KINH TÊN GỌI CHÂN THẬT CỦA THÁNH DIỆU CÁT TƯỜNG
(Ārya-mañjuśrī-nāma-saṃgīti, hay Mañjuśrī-jñāna-satvasya-paramarthanāma-saṃgīti)
Hán dịch: Đời Nguyên_Giảng Kinh Luận Tập Mật Giáo Thổ Phiên Dịch Chủ Nhiếp Nhai Sa Môn THÍCH TRÍ dịch
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
Kính lễ Nhu Đồng Tướng Diệu Cát Tường
_Lại nữa, Cát Tường Trì Kim Cương
Điều phục trong việc khó điều phục
Dũng mãnh vượt qua trong ba cõi
Tự tại, thắng trong Kim Cương Mật
Mắt như sen trắng rất đoan chính
Khuôn mặt tròn đầy như hoa sen
Tự tay cầm giữ Thắng Kim Cương
Mọi lúc ngửa lên trên ném vứt
_Lại thứ tự hiện phẫn đẳng tượng (nhóm tượng phẫn nộ)
Cũng có vô biên Trì Kim Cương (Vajra-dhāra)
Dũng mãnh điều phục việc khó điều
Đủ tướng uy mãnh rất đáng sợ
Mũi nhọn Kim Cương tuôn thắng quang (ánh sáng thù thắng)
Tự tay hướng lên trên ném vứt
Có Đại Từ Bi với Trí Tuệ
Phương tiện lợi sinh rất thù thắng
Đầy đủ Tâm vui thích an ổn
Hiện bày có hình tướng phẫn nộ
_Thích Ca Như Lai (Śākya-muṇi-tathāgata)
Nơi Tôn (Nātha) trong Hạnh (Caryā) hành Chính Giác
Chúng đều đến dự, thân cung kính
Hướng về Như Lai Mạt Át Tông (Tathāgata bhagavaṃ: Như Lai Thế Tôn)
Cứu Cánh Chính Giác lễ kính xong
Ở trước cung kính chắp tay lại
Ngồi thẳng, chính niệm rồi thưa gửi
“Biến Chủ (chỉ Đức Phật) cho con làm nhiêu ích
Lợi cho con, Từ Bi nơi con
Trong lưới Như Huyễn thành Chính Giác
Nguyện con chân thật được Bồ Đề (Bodhi)
Có các phiền não loạn Tâm ấy
Trong bùn chẳng hiểu mà chìm mất
Vì lợi tất cả loại hữu tình
Khiến cho đạt được Quả vô thượng
Cứu Cánh Chính Giác Xuất Hữu Hoại (chỉ Đức Phật)
Là Thầy hữu tình với Đạo Sư
Cũng câu Đại Ký đạt Chân Tính
Hiểu rõ căn, Tâm, điều thù thắng
Trí Thân (Jñāna-kāya) của Xuất Hữu Hoại (Bhagavaṃ: Thế Tôn) ấy
Là Đại Đỉnh Tuyền Ngôn Từ Chủ
Cũng là Trí Thân tự vượt ra
Bậc Diệu Cát Tường Trí Dũng Thức
Tụng tên chân thật thù thắng ấy
Là nghĩa sâu xa, nghĩa rộng lớn
Nghĩa lớn khôn sánh, thật nhu nhuyễn
Đầu: thiện, giữa: thiện, sau: cũng thiện
Hàng Chính Giác quá khứ đã nói
Ở trong vị lai sẽ diễn nói
Cứu Cánh Chính Đẳng Giác hiện tại
Cũng luôn luôn khắp đều diễn nói
Trong Đại Huyễn Hóa Võng Bản Tục
Trì Đại Kim Cương trì Mật Chú
Như vô biên chư Phật răn dạy
Diệu Âm tuyên sướng, nay sẽ nói
Thế Tôn Cứu Cánh Chính Đẳng Giác
Nguyện thành chân thật trì Chú nên
Như con quyết định chưa rời khỏi
Nên siêng bền chắc mà thọ trì
Xa lìa phiền não, không dư sót
Buông lìa các hiểu biết sai lầm
Tức dùng Tâm không riệng, không khác
Vì các hữu tình, nguyện tuyên nói”
_Mật Tự Tại Giả Trì Kim Cương
Hướng về Như Lai nói lời này
Thưa gửi xong rồi liền chắp tay
Dùng thân cung kính, ngồi trước mặt
_Lại nữa, Thích Ca Xuất Hữu Hoại
Cứu Cánh Chính Giác Lưỡng Túc Tôn
Dùng cái lưỡi thù thắng của mình
Rộng dài giang duỗi che trùm khắp
Hiển hiện trong ba loại Thế Giới
Điều phục bốn Ma, các oán địch
Hữu tình đều đủ ba nẻo ác
Hiện ra tướng mỉm cười thanh tịnh
Ở trong Phạn Âm thanh tịnh ấy
Tràn khắp ba loại Thế Giới xong
Vì Trì Kim Cương Đại Lực Giả
Mật Tự Tại Chủ mà đáp nói:
“Bậc đầy đủ có Đại Từ Bi
Ông vì lợi ích hữu tình nên
Đầy đủ Trí Thân Diệu Cát Tường
Tụng tên chân thật là lợi lớn
Hay làm thanh tịnh trừ nghiệp tội
Nơi Ta, tinh cần nên nghe kỹ
Lành thay Cát Tường Trì Kim Cương!
Tay cầm Kim Cương thật lành thay!
Mật Chủ! Ta vì việc này nên
Vì ông khéo léo khiến tuyên nói”
_“Dạ vâng! Mạt Át Tông (Bhagavaṃ: Thế Tôn)! Lành thay!”
_Lại nữa, Thích Ca Xuất Hữu Hoại (Śākyamuṇi-bhagavaṃ: Đức Thế Tôn Thích Ca)
Tất cả Mật Chú Đại Chủng Tính
Mật Chú Minh Chú Trì Chủng Tính
Ở ba Chủng ấy khiến quán sát
Tính của Thế Gian, Xuất Thế Gian
Hiển làm Đại Chủng Tính Thế Gian
Thủ Ấn Chủng rộng lớn thù thắng
Đại Chủng, Đại Kế (búi lóc lớn) nên quán sát”
_Chủ của ngôn từ (chỉ Đức Phật) diễn Kệ Tụng
Đấng Mật Chú Vương (Guhya-mantra-rāja) đủ sáu loại
Tướng Lệnh (mệnh lệnh của Tướng Sư) hiển ra nơi không hai
Pháp không có sinh (Anutpāda) tự tuyên nói
“Ách a, y ỷ, ô ổ, anh ai, a hạc, khiếm ách (1) tất-đê đá, hột-lý đê (2) mặc nại, một-long đê (3) la hàng một đá (4) mẫu đát mặt (5) đát-la đốt, bất-la đê mặc (6) Án (7) mạt tức-la, đế ngật-chiết nại, ninh khát tình nại, bất-la mặc mại mẫu-linh đát anh, mặc nại-cát dã, oát nghi thuyết la, a la bát tạt nại, duệ đính, nại ma”
STHITA HṚDI JÑĀNA-MŪRTE RASA-BHŪTA_BUDDHĀNĀṂ TRYADHVA VARTINĀṂ_ OṂ_ VAJRA-TĪKṢṆA DUḤKHA-CCHEDA
PRAJÑĀ-MŪRTAYE JÑĀNA-KĀYA VĀG-ĪŚVARA _ ARAPACANĀYA TE NAMAḤ
(40 Tụng dưới đây hiện ra vây quanh bên trong 37 Bồ Đề, cho nên khen Tâm Kim Cương Bồ Đề tức là 86 số tên gọi)
_Như vậy Chính Giác Xuất Hữu Hoại
Cứu Cánh Chính Giác trong Ách (A) ra
Chữ Ách (A) hơn hết trong các chữ
Là chữ vi diệu lợi ích lớn
Trong các cảnh hiện ra Vô Sinh (Anutpāda)
Tức đây xa lìa nơi ngôn thuyết
Là nhân (Hetu) thù thắng trong các Thuyết
Khiến hiển tất cả các ngôn thuyết
_Bậc Đại Cúng Dường là Đại Dục
Tất cả hữu tình khiến vui vẻ
Bậc Đại Cúng Dường tức Đại Sân
Tất cả phiền não, oán rộng lớn
Bậc Đại Cúng Dường là Đại Si
Cũng Tâm ngu si, trừ ngu si
Bậc Đại Cúng Dường là Đại Phẫn
Tức là oán thù của giận dữ
Bậc Đại Cúng dường Đại Tham Dục
Tất cả tham dục đều chặt trừ
Đại Dục tức là nơi Đại Lạc
Đại An Lạc là Đại Hỷ Túc
Đại Cảnh Sắc với thân rộng lớn
Đại Sắc cùng với Đại Hình Tượng
Đại Minh cũng với Đại Quảng Đại
Đại Trung Vi tức là rộng lớn
Trì giữ Trí Tuệ Khí rộng lớn
Móc phiền não, móc Đại Trung Thắng
Nghe khắp, khéo nghe đều rộng lớn
Trong hiển tức là hiển rộng lớn
Người hiểu, cầm giữ Đại Huyễn Hóa
Trong Đại Huyễn Hóa thành lợi ích
Trong Đại Huyễn Hóa: vui trong vui
Trong Đại Huyễn Hóa bày Huyễn Thuật
Trong Đại Thí Chủ: Tôn tối thượng
Trong Đại Trì Giới trì tối thắng
Nơi Đại Nhẫn Nhục liền bền chắc
Dùng Đại Tinh Tiến ắt vứt bỏ
Dùng Đại Thiền Định trụ Tĩnh Lự
Dùng Đại Trí Tuệ khiến giữ Thân
Đầy đủ Đại Lực, Đại Phương Tiện
Đại Nguyện, Thắng Trí là biển lớn
Tự Tính Đại Từ vô lượng biên
Cũng là Đại Bi, Thắng Trí Tuệ
Có Đại Trí Tuệ, đủ Đại Trí
Đại Giải tức là Đại Phương Tiện
Đủ Đại Thần Thông với Đại Lực
Đại Lực cùng với Đại Tốc Tật (rất mau chóng)
Lại Đại Thần Thông, Đại Danh Xưng
Đại Lực khiến tha (người khác) khiến tồi phục
Núi lớn ba cõi ắt hay hoại
Ở trong Đại Bố (rất đáng sợ) gây sợ hãi
Mầm lớn (đại chủng) Tôn Giả tức thù thắng
Thượng Sư Mật Chú rất thù thắng
(24 Tụng, 3 câu dưới đây là hiện ra vây quanh bên trong chúng Minh Chủ, cho nên khen Pháp Giới trong sạch, là 108 số tên gọi)
_Quảng Đại Chính Giác Chúng Minh Chủ
Đủ đại tịch mặc, đại tịch mặc
Trong Đại Mật Chú khiến hiện ra
Có Lý Tự Tính Đại Mật Chú
Muốn được mười loại Đáo Bỉ Ngạn (10 Ba La Mật)
Trụ ở trong mười loại Bỉ Ngạn
Mười Bỉ Ngạn đến là thanh tịnh
Tức là Lý mười loại Bỉ Ngạn
Tôn Giả, bậc Thập Địa tự tại
Trụ ngay ở trong mười Địa ấy
Biết đủ Tự Tính của mười loại
Trì nơi thanh tịnh của mười loại
Nghĩa mười loại, nghĩa trong nghĩa tướng
Tự Tại Tịch Mặc Thập Lực Chủ
Làm các lợi ích không có sót
Có đủ mười loại Đại Tự Tại
Chủ lìa hý luận, không dơ bẩn
Tự Tính Chân Như, vua thanh tịnh
Nói câu chân thật chẳng kiêng tránh
