KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ soạn tập.
Hán dịch: Sa-môn Nhật Xưng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 1

Cúi đầu lễ chư Phật
Cùng Bồ-tát, Thánh chúng
Hay dùng mắt trí tịnh
Dẫn dắt khắp quần sanh
Đế Thích đủ ngàn mắt
Đại Tự Tại ba mắt
Và ánh sáng nhật nguyệt
Đều không thể soi khắp
Na-la-diên hai mắt
Biến hiện các hình tượng
Hàng phục A-tu-la
Nương kiêu mạn sân hận
Chỉ Phật đủ trí sáng
Diệt ác, trừ tối tăm
Như dùng lông chim công
Phủi bỏ các độc bẩn
Như Lai, đại trượng phu
Đảnh bày tướng bạch hào.
Xoay quanh hữu bảy vòng
Giống như hình trôn ốc
Nhuần thắm rất khả ái
Trời, trăng cùng đèn sáng
Lu mờ đều không hiện
Chư thiên và người đời
Đều cúng dường ngợi khen.

Đã nghe những lời dạy này, ý muốn làm gì?” Phải đối với lời Phật dạy tôn trọng vui thích. Ánh sáng của trí kia như ánh đèn chiếu xa có thể phá trừ ngu si, bóng tối ngăn che, nên khai mở mắt trí của Phật. Giống như đám mây lớn thường rót mưa cam lồ. Như ánh trăng tròn mùa thu thường dứt trừ nóng bức. Rốt cuộc nhận giữ chánh pháp của chư Phật, tăng trưởng hết thảy trí tuệ của chư Phật, quyết định thành tựu Căn, Lực, Giác chi. Dứt trừ hai loại sóng gió Nghiệp, Hoặc. Không bị đắm chìm trong bể ái. Nương thuyền chánh pháp đi đến bờ bên kia. Ở nơi các hạnh, Thí v.v.. nên khéo tu tập. Lấy các vật quí báu đem bố thí để phá trừ lỗi Tham, thêm lớn nghĩa lợi. Vui giữ tịnh giới, đọc tụng kinh điển. Đã làm những việc như thế rồi, Tỳ-kheo các ông, ở nơi lọng phước kia, sẽ mau chóng được viên mãn.

Như lời Phật dạy, ở nơi mười nghiệp thiện, sao không tu tập? Tâm bị tham sai khiến, gìống như đứa đầy tớ, thân đắm chấp dục lạc, không hiểu lẽ vô thường, luôn luôn tìm cầu không có ngừng nghỉ. Do vì ngu si mà sanh Ngã mạn. Đối với tiền tài vật báu của mình keo kiệt thâu giữ. Thấy những người đến xin quay mặt bỏ đi. Chưa từng, trong chốc lát, nơi tĩnh xứ, vắng vẻ, giữ gìn tịnh giới tu tập các Thiền định, các hạnh lợi ích hữu tình như Phật giảng dạy Ông đối với những điều đó, không được điều nào.

Lại tiền tài, của báu này làm tăng trưởng kiêu mạn, trạo cử, tán loạn, khởi lên nhiều nỗi lo lắng, buồn phiền, sanh ra các sự sợ hãi, ngăn che nẽo thiện. Đây la pháp hủy hoại, phá tán, là pháp đọa lạc, là pháp vô thường, không có chủ tể, không có chỗ quy hướng đời trước, đời sau, đều không thể được. Hiện tại vui ít, sát na không dừng giống như cảnh mộng, dợn nắng, huyễn hóa, thành Càn-thát-bà và vòng lửa xoay tròn. Như cây chuối kia ở giữa không có thật. Như bọt trên mặt nước, chốt lát tan hoại. Người ngu không rõ, mọi thứ đều mong giữ lấy. Do vậy, khổ nhiều vui ít, chứa nhóm hết thảy căn bản phiền não. Cho nên phải khởi tưởng không bền chặt, khởi tưởng vô thường. Nếu đối trị như thế thì không bị giặc cướp, nước, lửa, quan lại, thân thuộc xâm chiếm, tổn hại. Cũng không bị Diễm-ma-la vương kia ăn nuốt, mà đời sau, nhất định thành tựu phước báo an vui, hạnh phúc. Do dùng tài thí gồm thâu các hữu tình, người này cùng hoa Cô-mâu-na kia khai nở tươi tốt hưng thịnh, được mọi người vui thích trông thấy. Hết thảy tội chướng tích tụ hiện hữu, tiêu diệt trong sát na. Giống như ngọn lửa mạnh, đốt cháy củi khô, không còn có dư sót. Như nước sông Hằng, rửa sạch các cấu nhiễm thảy đều được thanh tịnh. Như châu Ma-ni, tùy theo ý muốn mà được thành tựu. Những người đến xin đều khiến đầy đủ, đều cùng khen ngợi. Đây là chỗ nương tựa, tạo sự an lành thù thắng, công đức chơn thật, tiếng tốt lưu hành vọng xa, lìa các tội lỗi, thọ mạng lâu dài. Nếu rộng tu phạm hạnh thì có thể phá trừ các độc tham, sân, si, các lỗi tà kiến v.v.. cỡi xe công đức, trọn không bị đọa lạc. Nếu tâm nhiễm ô đắm chấp nơi cảnh dục, tạo tác hắc nghiệp rồi, thì như thiên tử Nga-ma-na-ta-la, mau chóng biến đổi, tàn tạ. Nên biết người nữ, bày rõ xấu ác rất đáng nhàm chán. Hữu tình ngu si, tranh giành tham đắm. Kẻ tham đắm dục này ví như người khát nước kia, uống nước mặn, tâm không dừng đủ. Như chặt gốc cây, không lâu sẽ khô héo. Như dòng thác trên núi đổ xuống, không thể đắp đê ngăn chận. Như ở trong hang rắn sẽ bị nó cắn đốt truyền nọc độc. Như hòn sắt nóng, chạm vào sẽ sanh nóng khổ. Như ăn trái độc, sau nhất định sẽ bị tổn hại. Như sương móc đọng trên cỏ lá, không thể ở được lâu. Như đám mây nổi trên trời, hốt nhiên tan mất. Như lấy cát làm thành thì sẽ mau chóng hủy hoại. Như lấy đất chưa nung làm đồ dùng, thể của nó chẳng bền chắc. Như cây cung của Đế Thích, không lâu sẽ ẩn mất, như cỡi xe hư, động liền nghiêng đổ. Giống như mắt lưới, đụng vào bị trói buộc. Hết thảy tai nạn, lấy làm bạn lữ, vì thế bậc Chánh sĩ cần phải lìa bỏ.

Lại, đức Thế Tôn nói: “Nếu đối với năm dục không sanh tham đắm, thì hiện tiền sẽ có được vô lượng quả báo an vui. Vị kia sẽ cắt đứt dòng nước dữ phiền não, cỡi thuyền chánh pháp, để đến bờ kia. Ta ở trong ba đại a tăng kỳ kiếp, tích tập phước hành, mới có thể đạt được sự biện luận nghĩa vị phong phú, vì các chúng sanh khai thị một cách bình đẳng. Các ông phải đi đến vắng vẻ, vắng lặng, nghiên cứu, tư duy, xét chọn những điều ta đã dạy. Như ở trong sữa tìm cầu vị tô, lạc, đề hồ. Đã biết như thế rồi, hãy tích tập pháp tài và những vật thanh tịnh để dùng bố thí.

Lại các đức Như Lai đã thoát ra khỏi bùn dơ phiền não trong tam giới, thành tựu thắng đức vô lậu thanh tịnh, phương tiện chỉ bày pháp tri túc. Như trong vườn rừng đẹp đẽ, người ở cảm thấy mát mẻ, lìa các phiền não. Khéo tu hạnh này, sẽ được sanh lên cõi Phạm Thiên. Ta ở chốn này, hết thảy phiền não không thể loạn động, hết thảy sợ hãi thảy đều đoạn trừ. Do duyên cớ này, phá trừ vòng luân hồi, được thành Chánh Giác.

Lại, các đức Như Lai, đại bi ứng hợp nhau, thường giỏi hàng phục hết thảy ngoại đạo. Dùng trí thanh tịnh, quán sát, xét chọn; dùng lời nói êm dịu thâu nhận dạy dỗ, thí cho sự vô úy, Vì thuyết chánh pháp, khiến phát sanh tin hiểu, phá trừ lưới ma, ở trong Phật pháp tâm được an trụ. Là bậc đại trượng phu, cất tiếng gầm sư tử; như Voi chua lớn, uy đức tôn quý riêng mình, nổi lên mây sấm lớn rót xuống mưa cam lồ; Giới Định vô lậu, hương thù diệu huân tu, mọi việc làm hiện hữu đều không uổng bỏ. Vì các chúng sanh, tuyên thuyết pháp chánh yếu, lìa các phiền não, khiến chúng an vui. Như cây kiếp ba, nở hoa xinh xắn, như pháp dược tối thượng, trừ sạch cáu bẩn của tâm.

Như đức Thế Tôn nói, người trì tịnh giới sẽ có thiện pháp, lìa xa lo lắng, sợ hãi, có được cái vui an ổn, có thể vượt qua biển khổ, sang đến bờ kia, khéo trừ diệt bốn ma. Đó là ma Thiên, ma Uẩn, ma Tử và ma Phiền não. Người này hay thổi loa pháp lớn, đánh trống pháp lớn, đốt đuốc pháp lớn tâm hoan hỉ, thanh tịnh, làm lợi ích hết thảy, giáo hóa hàng Trời, người, vì làm Phật sự.

Lại các đức Như Lai, trong vô lượng kiếp, chứa công, bồi đức, tu tập trí tuệ mà có thể thành tựu biện tài vô ngại, bốn pháp vô sở úy, mười loại trí lực, phương tiện thông đạt pháp phần Bồ-đề, thường dùng tên trí tuệ, trừ diệt các ma oán. Đã hiện tiền chứng đắc các công đức như thế rồi, ở trong tam giới thật là bậc nhất, vì chúng hữu tình làm đấng cha lành vô thượng.

