để quy phục vào trong.

b.8 Trí khởi hoặc đoạn.

Quy phục về nguồn chơn, tức ngay đó đã phát minh bổn diệu. Và khi tánh bổn diệu đã được phát minh thì năm căn còn bị niêm đóng kia, sẽ đồng thời được thoát hẳn. Tức không do tiền trần mà khởi tri kiến.

b.9 Hiển bày sơ lược về đại dụng.

Thế mới biết tánh viên minh không theo căn, mà nó chỉ nương căn phát. Do đây mà sáu căn liền xen nhau hàm dụng. A nan! Sao ông không biết, trong hội này ông A na luật bị mù vẫn thấy. Rồng Bạt-nan-đà tai vẫn nghe. Thần nữ căn-già không mũi vẫn ngửi được mùi hương. Ông Kiều-phạm-ba-đề có hai lưỡi khác người vẫn biết được vị. Thần Thuấn-nhã-đa không thân vẫn có xúc giác, chỉ tạm ánh hiện thân trong hào quang của Như Lai, vì bản chất của vị thần này là gió nên không có hình thể. Hàng Thanh Văn khi nhập diệt tận định thì đã được không tịch, nên ý căn của ông Ma ha Ca Diếp trong hội này từ lâu đã diệt, nhưng vẫn đầy đủ tánh viên minh liễu tri, dù không còn nương tâm niệm.

b.10 Hiển bày ý vọng bặt dứt thì quay về nguồn.

A nan! Các căn của ông nay nếu đã viên phục rồi, thì cái sáng chói bên trong hát ra. Như thế các phù trần và các tướng biến hóa của thế gian vật chất đều như băng gặp nước sôi, lập tức hóa thành tri giác vô thượng.

A nan! Người đời thường nói cái thấy đều tụ vào con mắt. Nếu có ai biểu người này nhắm mắt lại, ắt sẽ vì tướng tối mà tưởng sáu căn đều tối mịt, đầu chân như nhau. Nhưng nếu người ấy dùng tay lần ngoài thân thể, tuy không nhìn thấy nhưng vẫn phân biệt rõ đầu chân, tri giác đây cũng vậy. Còn cái thấy nhân nơi sáng, thì khi tối thành ra không thấy. Cái thấy phải tự phát chứ không nhờ sáng, mới vĩnh viễn không các tướng tối làm hôn ám. Vậy khi căn trần đã tiêu lặn, sao giác minh kia lại không thành viên diệu.

Nghị rằng: Ở đây Phật chỉ bày sơ lược về việc vọng sạch quay về nguồn chơn. A nan nghe Phật nói “ nếu thâm nhập vào một căn nào đó đến độ hết vọng thì sáu căn kia đồng thời thanh tịnh” nhưng Tôn giả vẫn chưa ngộ. Cho nên mới đề khởi nghi vấn này để hầu mong Như lai giải đáp ý nó vốn không có một, sáu. Nhân đó Phật khai thị cội nguồn của vọng kia để nói rõ chỗ quay về. Cho nên trước tiên Phật thẩm định lại căn là một, là sáu. Ý muốn hiển bày bổn nguyên của nó vốn không phải một cũng chẳng phải sáu. Nhưng do điên đảo từ vô thủy mà ở trong tánh viên trạm bèn phát sanh một và sáu. Như hư không kia bao hàm muôn vật, rồi vì hình trạng các vật khác mà cho là hư không khác. Nhưng khi đã bỏ vạn vật rồi quán lại hư không, bấy giờ lại nói hư không là một. Nhưng bầu hư không kia đâu phải vì hình trạng các vật mà nói là đồng hay là khác. Đồng cũng là gượng nói, cớ sao lại nói là một hay chẳng phải một ư? Hiểu rõ được nghĩa này thì sự thọ dụng của sáu căn kia cũng như vậy mà thôi. Không thể vì một mà giải thích sáu.

Hỏi: sáu căn vốn là chơn tâm viên minh diệu trạm, cớ sao trở thành vọng tưởng của sáu căn này ư?