Như điều đã nói, y theo hành
Ở trong không hai nói không hai
Trụ ở trong bờ mé chân thật
Đủ âm thanh sư tử Vô Ngã
Ngoại Đạo, nẻo ác rất sợ hãi
Đi dạo trong tất cả nghĩa có
Mau chóng giống như Tâm Như Lai
Thắng với tối thắng trong Thắng Oán
Nơi bậc chuyển luân cho Đại Lực
Thầy trong Tập (các Chúng), thắng trong Tập
Tập Vương (vua trong các Chúng), Tập Chủ (chủ trong các chúng), Tập Tự Tại
(tự tại trong các chúng)
Cầm giữ, yêu giúp, Linh Nghiệm lớn
Đại Nghĩa chẳng nhận ân niệm khác (sự nhớ ơn của người khác)
Cú Vương (vua của câu), Cú Chủ (chủ của câu) hay nói bảo
Trong câu tự tại, câu vô biên
Dùng câu chân thật nói chân thật
Tuyên nói nơi bốn Thánh Đế ấy
Trong Bất Hoàn (Anāgāmin) lại chẳng quay về
Dạy như Duyên Giác (?Śrāvaka: Thanh Văn) với Độc Giác (Pratyeka-buddha)
Mọi loại quyết định trong siêu xuất
Người độc nhất trong các Đại ấy
Bật Sô La Hán tức hết Lậu (Āsrava: tên gọi khác của phiền não)
Điều phục các Căn (Indriya) lìa ham muốn (Dục)
Đắc được an vui, không sợ hãi
Thành mãn trong mát, không vẩn đục
Hiểu rõ (minh giải) cùng với nơi Thần Túc (Ṛddhi-viṣaga)
Thế Gian Thiện Thệ (Sugata) thắng minh giải
Nơi Ngã chẳng chấp, chẳng chấp Ngã
Trụ ở trong Lý hai Chủng Đế
Hay đến bờ kia của Luân Hồi (Saṃsāra)
Chỗ làm đã xong, trụ đất trống
Ở trong một Trí (Eka-jñāna) mà hiện ra
Vật khí Trí Tuệ phá tất cả
Hiện đủ Diệu Pháp (Sad-dharma) của Pháp Vương (Dharma-rāja)
Ở trong Thế Gian chiếu sáng hết
Dùng Pháp Tự Tại Pháp Trung Vương
Hay diễn Diệu Đạo (Su-mārga: con đường màu nhiệm) khiến tuyên nói
Thành tựu nghĩa có, mãn Thệ Nguyện
Buông lìa tất cả các hư vọng
Pháp Giới (Dharma-dhātu) không tận, thật lìa vọng
Pháp Giới Thắng Diệu, cực vô tận
Đủ ruộng Phước lớn, đủ Thắng Phước
Trí rộng lớn thù thắng trong Trí (jñāna)
Bậc đầu đủ Trí, hiểu có, không
Trong mầm không hai mà gom chứa
Trong các Thường Kiến, Thắng Thiền Định
Thề tu Tĩnh Lự (Dhyāna) là Trí Vương (Jñāna-rāja)
Tự hiểu mỗi mỗi đều chẳng động
Bậc Tối Thượng Thắng giữ ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân) Đầy đủ Chính Giác, Tính năm Thân (5 loại thân Phật gồm có: Pháp Tính Sinh Thân, Công Đức Pháp Thân, Biến Hóa Pháp Thân, Hư Không Pháp Thân, Thật Tướng Pháp Thân)
Chủ khắp Tự Tính năm loại Trí (Đại Viên Kính Trí, Bình Đẳng Tính Trí, Diệu
Quán Sát Trí, Thành Sở Tác Trí, Pháp Giới Thể Tính Trí)
Đội mão trang nghiêm năm Giác Tính
Trì năm loại mắt, lìa chấp dính
Khiến các Chính Giác đều tăng trưởng
Con Chính Giác Tôn rất vi diệu
Thắng Trí lìa Hữu (cõi) nơi sinh ra
Hiện ra trong Pháp lìa ba Hữu (3 cõi: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới)
Tính Kim Cương (Vajratā) bền chắc độc nhất
Sinh ra xong, làm chủ Hữu Tình
Hiện trong Không Tính (Śūnyatā: Tính trống rỗng) tự siêu xuất
Thắng Trí, Diệu Trí như lửa lớn
Dùng ánh sáng lớn chiếu sáng khắp
Dùng Trí Tuệ Minh khiến hiển hiện
Là đèn hữu tình, đuốc Trí Tuệ
Đủ uy thế lớn, hiển ánh sáng
Thắng Chú Chủ này, vua Minh Chú
Bậc Mật Chú Vương làm lợi lớn
Đủ Đại Nhục Kế, Đảnh hiếm có
Đại Hư Không Chủ nói mọi loại
Là Thắng Tự Tính các Chính Giác
Đủ mắt hoan hỷ của hữu tình
Hay khiến tăng trưởng mọi loại Tướng
Các hàng Đại Tiên (Mahā-ṛṣi) đều cúng tán
Khiến trì Mật Chú (Guhya-mantra) của ba loại
Bậc Đại Ký Cú trì Mật Chú
Tôn Giả (Ayuṣmat) thủ hộ Tam Bảo nên
Tuyên nói pháp ba Thừa tối thắng
Sợi dây (Pāśa) của nghĩa có chân thắng
Là Đại Chấp Trì Kim Cương Sách
Kim Cương Thiết Câu Đại Quyến Sách
(Dưới đây có 10 câu Tụng, là hiện ra vây quanh bên trong Bất Động Phật, cho nên khen Đại Viên Kính Trí tức 71 số tên gọi)
_Bố Úy Kim Cương (Vajra-bhairava) ban không sợ
Đấng Kim Cương Vương (Vajra-rāja) có sáu mặt
Sáu mắt, sáu tay, đủ sức mạnh
Cũng là răng nanh cắn đến xương
Hạt Lạt Hạt Lạt (Halahala) đủ trăm mặt
Là Ngục Vương Chủ, vua trong Ma (Māra)
Hữu Lực Kim Cương (Bala-vajra) gây sợ hãi
Danh Xưng Kim Cương (Yaśa-vajra), Kim Cương Tâm (Vajra-hṛdaya)
Huyễn Hóa Kim Cương (Māyā-vajra) đủ Phước lớn
Trong Kim Cương sinh Kim Cương Chủ (Vajrādhipati)
Tâm Kim Cương này như hư không
Bất Động (Acala), Độc Phát (Eka-jaṭā: Nhất Kế) tướng nghiêm thân
Mặc áo da tươi của voi lớn
Đại Khẩn Ha Ha đều gầm rống
Rống tiếng Hy Hy gây sợ hãi
Nếu làm tiếng cười, có cười vang
Kim Cương Hỷ Tiếu (Vajra-hāsa) gầm rống lớn
Kim Cương Dũng Thức Đại Dũng Thức (Vajra-sattva-mahāsattva)
Đấng Kim Cương Vương (Vajra-rāja) rất an vui
Đấng Kim Cương Kiên (Vajra-dṛḍha) rất vui vẻ
Đấng Kim Cương Hồng (Vajra-hūṃ) rống tiếng Hồng (HŪṂ)
Vật khí cầm mũi tên Kim Cương (Vajra-vāṇa)
Cây kiếm Kim Cương (Vajra-khaḍga) chặt không sót
Chúng Trì Kim Cương (Vajra-dhāra) đủ Kim Cương
Một loại Kim Cương đẩy lui địch
Kim Cương rực lửa cho mắt ác
Đầu tóc Kim Cương như lửa rực
Kim Cương giáng lâm, đại giáng lâm
Đấng Kim Cương Mao (Vajra-roma) riêng một thân
Móng ngón tăng mũi nhọn Kim Cương
Dùng tim, da Kim Cương cứng chắc
Tóc Chấp Kim Cương đủ cát tường
Dùng vòng hoa Kim Cương (Vajra-mālā) trang nghiêm
Cười vang Ha Ha quyết định rống
Đủ sáu Chủng Tự, tiếng Kim Cương
Tiếng rất nhu hòa, âm thanh lớn
Trong ba Thế Giới (Tri-loka-dhātu) riêng một âm
Tràn Hư Không Giới (Ākāśa-dhātu) tiếng gầm rống
Trong tiếng các Hữu (các cõi) đều thù thắng
(Dưới đây có 24 Tụng, hiện ra vây quanh bên trong Vô Lượng Thọ Phật, cho nên khen Diệu Quán Sát Trí tức 275 số tên gọi)
_Vô Ngã (Anātman) chân thật, Tính chân thật
Tức là Chân Tế không có chữ
Tuyên nói Tính Rỗng (Śūnyatā: không tính), thắng trong Chúng
Gấm rống tiếng rộng lớn thâm sâu
Tức là Pháp Loa (Dharma-śaṅkha: cái loa Pháp) đủ tiếng lớn
Cũng Pháp Kiền Chuy (Dharma-ghaṃṭa: cái chuông Pháp) âm thanh lớn
Tính Viên Tịch (Parinirvāṇa) siêu việt không trụ
Trong mười phương Pháp tức trống lớn (Mahā-duṇḍbhi: đại cổ, cái trống lớn)
Vi diệu trong Vô Sắc (Arūpa), Hữu sắc (Rūpa)
Đủ mọi loại tướng, sinh trong Ý
Bậc đủ các tướng hiển tốt lành
Cầm giữ ảnh tướng khiến không sót
Danh xưng lớn trong Vô Năng Quá (không có gì vượt qua được)
Đại tự tại ở trong ba cõi
Trụ ở trong Thánh Đạo (Ārya-mārga) tối cực
Cây phướng Pháp (Dharma-ketu) trong hưng thịnh lớn
Trong ba Thế Giới một Nhu Đồng
Trưởng Lão Tôn Giả, chủ Tứ Sinh
Đủ ba mươi hai Tướng trang nghiêm
Ba cõi yêu thích, ở Trung Diệu
Thế Gian Giải (Lokavid) là Thắng Sư (vị thầy thù thắng)
Thế Thắng Sư này không sợ hãi
Cứu Thế Gian Tôn: Ý vô tư
Bậc Cứu trong cứu mà vô thượng
Tận bờ mé Không (Ākāśa: hư không) đều nhận dùng
Hiểu biển Trí Tuệ trong tất cả
Giải tán tất cả vỏ Vô minh
Cũng hay phá hoại lưới ba Hữu
Thắng Trí Quán Đỉnh đủ đầu mão
Chân thật rốt ráo khiến trang nghiêm
Diệt trù ba loại các khổ não
Diệt ba Độc dược ba Giải Thoát
Quyết định giải thoát các chướng nạn
Trụ trong bình Đẳng như hư không
Vượt qua tất cả dơ phiền não
Hay hiểu ba Thời với không Thầy (vô sư)
Trong các hữu tình tức Đại Tôn (Mahā-nātha)
Trong đai Công Đức là đai hoa (Man đái)
Trong thân các Hữu tức Giải Thắng
Trong Đạo hư không (Ākāśa-mārga), trụ chân thật
Cầm giữ Như Ý Đại Bảo Châu
Biến Chủ hơn hết trong các báu
Viên mãn là cây Đại Như Ý (Mahā-kalpa-vṛkṣa)