Lại, các đức Như Lai, do đầy đủ mười loại Trí lực thù thắng lam hóa độ các ngoại đạo đệ tử. Đối với trí tuệ, giới luật của Phật, sanh khởi sự ưa muốn sâu sắc, chứng Thánh quả đầu tiên là Kiều Trần Như. Có thể khơi mở màng mắt ngu si, ám độn, ở trong chánh pháp rất là thù đặc, là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Ở trong các Phạm chí lam bậc thượng thủ, uống thuốc pháp Phật, chữa lành bệnh phiền não là tôn giả Xá-lợi-tử. Có thể dùng móc câu trí tuệ, chế phục tâm vọng cuồng dại như voi say, có đại thần lực là Tôn giả Mục-kiềnliên. Tu tập đầy đủ thắng hạnh, bước lên thang pháp Phật, ở yên nơi lầu gác giải thoát thanh tịnh là A-nậu-lâu-đà, Tân-đầu-lô, Phả-la-đọa-xà, Ma-ha-câu-hi-la, A-nan-đà v.v.. Lại có thể hóa độ vua Tần-bà-sa-la tin hiểu sâu xa pháp Phật, tôn trọng cung kính, lam đệ tử Phật, các bậc Thánh giả này đều dùng búa trí tuệ đốn cây duyên sinh, lìa các vọng niệm cầu Nhất thiết trí, xả bỏ kiến chấp của ngoại đạo, hàng phục, diệt trừ ngã mạn; đều có thể thành tựu hết thảy công đức.

Hoặc quán xét bốn đại như độc xà, năm uẩn như xóm làng không người, vọng chấp cho là chủ tể thì không thể giải thoát. Phải dùng gươm tuệ cắt đứt vọng niệm này.

Lại mắt trí tuệ xem xét cảnh giới sáu xứ giống như giặc thù, mười hai xứ v.v.. giống như rừng gai. Người nhận thức đúng đắn không bị lửa dữ phiền não trong ngoài thiêu đốt, bức bách. Người này hẳn là khéo gìn tịnh giới, trụ vào nhẫn nhục địa, được Niệm xứ phần, đầy đủ ánh sáng trí tuệ, phá trừ bóng tối vô minh. Vị kia thường uống nước tám thánh đạo, lại thường khai mở hoa Bồ-đề phần. Đây tức có thể vượt lên lầu gác ba đời, đoạn trừ các hữu kiết sử, vào biển trí tuệ, ở nơi đạo tràng Bồ-đề, kiết già phu tọa, khéo an trú trong thắng định vô lậu của Bốn thiền, thọ dụng hết thảy pháp lạc vô thượng.

Lại những kẻ ngu mê hủy hoại phần pháp thiện, vui đắm cảnh giới năm dục của thế gian, như gió chạm sương móc, không thể tồn tại lâu dài. Lênh đênh trên biển khổ, không được giải thoát, thấy cầu chánh pháp lại bỏ mà rời xa.

Như trong kinh nói: “Xưa có một trưởng giả dòng Bà la môn muốn dùng gươm nhọn sát hại một người con gái kia. Cô này chợt trông thấy đức Như Lai, lớn tiếng kêu lên xin Phật cứu giúp, liền được thoát nạn. Lại như Ương-quật-ma-la, muốn sát hại mẹ v.v… Lại có thể hàng phục Phạm chí Trường Trảo, khởi đại ngã mạn, khiến nhập pháp Phật, thưởng vị chánh pháp. Cũng khiến cho hết thảy người ngu si, sau khi nghe những lời này rồi, xả bỏ kiêu mạn. Cũng như rồng dữ, trong lòng chất chứa nỗi buồn bực, nóng bức, phun ra khí độc hung dữ lam tổn hại lúa mạ. Lại như quỷ Dạ xoa dùng mắt hung ác nhìn trăm ngàn chúng sanh khiến cho bị tổn hại. Như những thương nhân chìm đắm trong biển lớn, bị loài cá dưới đáy sâu muốn ăn nuốt liền. Các tai nạn hiểm ác đáng sợ như thế, chỉ đức Như Lai là có thể cứu độ.

Lại như mặt trời, mặt trăng sợ A-tu-la, chủ trời Đế Thích sợ đọa vào cõi ác, Phạm vương dị chấp, chấp ngã là thường. Những kiến chấp như thế là những nhận thức không chân thật, luân hồi qua lại, thọ lãnh những nỗi khổ bức bách, khiến nghe chánh pháp, thảy đều được hiểu biết, uống vị giải thoát. Phá vỏ vô minh, ánh sáng trí tuệ của kia như trăng trong sáng. Cho nên phải, sanh tâm tôn trọng sâu xa, lời dạy của

Như Lai gần gũi pháp sư, vui nghe chánh pháp, suy xét nghĩa lý chơn thật, như lời dạy vâng làm. Giáo pháp của ngoại đạo kia là Pháp luân hồi, những bậc có trí phải khéo suy xét.

Lại đức Thích tôn Mâu-ni nói pháp cam lộ, là ánh sáng trí tuệ, phá tan bóng tối si mê. Như ở trên ngọn núi cao, cúi xuống nhìn muôn vật, chứa nhóm phi pháp như đắp đống phẩn, phải dùng lưới giá trí tuệ mà xúc bỏ đi. Trừ dẹp các ma oán phá bỏ cái dị luận, khiến được tỏ ngộ rồi, phát sanh tâm sáng suốt, thảy đều trừ bỏ được những phiền não nóng bức cũa thân tâm, hết thảy tội ác đều được tiêu trừ hết. Đức Mâu-ni kia nói: “Như cái bóng rộng lớn của cây dù, ngăn che mặt trời phiền não mà được mát mẻ. Nếu có thể họa vẽ tạo tác tượng Phật, dùng hương, hoa, tràng hoa theo khả năng mà cúng dường, sẽ là thềm thang sanh thiên dần dần. Vì nương theo lời Phật dạy những nghiệp chướng hiện hữu, sẽ được thanh tịnh trong Sát na, thiền định giải thoát đều được hiện tiền. Chẳng phải như ngoại đạo, một đời bỏ uổng, không hề tu sửa, khởi nhận thức vọng, nương nước sông Hằng, tắm rửa mong cầu giải thoát. Đã biết như thế rồi, phải mạnh mẽ vượt qua cảnh giới cũa ma, nắm giữ gươm tuệ phá trừ giặc phiền não, hủy hoại bánh xe sanh tử, xé rách lưới triền cái, làm mắt trí đủ sạch, diệt trừ bóng tối ngu si, dứt tâm tham ái, hàng phục rắn độc sân khuể, đoạn trừ các tà kiến, xô dẹp núi ngã mạn. Đối với sanh xứ cũa Phật yêu thích tôn trọng, rải hoa Ta-la mà cúng dường, mọi mong cầu đều được thành tựu như ý, xa lìa những sự chê bai, giải thoát khỏi các sự sợ hãi, an trú vào chánh lý chân thật cũa chư Phật lìa tướng sanh diệt, được vui tịch tĩnh. Phải nhất tâm vui muốn nghe pháp.

Tôi nghe như thế này, một thuở nọ Phật ở tại thành Xá-vệ, nơi khu vườn Kỳ-đà, Cấp-cô-độc bấy giờ trong hội chúng có hai ngoại đạo là đại tiên Ca-tỳ-la và đại tiên Ô-lô-ca. Hai vị này xả bỏ tà kiến cũ, tin hiểu Phật trí, khéo trừ diệt si ám có thể vượt qua biển khổ, khởi suy nghĩ thế này: “Thế nào đức Như Lai thành tựu được công đức lọng phước rộng lớn thanh tịnh như thế này, sắc tướng thù diệu, uy nghi đĩnh đạc như Tu-di, ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp tùy hình hiển hiện rõ ràng, đoan nghiêm không gì sánh bằng, hết thảy trần cấu đều không thể nhiễm. Hiện thân một trượng sáu quang minh sáng rỡ, hết cõi hư không hoặc ẩn hoặc hiện, không cõi nào không nhìn thấy khắp. Mắt như lá hoa sen xanh rộng lớn. Tướng bạch hào ở giữa hai mi mắt như trăng tròn mùa thu. Mặt sáng sạch nhuần thắm, vi diệu khả ái, tóc màu xanh biếc như lông chim công. Tướng đảnh đầy phẳng như lọng của vua trời Đế Thích. Tướng nhục kế thanh tịnh như châu ma ni. Toàn thân sắc vàng đều vui thích nhìn, Ví như bầy ong hút lấy hương hoa thù diệu. Mỗi mỗi tướng tốt nhìn không chán mắt. Như mùa xuân nở hoa Câu- tô- ma. Lúc bấy giờ, đức Như Lai như những suy nghĩ trong lòng của những ngoại đạo kia, dùng mắt tuệ thanh tịnh, quán sát hết thảy chúng sanh trong vô lượng vô biên thế giới kia, sanh tâm thương xót mà dạy rằng: “Thiện nam tử các ông! Ta ở trong ba đại a tăng kỳ kiếp, tu tập vô lượng chánh hạnh thanh tịnh, chứa nhóm vô biên phước trí rộng lớn, chẳng phải dùng một ít nhân lành mà đạt được. An trụ trong tạng báu công đức vô tận, dùng tâm đại bi, quyết định cứu giúp vô lượng trăm ngàn chúng sanh trong địa ngục. Lìa tưởng oán thân, thảy đều khiến trừ khổ đau.

 

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HẠNH SỞ TẬP

QUYỂN 2

Bấy giờ chủ trời Đế Thích, đầu đội mũ báu thù diệu bằng châu ma ni, từ cõi trời Đao Lợi đi đến chỗ Phật, thấy thân tướng Phật, các đức trang nghiêm, tâm vô cùng hoan hỷ, được điều chưa từng có, đầu mặt kính lễ sát chân Phật, Thế Tôn, dùng âm thinh thật vi diệu xưng dương công đức Phật: “Nếu các chúng sanh thấy tướng tốt Phật, phát tâm hy hữu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì có thể phá trừ được bốn loại nghiệp ma thành tựu nghĩa lợi, đạt được sự tốt đẹp to lớn. Trời, người các ngươi và các ma phạm, đều nên đến đây, hầu hạ đấng vô thượng tôn. Lúc ấy có các vị đại tiên giữ ánh sáng: “Nhật, Nguyệt thiên tử và các tinh tú; Thủy thiên, Hỏa thiên, Đa văn thiên. Diệm ma thiên, Đại Phạm Thiên, Lực kiên thiên, Na-la-diên-thiên, Bát-la-nữma-na thiên v.v.. cùng các Long thần, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Tất lệ đa Tỳ-xá-già, Tắc kiện đà v.v.. các chúng như thế đều cùng nhất tâm, cúng dường, lễ bái, tán thán công đức của Phật: “Là bậc xuất thế gian, Trí tuệ bậc nhất, tên gọi rộng lớn, không ai không nghe biết. Xá-lợi-phất v.v… các vị Thanh văn lớn, đều không thể hiểu rõ cảnh giới trí tuệ của Ngài. Từ đảnh Tô-di-lô đến trời Sắc cứu cánh, hết thảy chúng hữu tình đều cùng nhìn kỹ đức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, pháp mà Ngài tuyên thuyết, ngôn từ không hư dối, đầu, giữa, sau đều thuần thiện, lời lẽ khéo léo, nghĩa lý sâu rộng, có thể phá trừ ngu si ám độn của những chúng sanh vô trí ít nghe. Khiến cho những kẻ kia khi đã nghe rồi, sanh khởi sự giác ngộ rộng lớn, vui thích tu tập chánh hạnh, tăng trưởng tuệ mạng, nhất định được thoát khỏi nỗi sợ hãi về cõi ác, mở được cổng thành rộng lớn Niết-bàn, thể nhập vào cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn.