Đáp: Do hai tướng sáng tối vv.. trở đi chính là khai thị tướng vọng mới thành của sáu căn để nói rõ nguồn của lục vọng. Do tướng sáng tối vv ý muốn hiển bày sáu căn vốn không có. Nhưng do mê mất chơn tâm diệu viên rồi vọng thành A lại da thức, gọi đó là thức tinh. Vì nhờ nơi tướng sáng mà lập sở rồi dần dần có vọng trần của tứ đại. Do hai tướng sáng tối hình thành rồi quấy động chơn thể trong tánh trạm minh. Vì thế mà niêm tánh trạm rồi phát ra vọng kiến. Khi kiến tinh dọi nơi sắc sáng lâu dần rồi sinh chấp trước, cho nên kết sắc tướng ấy để thành căn. Mà căn đây lúc mới thành chính là tịnh sắc của tứ đại để che chắn kiến tinh. Và đến khi hình thành thô thì gọi là phù trần căn ở bên ngoài, nên thức tinh từ đây rong ruỗi chạy theo sáu trần như sắc vv..đây chính là đầu mối hình thành nhãn căn vậy.

Do hai trần động tịnh mà phát ra nhĩ căn. Do hai trần thông bít mà phát ra tỷ căn. Do hai trần biến mà phát ra thiệt căn. Dùng hai trần ly hợp mà để hình thành thân căn. Do hai trần sanh diệt mà hình thành ý căn. Tất cả đều giống như nhãn căn, thì đó chính là lý do hình thành sáu căn vậy. Ở đây ý căn thuộc tâm nên không có hình tướng, mà nguồn gốc của căn cũng gọi là tứ đại thanh tịnh. Nghĩa là ban đầu do vọng kiến hấp thụ tinh huyết của cha mẹ mà gá thức thần vào đó. Cho đến khi hình thành trọn đủ năm căn rồi mới kết cục máu ở trong gọi là nhục đoàn tâm. Cho nên nó thuộc tứ đại tức phù trần căn, rồi có một khiếu thức tinh theo đó để rong ruỗi  cùng pháp trần, đó chính là tứ đại thanh tịnh đầu tiên được kết thành từ trong vỏ vô minh, gọi là thắng nghĩa căn bao trùm lấy tạng thức. Ý căn ở trong chỗ tăm tối này nên nói nó giống như cái thấy trong nhà tối. Tâm của thánh nhơn có thất khiếu, ý nói nhờ cái không kia mà thành sáng vậy.

Trên đây khai thị chung về nguồn vọng sanh khởi của sáu căn. Tóm lại, sáu căn như thế là do giác minh kia vọng có, tức do giác minh mà khởi chấp minh nên mất đi cái chơn tinh kia, khiến sáu căn bị niêm đóng trong tứ đại vọng trần mà phát quang. Ở đây tất cả đều do duyên trần mà có, nếu lìa trần thì không có thể. Cho nên nói, không có sanh diệt thì tánh liễu tri do đâu nương gá. Ban đầu do không biết là vọng nên nhận vô minh làm chủ tể, ái thủ làm thọ dụng nên nương vào đó mà tạo nghiệp. Đoạn sau trình bày về pháp quán tâm nên nói “ Nếu nay ông muốn bỏ vọng để quay về chơn, chỉ cần không chạy theo trần cảnh, rồi tùy ông rút một căn ra khỏi sự niêm đóng kia để quy phục vào trong, quy phục nó trở về nguồn chơn. Bấy giờ chơn tâm sáng suốt sẳn có kia sẽ bừng sáng. Nếu từ tánh sáng suốt của một căn phát minh thì năm căn bị đóng kia cũng theo đó được tháo gỡ, nó không theo tiền trần mà khởi tri kiến, nghĩa là bấy giờ chỉ thuần một ánh chơn quang hiển lộ. Dù biết rằng cái sáng suốt chơn thật này không theo cái vọng của sáu căn nhưng nương vào căn để giải tỏa mối nghi. Từ đó sáu căn khai thông lẫn nhau làm dụng. Cũng chính nhờ nó mà khiến cho ông sớm chứng được diệu quả thường lạc, chứ không còn vật nào khác.