Tịnh Bình thắng diệu, đại trung thắng (hơn hết mọi sự to lớn)
Hay làm lợi ích cho hữu tình
Tùy thuận hữu tình mà lợi ích
Cũng hiểu thiện ác với giờ giấc
Biến Chủ hiểu ghi đủ câu ghi
Đầy đủ Công Đức, hiểu Công Đức
Hiểu Pháp, khen ngợi hiện cát tường
Bên trong cát tường rất cát tường
Danh tiếng cát tường, danh tiếng Thiện
_Đại Pháp Diên trong Đại Chỉ Tức
Đại Âm Nhạc trong Đại Hoan Hỷ
Cung kính, vâng hầu đều đầy đủ
Thắng Hỷ danh xưng Tính Cát Tường
Cụ Thắng, Thí Thắng là Tôn Giả
Nơi về vi diệu, nương cứu giúp
Thắng Trung Thắng ở trong Thế Oán (oán hận trong đời)
Lìa các sợ hãi, không dư sót
Đỉnh Kế (tóc ở đỉnh đầu) với tóc chia thành búi
Đầu tóc ép chặt, đầu đội mão
Năm mặt có đủ năm búi tóc
Năm búi tóc đều đeo cột hoa
Tức là Đại Cần Tức (Mahā-śramaṇa: Đại Sa Môn) trụi tóc
Thắng Cần Tức (Sa Môn thù thắng) hành Tịnh Phạm Hạnh (Hạnh thanh tịnh)
Bậc Đại Khổ Hạnh dựng Khổ Hạnh
Chùa viện vi diệu Kiều Đáp Di (Gotamī)
Phạm Bà La Môn (Bà La Môn có hạnh thanh tịnh) hiểu Tịnh Phạm (thanh tịnh)
Khi vượt Viên Tịch (Parinirvāṇa: diệt độ) được Tịnh Phạm
Thoát lìa ràng buộc, thân giải thoát
Giải thoát Viên Tịch là Viên Tịch (Parinirvāṇa: diệt độ)
Vượt qua buồn thương, diệt buồn thương
Quyết định vi diệu, gần Xuất Ly (Naiṣkramya: vượt thoát nỗi khổ sinh tử luân hồi mà thành biện Phật Đạo)
Hay trừ bờ mé của khổ, vui
Trong Thân lìa Dục mà siêu việt
Chẳng thể so sánh, không gì bằng
Chẳng thấy, chẳng hiển, chẳng trong suốt
Tuy Tính chẳng sửa cũng tràn khắp
Vô Lậu nhỏ nhiệm, lìa Chủng Tính
Không bụi, lìa bụi liền không dơ
Lìa mất, buông; trừ bỏ lỗi lầm
Tối Cực (địa vị Đẳng Giác) ngủ, thức… hiểu Tự Tính
Các Giải (sự hiểu biết), các Minh (sự thấu tỏ) liền vi diệu
Thức Tâm siêu việt nơi Pháp Tính (Dharmatā)
Giữ gìn Lý tức Trí không hai
Lì sự hư vọng, lặng yên thành
Tu Hạnh Chính Giác ở ba đời
Chính Giác không dơ, cũng vô biên
Tối Sơ (thời kỳ rất sớm) Chính Giác cũng không Nhân (Hetu)
Mắt Trí (Jñānaq-cakṣus) độc nhất không nhiễm dơ
Thân đầy đủ Trí, tức Như Lai (Tathāgata)
Dùng câu tự tại, rộng tuyên nói
Diễn Thắng Trượng Phu, vua trong Pháp
Tuyên bày nơi thù thắng vi diệu
Giải nói Sư Tử không gì bằng
Nơi Thắng Quán Sát vui thù thắng
Gom chứa Uy Thế là Nhập Ý (hài lòng, một tâm một ý)
Trong ánh lửa rực, tướng Cát Tường
Cánh tay sáng rực khiến hiển hiện
Đại Y (vị thầy thuốc giỏi) thù thắng, tức Tôn Giả (Ayuṣmat, hay Sthavira)
Hay lìa đau buốt, không có hơn
Cũng là cây xum xuê cành thuốc
Đối trị các bệnh, oán thù lớn
Nhập Ý (hài lòng, một tâm một ý), thù thắng trong ba cõi
Cát Tường Du Tú đủ Trung Vi
Mười phương: tất cả Hư Không Giới
Dựng lập phướng Pháp (Dharma-ketu) rất vi diệu
Du hành chỉ một lọng rộng lớn
Liền đủ Từ Bi Diệu Trung Vi
Múa hoa sen cát tường tự tại
Lọng báu lớn, chủ bờ rộng lớn
Đủ uy thế lớn của Chính Giác
Gìn giữ tất cả thân Chính Giác
Là các Chính Giác tu tập lớn
Là các Chính Giác, chỉ Chính Giác
Kim Cương Đại Bảo, tướng Quán Đỉnh
Tính các báu lớn tức tự tại
Thế Gian Tự Tại (Lokeśvara) các Pháp Tính
Bậc Trì Kim Cương (Vajra-dhāra), tất cả vua
Tất cả Chính Giác tức Đại Tâm
Tất cả Chính Giác ngay trong Tâm (Citta)
Đại Thân (Mahā-kāya) của tất cả Chính Giác
Cũng là Ngữ (Vāk) của các Chính Giác
Kim Cương Nhật (Vajra-sūrya): đầy đủ Đại Minh (Mahā-vidyā)
Kim Cương Nguyệt (Vajra-candra): ánh sáng không dơ
Trong nhóm lìa Dục là Đại Dục (Mahā-chanda)
Mọi loại hình sắc, sáng lửa rực
Kim Cương Già Phu (ngồi theo thế Kim Cương Kiết Già): Chính Đẳng Giác
Nắm giữ Pháp cứu cánh chân thật Cát Tường Chính Giác Liên Hoa Sinh
Cũng hay nhiếp giữ Tạng Chính Pháp (Sad-dharma-garbha)
Lại trì mọi loại Huyễn Hóa Vương (Māya-rāja)
Chính Giác rộng lớn, trì Minh Chú
Thông Minh Kim Cương tức Đại Kiếm (Mahā-khaḍga: cây kiếm lớn)
Chữ thù thắng thanh tịnh chân thật
Là Quảng Đại Thừa (Mahā-yāna) trừ khổ não
Đấng Kim Cương Pháp (Vajra-dharma) Quảng Đại Khí
Kim Cương thâm sâu, Tức Na Tức (Jina-jik)
Kim Cương Trí Tuệ (Vajra-Prajñā) y nghĩa giải
Các Đáo Bỉ Ngạn (Pāramitā) đều rốt ráo
Trong tất cả Địa (Bhūmi) đủ trang nghiêm
Pháp Vô Ngã thanh tịnh chân thật
Trăng Trí (Jñāna-candra: Trí Nguyệt) chân thật, sáng thù thắng
Lưới Huyễn Hóa tinh tiến rộng lớn
Bản Tục, tất cả Thù Thắng Chủ
Tòa ngồi Kim Cương (Vajrāsana) đủ không dư
Trì giữ tất cả thân Trí Tuệ (Jñāna-kāya)
Tất cả Trí Tuệ diệu thù thắng
Tức ở đất Tâm (Citta-bhūmi) giữ đi, lại
Đại Tâm của tất cả Chính Giác
Lại giữ Hóa Luân (Sādya-cakra: bánh xe giáo hóa chúng sinh) của mọi loại
Là Tính thù thắng của các Thể
Cũng giữ Tự Tính tất cả Thể
Tức mọi loại nghĩa Pháp Vô Sinh (Anutpāda-dharma)
Trì giữ Tự Tính tất cả Pháp
Trí Tuệ rộng lớn trong sát na
Hiểu, giữ các Pháp không dư sót
Bậc hiện hiểu tất cả các Pháp
Thắng Trì Tịch Mặc (Śākya-muṇi), chân thật tế
Thù thắng chẳng động, Tự Tính tịnh
Lửa Trí (Jñānāgni: Trí Hỏa) hiển mạnh ánh lửa rực
(Dưới đây có 24 Tụng, khen Bình Đẳng Tính Trí, cho nên tức là hiện ra vây quanh bên trong Bảo Sinh Phật, tức 104 số tên gọi)
_Tùy thích, thành tựu nghĩa vi diệu
Tất cả nẻo ác đều thanh tịnh
Tôn thù thắng trong các hữu tình
Tất cả hữu tình khiến giải thoát
Trong độc phiền não, riêng dũng mãnh
Uy mãnh hay phá oán ngu si
Đủ Trí cát tường (Śrī-jñāna) mà nghiêm thân
Nắm giữ bền chắc tướng hung ác
Hay khiến động nơi trăm loại tay
Trong tướng cất bước, làm múa đạp
Trăm tay Cát Tường đều viên mãn
Khắp trong Không Giới khiến múa đạp
Vây trong Đại Địa: một Giới Phần (phần giới hạn)
Dùng một gót chân đạp cứng chắc
Dùng móng ngón chân trong giới phần
Thế Giới Tịnh Phạm khiến đè hết
Nghĩa của Pháp một nghĩa không hai
Tức nghĩa vi diệu, nghĩa không sợ
Cũng nghĩa đủ màu mọi loại Thức (Vijñāna)
Nơi Tâm Ý Thức nói tiếp đủ
Nghĩa Thể không số dư, vui vẻ
Yêu Tính của Không (Śūnya), Trí thù thắng
Buông lìa Tham Dục của ba cõi (tam hữu)
Hai cõi (nhị hữu) bậc vui vẻ rấtrộng lớn
Sắc mặt tươi đẹp như mây trắng
Ánh sáng thù thắng như trăng Thu
Cũng như mặt trời đẹp mới hiện
Móng như đồng đỏ, sáng trắng sạch
Mũ mão Tiêm Mạt Thanh (Indra-nīla: Đế thanh, màu xanh của viên ngọc báu) thù thắng
Tóc thù thắng cũng màu xanh biếc
Ánh sáng báu lớn, đủ cát tường
Trang nghiêm Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Chính Giác
Cả trăm Thế Giới đều khiến động
Mà hay đủ sức Thần Túc kia
Trì nơi niệm Thật Tính rộng lớn
Tình Lự Vương (Dhyāna-rāja) trong bốn Niệm Trụ (Catvāri smṛty-upasthānāni)
Dùng bảy Giác Chi (Sapta-bodhyaṅgāni) làm hoa hương
Tức biển Công Đức của Như Lai
Hiểu rõ nghĩa lý của tám Đạo (Aṣṭa-ārya-mārga: bát Chính Đạo)
Là hiểu Chính Giác Đạo (Samyakṣaṃbuddha mārga: con đường của bậc Chính
Đẳng Giác) chân thật
Nơi các hữu tình: phần lớn vướng
Cũng như hư không: không chỗ vướng
Sinh trong Ý của các hữu tình
Mau chóng giống như Ý hữu tình
Hiểu Căn (Indriya) với Nghĩa (Artha) của hữu tình
Hay đoạt các Tâm Ý hữu tình
Cũng hiểu nghĩa Thật Tính Năm Uẩn
Thanh tịnh năm Uẩn (Pañca-skandha) khiến thọ trì
Quyết định rời các bờ mé kia
Cũng hay rời ở trong quyết định
Hướng quyết định, trụ trong Xuất Đạo (Con đường rời khỏi)