Trong kinh này nói nhân đầu tiên của lọng phước. Lam sao biết rõ?” Đã nghe những lời dạy này rồi, rộng hành hạnh bố thí thanh tịnh, giữ vững giới cấm, đối với dục lạc thế gian, không khởi lòng yêu thích, các lợi ích thiện có được đều sanh tâm tín thuận, tu tập như thế sẽ chóng được thành tựu. Ví như có người, ở trong đêm tối, cầm bó đuốc to, vào trong nhà lớn, ở trong chốn kia đều được thấy rõ. Những kho tàng châu báu có trong đây, vô số các loại, hoặc tinh hoặc thô, mỗi mỗi đều hiện rõ, thảy đều có thể thọ dụng, được cái vui an ổn. Hoặc lại có người, thọ trì đọc tụng, theo kinh này, vui nghe nghĩa sâu, gần gũi pháp sư, tư duy như lý, tâm sanh giác ngộ. Nên biết người này có thể ở trong đêm dài sanh tử, cầm đuốc tuệ lớn, vào thành Niết-bàn. Đối với pháp thâm diệu hoặc lý, hoặc sự, thảy có thể hiểu rõ, đều được thông đạt, lìa các nghi hoặc, phá trừ si ám, thoát khỏi luân hồi tâm được giải thoát, còn có thể thọ dụng pháp lạc vô cùng.

Như đức Thế Tôn nói: “Thế gian hữu lậu, không sanh ra thắng tuệ; chỉ đèn chánh trí, mới có thể trừ si ám. Cho nên bậc trí phải cầu chánh pháp vô lậu, xuất thế. Đối với giáo pháp tương ưng với khế kinh, luận nghi Phật thuyết, phải khéo quán sát. Như chúng hữu tình tạo phước, phi phước đều thọ quả báo, nhất định không lầm. Nên biết thế gian đều do nhân duyên sanh. Nếu không có chúng sanh thì không có phiền não. Nếu không có phiền não thì không có địa ngục. Cho nên ta nay nói pháp nhân duyên, chẳng giống như những kiến chấp tà dị của ngoại đạo: “Không nhân, không duyên, sanh hết thảy pháp. Họ chấp rằng gai nhọn là do ai vót?” Sắc lông của cầm thú thì được ai vẽ?” Việc này hiển nhiên, đâu mượn nghiệp nhân?” Do đây mà biết, mọi vật tồn tại trên thế gian vốn sinh ra từ tự nhiên không cần phải tu tập. Đức Như Lai biết rồi, khởi lòng đại bi, thương xót giáo hóa. Dùng ánh sáng trí tuệ diệt trừ u tối si mê của kia, dần dần khiến ngộ nhập vào trí nhất thiết trí, xả bỏ tà kiến cũ ở trong Phật pháp, tâm được giải thoát.

Ở trong kinh này nói, những lời dạy bảo của đức Phật, nói các pháp: “Bố thí v.v.. có thể giúp cho thoát ra khỏi luân hồi, được các sự an vui. Hiện thấy các loại hữu tình ở thế gian, tạo phước, phi phước, thọ quả báo khổ, vui. Như trưởng giả Cấp Cô Độc, phát tâm tịnh tín, lấy ba mươi câu chi vàng bạc châu báu dâng cúng cho Như Lai và các đệ tử, các bậc đại A-la-hán, A-nậu-lâu-đà v.v.. để tạo lập tinh xá, hưng khởi đại cúng dường, hiện đời thu được vô lượng phước báo, tiếng tốt lan xa, an vui thịnh vượng, hết thảy kho lẫm thảy đều sung mãn, bạn bè thân thuộc nô bộc, tùy tùng, đông đúc rộng nhiều đều được trọn vẹn hưởng thủ những khoái lạc thù thắng, không cùng. Ấy là do bố thí mà chiêu cảm quả báo như thế.

Lại các đức Như Lai với tâm đại bi thương xót hết thảy chúng sanh, như bậc y vương ở thế gian thường dùng lương dược chữa các loại bệnh tật thế gian như: “Trúng phong, đàm, khiến cho được lành mạnh. Đức Như Lai cũng vậy, khéo nói thuốc pháp, có thể trừ khử phiền não cội gốc, tùy thuộc của chúng sanh, khiến cho được giải thoát. Nhưng chúng hữu tình kia không có chủng tử thiện, không có tư lương, không phát khởi dõng mãnh, không cầu giải thoát, bị chứng bệnh thâm căn ba độc trói buộc. Người như thế, khó có thể hóa độ. Cho nên đức Như Lai, lòng đại bi bình đẳng, không co tưởng oán, thân, trao cho thuốc pháp khiến chúng hữu tình kia hành trì. Vì chúng mà nói các hạnh bố thí, trì giới v.v… thường phải thọ trì kinh điển thâm diệu.

Lại thân người kia thật là khó được, ví như rùa mù gặp bọng cây nổi, nên phải siêng tu mười thiện, cầu lìa bỏ khổ. Dù cho được thân người, nhưng không sanh ra ở giữa nước, các căn không đủ. Hoặc ở trong Phật pháp, tâm không vui thích. Hoặc lại sanh vào thế giới không Phật. Hoặc do ác nghiệp phải chịu quả báo câm ngọng. Miệng không thể tuyên đọc chánh pháp của chư Phật, không thể biết rõ công đức của Phật. Lại các chúng sanh bị ngu si che mờ, tà kiến mê hoặc tâm, quay lưng lại với thiện tri thức, phá hoại thuyền chánh pháp, xô đổ núi báu chánh pháp, đốn chặt rừng trí, trốn khỏi thành giải thoát, mở lối ba đường ác. Không thể hiểu biết rõ sợi dây tín của tâm thanh tịnh, không thể dựng lên cờ pháp chân thật. Và đấy la thiêu đốt cung điện trên cõi trời. Tích tụ tài vật của báu rộng lớn ở thế gian, tự ỷ mình giàu có, khởi tâm đại nga mạn, vô trí ngu si, không khéo quán sát, không tu huệ thí, cũng không thọ dụng, vì keo kiệt; chấp giữ bóng mặt trời không hiểu thân này là chỗ khổ già, bệnh, chết thường theo đuổi, tạo tác những nghiệp ác, không thường phát lồ. Kẻ kia trong lúc tuổi trẻ, sắc lực sung mãn, thân hình tươi nhuận, tắm rửa sạch bụi bẩn, thường sanh tâm yêu thích. Kịp đến lúc già suy, tay chân run rẩy, da dẻ nhăn nheo, khắp nổi đồi mồi, môi miệng khô cháy, hơi thở gấp gáp, tóc bạc thưa thớt, răng cỏ thưa rụng, mình sanh ghẻ chốc, da thịt teo dần, các căn u ám, bế tắc, gân mạch co rút, đầu chân gần nhau, bước đi trì trệ, chậm chạp, hết thảy thân phần giống như bị buộc giữ. Ý muốn đi đâu, phải nhờ người dìu đỡ. Ca múa vui chơi, không còn nghĩ đến, món ngon vật lạ, không còn có thể ăn, ví như muốn ăn uống, cổ không thể nuốt xuống. Mắt thấy văn tự mà không thể hiểu rõ, muốn dặn dò mà lời nói không rõ ràng. Hơi thở ra vào suy yếu, đứt khoảng, không liên tục. Nước dãi nước mắt tự động trào ra, tiểu tiện bẩn thân. Bụng trướng quặn đau, rên rỉ thảm thương, chỉ còn da bọc xương, nằm bẹp trên giường, mặt hiện tướng xấu, tâm thần hốt hoảng. Lúc ấy, có gió, thổi chạm phần thân, giống như kim châm, đau đớn không cùng. Hết thảy thầy thuốc đều chối từ, kẻ này bị vô lượng nỗi buồn lo thiêu đốt mọi thứ, ái lạc đều là cái kẻ khác có, tiền tài của cải, thảy đều bỏ sạch. Như lửa sấm sét phá hoại không sót lại gì. Không còn cảm giác, hiểu biết gì, hốt nhiên chết đi, trong sát na biến dị đổi khác, khiến mọi người hoảng sợ. Cha mẹ vợ con thân thích nội ngoại, buồn thương rơi lệ, lòng đau như xé, nối nhau kêu gào than khóc: “Bỏ tôi đi đâu” Ở nơi thế giới kia, một mình đi đến, giống như người lái buôn non trẻ, không co bạn bè, vào trong đêm tối mịt mùng, đi đến nơi hiểm nạn vô cùng, rớt xuống hầm sâu to lớn, chìm đắm trong biển khổ mênh mông. Không co lối về, không người cứu giúp, không chỗ nương tựa. Sứ giả của Diễm Ma (Diêm Vương), thần Hắc dạ mẫu trợn mắt, nhe răng, hình dạng xấu xí, trông rất ghê sợ, giận dữ quát mắng, bắt trói dẫn đi, mau như gió thổi, phút chốc đến chỗ của vua Diễm Ma. Sống không biết tôn trọng điều thiện, chết sanh về chốn khổ. Vô số dao nhọn, từ hư không rơi xuống đâm chém khắp thân hình, chặt cắt hủy hoại mọi phần thân, mổ tim, cắt lưỡi, máu thịt trộn lẫn tay chân, lóng tay lóng chân, cắt ra quăng bỏ, chỉ còn gân xương, giữ liền không rời, đau đớn vô cùng, tìm kiếm thì phiền muộn hết. Gió nghiệp được thổi lên, hốt nhiên sống lại, chịu khổ lâu dài, nghiệp hết mới được thoát.