Đoạn sau trích dẫn ý “ người không theo sáu căn, há không tin ư”? chính là đoạn Phật khai thị sự trở về nguồn. Nghĩa là nếu các căn của ông nay đã viên phục rồi thì bên trong sẽ phát quang, nên đối với thân phù trần căn và khí thế gian như nước sôi làm tiêu băng tuyết, tức ứng niệm hóa thành tri giác vô thượng. Như nước thành băng, băng trở lại thành nước, chứ đâu có nhờ vật gì bên ngoài. Hơn nữa vọng tri vọng kiến đều nương gá vào tiền trần. Nay không do tiền trần cũng không nhờ minh mà tự nhiên khai phát cái chơn kiến vốn có thì những tướng tối kia mãi mãi không thể hôn muội nữa. Cho nên cái che chướng diệu minh chính là lỗi của căn trần vậy. Thế thì khi căn trần đã tiêu lặn, cớ sao cái vô minh trong giác minh không thành diệu giác viên minh? Vì thế nên biết chơn vọng một khi trở về đồng nguồn thì rốt cuộc không ra ngoài sáu căn.

Trên đây đã trình bày về nghĩa vọng sạch quay về nguồn.

  1. Ngầm khai thị phương tiện tối sơ. Phân làm hai.
  2. Đương cơ lại nghi đoạn diệt. chia làm hai.

a.1 Từ chơn mà nghi vọng.

A nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, muốn cầu được thường trụ, thì phải ở nơi nhơn địa là giác tâm và những danh mục tu chứng phải tương ưng với quả vị. Nhưng bạch Thế Tôn! Trong quả vị thì có Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật Tánh, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí. Bảy đại chủng danh này, tên gọi tuy khác, nhưng thể tánh đều thanh tịnh viên mãn, bền chắc như ngọc Kim Cương, thường trụ không hoại. Nếu cái thấy nghe này, khi lìa sáng tối, động tịnh, thông bít thì hoàn toàn vô thể. Cũng vậy, khi thức tâm vọng niệm lìa khỏi tiền trần này thì không có gì nữa. Thế thì tại sao lại lấy cái rốt ráo đoạn diệt này làm chỗ tu nhân địa mà mong chứng được bảy quả thường trụ của Như Lai?

a.2 Từ vọng nghi chơn.

Bạch Thế Tôn! Nếu lìa sáng tối thì cái thấy này toàn không. Cũng vậy, nếu không có tiền trần thì tự tánh của niệm lự liền diệt. Con suy đi nghĩ lại, rồi truy tìm thật kỹ, mới thấy mình không có tâm, tâm sở. Vậy con phải lấy gì làm tâm để lập thành nhơn địa, ngỏ hầu đắc quả vô thượng giác? Và giờ đây con thấy tánh trạm tinh viên thường mà Như Lai nói trước đây, dường như trái với thật ngữ, vì rất giống hý luận. Vậy phải như thế nào mới là Như Lai chơn ngữ, thật ngữ? Cúi mong đấng đại từ khai thị sự mê mờ này cho con.

Nghị rằng: Ở đây sẽ khai thị về sự chơn thường của tánh nghe, đồng thời vì muốn thầm chọn căn nghe làm phương tiện tối sơ nên đương cơ trước tiên khởi nghi về đoạn diệt. Tôn giả A nan nghe nói sáu căn lìa trần vốn vô thể, bèn nghi ngờ nó thành đoạn diệt. Cho nên hỏi bảy loại Phật quả đều thường trụ. Nếu quả thật tâm niệm một khi lìa tiền trần rồi sẽ không có gì nữa, nó chính là đoạn diệt. Tại sao cho cái rốt ráo đoạn diệt này là nhân địa tu hành và lại còn mong được bảy quả thường trụ của Như Lai ư? Cho nên mới tới lui, qua lại tìm cầu mà không biết rồi phát sanh nghi ngờ cho rằng những lời Như Lai nói là trái nhau.

  1. Khéo léo khai thị về lẽ chơn thường. chia làm năm.

b.1 Phật trách A nan và hứa sẽ trừ mối nghi.

Phật bảo A nan: Ông tuy đa văn học rộng, nhưng chưa sạch các lậu. Nên dù ông có biết điên đảo chính là sở nhơn của các vọng, nhưng khi điên đảo thật sự hiện tiền, ông lại không biết. Nên ta e rằng, ông tuy có thành tâm mà vẫn chưa tín phục. Ta nay thử dùng những việc trong thế gian, giúp ông trừ nghi.

b.2 Phật đánh chuông để nghiệm tánh nghe.