Tuyên nói các quyết định đi ra
Nhổ mười hai chi (Dvāda-śāṅga: Lược xưng 12 Duyên Khởi, tức 12 nhân duyên), gốc ba hữu (3 cõi)
Có đủ tướng nghĩa của bốn Đế (Catvary ārya-satyāni: 4 Thánh Đế)
Hiểu giữ Tâm Thức của tám loại (8 Trí: Khổ Pháp Trí, Khổ Loại Trí, Tập Pháp
Trí, Tập Loại Trí, Diệt Pháp Trí, Diệt Loại Trí, Đạo Pháp Trí, Đạo Loại Trí)
Mười hai nghĩa thật khiến đầy đủ
Mười sáu Tính thật hiện Thể Giải (tỏ ngộ thông đạt)
Dùng mười hai loại thành Bồ Đề (Bodhi)
Hiểu thấu tất cả tướng Chính Giác
Thân huyễn hóa (Māyā-kāya) của các Chính Giác
Vô biên ức cõi khiến hiện ra
Các sát na kia, hiện hiểu rõ
Cũng hiểu sát na, nghĩa các hữu (các cõi)
Lý phương tiện của mọi loại Thừa (Vividha-yāna)
Lợi ích, khứ lai (quá khứ, vị lai) đều hiểu rõ
Quyết định ra khỏi bậc ba Thừa (Trīṇi-yānaṇi: gồm có Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa)
Trụ ở ngay Quả Nhất Thừa (Eka-yāna: tức Phật Thừa) kia
Các cõi phiền não, Tính thanh tịnh
Hay diệt trừ hết các Nghiệp Quả (Karma-phala)
Vướt qua tất cả trong sông biển
Tịch Tĩnh như trong Hành (Saṃskāra) hiện ra
Phiền Não (Kleśa) cùng với Tùy Phiền Não (Upakleśa)
Cùng với Tập Khí (Vāsana) đều vứt bỏ
Dùng nơi Đại Bi Trí Phương Tiện (Mahā-kāruṇa-jñāna-upāya)
Nơi các hữu tình làm lợi ích
Nghĩa tất cả Tưởng (Saṃjñā) đều vứt bỏ
Cũng khiến diệt trừ Tâm (Citta), Thức (Vijñāna), Ý (Manas)
Hay duyên tất cả Tâm hữu tình
Cũng hiểu tất cả Ý hữu tình
Tại tất cả Tâm hữu tình kia
Tùy thuận tất cả Ý hữu tình
Sung mãn tất cả Tâm hữu tình
Khiến các hữu tình: Tâm vui vẻ
Thành tựu Cứu Cánh (Uttara) không lầm lẫn
Các sự hiểu lầm đều buông lìa
Ở trong ba nghĩa, Trí không nghi
Các Ngã, ba loại Tính Công Đức
Nghĩa lý năm Uẩn trong ba Thời
Ở các sát na hay phân biệt
Trong một sát na: Chính Đẳng Giác
Giữ gìn tất cả Tính Chính Giác
Thân của không thân (vô thân), Thắng trong thân
Hiểu rõ bờ mé của các Thân
Mọi loại các tướng, các nơi hiển
Đại Bảo tức là Đại Bảo Thủ
(Dưới đây có 15 Tụng, khen Thành Sở Tác Trí, cho nên tức là hiện ra vây quanh bên trong Hữu Nghĩa Thành Tựu Phật, tức 95 số tên gọi)
_Hiểu rõ tất cả đấng Chính Giác
Chính Giác Bồ Đề tức vô thượng
Hiện nơi Mật Chú, không văn tự
Đại Mật Chú có ba loại này
Nghĩa các Mật Chú khiến tăng trưởng
Điểm Đại Minh là không văn tự
Đại Không tức là năm Chủng Tự
Điểm Không Minh là sáu Chủng Tự
Mọi loại các rỗng (Śūnya: không) không mọi loại
Mười sáu, mỗi nửa đủ Minh Điểm (điểm sáng)
Cũng không chi Phần vượt số đếm
Tức khởi đầu (sơ thủ) của bốn Tĩnh Lự (tứ Thiền)
Hiểu thấu tất cả Chi Tĩnh Lự (Dhyānāṅga)
Hiểu rõ Tính Chủng Tộc Tĩnh Lự
Đủ Thân Tĩnh Lự (Dhyāna-kāya), Thân Trung Thắng Thân Thọ Dụng (Saṃbhoga-kāya) là tất cả Thắng Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) tức là Thân thù thắng
Trì chủng tính của hóa hiện kia
Mọi loại hóa hiện trong mười phương
Y Pháp lợi ích cho hữu tình
Trời của tự tại, Thiên trung Thiên (Devātideva: bậc tối thắng trong chư Thiên)
Phi Thiên Tự Tại (Asureśvara), Phi Thiên Chủ (Asurādhipati)
Tự tại không diệt, Thầy của Trời
Gây họại, gây hoại tức tự tại
Ba Hữu (3 cõi) vắng lặng khiến siêu việt
Bậc thầy duy nhất, thầy hữu tình
Danh tiếng vang khắp mười phương giới
Chủ ban bố Pháp, bậc rộng lớn
Chuẩn bị đủ Từ Khải (Áo giáp của lòng Từ) trang nghiêm
Dùng Tâm Từ Mẫn làm giáp cứng
Trí Tuệ như kiếm, cầm cung tên
Muốn lìa chẳng hiểu địch phiền não
Hay giáng phục Ma Oán dũng mãnh
Kèm trừ bốn loại Ma đáng sợ (Uẩn Ma, Phiền Não Ma, Tử Ma, Thiên Tử Ma)
Cũng hay đầu lùi các quân Ma
Cứu Cánh Chính Giác cứu Thế Gian
Kham nhận nơi cúng tán, lễ kính
Cũng là cảnh luôn thường hầu hạ
Nơi đáng cúng vịnh, rất thù thắng
Thầy Thắng Thượng: xứng đáng lễ kính
Một bước hay dạo ba Thế Giới
Như không (hư không) vô biên, thật trấn áp
Thanh tịnh ba Minh (Trividya: gồm có Túc Mệnh Trí Chứng Minh, Sinh Tử Trí
Chứng Minh, Lậu Tận Trí Chứng Minh) là thanh tịnh
Đủ sáu Thần Thông, tùy sáu loại
Bồ Đề Dũng Thức Đại Dũng Thức (Bodhisatva mahāsatva)
Bậc Đại Thần Túc vượt Thế Gian
Đạt Thật Tính của Trí Tuệ kia
Cũng được Thể Tính của Trí Tuệ
Tất cả tự rõ, khiến người rõ
Trượng Phu thù thắng nơi tất cả
Vượt lìa tất cả các thí dụ
Năng Trí, Sở Trí Thù Thắng Chủ
Tôn Giả tức là Pháp Thí Chủ
Tuyên nói nghĩa bốn loại Thủ Ấn
Hữu tình phụng thí Thù Thắng Chủ
Quyết định nơi vào ba loại trụ (Pháp của 3 Thừa)
Trong nghĩa vi diệu: Tịnh Cát Tường
Trong ba Thế Gian: Phước đại thắng
Đầy đủ cát tường đều thành biện
Mạn Tổ Tất Lý (Mañjuśrī) thắng cát tường
(Bên dưới đây có 5 Tụng, như thứ tự kết tán 5 Trí: Đại Viên Kính, Thanh Tịnh Pháp Giới, Diệu Quán Sát, Bình Đẳng Tính, Thành Sở Tác Trí. Như thứ tự mỗi mỗi tụng một Trí vậy)
_Con kính lễ Thắng Thí Kim Cương
Con kính lễ chân thật biên tế
Con kính lễ Xuất Hiện Không Tính
Con kính lễ Chính Giác Bồ Đề
Con kính lễ Chính Giác Bồ ĐềTham Trước
Con kính lễ Chính Giác Dục Giả
Con kính lễ Chính Giác Hoan Hỷ
Con kính lễ Chính Giác Hý Luận
Con kính lễ Chính Giác Vi Tiếu
Con kính lễ Chính Giác Tiếu Giả
Con kính lễ Chính Giác Ngữ Giả
Con kính lễ Chính Giác Tâm Giả
Con kính lễ Xuất Hiện Vô Giả
Con kính lễ Xuất Hiện Chính Giác
Con kính lễ Xuất Hiện Hư Không
Con kính lễ Xuất Hiện Trí Giả
Con kính lễ Huyễn Hóa Võng Giả
Con kính lễ Chính Giác Hiển Luận
Con kính lễ tất cả tất cả
Con kính lễ bậc Trí Thân kia
_Này Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Tên chân thật chẳng chung cùng của Diệu Cát Tường Trí Dũng Thức (Maṃju-śrī-jñāna-bodhisatva) này là Trí Thân (Jñānakāya) của Xuất Hữu Hoại (Bhagavaṃ: Thế Tôn), Trí Thân của tất cả Như Lai. Nay ông cần phải sinh đại hoan hỷ, mãn niềm vui của Ý thanh tịnh, tăng trưởng Vô Thượng, tức hay thanh tịnh ba mật của thân miệng ý
Nếu người chẳng thể rốt ráo, chẳng thể thanh tịnh Địa thì khiến cho đến bờ bên kia, 2 túc Phước (Puṇya) Trí (Jñāna) thảy đều viên mãn, khiến cho kẻ ấy thanh tịnh. Nghĩa không có gì cao hơn được nếu người chưa hiểu thì khiến cho hiểu, nếu người chưa được thì khiến cho được. Từ đây đến Pháp Lý vi diệu của tất cả Như Lai chân thật trì giữ. Cho nên Ta tuyên nói mở bày, hiển giải khiến cho kẻ ấy nhiếp nhận
Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Điều này, Ta ở trong Chủng Tính của ông với trong Pháp Tính nhiếp nhận của tất cả Mật Chú mà làm nhiếp nhận
_Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Tên gọi chân thật này tức là thanh tịnh tối cực của tất cả Như Lai, Tính của Nhất Thiết Trí Trí (Sarva-jñā-jñāna) khiết tịnh chân thật, 3 mật của thân miệng ý
Cũng là tất cả Chính Giác Bồ Đề, tức hay hiểu rõ các Chính Giác rốt ráo chân thật
Cũng là tất cả Như Lai không có gì cao hơn, thông đạt hiểu rõ Pháp Giới của tất cả Thiện Thệ (Sugata). Ở trong các Thắng mà hay phá hoại tất cả sức của các Ma, trong tất cả 10 lực tức là 10 lực của 10 lực, trong Nhất Thiết Trí Trí Tính tức là Tính của Nhất Thiết Trí Trí, là hình sắc (Rūpa) trong các Pháp, chân thật thành tựu tất cả Chính Giác
Cũng là tất cả Đại Bồ Đề Dũng Thức, 2 Túc Phước Trí, chân thật rốt ráo không có dơ bẩn, rất ư thanh tịnh vậy.