Nếu những chúng sanh, tín thuận lời Phật, vui tạo nghiệp phước, lam lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sanh, theo chỗ cần dùng mà thường cấp cho. Với ke rét lạnh, giúp cho ấm áp, Với ke buồn bực lam cho mát mẻ. Với ke khát mệt, lấy nước suối trong cho uống. Với kẻ đói khát, cho ho thức ăn uống. Với kẻ chết đuối trên sông, giúp ho thuyền bè. Với kẻ không co chỗ ở, giúp họ nhà cửa. Với kẻ nghèo cùng, cho họ tiền bạc vải lụa. Với kẻ tranh tụng, kiện cãi, khuyên can khiến họ hòa thuận, Với kẻ độc hành, vì họ cùng lam bạn lữ. Với người bệnh khổ, chỉ họ thuốc hay, uống vào được khinh an. Với kẻ bị rắn độc cắn, chỉ họ gia trì mật chú, khiến tiêu trừ nọc độc. Với kẻ ỷ thế nga mạn, trao cho kiếm tuệ, khiến tự điều phục. Mọi người, thảy đều khiến được an ổn, vui vẻ. Nếu hay thực hiện được như thế, lam lợi lạc cho chúng sanh, hiện tại liền được phước báo như ý. Ở trong đời khác, chỉ phước nghiệp này, cùng lam bạn lữ, lam chỗ trở về, lam chỗ cứu giúp, lam chỗ nương tựa.

Nếu các chúng sanh, tập quen nghiệp bỏn sẻn, thì đối với phước điền thù thắng, không hay thí giúp. Cho dù đệ tử của Phật như Ưu-baly, đến khuyến hóa kẻ kia, vị này tâm cũng không vui, không tin phước bố thí thường chiêu cảm quả báo an vui, chứa nhóm tội ác, sau thọ luân hồi. Ví như được lam người, thì sanh vào giòng họ hạ tiện, hoặc nhà đồ tể, hoặc nhà hốt phân, chế tạo xe, dệt vải, chài lưới, thợ làm đồ gốm, người lam nông, người dệt vải, thợ cạo tóc, thợ nhuộm, giặt áo, các chỗ không tốt, cơm áo thiếu thốn, rách rưới, lam đầy tớ giúp việc cho kẻ khác, tay chân nứt nẻ, rách nát, khổ cực nhiều, mong cầu nhiều. Suốt ngày không chút thảnh thơi nhàn hạ, lại bị đau bệnh trói buộc, ghẻ hủi, ung nhọt, bệnh trĩ, ung thư, ho hen, sốt rét thổ tả, kiết lỵ, điên cuồng, nóng sốt… các bệnh như thế, bức bách lam cho thân thể đau đớn khó chịu, gầy ốm, tiều tụy, tay chân co quắp, môi miệng méo lệch, đầu tóc rối bù, hai mắt rơi lệ, xuống sắc cầu xin người, mặc áo rách rưới, kéo lê mà đi, hoặc lại rơi mất, cũng không hay biết, khi bị gió thổi, thân thể lõa lồ. Ngồi nằm trên phẩn đất, giống như là tự vui, tự nhổ tóc mình, không chút hổ thẹn. Nói với kẻ qua người lại: “Vì sao nhìn ta?” Hoặc cầm đồ bể, đi khắp trong làng, được chút thức ăn thừa, để tự nuôi sống. Vô số ruồi nhặng, tranh nhau bay đến bám hút, trong ngoài đều dơ uế. Bị mọi người nhờm ghét khinh khi. Do nhân bất thiện chiêu tập, tự mình lam việc ác lại dạy người khác lam. Người này thật là cái kho khổ não. Cho nên đức Thế tôn thường dùng tâm Đại bi, khởi niệm yêu thương với hết thảy, khiến cho chúng phát tâm, quyết định hối lỗi, khiến được giải thoát khỏi các lỗi lầm xấu ác.

Trong kinh này nói: “Chỉ tự mình tạo phước nghiệp chánh hạnh thì có chiêu cảm lấy quả báo thù thắng giàu vui cõi Trời, người. Cho nên Tỳ-kheo thọ trì kinh này, giảng dạy cho mọi người, theo kinh dạy mà tu hành thì khiến cho lọng phước của mình, người được thành tựu.

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại thành Vương xá, trong rừng trúc Calan-đà. Lúc ấy. Đề-bà-đạt-đa, vô cùng ngu si, dùng tâm độc ác lam tổn hại pháp Phật, tạo ra trăm ngàn chướng ngại nhưng không thể lam loạn động đầu một sợi lông của Phật. Ông ta bèn bảo vua A-xà-thế phải ra lệnh nghiêm cấm hết thảy người trong thành, không một ai được đi đến chỗ Phật và không cho lấy thức ăn vật uống cúng dường đức Phật. Phải biết lão Cù Đàm không co được gì, ắt phải rời bỏ chỗ này mà đi đến nước khác ở xa. Vua nghe lời này, tin tưởng, thuận theo. Lúc ấy, những vị Ưu bà tắc trong thành, sau khi biết chuyện này rồi đều than: “Khổ thay” Nay thành Vương xá không co vua” Đức Như Lai ra đời, khó được gặp gỡ như hoa Ưu đàm bát la. Cớ sao đại vương lại tin thọ tà sư, không cho chúng ta đi đến cúng dường, không cho đức Như Lai nhiếp thọ chúng ta?” Tôn giả A-nan-đà nghe những lời này rồi, liền đi đến bạch Phật. Phật bảo An-nan: “Ta đã biết trước rồi. Hà tất phải lo lắng” Ở trong pháp của ta chưa từng có một đệ tử Thinh văn nào phải chịu thiếu thốn, huống gì là thân ta?” Lúc ấy, đức Phật Thế Tôn phóng ra một luồng ánh sáng lớn, chiếu đến thành Vương xá, khiến cho đều được thanh tịnh. Người chạm luồng ánh sáng này, thân tâm đều được an vui. Khi ấy vua trời Đế Thích thấy ánh sáng của Phật, dùng Thiên nhãn xem xét, biết được nguyên nhân, bèn phát tâm dõng mãnh, hiện uy đức lớn, lam vị đại đàn việt, phát khởi sự cúng dường lớn.

 

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 3

Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn Xin Phật cứ an trú trong thành Vương-xá này, con sẽ cung cấp thức ăn, vật uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men v.v… không để cho thiếu thốn thứ gì.

– Phật nói: “Này Thiên chủ” Hãy dừng việc này lại. Có nhiều dân chúng, dùng tâm thanh tịnh đều muốn dấy khởi nghiệp phước ở nơi Ta. Đế Thích lại bạch với Phật rằng: “Chỉ mong ở đây, an cư năm Hạ thọ nhận sự cúng dường của con.

Nghe lời này xong, Phật lại ngăn

Đế Thích lại nói: “

– Con nay thỉnh Phật, cúng dường năm ngày. Rất mong Như Lai đại bi nhận lời cầu thỉnh chí thành của con. Khi đó đức Thế Tôn thương xót Thiên chủ. Vì phước lực hiện tại khiến ở đời vị lai, nhân thiện được tương tục nên lặng yên chấp thuận, Đề Thích biết Phật nhận lời thỉnh cầu, tâm vô cùng hoan hỉ, liền trở về Thiên cung triệu tập những thợ trời hay khéo, nhanh nhẹn, rồi bảo với họ: “Các khanh nên biết, ta nay muốn ở nơi thành Vương xá trong vườn trúc Ca-lan-đà, kiến lập đại tinh xá, lo liệu, sắp đặt chu đáo tứ sự để cúng dường Như Lai và các đệ tử. Các ngươi nên lấy ngọc ma ni bậc thượng, vàng bạc, lưu ly, san hô, pha le, châu báu Đế thanh v.v… đi đến chốn kia xây dựng cung điện rộng lớn, thanh tịnh, đẹp đẽ, Phải giống như trong cõi trời đều không có chỗ khác biệt. Lúc ấy, các chúng trời hết lòng khéo léo, xây dựng cung điện. Hiên mái, cột kèo, cửa nẻo, lan can thảy đều dùng châu báu, xen lẫn trang nghiêm, như ánh sáng ngàn mặt trời cùng soi chiếu lẫn nhau. Lại dùng các hình chim bằng ngọc báu kỳ diệu, các hoa cài tóc bằng chơn châu được chạm trổ khéo léo, bài trí xen lẫn khắp nơi. Đốt các hương quý, rải các hoa thù thắng, hòa quyện xông khắp, ngát thơm khắp chốn. Lại xây dựng lầu gác hai lớp cửa, cao vòi vọi, trang nghiêm, cũng dùng trăm món báu trang trí, các châu ma ni lấy lam cửa. Các trụ cột báu, mỗi mỗi đều dùng các món báu kim cương cùng hợp thành. Vô số các gương báu, sáng sạch, không tì vết, được treo trong hư không như trăm ngàn mặt trăng. Lại dùng vàng nấu chảy, lam giường ba chân. Y trời thù diệu dùng trải lên trên, lại chạm khắc thành những thiên nữ đẹp đẽ dung mạo đoan trang, cử chỉ dịu dàng, giống như thường đi qua, đi lại, tay cầm hoa sen, dùng để dâng cúng. Dùng báu pha lê lát khắp mặt đất. Lại co hồ ao, hoa sen trang nghiêm, vàng ròng lam lá, báu lục lam thân. Vô số Thiên nữ đứng ở bên trong, biểu diễn các loại kỹ nhạc để cúng dường. Cây cột cờ hiện rõ trên cao, treo các cờ phướn thêu vẽ, xoay quanh không trung, xa gần đều thấy. Lại có các lực sĩ, giữ gìn cửa nẻo, cầm gậy bằng châu báu xanh, đứng xếp hàng hai bên. Khắp nơi đều trồng hoa mạn đà la, hoa Long tự tại, hương thơm tỏa ngát, rực rỡ khắp mặt đất, lá xanh biếc lấp lánh, luôn luôn thổi gió thơm, có các vị thiên tử, hình thể sáng sạch, diện mạo tươi vui, dạo chơi, nghỉ ngơi bên dưới. Lại co các Thiên nữ xinh xắn không gì sánh, bước đi thong thả, những vòng ngọc khua vang, âm thinh hòa nhã. Các Dạ xoa nữ, vui đùa dạo chơi trong rừng, mắt nhìn khắp nơi, hương thơm còn đượm lại. Có các long tượng đi chậm chạp trong rừng giơ vòi, cắn cành cây, uyển chuyển vui đùa. Và các loại phi cầm, lông năm màu, vỗ cánh tự nhiên, miệng mổ nhụy hoa. Lại dùng lồng bằng vàng nhốt những chim anh vũ đẹp lạ, tiếng hót trong trẻo, vui tai. Lưỡi nó mỏng như lưỡi gà trong ống tiêu. Lại co nguồn sông, loài ếch nhái kinh sợ lánh xa, Lại co ao hồ trong sạch rộng lớn, bảy báu xen lẫn bên bờ lấy làm bờ bực. Nước trong hồ đầy tràn, trong lắng, không chút cáu bẩn. Hoa ưu-bát-la, hoa Cô-mâu-na, chạy dọc hai bên bờ hồ nở ngát, màu sắc chen lẫn. Chim phỉ thúy, chim tử uyên ương, liệng đậu trong hồ. Những cá đùa giỡn, qua lại, tung tăng bơi lặn, nhảy vọt lên, lật mình trên sóng. Những chim âu, cò trắng hoảng sợ bay lên. Lại có chim bói cá, chim hạc, chim le, chim nhạn cất tiếng hót véo von, mọi người đều thích nghe. Bốn mặt bờ hồ đều có cây kiếp ba, cành mềm mại đung đưa trên mặt nước, tạo ra những luồng gió mát mẻ. Cây cỏ muôn hoa, những bụi dây hoa dài, nhuần thắm trải khắp, cành lá xum xuê, hương thơm lan xa. Có những bầy ong bay dạo, tranh nhau hút nhụy, phát ra những tiếng kêu nho nho giống như tiếng ca ngâm. Lại co sông vàng bao bọc vòng quanh, chạy rót vào khu vườn, quanh co, nối liền không dứt. Bấy giờ, dân chúng thay nhau kêu gọi thân nhân, bạn bè cùng đến xem. Có các giòng họ quyền quý, giàu có, ung dung cùng kẻ tùy tùng cầm lọng trướng, diễn bày các thứ kỹ nhạc, đủ các món ngon vật lạ, dạo chơi, xem khắp, tâm không nhàm chán. Mặt đất mềm mại như bông Đâu la. Quanh co qua lại, chân đi không chút mỏi mệt. Vườn rừng rộng lớn, hồ ao thanh tịnh như thế, chỉ trừ ở cõi trời, ngoài ra không đâu sánh kịp.