Bấy giờ Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông rồi hỏi A nan. Nay ông nghe gì không? A nan và đại chúng đều nói: Chúng con có nghe.

Đợi chuông hết ngân, Phật lại hỏi. Nay ông còn nghe không? A nan và đại chúng đều nói: Thưa không nghe.

Phật bảo La hầu la đánh thêm tiếng chuông nữa rồi hỏi: Ông nay có nghe không? A nan và đại chúng đều nói: Dạ có nghe.

Phật bèn hỏi A nan: Vậy theo ông thế nào là nghe? Thế nào là không nghe? A nan và đại chúng đều nói: Hễ đánh chuông vang ra tiếng thì con có nghe, đánh lâu dứt tiếng, âm và vang đều hết thì gọi là không nghe.

Như Lai lại bảo La hầu la đánh chuông, bây giờ có tiếng không? A nan và đại chúng đều nói. Có tiếng.

Đợi một lúc tiếng dứt, Phật hỏi A nan: Lúc này có tiếng không? A nan và đại chúng đều nói: Không có.

Sau đó, La hầu la lại đánh chuông, Phật lại hỏi: Bây giờ có tiếng không? A nan và đại chúng đều nói. Có tiếng.

Phật bèn hỏi A nan: Vậy theo ông, thế nào là có tiếng thế nào là không tiếng?

A nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: Khi đánh chuông có tiếng thì gọi là có tiếng. Đánh lâu tiếng dứt, âm vang không còn, gọi là không có tiếng.

b.3 Chánh hiển tánh chơn thường. chia làm năm.

3.1 Chọn bỏ định.

Phật bảo A nan và đại chúng: Sao hôm nay ông nói năng lộn xộn thế?

A nan và đại chúng đều hỏi Phật: Hôm nay chúng con nói thế nào mà Phật quở như thế?

Phật bảo: Vì khi Ta hỏi ông về tánh nghe thì ông nói có nghe. Khi ta hỏi ông về tiếng, ông lại nói có tiếng. Chỉ là nghe và tiếng mà ông đáp không nhất định, tức lộn xộn chứ còn sao nữa?

Này A nan! Nếu khi dứt tiếng, ông nói không nghe. Nếu thật không nghe thì tánh nghe của ông đã diệt theo tiếng, thì ông sẽ như cây cỏ. Vậy khi chuông ngân lên nữa, sao ông lại nghe. Phải biết, có tiếng hay không tiếng là do thanh trần hoặc có hoặc không. Nhưng tánh nghe của ông đâu vì có tiếng thì thành có, không tiếng thành không. Nếu tánh nghe của ông thật đã theo tiếng mà thành không, vậy lúc đó ông đã dùng cái gì để biết là không có tiếng.

3.2 Chánh khai thị.                                                          

Bởi vậy, này A nan! Cái tiếng ở trong cái nghe, tự nó có sanh diệt. Nhưng ông không thể vì thấy tiếng có sanh diệt,mà cho rằng tánh nghe của ông khi có khi không.

3.3 Khiển trách A nan vẫn mê vọng.

Vì ông còn điên đảo nên đã lầm lẫn tiếng là nghe, nên chẳng lạ gì khi ông đã lầm cho Thường là Đoạn. Vậy từ nay ông không nên nói, khi lìa các tướng động tịnh, ngăn bít, khai thông, thì không có tánh nghe.

3.4 Dùng thí dụ để làm sáng tỏ.

Như người kia đang ngủ say. Khi đang ngủ rất say thì người nhà lại đi giặt lụa, giã gạo, khiến người này ở trong mơ đã lầm nghe tiếng giặt giũ kia thành tiếng khác, giống như tiếng trống, tiếng chuông. Thế nhưng dù đang mộng mà lại thắc mắc, tiếng chuông gì mà cồm cộp như tiếng cây, tiếng đá nên liền thức giấc, sau mới biết đó là tiếng chày, bèn nói với người nhà, vì ta đang nằm mơ nên đã lầm tiếng chày giã đạp kia là tiếng trống.

A nan! Người này đang chiêm bao, tức đâu biết động tịnh, đóng mở, thông bít, thân tuy đang ở trạng thái nằm ngủ mà tánh nghe vẫn không hề hôn muội.