Cũng là nơi sinh ra của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác… đầy đủ cảnh giới của người, Trời. Là Thể Tính của Đại Thừa, sinh ra Hành Xứ của các Bồ Tát, tức bờ mé của tất cả Thánh Đạo.
Cũng là cõi nước, nơi quyết định sinh ra các con đường giải thoát.
Cũng là chẳng chặt đứt Chủng Tính của Như Lai, tăng trưởng chủng tính chủng tộc của Bồ Đề Dũng Thức Đại Dũng Thức (Bodhisatva-mahāsatva).
Cũng hay nhiếp phục tất cả kẻ làm cuồng địch ở nơi khác, phá hoại tất cả Ngoại Đạo, đẩy lùi sức quân tướng của 4 Ma.
Cũng là chân thật nhiếp nhận tất cả chúng sinh, quyết định thành thục tất cả nẻo hướng về Thánh Quả (Ārya-phala), Tĩnh Lự (Dhyāna) thuộc 4 cung của các Tĩnh Phạm, Thiền Định của các Nhất Tâm (Eka-citta: chỉ Chân Như, Tâm của Như Lai Tạng) vậy
Cũng là điều phục 3 thân miệng ý, tinh cần Thiền Định hay lìa tất cả hợp tập
Cũng buông bỏ tất cả Phiền Não (Kleśa) với Tùy Phiền Não (Upa-kleśa), diệt trừ tất cả chướng ngại, giải thoát tất cả sự cột trói
Cũng là giải thoát tất cả các Uẩn (Skandha), diệt các Tâm loạn, thành biện tất cả nơi sinh ra, buông lìa tất cả việc thịnh suy
Cũng hay đóng bít tất cả cửa của các nẻo ác, mở bày con đường an vui thù thắng giải thoát chúng, khiến kẻ kia chẳng vào trong Luân Hồi mà hay chuyển bánh xe Đại Pháp; dựng lập dù lọng, cờ phướng, tất cả cung Diệu Pháp Chính Pháp của tất cả Như Lai
Cũng là Bồ Đề Dũng Thức (Bodhisatva) ở Môn Mật Chú mà tu tập, mau được thành tựu
Cũng là hiểu rõ Định Tinh Cần Bát Nhã Ba La Mật Đa của Bồ Tát Ma Ha Tát, hiểu rõ Không Tính (Śūnyatā: Tính trống rỗng) của tất cả Tinh Cần không có 2 Hý Luận, 2 Túc của tất cả Đáo Bỉ Ngạn, tất cả Cứu Cánh Địa rốt ráo chân thật thanh tịnh, mỗi mỗi đều hiểu rõ 4 Đế của các Thánh, nhất tâm thông đạt hiểu rõ 4 loại Niệm Trụ của tất cả Pháp
Tên gọi chân thật này mới đến Công Đức của tất cả Chính Giác, hay làm chân thật rốt ráo vậy
_Này Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Tên gọi chân thật này hay diệt 3 hành thân miệng ý của hữu tình, không có dư sót nghiệp tội
Cũng hay thanh tịnh tất cả hữu tình, các loài trong nẻo ác khiến cho lùi bỏ tất cả nẻo ác, chân thật đoạn trừ tất cả nghiệp chướng không có dư sót. Điều hay sinh tất cả 8 nạn nối tiếp nhau thì khiến cho điều ấy chẳng sinh, hay diệt 8 loại đáng sợ, hay diệt tất cả Ác Kiến (Mithyā-dṛṣṭi) với các Ma ác
Cũng hay xa lìa tất cả Hành (Saṃskāra) của Ma Oán, tăng trưởng tất cả Phước Thiện.
Cũng hay diệt trừ các tư tưởng ác, quán sát khiến cho nó chẳng sinh. Phá diệt tất cả kiêu mạn (Adhi-māna), uy dũng, Ngã Chấp (Ātma-grahā); chẳng sinh tất cả lo buồn, khổ não
Cũng là Tâm của tất cả Như Lai, Mật (Guhya) của các Bồ Tát, Đại Mật (Mahāguhya) của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác. Tất cả Mật Chú với Thủ Ấn ấy chân thật tăng trưởng các Niệm chẳng thể nói với Chính Niệm (Samyak-smṛti), tăng trưởng Vô Thượng Thiện Xảo Trí
Cũng hay đầy đủ không có tai vạ, các Lực tự tại
Cũng hay tăng trưởng cát tường, nhu thiện vi diệu, danh tiếng, khéo nói Kệ khen ngợi tốt đẹp
Cũng hay chân thật trừ diệt tất cả bệnh hoạn, sự sợ hãi rộng lớn
Cũng là tối cực thanh tịnh trong cực thanh tịnh, tối cực năng tác thanh tịnh trong cực năng tác thanh tịnh, tối cực thành biện trong cực thành biện, tối cực cát tường trong cực cát tường
Các kẻ muốn quy y thì vì họ làm Quy y. Người muốn cung điện thì vì họ làm cung điện. Người muốn ủng hộ thì vì họ làm ủng hộ. Người muốn gần gũi Quân Tướng thì vì họ làm Quân Tướng. Người muốn bãi châu báu thì vì họ làm bãi châu báu. Người muốn nương cây thì vì họ làm nơi nương cậy vô thượng. Người muốn vượt qua biển lớn 3 Hữu (3 cõi) thì vì họ làm thuyền bè
Cũng là Dược Vương (Bhaiṣajya-rāja) trừ diệt tất cả bệnh khổ, Trí quyết định phân biệt lấy bỏ, Minh Trí đập tan các Ác Kiến, Đại Ám. Hay mãn Thệ Nguyện của tất cả hữu tình, như viên ngọc Ma Ni
Cũng hay đắc được Trí Thân (Jñāna-kāya) của Diệu Cát Tường (Mañjuśrī), Tính của Nhất Thiết Trí Trí (Sarva-jñā-jñāna), khiến được 5 loại mắt thấy Trí thanh tịnh (Vimala-jñāna)
Cũng là Tài Thí, Pháp Thí, Vô Úy Thí…. Chân thật buông xả, cho nên khiến 6 Ba La Mật được viên mãn
Cũng là 2 Túc Phước Trí với các Tĩnh Lự (Dhyāna: Thiền Định) khiến rốt ráo, cho nên hay được 10 Địa (Daśa-bhūmi)
Cũng hay buông lìa 2 bên (Dvaya-anta: 2 thứ cực đoan xa lìa Trung Đạo), tức Tính không có 2 Pháp, chẳng phải là Tính của Pháp khác, không có trang sức hoa lệ cho nên tức là Tự Tính chân thật
Cũng là Tự Tính của Trí thanh tịnh của Như Lai, tức Tự Tính của bờ mé chân thật
Cũng hay trừ diệt trăm ngàn rừng rậm Ác Kiến, tức Tự Tính của Chân Không của tất cả Như Lai
Tên gọi chân thật này tức là tên gọi chân thật của nghĩa “Tính không có 2 Pháp”.
Nếu có người tụng trì, diễn nói…. là Tự Tính chẳng thể nói được của tất cả Pháp vậy
_Này Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện y theo Môn Mật Chú tu tập. Nơi Xuất Hữu Hoại Diệu Cát Tường Trí Dũng Thức này: tên gọi Chân Như chân thật, Trí Thân không có hai của tất cả Như Lai là viên ngọc ở búi tóc trên đỉnh đầu. Thông suốt nghĩa câu của tất cả văn tự, không có mắc sai sót, cũng không có thêm bớt, suy nghĩ nghĩa lý, y theo thời làm cho người khác giải thoát…. Thời mỗi mỗi đều nên tưởng thân của Diệu Cát Tường Trí Dũng Thức hướng về trong các Môn, khiến Tâm dừng ở trong Ái Lạc Thật Tính Môn, thành thật tác Tưởng, hiểu rõ tất cả Pháp thù thắng, Trí Tuệ không có vẩn đục, đấy đủ Tâm tin tưởng, nối tiếp nhau cột buộc niệm, nhất tâm Thiền Định…. thì tất cả nhóm Chính Giác Bồ Đề Dũng Thức trong 3 đời với đời vô thủy kia đều đi đến tập hội, được hiểu tất cả Pháp kèm hiện Thân ấy. Tất cả Chính Giác Bồ Đề Dũng Thức dùng 3 nghiệp của thân miệng ý cùng với Chủng Tính chân thật nhiếp nhận. Tất cả Chính Giác Bồ Đề Thức đem các lợi ích mà làm nhiêu ích, hay được trong tất cả Pháp: không có hãi, không có sợ, biện thuyết vô ngại
Lại có tất cả các A La Hán, Thanh Văn, Duyên Giác nhiếp giữ Thánh Pháp cũng đều hiện thân trong Tâm.