Lúc này các vị trời khéo léo đã lam xong công việc bèn đi đến Thiên cung thưa cùng Đế Thích. Vua Trời sau khi nghe bẩm tấu xong, lòng rất vui vẻ, như được điều chưa từng có, liền dẫn vô lượng trăm ngàn thiên tử, trước sau vây quanh biểu diễn các thứ kỹ nhạc tiêu, địch, không hầu, đàn cầm, đàn sắt, đánh, thổi, cùng lúc đồng tấu lên. Từ trên hư không đi xuống. Khi ấy vị Thiên chủ kia, thân phát ra ánh sáng, chiếu khắp các núi, sông, thảy đều sáng rỡ. Đầu đội mũ ma ni, các báu trang nghiêm, trong suốt; ánh sáng rực rỡ như mặt trời cực sáng, diện mạo đoan nghiêm, trán rộng bằng thẳng, mắt dài xanh biếc, mũi dài cao thẳng, hai má tươi sáng hồng nhuận không gì sánh bằng. Tai đeo vòng báu, cổ rũ chuỗi anh lạc, nhẫn xuyến đều lam bằng ngọc báu càng lúc càng tỏa sáng tựa như ánh sáng ngọc kha, mặt trăng. Hình nghi đĩnh đạc, lúc nào cung như tuổi thanh niên. Dài ngắn đầy đủ, mỗi thân phần đều được xứng hợp. Dùng hương công cô ma và hương đa-ma-la bạt-chiênđàn xoa lên thân, mềm mại sáng láng, mượt mà. Ngón tay thon dài, tròn trịa. Móng tay như lá đồng. Phát ra lời nói vi diệu, khéo léo, trong trẻo, vang xa như tiếng của chim Ca Lăng, người nghe không chán. Lại dùng loại vải mịn màng bậc nhất, lấy vàng nghiền nhỏ trang sức lên trên, lấy đó lam y phục. Lại lấy các loại ngọc báu vi diệu lam dây đai thắt lưng, các loại châu báu xen lẫn tạo thành một nguồn ánh sáng. Lại dùng các loại hoa vi diệu cõi trời để trang nghiêm thân, quấn quanh rủ xuống. Bước đi bằng thẳng giống như tượng vương tiến dừng ung dung, không cần nhờ người giúp đỡ. Dân chúng đều được chiêm ngưỡng, hầu hạ. Kẻ ôm lòng sân hận liền sanh tâm hoan hỉ. Kẻ khởi tâm oán ghét liền phát lòng từ bi. Kẻ ưa thích ngủ nghỉ liền tỉnh táo. Khi đó Thiên chủ đi đến vườn kia rồi, xem xét khắp công trình, thảy đều như ý, vô cùng hoan hỉ, bèn đổi tên gọi cũ Ca-lan-đà thành tên vườn Hoan hỉ. Kế đến dùng thảm nhiều màu thượng diệu, phủ khắp mặt đất. Lại lấy vàng bạc, chơn châu ma ni, báu Đế thanh, lưu ly, châu Mạt-la-ca lam thành pháp tòa cao rộng, rồi cung thỉnh Phật, Thế Tôn an tọa lên trên. Các loại châu báu lam ghế. Để đỡ chân ghế, dùng chỉ thêu năm màu. Sắp xếp lam các chỗ ngồi, rồi vời các vị Tỳ-kheo, mỗi người cũng đến an tọa. Thiên chủ chắp tay cung kính tôn trọng tán thán, đảnh lễ chân Phật, bày tiệc đủ món ngon vật lạ trong cõi Trời. Đức Như Lai duỗi cánh tay kim sắc như vòi của tượng vương thọ nhận vật thực cúng dường. Ăn xong, đặt bát, rửa ráy, súc miệng, an trụ uy nghi, lặng yên thanh tịnh. Thiên chủ cùng các quyến thuộc sanh tâm hy hữu, vui muốn nghe pháp, tự mình ở chỗ thấp, chăm chú, lặng yên.

Lúc ấy, đức Thế Tôn dùng phương tiện lớn, vì đại chúng giảng nói pháp chánh yếu, tán thán các hành: “Bố thí v.v… chỉ dạy, lợi ích, an vui, khiến sanh tâm tín giải.

Thiên chủ cúng dường như thế cho đến bốn ngày. Vua A Xà Thế, nghe biết sự việc này bèn lên lầu cao nhất trong cung, nhìn xuống xem xét kỹ, trông thấy đức Phật Thế Tôn và các chúng đệ tử ở trong vườn Trúc Lâm, tịch tĩnh an ổn, trang nghiêm thiết lễ cúng dường, thực hiện Phật sự lớn. Lúc ấy, quốc vương sanh tâm tỉnh ngộ, hối lỗi tự trách: “Ta thật quá ngu si, vô trí, tạo tội cực nặng như núi Tu-di. Nay Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời, đầy đủ công đức thanh tịnh rộng lớn mà ta không thể tín thọ sự dạy bảo. Do nghiệp duyên này, nhất định phải đọa vào cõi khổ. Các vị Thiên tử kia, vẫn chưa xả bỏ dục lạc thượng diệu ở cõi trời, mà còn đi đến chỗ Phật, ta sao không hưng khởi những lợi ích lớn?” Tự nhủ như thế rồi, liền sắp đặt xa giá, đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, ôm lòng buồn lo, rơi lệ khóc than, ăn năn lỗi trước. Khi đó, nam nữ tịnh tín trong thành Vương xá, đều lớn tiếng xướng lên: “Lành thay” Quốc vương ở trong pháp Phật, được giác ngộ lớn. Chúng tôi nay cùng đạt được lợi ích tốt đẹp””. Bấy giờ quốc vương bèn đánh chuông, ban lệnh, triệu tập hết thảy các Đại thần, dân chúng và các quyến thuộc bảo với mọi người: “Đức Phật chúng ta ra đời, khó được gặp gỡ. Nay đã được trông thấy, phải phát tâm thanh tịnh, cung kính cúng dường, vui nghe chánh pháp”. Liền lấy đèn sáng, hoa hương thượng diệu, hương xoa thân, hương Mạt-lợi và các hoa cài tóc, châu báu, y phục, các loại trang nghiêm để cúng dường. Lam việc này rồi, tâm vô cùng hoan hỷ. Lúc này, đức Như Lai dùng tiếng Phạm âm, vì hội chúng lúc ấy, khai thị diễn thuyết pháp Tứ Thánh Đế; Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vô số người, trời nghe pháp hiểu biết, chứng được nhận thức chân thật. Lúc ấy, Phật Thế Tôn hỏi các vị Tỳ-kheo: “

Các ông có thấy chư Thiên, dân chúng, nay ở trước ta, đã thiết lễ cúng dường rộng lớn chăng?”

Các vị Tỳ-kheo chắp tay đưa lên đảnh, tán thán chưa từng có: “ – Vâng, đã thấy.

Phật nói: “Ở trong pháp của Ta, nếu người tâm thanh tịnh, đối với phước nghiệp của kẻ khác, sanh lòng tùy hỷ, nên biết người này được niềm tin bất hoại, đủ mắt trí thanh tịnh.

Này các Tỳ-kheo” Ta nhớ trong vô lượng kiếp ở quá khứ, có đức Phật ra đời, tên là Bảo Sơn gồm đủ mười tôn hiệu: “Như Lai, Ứng

Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, trụ thế thuyết pháp, lam lợi lạc chúng sanh. Thời ấy có vị Quốc vương thỉnh đức Như Lai kia cùng các đệ tử, trải qua ba tháng Hạ ở trong vương cung, dùng các loại ẩm thực, y phục, cung kính cúng dường. Từ đây về sau, dân chúng của vương quốc kia đều đến chỗ Phật, thỉnh Phật năm năm, sắp đặt các sự cúng dường, hết thảy những vật cần thiết không gì là không đầy đủ. Này các thầy Tỳ-kheo” Ý các ông thế nào?” Vị quốc vương cúng dường đức Phật thuở xưa, chính là thân Ta. Do nhân trồng trước kia, nay mới thành thục, nên được các chúng Trời, người rộng khởi cúng dường. Nhân xưa, quả nay, không mảy may sai khác. Do nhân cảm quả, quả giống như nhân. Ở nơi đây hiểu biết chân chánh trừ các lưới nghi, quả báo của nghiệp thiện ác nhất định không hư dối, giống như dòng nước mạnh, uy lực của nó không thể ngăn cản. Vì sức mạnh của nghiệp kia, mỗi mỗi đều chiêu cảm lấy quả báo. Địa giới, Thủy giới, Hỏa giới, Phong giới và các uẩn, xứ v.v… tự tạo nhân phước ắt thọ lấy quả vui. Lúc ấy, đức Thế Tôn nói kệ:

Trải qua trăm ngàn kiếp
Nghiệp kia không hủy hoại,
Lúc nhân duyên hòa hợp
Nhất định thọ quả báo.