3.5 Hiển kết.

Nên dù thân ông đã tiêu vong, mạng căn đã dời đổi, nhưng tánh nghe này cũng đâu diệt theo thân ông?

b.4 Tổng kết về điên đảo.

Nên tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, đã vì theo sắc, theo vọng niệm mà thành lưu chuyển, vì chưa từng khai ngộ được tánh thường, tịnh, diệu, nên luôn xa trái chơn thường để chạy theo các pháp sanh diệt. Do đó mà đời đời thường lưu chuyển trong tạp nhiễm.

b.5 Chỉ dạy quay về quán tâm. Phân làm ba.

5.1 Diệt trần thì đồng nguồn giác.

Nếu bỏ được tâm sanh diệt để giữ lại tánh chơn thường.

5.2 Trí khởi hoặc vong.     

Thường Quang vẫn hiện tiền, còn căn trần thức tâm thì tùy lúc tiêu lặn.

5.3 Trần tiêu giác tịnh.

Tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu. Hai thứ ấy một lúc lìa xa, thì con mắt pháp của ông trong sáng ngay. Thế thì sao không thành tri giác vô thượng.

Nghị rằng: Đoạn này trở đi Thế Tôn khéo léo chỉ bày lẽ chơn thường. Tôn giả A nan do đó mà nghi tâm này nếu ly trần thì không có thể, tức thành đoạn diệt. Đức Phật thử đem những việc trong thế gian để nghiệm, giúp A nan trừ nghi. Nên Ngài bảo La-hầu-la đánh chuông để nghiệm thử. Lúc mới đánh tiếng chuông đầu tiên Ngài hỏi có nghe không, ý muốn nghiệm tánh nghe. Đức Như Lai lại bảo La-hầu-la đánh chuông, bèn hỏi ông có nghe không, ở đây là ước về thanh trần để nghiệm. Trước đó A nan đáp rằng không nghe. Lần nữa khi đánh chuông lại hỏi thì A nan đáp có nghe. Nếu như tánh nghe quả thật không có thì tùy thời diệt mất, không lẽ lại nghe tiếng này. Cho nên Đức Phật quở Tôn giả A nan trả lời lộn xộn. Vì biết có biết không vốn thuộc thanh trần, hoặc có hoặc không. Nhưng tánh nghe kia đâu vì ông mà thành có hay không. Nếu thật không nghe thì lúc đó cái gì biết là không? Từ đó đủ chứng minh tánh nghe hằng chơn thường vậy. Đoạn khai thị chính nói rằng âm thanh ở trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải tánh nghe của ông khi có khi không. Rồi Ngài lại quở “ ông vẫn còn lầm lẫn tiếng là nghe”chả trách cho Thường là Đoạn. Vậy từ nay không nên nói lìa các tướng tiền trần động tịnh kia rồi cho rằng nghe không có tánh. Nên nói như người nằm mộng, thân tuy trong trạng thái ngủ mê nhưng tánh nghe không hôn muội. Từ đó đủ biết thân ông tuy hoại, thần thức đổi dời nhưng tánh nghe này làm sao có thể tiêu diệt theo thân ông được. Đoạn này tổng kết hiển bày nghĩa chơn thường. Đoạn sau chỉ bày còn điên đảo. Vì các chúng sanh ruỗi theo sắc thanh vv  theo vọng niệm mà thành lưu chuyển, xa trái tánh chơn thường để chạy theo các pháp sanh diệt, thế nên đời đời thường lưu chuyển trong tạp nhiễm.

Đoạn dưới chỉ quay về quán tâm. Nếu bỏ được tâm sanh diệt để giữ được tánh chơn thường, một khi ánh sáng chơn thường hiện hữu thì căn trần thức tâm tức thời tiêu tán. Tướng tưởng và thức tình xa lìa cả hai thì căn trần đốn tiêu đồng thời pháp nhãn của ông cũng bừng sáng tức khắc. Vậy còn gì nữa mà không thành vô thượng tri giác ư? Đoạn này Phật đã khéo léo chỉ bày lẽ chơn thường, ý muốn làm sáng tỏ nhĩ căn có thể làm phương tiện tối sơ vậy. đoạn kế là chỉ kết căn nguyên để chỉ cách hạ thủ công phu thôi.

Trên đây là khai thị tổng quát về nguồn gốc mê ngộ xong.

Hết Quyển bốn.