Lại có Điều Phục Nhất Thiết Chư Ác Đại Kim Cương Vương với nhóm Trì
Đại Kim Cương vì hộ giúp các hữu tình cho nên cùng biến hóa Thân, hiệm mọi loại hình, khiến cho tinh thần của người ấy có Uy Thế không có thể nhiếp phục. Hay thành tất cả Mật Chú, Thủ Ấn ghi vây quanh trong câu không có sót Mật Chú, Minh Vương Chú… kèm với Tần Na Dạ Ca, các Ma Oán ác, kèm với các loài Thoái Hoại Nhất Thiết Tha Bất Năng với nhóm Đại Mẫu ở ngày đêm ấy, mỗi sát na thời trong các uy nghi đều ẩn nép thân ấy để làm cứu giúp
Lại có Tịnh Phạm, Đế Thích kèm với Thích Cận Thần, Đại Lực Tồi Phục Như Phục Anh Đồng với chủng tộc của Đại Tự Tại, Miêu Tử, Đại Hắc, Tác Hý Tự Tại Ngục Chủ, Thủy Thần, Cô Bình La, Quỷ Tử Mẫu….ủng hộ mười phương Thế Giới luôn thường nối tiếp nhau: hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngủ, hoặc thức, nhập vào Định, ra khỏi Định, đứng một mình trong Chúng… đều ẩn nép thân ấy để làm cứu giúp. Hoặc trụ ở thôn, ấp, làng xóm, suối nguồn, cõi nước, lầu cửa giới hạn, cửa cung của vua, đường lớn, đường nhỏ, ngã tư đường, ngã ba đường, nhà trống nhà trọ trong làng, núi, đầm, sông lớn, sông nhỏ, rừng rậm, rừng rậm rộng lớn… Nếu nơi chẳng sạch sẽ, mê say, phóng dật thời luôn thường trong tất cả cửa: ngày đêm ẩn nép, thù thắng cứu giúp, thành niềm vui Thắng Diệu
Lại nữa Trời, Rồng, Thí Ngại (?Yakṣa), Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhân, Chúng Diệu, Du Tú với các Thiên Mẫu, Tập Chủ, Thất Mẫu, các Thí Ngại Mẫu kèm với Thực Nhục Mẫu… tập hợp này, một Tâm, một Ý kèm với các quân tướng, quyến thuộc, tạp sứ… hay vì tất cả, ẩn nép cứu giúp, tăng trưởng Tinh Thần, đầy đủ sức mạnh sắc đẹp, uy thế thù thắng, sống lâu, không có bệnh
_Này Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Chân Thật Danh Đỉnh Kế Châu này, nếu khởi Thề Nguyện, ngày ngày 3 Thời không bỏ sót, niệm tụng 3 biến, viết chép, khiến đọc thời nghĩ tưởng thân của Xuất Hữu Hoại Cát Tường Trí Dũng Thức cùng đồng với Tướng này mà làm Thiền Định. Do lợi ích này cho nên chẳng trải qua nhiều thời, tức Diệu Cát Tường biến hóa nơi Tượng, khiến kẻ ấy được thấy, cũng thấy nơi chốn tận hư không giới, tất cả Chính Giác Bồ Đề Dũng Thức, mọi loại thân tướng Đại Hữu Tình
Nơi thời phần nào? Y theo chỗ làm nào để chẳng rơi vào nẻo Địa Ngục, chẳng sinh trong đường ác, chẳng sinh vào Chủng Tính ác, chẳng sinh ở nơi biên địa thấp hèn, cũng được đầy đủ các căn, chẳng làm Tà Kiến, cũng chẳng sinh vào nhà Tà Kiến, chẳng sinh trong nước không có Phật, khi sinh trong nước gặp Phật thời chẳng buông bỏ Chính Pháp cũng chẳng xa lìa, chẳng sinh trong cõi Trời Trường Thọ. Chẳng sinh trong các Kiếp đói kém mất mùa, bệnh dịch, binh đao. Chẳng sinh trong đời ác 5 Trược, gặp vua đáng sợ, điều ác đáng sợ, giặc đáng sợ. Ở trong đời đời chẳng gặp nỗi sợ nghèo túng hèn kém. Chẳng gặp sự sợ hãi về Uế Khí, chê bai, khinh rẻ, tên ác, lời mói ác… Luôn thường được sinh trong Thắng Tộc có Bản Tính cao quý, hay thành tất cả thắng tướng đoan nghiêm, mhan sắc xinh đẹp, nơi các người đời thảy đều yêu thích vừa ý. Hoặc cùng với Tướng tùy theo Tình hòa thuận, vui thích, người nhìn thấy vui vẻ… ở trong mọi người, đoan chính nghiêm đẹp, đủ tướng Phước lớn, phát ngôn không có vướng mắc. Tùy theo nơi sinh ra, được Túc Mệnh Trí, thọ dụng rộng lớn, nhiều các tôi tớ người hầu… Nơi thọ nhận không cùng tận, quyến thuộc không cùng tận, ở trong hữu tình rất ư thù thắng. Cũng lại đầy đủ công năng thù thắng, tự nhiên đầy đủ 6 Ba La Mật. Hết thảy Công Đức trải qua ở 4 cung của Tịnh Phạm, đầy đủ Niệm (Smṛti) với Chính Niệm (Samyak-smṛti), Phương Tiện (Upāya), Nguyện (Praṇidhāna), Lực (Bala), Trí (Jñāna)…Cũng là tất cả trong các Số Nghĩa được không có sợ hãi với hay nói năng không có ngu si, mỗi mỗi câu hiển rõ ràng, thành đại thông tuệ, có đủ sự hiểu biết rộng rải, không có Tâm lười biếng, ít ham muốn, biết đủ, lợi ích rộng lớn, Tình không có yêu dính. Tức là nơi thù thắng mà tất cả hữu tình đã tin tưởng, cũng thành Cung Kính Sư với Thượng Sư
Người này, trước kia bởi vì nghe tất cả Giáo Pháp của Công Xảo, Kỹ Nghệ, Thần Thông. Hoặc nghe, hoặc nghĩa thảy đều hiểu rõ. Giới với mạng sống, các Hạnh tối cực, vi diệu thanh tịnh tối cực, Xuất Gia với thành Cận Viên (Upa-saṃpannna: tên gọi khác của Cụ Túc Giới) chẳng khiến cho quên mất Nhất Thiết Trí Trí Tính, Tâm Đại Bồ Đề, quyết định chẳng nhập vào trong Thanh Văn La Hán Duyên Giác Thừa
_Này Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Như vậy đầy đủ vô lượng Công Đức, cũng có vô lượng vô biên Công Đức rộng lớn như vậy
Trì Kim Cương Kim Cương Thủ! Người tụng Chân Như Chân Thật Danh này tức là Chân Thật Chấp Vi Diệu Trượng Phu tụ tập đầy đủ Phước Tuệ vi diệu, Công Đức tối cực của tất cả Chính Giác. Mau chóng cầu xin cho nên chẳng trải qua nhiều thời, hay thành Chân Thật Cứu Cánh Vô Thượng Bồ Đề. Ở trong nhiều KIếp chẳng nhập vào Niết Bàn, vì trong các hữu tình hiện ra nhiều Diệu Pháp vô thượng, trong mười phương Thế Giới tuyên diễn Diệu Pháp, tiếng trống lớn nối tiếp nhau chẳng tận. Tiếng ấy gầm rống làm Đại Pháp Vương
_“Án, tát mạt nại ma (1) ách mạt ngõa (2) sa mạt ngõa (3) bỉ thục nại, mạt nhật-la (4) ách ách giang a (5) bất-la cát đế, ba lợi thục nại (6) tát ma nại mã (7) duệ nục đát (8) tát mạt đát tha át đát (9) mặc nại cát dã (10) mạn tổ tất lý, ba lê thuyết nại īnh (11) mông ba đát ảnh đê a (12) Án, tát mạt đát tha át đát, hột lý nại dã (13) hát la hát la (14) Án, hồng, hột lý (15) mạt át tông (16) mặc nại mông tả (17) mạt ky thuyết la (18) ma ha bát tạt (19) tát mại nại ma, át át nại (20) a la lạt, lục ba lý thục nại (21) nại ma nục lý nại, cát la mạt, ách (22)
*)OṂ_ SARVA DHARMA ABHĀVA SVABHĀVA VIŚUDDHA VAJRA_ A Ā ĀṂ AḤ_ PRAKṚTI PARIŚUDDHA, SARVA-DHARMA YAD UTA,
SARVA TATHĀGATA JÑĀNA-KĀYA, MAṂJUŚRĪ PARIŚUDDHI TĀM UPADAYETI A
OṂ_ SARVA TATHĀGATĀYA-HṚDAYA HARA HARA_ OṂ HŪṂ HRĪḤ BHAGAVAṂ JÑĀNA MŪRTE VĀG-ĪŚVARA MAHĀ-VACA_ SARVADHARMA GAGANA-AMALA SUPARIŚUDDHA_ DHARMA-DHĀTU JÑĀNAGARBHA_ ĀḤ
_Lại nữa, Cát Tường Trì Kim Cương!
Thành khẩn vui vẻ rồi chắp tay
Như Lai Tôn Giả Xuất Hữu Hoại
Kính lễ Cứu Cánh Chính Giác xong
_Lại nữa, Tôn Giả! Tự Tính Mật (Guhya)
Kim Cương Vương của Trì Kim Cương
Nơi mọi loại khác đồng trú xứ
Cao giọng như vậy mà bạch rằng:
“Tôn Giả! Chúng tôi cũng tùy vui
Lành thay! Lành thay! Nói lành thay!