Này các Tỳ-kheo” Đây gọi chánh hạnh lọng phước, các ông phải thọ trì, siêng tu Thí, Giới và các Thiền định. Thọ dụng lọng phước sẽ được xa lìa các mối ưu não.

Ở đây lược nêu rõ nghĩa những điều Phật nói trước, phần đầu tiên của kinh, hành tướng duyên khởi kết tập các kinh là nêu lên lời: “Như thị ngã văn”. Vì sao mà gọi la Như thị? “Vì như những điều Phật giảng nói không có riêng khác. Vì nghĩa gì gọi la Ngã?” Vì thuận theo thế tục chỉ thân hiện tại. Văn là nghĩa gì?” Đó là vì từ tai phát khởi nhận thức, hiện tiền hiểu biết hoặc văn hoặc nghĩa, lìa các lỗi đảo lộn thêm bớt. Kết tập trước hết là kinh Phạm Võng. Lúc ấy, chúng nhóm họp, gồm các vị đại A-la-hán, tất cả có bốn trăm chín mươi chín người, hết thảy Trời, Rồng, quỷ thần, mới nghe xướng lời: “Tôi nghe như vậy”, đều cất tiếng buồn khóc không thể tự kìm chế được. Chúng ta thuở trước tự thân trông thấy đức Như Lai đầy đủ Mười lực, Bốn vô sở úy, dùng Phạm âm vì đại chúng diễn thuyết, thế mà nay lại gọi la “Tôi nghe”. Nên biết là vô thường, sức không thể thoát. Lúc ấy chúng hội kia đều được giác ngộ, lìa cấu uế nơi ba độc, an trụ chánh niệm, nhận giữ không mất. Vì nghĩa gì gọi la một?” Đó là bắt đầu của số, là một đời sống Thánh, một pháp xuất ly, một chỗ đi, dừng, một phạm hạnh thanh tịnh, một tiếng giải thoát, hết thảy đều đồng nhau. Vì nghĩa gì gọi la Thời?” Vì nương theo thế tục mà lập. Việc nói kinh đã xong, đại chúng hoan hỉ, gọi la một thuở. Đức Như Lai thuyết pháp giống như mặt trời chiếu thế gian, xua tan bóng tối nơi ba cõi khiến xuất ly khỏi các ngoại đạo, ma hủy báng chánh pháp. Nay Phật hiển hiện Pháp thâm diệu hy hữu, khó được, khiến chúng hàng phục. Vì nghĩa gì gọi la Bạc-già-phạm?” Vì lẽ đầy đủ tên gọi thù thắng, rộng lớn nơi thế, xuất thế gian, không ai sánh kịp, rốt ráo siêu việt sự luân hồi các cõi, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường tốt đẹp của Trời, người. Sao gọi la thành Vương xá?” Vì dồi dào phong phú những sản vật tốt đẹp và những bậc trí có văn có hạnh, những nam nữ tịnh tín, những trưởng già giàu có, thọ dụng thù thắng. Vì nghĩa gì gọi la ở?” Vì du hóa, nương ở, lìa sự dựng lập các suy nghĩ, hoặc gần, hoặc xa, tùy ý đi đến.

 

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HẠNH SỞ TẬP

QUYỂN 4

Vì nghĩa gì gọi la rừng Kỳ Đà? Trung Quốc gọi la rừng Chiến Thắng. Theo xưa thì không dịch. Thuở xưa, vua Thắng Quân cùng với nước láng giềng đánh nhau và thắng trận. Đang lúc ấy hạ sanh Thái tử, bèn lấy việc Chiến Thắng đặt tên cho con. Vì rừng thuộc của vị thái tử ấy nên gọi là rừng Kỳ Đà. Phú quí, tự tại, vô lượng sự trang nghiêm, hết thảy dân chúng trông thấy đều vui vẻ. Ở trong rừng ấy dùng nhiều tài vật, sức người để sửa sang, giữ gìn, lam nơi vui chơi. Rừng này rậm rạp, cành lá tươi tốt. Bóng mát tỏa khắp, ngăn che ánh nắng nóng bức. Mùa hạ rất mát mẻ. Mùa đông không co giá rét. Mưa không lầy lội. Hoa thơm cỏ lạ ngát hương, khắp nơi khoe sắc. Những cành cây si nằm nép mình, hình dáng như cây dù. Có nhiều người coi giữ, không nghe tiếng trộm cướp. Chốn nầy thanh tịnh, tốt đẹp như vườn Hoan hỷ.

Do vì nghĩa gì gọi la Cấp Cô Độc? Vì đối với người không co thân nhân, lấy thức ăn, vật uống chu cấp. Như trong tạng Tỳ-nại-da (tạng Luật) nói rộng việc nầy. Vị trưởng giả ấy do năng lực của thiện căn xưa, muốn thỉnh đức Phật, cung kính cúng dường. Trước tiên xây dựng tinh xá cho đức Như Lai. Ông bèn lấy trăm ngàn câu-chi vàng ròng giá trị để mua đất của Thái tử. Đạt được ý nguyện, ông liền triệu tập hết thảy thợ giỏi khắp nơi, xây dựng lầu gác, cung điện tối thượng. Hiên mái cửa nẻo, sông suối, ao hồ, các thứ trang nghiêm, thảy đều đầy đủ. Tường thành cao vót bao bọc vòng quanh. Sau đó, vị Trưởng giả này đi đến thành Vương xá, đảnh lễ nơi chân Phật rồi thưa: “Con nay thỉnh Phật đến thành Xá Vệ, xin nguyện đức Như Lai từ bi chấp thuận. Nơi ấy có Già lam rộng lớn thanh tịnh. Đức Thế Tôn nhận lời cùng các đệ tử; đồng đến an cư. Lúc ấy, Trưởng giả thưa thỉnh xong, trở về. Cùng lúc ấy, tại thành Vương xá, có một vị Trưởng giả tên là Thiện Tịch, bạch với Phật: “Đức Thế Tôn không nên đến đấy” Con sẽ dựng lập tinh xá cho Phật. Đức Phật liền ngăn vị nầy lại, Sau đó, Ngài đi đến thành Xá vệ, Phật vừa đến, trưởng giả Cấp Cô Độc liền đem ngôi già lam đã xây dựng dâng cúng đức Như Lai. Vì thương xót Trưởng giả, Phật liền thọ nhận. Lại vì ông, tán thán chốn nầy tốt lành hơn hết, an ổn bậc nhất. Chư Phật quá khứ cũng ở nơi đây làm lợi ích, an lạc cho hết thảy chúng sanh. Ông ở nơi các Phật trước, trồng sâu cội đức. Do nguyện lực thuở xưa, nay lại lam như thế. Lúc ấy có ngoại đạo, tên là Ma-đa-tức-chí-na, ngụ trong một thảo am, tu tập khổ hạnh. Đối với hết thảy trí tuệ, ngôn luận của chúng sanh ở thế gian, thảy đều thông đạt. Vị này bảo: “Rừng Kỳ Đà thật là thù thắng tráng lệ. Vì sao đức Thế Tôn và các Tỳ-kheo lại được thọ dụng?”Phật biết được ý nghĩ này rồi, bèn dùng đại phương tiện thương xót kẻ kia bảo với ông ta: “Vì các đệ tử của Ta dứt được hết biên vực khổ, khéo thông đạt Kinh, Luật, Luận xuất thế gian, đã đoạn trừ các phiền não”. Lúc ấy, đức Thế Tôn vì ngoại đạo kia nói kệ:

Ngươi dẫu như rồng lớn
Còn bị tham nhiễm ô
Nơi hai việc khen chê
Tâm hãy còn loạn động
Thân nếu có ung nhọt
Ruồi nhặng tất theo đuổi
Xoay vần trong ba cõi
Như giòi trong bãi phân.

Ngoại đạo kia nghe Phật nói rồi, tâm sanh giác ngộ, bên dùng kệ tán thán Phật:

Như Lai bậc xuất thế
Tuệ nhật xua bóng đêm
Huống gì con trí kém
Do đâu được hiểu biết?”
Giá như trong nhiều kiếp
Lại dùng trăm ngàn lời
Xưng tán công đức Phật
Không kể hết phần nhỏ
Phật là Tiên trong trời
Biết các hành chúng sanh
Ở trong bốn uy nghi
Chỉ lợi lạc hàm linh.

Bấy giờ trong thành Xá vệ, có nhiều ngoại đạo và các Bà-la-môn, những trí giả thông tuệ nghe Phật đến đây, đều tranh nhau tới cật vấn. Đức Như Lai theo phương tiện, tùy nghi vì họ mà giảng nói như sư tử gầm làm muôn thú kinh sợ, thảy đều khiến hiểu rõ, lìa các tối tăm, ngu si. Lúc ấy có một trí giả là La-hộ-la, nghe rồi bèn tán thán công đức Phật, nói kệ:

Đấng đại bi vô thượng
Chuyên tu hạnh lợi tha
Không mong cầu danh tiếng
Cùng lợi lộc thế gian
Trước đản sinh vương cung
Nhìn xem khắp bốn phương
Hiện mĩm cười, tư duy
Đều vì cứu muôn loài.

Lại có đồng tử Diệu Tý cũng nói kệ tán thán đức Phật:

Đấng Mâu ni, đại tiên,
Khéo nói các pháp yếu
Lìa lỗi, không mong cầu
Người nghe đều được lợi
Chư Thiên và người đời
Đều cung kính cúng dường
Quy mạng đấng Thập lực
Cúi mong được thâu nhận

Rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc này, do năm nguyên nhân khiến mọi người yêu thích:

  1. Rộng lớn ở khoảng giữa của một thành.
  2. Các vị Tỳ-kheo đi khất thực không xa.
  3. Vắng lặng, xa các sự ồn ào.
  4. Sạch sẽ, không có các loại ruồi, muỗi.
  5. Bậc thiện nhân phần nhiều du hóa ở đây.

Cho nên, đức Thế Tôn rất vui thích chốn này an trụ trí như thật, lìa các hạnh không biết hổ thẹn hết thảy các công đức nương tựa mà hiển hiện, đầy đủ mười lực, phước trí trang nghiêm. Là bậc đạo sư đệ nhất của thế gian, có thể khiến thiện căn của chúng sanh được thành thục. Giống như hoa sen vươn lên từ bùn nhơ, lợi mình, lợi người thảy đều viên mãn.

Lúc ấy, vua Thắng Quân cùng dân chúng và các ngoại đạo, Bàla-môn v.v… thảy đều đi đến tinh xá Kỳ-viên, chắp tay, chí tâm đảnh lễ nơi chân Phật. Bấy giờ, đức Phật, Thế Tôn vì thương xót thâu nhận các chúng hữu tình, phá trừ các dị kiến, khiến sanh tín giải. Do nhân bất thiện nên dong ruổi, trôi nổi trong năm đường. Phải nương chánh pháp mà cầu xuất ly. Vì chúng kia, tuyên thuyết pháp sáu niệm. Này các thiện nam! Ở trong pháp của ta, tín thọ những điều dạy bảo, đủ các chánh kiến. Đấy gọi la niệm Phật. Nếu vui thích nghe chánh pháp một cách rộng lớn, tư duy như lý. Đấy gọi la niệm Pháp. Đối với các Tỳkheo thường sanh khởi ý tưởng tôn trọng là thiện tri thức. Đấy gọi la niệm Tăng. Đối với các pháp thiện, vui thích thâu nhận đầy đủ uy nghi. Đấy gọi la niệm Giới. Thường dùng vật thực cúng dường cho Phật và Tăng, trụ trong nhân như thế. Đấy gọi la niệm Thí. Thường vui thích lễ kính chư Đại Bồ-tát, thuận theo lời Phật dạy. Đấy gọi la niệm Hiền Thánh.

Nếu các chúng sanh nương theo lời Phật dạy, an trú nơi tư duy chơn chánh sẽ trừ được nghi hoặc nương tựa chánh niệm thì không tán loạn. Đây là sáu niệm sanh trưởng các điều thiện. Vì nghĩa gì gọi la Tỳ-kheo? Đó là vì thường dứt hẳn các phiền não, các khổ hiện hữu ở thế gian: “Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ưu bi khổ, năm thủ uẩn khổ, cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ. Vì các khổ như thế đều đã đoạn tận”.

Ở đây nhằm lam rõ cái khổ của năm thủ uẩn nơi thế gian mà nói như thế.

Sanh nghĩa là gì? Như đức Thế Tôn nói: Các chúng hữu tình kia, tạo tác các loại hành nghiệp chiêu cảm lấy mạng căn, uẩn, xứ, giới v.v.. lần lượt nối nhau, Năm căn phát sanh. Vì năm căn sanh, chúng đồng phận sanh, do đấy tăng trưởng, hình sắc tròn đầy. Đây gọi la Sanh.

Lão nghĩa là gì? Như đức Thế Tôn nói: “Hành uẩn biến hoại, các căn suy yếu thân hình lọm khọm, thịt xương khô héo, da dẻ nhăn nheo, sanh nhiều nốt đen, cử chỉ chậm chạp, đi đứng phải nương tựa, mệt mỏi không chịu nổi phải nhờ người trông coi, giúp đỡ. Tướng lão như thế ở đây co hai loại:

  1. Phải nhờ người giúp đỡ.
  2. Không chỗ nuơng cậy.

Đấy gọi la Lão.

Bệnh nghĩa là gì ?” Như đức Thế Tôn nói: “Tứ đại thêm bớt, Giới không bình đẳng, giống như rắn độc, sanh khởi các khổ não. Đây có hai loại:

  1. Bệnh phát khởi ở bên trong.
  2. Các duyên ngoài lam tổn hại.

Lại có ba loại:

  1. Do nghiệp báo chiêu cảm.
  2. Tai nạn bất ngờ lam tổn hại.
  3. Bị kẻ khác chú yếm.

Phân biệt chi li thì có vô so loại, đó là bệnh phong, vàng da, bệnh đàm, ghẻ lở, cùi hủi, ung thư, ho hen, dịch tả, nóng sốt, gầy ốm, đau đớn v.v.. Đây gọi la bệnh.

Tử nghĩa là gì?” Như đức Thế Tôn nói, đó là chúng hữu tình kia, xả bỏ chúng đồng phần, các uẩn tán loạn, hơi ấm dần dần nhỏ yếu, mạng căn đoạn diệt. Đây có hai loại

  1. Tự tận.
  2. Đi đến.

Loại đầu lại có ba, đó là mạng căn tuy hết mà phước báo chưa hết; hoặc phước tuy hết, mà mạng chưa hết; hoặc mạng và phước cùng lúc đều hết. Loại thứ hai, đi đến cũng có ba loại:

  1. Tự đi đến (Bắt thú dữ v.v…)
  2. Kẻ khác đi đến (Bị cướp v.v…)
  3. Mình người cùng gặp nhau (như đánh nhau v.v…).

Lại có ba loại:

  1. Phóng dật.
  2. Hủy phạm giới.
  3. Báo tận.

Do vì phóng dật đoạn mất tuệ mạng. Do vì hủy phạm giới, phá các uy nghi. Do vì báo tận, quyến thuộc nội ngoại vây quanh buồn thương, luyến tiếc, không nỡ bỏ đi. Đây gọi la chết.

Thế nào gọi la ưu? Trong lòng buồn lo như bị lửa bức bách. Lại cung như mặt trời nóng đun nước như nước sôi. Đây gọi la ưu.

Thế nào gọi la bi? Khóc lóc rơi lệ, nghẹn ngào không nói được, như người con hiếu tưởng nhớ cha hiền và những người thân khác. Hết thảy đều như thế, ý không tĩnh lặng. Đây gọi la bi.

Sao gọi la khổ? Cay đắng độc hại, trái lại với vui, cùng năm thức thân, tương ưng lãnh nạp. Đây gọi la khổ.

Sao gọi là não? Ví như cây khô, dùng lửa đốt bên trong, khiến cho hữu tình kia phiền muộn bực tức, buồn lo, rối loạn. Cùng với Ý thức thân tương ưng, lãnh nạp. Đây gọi la não.

Thế nào gọi là cầu bất đắc khổ?” Đó là đối với những việc tương ưng mong cầu, chưa được như ý, tâm sanh mệt mỏi. Như bánh xe của người thợ gốm, tâm nầy chuyển động theo.

Thế nào gọi la ái biệt ly khổ? Đối với cảnh vui vẻ, quyến thuộc xứng hợp, sắc tướng hiện có sát na đổi khác.

Sao gọi la oán tắng hội khổ? Đó là đối với hết thảy người không xứng hợp nhau cung sanh lòng chán ghét, không ưa thích nhau mà lại gặp gỡ.

Những loại khổ thứ tự từ sanh… được trình bày trong đây nếu lần lượt cầu tìm thì đều là nóng nảy, buồn bực. Như con hươu trong đồng vắng bị lửa bao quanh, không thể tự thoát ra, tất sẽ bị đốt cháy. Chỉ trừ đức Như Lai, lúc mới đản sanh, tăng trưởng pháp thiện, tịch tĩnh yên ổn, thể tánh tự nhiên, lìa các sự bực tức, buồn lo, như trong khế kinh, kệ nói:

Chư Phật ra đời, vui
Diễn thuyết chánh pháp, vui
Chúng tăng hòa hợp, vui
Khiến tu các hạnh thiện
Nếu Phật không độ đời
Ba cõi sao được vui
Do vì Phật xuất hiện
Chúng ta được yên vui

Do các chúng hữu tình lấy chủng tử bất thiện lam nhân nên thường sanh trưởng cảnh giới cây khổ, thường bị lửa khổ nơi ba độc thiêu đốt. Đối với những sự giàu vui của thế gian kia, chỉ nghe người khác nói. Do đâu hiểu biết, rong ruổi trong chốn đồng hoang, ác đạo hiểm nạn, đá sỏi gai gốc, phải chịu nhiều nổi gian khổ, để cầu tự cứu giúp, không chỗ nương về. Những hữu tình như thế, thuở xưa thiếu kém gốc thiện, chìm đắm trong ác đạo, luân hồi bất tận. Như kẻ phường chèo, thay đổi hình sắc. Ví như được lam người, thì phải sanh vào nhà bần cùng. Thời gian ở trong thai me phải chịu nhiều nỗi đau khổ.

Thế nào hữu tình ở trong bào thai, chịu nhiều nỗi khổ não? Như đức Thế Tôn nói, lúc mới kết sanh, nắm lấy hai vật bất tịnh trắng, đỏ của cha mẹ lam duyên, dần dà tăng trưởng, biến thành hình chất, ở dưới sanh tạng, ở trên thục tạng. Ở khoảng giữa, rất nhơ nhớp tanh hôi. Mẹ, hoặc khi ăn no, hoặc khi đói khát, các phần thân chuyển động và lúc nhiễm dục, đều phải chịu khổ. Lại khi sắp sanh, ở trong thai mẹ, không muốn ở lại, khởi tưởng bất tịnh, hướng đến sản môn. Lúc hai tay (của người mụ) vừa chạm đến phần thân của thai nhi, phải chịu khổ sở vô cùng, bực bội khổ não cùng cực. Trẻ sơ sanh kia, do vì đói khát, cất tiếng kêu khóc, hướng đến mẹ mong cầu sữa. Lại, sữa của người mẹ vốn do máu huyết chuyển biến thành. Hoặc ăn không no, phải chịu bực bội phiền não. Dần dần trở thành anh nhi, nằm nơi phẩn tiểu, hoặc lúc đùa giỡn, rơi xuống hầm hố, mương rảnh Đây gọi la nỗi nhiệt não nhận chịu lúc đã sanh. Những người thế gian khác cũng đều như thế.

Lại, hữu tình kia, tuổi dần lớn lên, sắc lực đầy đủ, khỏe mạnh, kiêu căng phóng túng, niệm niệm chỉ tìm cầu cảnh trần năm dục. Do vì tuệ nhiễm tham đắm, không buông bỏ, tự gánh lấy dục tình nầy, mau chóng đi đến tử vong.