Vì kẻ kia muốn cầu quả giải thoát
Hữu tình vì không có người cứu độ
Chúng tôi, người cứu độ chân thật
Hộ giúp Bồ Đề, lợi ích lớn
Tuyên nói Lý huyễn hóa vi diệu
Đây là đường thanh tịnh vi diệy
Cũng là thâm sâu rất rộng lớn
Đại Nghĩa Hữu Tình làm lợi ích
Cảnh giới của tất cả Chính Giác
Các hàng Chính Giác đều đã nói
_Tên gọi chân thật của Chân Như đã tụng của Xuất Hữu Hoại Diệu Cát TườngTrí Dũng Thức là điều mà Đức Xuất Hữu Hoại Thế Tôn Như Lai đã nói xong
_Chư Phật ba đời chân thật nói
Vua chân thật trong các bí mật
Tên chân thật của Diệu Cát Tường
Chân thật vô tư mà phiên dịch
_Vì hộ căn lành chân thật nên
Tất cả hữu tình đều chân thật
Chân thật đoạn trừ các phiền não
Mau thành Chân Thật Cứu Cánh Phật
_Chân thật chẳng hiểu nơi phương ngôn
Chẳng ứng chân thật, bày ngôn từ
Tên chân thật Cát Tường vi diệu
Đủ Đức chân thật chẳng nghĩ bàn
_Thấy lợi chân thật, buông đúng sai
Tùy sức, chân thật mà phiên đối
Chân thật mất nghĩa, đảo nơi văn
Bậc Trí chân thật sửa cho đúng
*)Đời Nguyên_ Giảng Kinh Luật Luận Công Đức Ti Phán sai khiến ghi khắc bài này_ Sa Môn Đạo Viên tô điểm văn
_Chuyên tâm Kinh Văn này Bồ Đề (Bodhi) liền chẳng xa
Trao cho tin Bồ Đề (Bodhi)
Ngày ngày tụng ba Quyển
_Văn Thù Anh Lạc Chú:
“Án, hột lý, đắc lê la cát mễ, tạt dã, ách, bất cát xá, bát la để hạt đát, hột lý dạ, hồng hồng, phát, toa hạ”
OṂ_ HṚĪḤ_ TRI-LAKṢAṆĪ-CAYA ĀḤ _ VI-KĀŚA-APRATIHATAHṚDAYA HŪṂ_ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
_Thập Nhị Nhân Duyên Chú:
“Anh, nại linh-ma, hình các, bất-la mạt oát, hình các, đính thiện, đát đạt át đa, hiệt mạt nại-đát, đính thiện, tạt dưỡng, nỉ lãng nại, anh hoàn, oát nịch, ma ha thật-la ma nại, anh”
*)YE DHARMA HETU PRABHĀVA HETUN
TEṢĀṂ TATHĀGATO HYA VADATA
TEṢĀṂ CHAYO NIRODHA
EVAṂ VĀDI MAHĀ-ŚRAMAṆAḤ YE
_Phạn ghi là: A gia mạn đản tất lý, nại ma, a tất-đát thiệt đát cát nại (Ārya-Mañjuśrīnāma-aṣṭa-śataka)
Đây nói là: Bài khen ngợi 108 tên gọi của Thánh Giả Văn Thù Sư Lợi
Đời Nguyên_ Núi Cam Tuyền Mã Đề_Trung Xuyên Thủ Phần Chân Sư Điệt Trí Tuệ dịch
_Kính lễ Nhất Thiết Chân Thật Giải
Tâm chân chính rất ư thanh tịnh
Trong Chí Tôn Đỉnh luôn đỉnh lễ
Tất cả chư Phật đồng Giáo Sắc
Các tên Văn Thù, Ta diễn nói
_Sắc màu, tướng tốt, thân trang nghiêm
Trong tất cả sắc, tôn quý nhất
Các tướng tùy hình, hay hiểu rõ
Văn Thù dũng mãnh là chân thật
_Đủ chẳng nghĩ bàn, tư tưởng đứt
Nơi sinh ra tài năng rộng lớn
Ba Thân xuyên qua chẳng nghĩ bàn
Lượng Ý như vậy chẳng nghĩ bàn
_Sức Định Không Tính (Śūnyatā: Tính trống rỗng) dùng tự nhiên
Pháp của Không Tính đủ chân thật
Tự Tính của Không (Śūnya: trống rỗng) mến (hâm mộ, ngưỡng mộ) Cực Lạc
Pháp của ba Hữu (2 cõi) là Không Tính
_Nơi Nhất Thiết Giải, quán tất cả
Tất cả Bộ Loại Chủ đây kia
Tôn quý trong các chúng hữu tình
Tất cả hữu tình đều kính lễ
_Tất cả năm nẻo (Địa Ngục, Quỷ đói, Súc Sinh, A Tu La, Người) lại cũng thế
Hay đập tan tất cả Tà Ma
Kẻ oán địch khác đều diệt hết
Nhân Trung Tôn (bậc rất tôn quý trong loài người) hay Sư Tử Hống
(Siṃhanāda: tiếng gầm rống của Sư Tử) _Phiền não nhu nhuyễn lìa các ác
Các chướng nhiễm dơ thảy đều trừ
Tất cả hữu tình đến ủng hộ
Như vậy giải thoát nơi chín Hữu (Dục Giới, Sơ Thiền Thiên, Nhị Thiền Thiên, Tam Thiền Thiên, Vô Tưởng Thiên trong Tứ Thiền Thiên, Không Xứ, Thức Xứ, Vô Sở
Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ)
_Đấng Cụ Mạc Tạt (?Kaumāra: Đồng Tử) buông rũ tóc
Trụ ở trong cung vua Tịnh Phạm
Tay bấm tràng hạt, cầm khí trượng
Tịnh, Bất Tịnh là nhóm phương tiện
_Mỹ Âm Văn Thù luôn làm chủ
Hoa sen tạo thành rễ hoa sen
Hoa sen vàng ròng rất thù thắng
Tòa của hoa sen rất rộng lớn
_Cầm giữ hoa Mạn Đà (Mandāra) khiết tịnh
Cát Tường khéo trụ đủ Thắng Ý
Cũng là Chính Giác, là Độc Giác
Cũng là đời trước đã thành Phật
_Có đủ tự tại của Thần Thông
Là Giáo Chủ của bốn Chân Đế
Đủ nơi Thiên Nhãn giúp chúng sinh
Cũng là Cụ Tài, chủ chín Hữu
Cũng là Các Lan Hữu Tình Tôn
Tài Băng Tối Cực Chư Loại Tôn
Cũng là Sở Sinh Thú Vương Tôn
Như vậy Cụ Lực Thế Mẫn Sinh
_Các loại xảo biện đều điều phục
Con Phật là Phật, là Chân Phật (tức Báo Thân Phật)
Thân như ngàn mặt trời sáng chói
Cũng là trăng đầy, chủ Tinh Diệu
_Cũng là Thủy Thần Thiên Vương Tử
Ma Hề Thủ La Đại Thiên Vương
Cũng là Sa Kiệt (Sāgara) các Long Vương
Cũng là chủ của Cụ Chúng Uẩn
Phi Thiên (Asura), Tu La (Sura), Cụ Chủ Chủng
Địa Chủ, Diệu Thủ, Ba San-Tất-Niên
Chư Thiên Dũng Mãnh Tập Hội Tôn
Chư Thiên tụ tập, cung kính lễ
Trong Hộ Giới Thần (Dhātu-pala-devatā): Ly Cấu Tôn (Vimala-nātha)
Thế Gian Vô Lậu Tối Vi Tôn
Bậc hiểu việc đời: Thế Gian Tôn
Đủ Tuệ Giải kia là chân thật
Mọi loại hành sự kèm ủng hộ
Các đảng Ma ác chẳng dám chạm
Đều hiều Pháp thâm sâu nhỏ nhiệm
_Pháp Sư tự dẫn tập ba việc (Giới, Định, Tuệ)
Nhổ tên (mũi tên) ba độc (tham, sân, si) như Y Vương (vị vua trong ngành thuốc)
Kẻ khó giáng phục, đều giáng phục
Bậc đủ Trí Tuệ hay hiểu rõ
Đủ lượng kỹ năng của Thế Gian
Cũng là cây Như Ý Phước Trí
Cành, lá, hoa Bồ Đề trang nghiêm
Quả giải thoát (Vimokṣa-phāla), rành ba việc tậo
_Hữu Tình Đồng Loại Y Loại Tôn
Vào ý chúng sinh, đoạt mọi ý
Bậc hiểu Phạm Hạnh (Brahma-caryā): Ly Cấu Tôn (Vimala-nātha)
Cũng là chủ của chúng Tinh Diệu (các vì sao)
Cũng là Nhẫn Nhục Đại Tiên Chủ
Cũng là Bổ Xứ Cụ Vương Vị
Cũng là Thập Địa Đẳng Giác Tôn
Hữu Tình Thương Chủ Nội Vi Tôn
Tối Thắng Giáo Chủ Niết Bàn Sư
Cũng là Hư Không Địa Thủy Chủ
Cũng là chủ của Tính lửa, gió
Cũng là ngọc Như Ý chân thật
Nơi chúng sinh cần đều thành tựu
Các Xuất Hữu Hoại (Bhagavaṃ: Thế Tôn) đều kính lễ
Giống như ngọc báu, con kính lễ
Văn Thù Sư Lợi, con khen nói
_“Án, mạt át cảnh đát, nại ma tát, đát nại”
*)OṂ_ VĀKYEDA NAMAS TVAṂ
_Tướng tốt như vậy, khen nói xong
Lý giải trong Tâm, luôn tụng trì
Tất cả nghiệp ác đều xa lìa
Chứng được quả tối cực thanh tịnh
_Trăm lẻ tám (108) tên với tên khác
Trượng Phu (Puruṣa) ba thời luôn tụng trì
Nơi Ý đã sinh, đều tùy Tâm
Trong Tâm không nghi đều chứng đắc
_Tướng tốt thù thắng nhớ trì giữ
Xa nghiệp Vô Gián đều thanh tịnh
Hết thảy nghiệp ác chẳng thanh tịnh
Như vậy, tất cả đều trừ diệt
_Khi chết, hết mạng đến phương khác
Tướng ác, cảnh ác nếu hiện thời
Dùng Tâm thanh tịnh luôn nhớ giữ
Được thân thân Văn Thù dũng mãnh
_Trong người đủ Trí rất thanh tịnh
Ai hay đọc tục, hay nhớ giữ
Nếu người cần chúng được Phật Quả
Trong Tâm không nghi, quyết chứng đắc
_Tiếng Phạn nói là: A Gia Mạn Tổ Tất Lý, Đế Tất-Đam (Ārya-mañjuśrīstotraṃ)
Đây nói là: Thánh Giả Văn Thù Sư Lợi Tán
Đời Nguyên_ Núi Cam Tuyền Mã Đề_Trung Xuyên Thủ Phần Chân Sư Điệt Trí Tuệ dịch
_Kính lễ Đức Xuất Hữu Hoại Ngữ Trung Cụ Tài
_Trong các Tập Chúng rất thù thắng
Giống như trăng đầy, đoạt ánh sáng
Vô Minh, phiền não đều thanh tịnh
Con tán lễ Văn Thù Sư Lợi
_Tóc lửa chia búi, hiển rất sáng
Ngọc báu chói lọi, Thể đoan đoan
Mặt mắt xanh biếc, thân rực lửa
Con tán lễ Văn Thù Sư Lợi
_Một vị Cam Lộ (Amṛta) nhu nhuyễn sâu
Âm thanh vào ý, tiếng vang lừng
Tạng báu của Diệu Pháp chân thật
Con tán lễ Văn Thù sư Lợi
_Thế Giới Sa Bà (Sahā-lokadhātu), tất cả nơi
Ai đo lường được số giọt mưa
Phiền não nhiễm dơ đều vứt bỏ
Con tán lễ Văn Thù sư Lợi
_Quán mắt, màu thân của Văn Thù
Cũng như Mạn Đà (Mandāra: hoa Mạn Đà La) quán không chán
Các Pháp dùng bát (Pātra: cái bát) trì cúng dường
Con tán lễ Văn Thù sư Lợi
_Trụ các cõi Phật khắp mười phương
Âm thanh rộng lớn thường khen ngợi
Bản Sư tối cực của hữu tình
Con tán lễ Văn Thù sư Lợi
Con khen ngợi Thánh Giả Văn Thù
Các Phước Thiện đã gom như vậy
Cho hết hữu tình trong Pháp Giới
Mau chứng đường chính của Niết Bàn
*)Kệ buồn thương thỉnh nhiếp nhận:
_Quy mệnh Đế Võng (lưới võng của Trời Đế Thích) tận ba đời Tam Bảo không tận, ai niệm thương?!…
Nhiếp nhận Đế Vương tăng Phước Thọ
_Bảy Phật, Tổ Sư, Đại Thánh Chủ
Văn Thù Bồ Tát rũ niệm thương
Nhiếp thọ Thí Chủ tăng Phước Thọ
_Mâu Ni Bảo Tích Đại Từ Tôn
Văn Thù Bồ Tát rũ niệm thương
Nhiếp thọ Đệ Tử tăng Phước Thọ
_Quả thành Đại Thánh Chủ đời trước
Văn Thù Bồ Tát rũ niệm thương
Nguyện con đắc được Vô Sinh Trí
_Diệu Cát Tường Tôn, Đại Thánh Chủ
Chúng Thánh Hải Hội rũ niệm thương
Nhiếp nhận hết thảy chúng Hội này
_Nguyện trừ Chướng Nhân ác (Akuśala-hetu) của Ý Trong đường vừa Ý, ai dẫn bày?!…
Chướng Trần Sa Hoặc đều được trừ
*)Kệ phát Nguyện:
_Dùng căn lành này, nguyện thành Phật
Thành xong, hoại các oán lỗi lầm
Trong biển khổ: sinh, già, bệnh, chết
Rộng độ các hữu tình luân hồi
_Chưa đạt Chân Lý, nơi sinh ra
Nguyện được gặp Chính Nhàn Biện Vương
Tinh tu Tam Học (Giới, Định Tuệ) được thuần thục
Luôn thường lợi tha (lợi ích cho người khác) chẳng chuyển lùi
_Hết thảy tất cả các Như Lai
Cứu Cánh Bồ Tát, các Thanh Văn
Pháp lìa bụi dơ, được bền chắc
Các nơi Bồ Đề, luôn cung kính
_Cầu tu Pháp màu nhiệm đáng khen
Thơm phức bày xa mười phương cõi
Nếu thành Cứu Cánh Chính Giác thời
Luôn thường phụng hiến nơi cúng dường
_Hay làm chủ nương nhờ quy thuận
Khiêm cung, kính ngưỡng người đủ Đức
Nơi Chính Giác Tri Thức như vậy
Nguyện con luôn luôn được gần gũi
Phước Đức củng cố như Tu Di (Meru)
Tính Tuệ sáng tỏ, nhật nguyệt chiếu
Danh tiếng vang xa tực hư không
Như ba loại này, thường nguyện thành
Sống lâu trăm tuổi, dạo trăm Thu (100 mùa Thu)
Không bệnh, hưởng dùng được tăng trưởng
Quyết định sinh ra mầm Đại Thừa
Như năm loại này, thường nguyện thành
_Hết thảy Hoài Độc (loài có Tâm độc ác) đến nơi này
Hoặc trên mặt đất, hoặc hư không
Thường cùng chúng sinh khởi Tâm Từ (Maitra-citta)
Ngày đêm y thời, tu Diệu Pháp
*)Kệ sáu Ba La Mật:
_Các vật đời này như huyễn hóa
Nhận, cho, hay buông đều trống rỗng (Śūnya: không)
Như vậy bố thí, tùy nơi được
Bố Thí Ba La (Dāna-pāramitā: Bố Thí Ba La Mật Đa) đều viên mãn
_Giữ vững Cấm Giới (Saṃvara) lìa nhiễm dơ
Đầy đủ thanh tịnh, không chỗ phạm
Lìa nơi lấy dính của Cấm Giới
Trì Giới Ba La (Śīla-pāramitā: Trì Giới Ba La Mật Đa) đều viên mãn
_Thân này: đất, nước và lửa, gió
Bốn Pháp hòa hợp Bản Tính rỗng (Śūnya: không)
Mọi loại gia hại, không giận dữ
Nhẫn Nhục Ba La (Kṣānti-pāramitā: Nhẫn Nhục Ba La Mật Đa) đều viên mãn
_Tinh tiến không bờ, quyết định tu
Lười biếng, chướng dơ… chẳng thể xâm
Thân Tâm đầy đủ sức như vậy
Nhẫn Tinh Tiến Ba La (Vīrya-pāramitā: Tinh Tiến Ba La Mật Đa) đều viên mãn
_Như huyễn, như hóa, các Đẳng Trì (Samādhi)
Chính Thọ (Samāpatti) dũng mãnh không có sợ
Giống như Tam Muội của Kim Cương
Thiền Định Ba La (Dhyāna-pāramitā: Thiền Định Ba La Mật Đa) đều viên mãn
_ Ba Thoát Môn (Trīṇi-vimokṣa-mukhāni: 3 Môn giải thoát): Không (Śūnyatā),
Vô Tướng (Animitta), Vô Nguyện (Apraṇihita)
Ba đời bình đẳng một vị thật
Thể đạt các Giác, Lý Như Như
Trí Tuệ Ba La (Prajñā-pāramitā: Trí Tuệ Ba La Mật Đa) đều viên mãn
_Điều mà các Như Lai đã nói
Ánh sáng rực rỡ, sức Uy Thần
Bồ Đề Dũng Thức (Bodhisatva), sức tinh tiến
Nay điều con nguyện đều thành tựu
*)Văn Hồi Hướng:
_Quy mệnh Cát Tường Trí Dũng Thức
Thuyên diễn nghĩa sâu Khổ chân thật
Nay con đọc tụng, cho chúng sinh
Đồng được Cát Tường Kim Cương Trí
_“Nại ma, la đắc-nại đắc-la dã dã. Nại ma, mạn ni thất-lý anh, cô ma la, mạc đát dã. Đát niết đạt: Án, a la tinh, mịch la tinh, thục ninh, mịch thục ninh, thương nại nỉ, mịch thương nại nỉ, thương nại dã, mịch thương nại dã, mịch ma lệnh, tạt dã oát, hình, lỗ lỗ, tạt lệnh, hồng hồng hồng, phát phát, toa ha. Án, ách hồng, ha la bạt tại nại, nịch”
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ MAÑJUŚRĪYA-KUMĀRA-BHŪTĀYA
TADYATHĀ: OṂ_ ARAJE VIRAJE_ ŚUDDHI VIŚUDDHI_ ŚODHANI VIŚODHANI_ ŚODHYA VIŚODHYA_ VIMALE CAYA VĀHIN_ RURU
CALE_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ_ SVĀHĀ
OṂ ĀḤ HŪṂ_ ARAPACANA DHĪḤ
_“Anh, nại linh-ma, hình các, bất-la mạt oát, hình các, đính thiện, đát đạt át đa, hiệt mạt nại-đát, đính thiện, tạt dưỡng, nỉ lãng nại, anh hoàn, oát nịch, ma ha thật-la ma nại, anh”
*)YE DHARMA HETU PRABHĀVA HETUN
TEṢĀṂ TATHĀGATO HYA VADATA
TEṢĀṂ CHAYO NIRODHA
EVAṂ VĀDI MAHĀ-ŚRAMAṆAḤ YE
_Văn Thù Bồ Tát Ngũ Tự Tâm Chú:
“A la bát tạt nại”
*) A RA PA CA NA
*)OṂ_ĀḤ HŪṂ
_Kim Cương Đỉnh Kinh Ngũ Tự Chân Ngôn Thắng Tướng nói rằng: “Nếu người vừa mới tụng 1 biến thì như tụng tám vạn bốn ngàn mười hai Vi Đà Tạng Kinh. Nếu tụng 2 biến thì Văn Thù, Phổ Hiền đi theo gia bị, Hộ Pháp Thiện Thần ở ngay trước mặt người ấy
Lại kẻ trai lành, người nữ thiện có thể trì tụng Chân Ngôn này. Vừa mới tụng 1 biến liền nhập vào tất cả Pháp bình đẳng của Như Lai, tất cả văn tự cũng đều bình đẳng, mau được thành tựu Ma Ha Bát Nhã.
Lại nếu tụng 1 biến thì hay trừ tất cả nạn khổ của Hành Nhân. Nếu tụng 2 biến thì trừ diệt tội nặng trong ức kiếp sinh tử. Nếu tụng 3 biến thì Tam Muội hiện trước mặt. Nếu tụng 4 biến thì Tổng Trì chẳng quên. Nếu tụng 5 biến thì mau thành Vô Thượng Bồ Đề
Nếu người một lòng, ở một mình nơi nhàn tĩnh, dùng chư Phạn viết Ngũ Tự Luân Đàn, y theo Pháp niệm tụng đủ một tháng xong thì Mạn Thù Bồ Tát liền hiện thân ấy, hoặc ở trong hư không diễn nói Pháp Yếu. Lúc đó, Hành Giả được Túc Mệnh Trí, biện tài vọ ngại, Thần Túc tự tại, thành tựu Thắng Nguyện, đầy đủ Phước Trí, mau hay đều chứng Pháp Thân của Như Lai. Chỉ cần Tâm tin nhận, trải qua 16 đời, quyết định thành Chính Giác Luân Tự Quán Môn y theo Thầy vâng nhận
_Hết_
13/02/2017