Thế nào là già suy có các khổ? Hình sắc gầy yếu, mặt cong má hóp, răng cỏ thưa rụng lông tóc thưa thớt bạc trắng. Cổ, tay, ngực, hông thảy đều trơ xương, Sức nóng dần dần suy yếu. Ăn uống ít ỏi giống như loài chim nhốt ở trong lồng, ngày càng hao gầy. Chỉ còn một nhúm lông. Sáng có lam điều gì, chiều liền quên mất. Lúc đầu muốn thí giúp, về sau lại biếng trễ thối lui. Nói năng như trẻ con, không có chừng đổi, Hoặc có khi suốt ngày, miệng không muốn nói. Ngày đêm chỉ chăm chăm ngủ nghỉ, nhưng ngủ không say. Ho hen cả ngày. Muốn nói những nỗi khổ bức bách, mà lời lẽ không rõ ràng. Như người đi xa, không thích ở lâu. Vìệc lam của mọi người khó có thể vừa ý. Chỉ một việc không vừa lòng nhỏ thì liền sanh ý buồn phiền. Bạn bè an ủi, khuyên lơn, nên tự an ổn. Mắt trông thấy mọi vật mà không thể thọ dụng. Những việc vui chơi chỉ tai nghe nói. Ý muốn dạo chơi mà chân không thể cử động. Phải nương nhờ ghế, gậy, lấy những vật nầy lam bạn. Bị phụ nữ cười khinh. Nhân nghĩ lại trước đây, các căn khỏe mạnh, thọ hưởng các thú vui mà nay trong sát na biến hoại, tự mình rất hối tiếc. Sống lâu mà làm gì” Đây gọi là hành tướng phiền não bức bách của tuổi già.

Thế nào là nổi bức bách của phiền não, nói bệnh khổ?” Đó là những kẻ ngu mê, lúc tuổi thanh niên, sắc đẹp, khỏe mạnh, phóng túng, đắm trước dục lạc. Dần dà trở nên yếu đuối bệnh tật triền miên, khổ não hiện tiền. Người tốt trông thấy, sanh lòng thương xót, dùng lời hay lẽ phải khuyến dụ, khiến cho kẻ kia thổ lộ, tỏ bày. Nghe rồi sanh lo sợ, sợ phải đọa vào cõi ác. Thân hình đẹp đẽ, dung mạo đoan nghiêm, bị bệnh tật xâm chiếm. Những món ngon vật lạ, không thể ăn uống. Tuy ở nơi giàu sang mà như kẻ nghèo hèn. Bậc trí giả ở thế gian thường tự xem xét. Nên biết bệnh khổ không thể yêu thích, như mưa đá lam hại lúa mạ, lam đình trệ, tổn hại sự tươi tốt, sum suê. Như con rùa ở đất liền thường nhớ nghĩ đến nước. Như mặt trăng lúc ban ngày không co ánh sáng. Như kẻ khát nước, rơi vào giếng khô. Như đèn cạn dầu, không thể cháy lâu. Như tường vách cũ mục không có bền chắc. Như đứa trẻ si mê đần độn bị mọi người khinh khi. Như voi điên cuồng, phá hoại ao hoa sen. Đây gọi la phiền não bức bách của bệnh khổ. Thế nào là người ngu?” Luôn luôn tham cầu, đắm trước, lam giảm tổn thọ mạng, thiêu đốt căn lành. Bị vô minh che phủ, sinh sống bất chính, mong cầu bất chính. Tham đắm vật thực ăn uống, y phục thế gian. Thân phiền não, tâm phiền não, hủy hoại chánh trí, không vui thích nương ở nơi chốn núi rừng tịch tĩnh, thọ trì đọc tụng kinh điển đại thừa không thể giữ gìn tịnh giới bền chặt. Do đâu có thể đi đến bờ giác ngộ kia. Nếu tâm vắng lặng, từ bỏ cảnh dục. Hoặc các hành phóng dật đã tạo tác trước, thảy đều chán ghét, không nghĩ tưởng lại, như kẻ thâm thù, lòng không thích thấy. Như bả xác mía, không còn vị ngọt. Như đốt mầm cây khô, khiến cháy sạch không còn sót lại gì. Nếu nhận thức được như thế, người này không bị vua Diễm ma la bức bách. Như những người nữ, rất nhiều tham lam, ôm lòng ganh ghét, thích lam chúa tể. Giống như bình nứt tích chứa vật bất tịnh. Như âm tàng ngựa cái, thật đáng chán ghét. Như lấy thuốc độc trộn vào thức ăn ngon. Như kẻ oán thù cầm kiếm không nên cúi gần. Như đống lửa kia, chạm vào thì sanh nóng bức khó chịu. Nếu ham thích dục cảnh, tâm tất rối loạn, phá hoại các phạm hạnh. Như người không co giới luật, chặt đứt nhân an lạc, diệt mất tuệ mạng, thần chết hiện tiền, một mình đi đến, vào chốn hiểm nạn, không người cứu giúp, đều do nhiễm dục, sanh khởi vọng niệm, không hổ không thẹn, bỏ hạnh tri túc, bị người đời chê trách đủ điều. Thế nào gọi la Tử?” Như có kệ nói:

Tuệ là mắt thù thắng
Si là bóng tối dầy
Bệnh ắt do oan nghiệp
Chết là nỗi sợ lớn
Phải vui thích chánh pháp
Dùng tuệ tu điều thiện
Do đấy lúc mạng chung
Nhất định lìa hiểm nạn.

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HẠNH SỞ TẬP

QUYỂN 5

Lại do nghĩa gì mà gọi là ưu? Đó là các hữu tình, do vì tham dục, chìm đắm trong nỗi lo sợ. Giống như mãnh thú bị lửa bao vây. Như cá ở vực sâu, bắt bỏ trên đất liền. Như vào trong biển lớn thuyền bè bị tổn hại, trong lòng buồn lo, sợ mất thân mạng. Như dùng một ít nước nhỏ trên hòn sắt nóng. Sắp vào cửa tử, mạng không dừng lâu. Thí như trong nồi nấu đậu, nước sôi vọt lên đầy khắp. Lại đun thêm củi khô. Những người thế gian kia, thân ở trong nhà bị nỗi buồn lo bức bách, các căn suy kém, tiều tụy, lòng không chút tạm an. Như lấy bình tô, đặt gần nơi lửa nóng, nên biết không lâu tất sẽ chảy tan.

Lại do nghĩa gì mà gọi là bi? Đó là các hữu tình, trước có tài sản vật báu, không thường giữ gìn, thân lại lười biếng, đi đến chỗ nghèo khổ, quần áo rách rưới, sắc diện tiều tụy, cổ họng cháy khô, ý lời buồn thảm. Nghĩ lại trước kia giàu có, nay không thể có được.

Lại do nghĩa gì, gọi là khổ? Đó là các hữu tình lam các hạnh phi pháp, thân phạm đến lưới pháp luật. Dao, gậy, thuốc độc, hoặc bị loài phi nhân đâm chém giết hại, cho đến mất mạng, chịu nhiều nỗi đau khổ độc hại.

Lại do nghĩa gì mà gọi là não? Đó là các hữu tình, lời nói hung dữ cùng thêm vào, như trúng phải tên độc, các căn não loạn, hoại mất tưởng vui.

Lại sao gọi là cầu bất đắc khổ? Hoặc các hữu tình, vui tu tập chánh pháp, mà kkông thể hiểu biết, thân tâm khổ nhọc. Hoặc do phóng dật, đa cầu mà không được toại nguyện; phát sanh bực bội, phiền muộn. Không mong, không cầu, tâm tốt yên vui.

Lại sao gọi là ái biệt ly khổ? Đó là đối với những thú vui như quyến thuộc, bạn bè hòa hợp, an ổn, bỗng nhiên ly tán, trong lòng cảm thấy nuối tiếc, sanh phiền muộn.

Lại sao gọi la oán tắng hội hội khổ? Đó là chúng hữu tình kia vui đắm tham dục, cầu nhiều tài lợi, cùng nhau tranh giành mà kết oán sâu. Hoặc bị vợ con, ân ái ràng buộc giống như gông cùm, không được tự tại. Phải biết nữ sắc khiến người mê loạn, lời nói của họ dịu dàng như hoa câu mâu na, kẻ ngu ưa thích, tiêu hao sắc trẻ, không lâu sẽ khô héo, tiều tụy. Như tiên nhân Kiều đáp ma cho đến chư Thiên, tham vướng nhiều dục lạc, như củi gần lửa tất sẽ bị đốt cháy, nên Tỳ-kheo thường phải xa lìa. Nếu thân cận dục lạc kia, sẽ chịu cái khổ bậc nhất. Hết thảy thế gian, chư thiên và loài người, đều bị lửa dục bức bách khắp cả. Hiện tại chiêu cảm các khổ, chết đọa vào đường ác, bị mười ba đám lửa vây quanh thiêu đốt. Phật là đấng cha lành của chúng sanh ở thế gian, vì thương xót chúng kia mà nói kinh này.

Các địa ngục được nói đó có mười ba loại:

  1. Đều sống.
  2. Sợi dây đen.
  3. Chúng hợp.
  4. Kêu la.
  5. Kêu la lớn.
  6. Thiêu đốt.
  7. Thiêu đốt cực dữ.
  8. Không gián đoạn.
  9. Tro nóng.
  10. Thây phẩn.
  11. Mũi nhọn.
  12. Rừng kiếm.
  13. Sông tro.

Địa ngục như thế, các hiểm nạn hung dữ, vô lượng khổ não tụ tập ở bên trong. Vô số hữu tình tạo các nghiệp ác, mạng chung đọa vào cõi kia, thọ lãnh nhiều loại khổ. Bị các ngục tốt trị phạt bằng nhiều cách: “Dùng chùy sắt nóng, giận dữ đánh đập, hình thể nát nhừ, máu chảy khắp cả. Các lóng, khớp xương thảy đều đốt cháy. Hoặc lại nắm chân, ném vào hầm lửa. Giơ tay hốt hoảng. Tiếng kêu khóc ghê sợ. Lính của vua Diễm ma kia, hung ác rất đáng ghê sợ. Những người thọ tội, trông thấy hãi hùng. Hoặc lại rảo chạy vào trong ngục tro nóng. Da thịt, gân cốt chân dưới đều tiêu tan. Do vì ác nghiệp, vừa trở gót thì sống lại. Lại có thây chết, phẩn dơ cực nóng, sâu rộng. Mùi hôi thối không thể ngửi nổi. Lại có loài trùng mỏ sắt gọi la Cô-noa-ba, qua lại trong đống phẩn thây ấy, cắn rút chân của người tội, suốt thịt thấu xương, lấy tủy mà ăn. Lại dùng vô số mũi nhọn thứ tự bày bố thành hàng mà lam đường đi, rồi xua đuổi những tội nhân kia khiến chân giẫm đạp lên trên. Lại bị gió mạnh, thổi chạy lên trên. Do trốn những sự khổ, chạy vào trong rừng lá gươm. Vô số mũi kiếm nhọn từ trên hư không phóng xuống, đâm cắt thân hình, không chỗ nào không chặt phá.

Lại có con sông lớn, nước tro đầy tràn, sóng cả vọt lên, luộc nấu những tội nhân kia. Ở hai bên bờ, có các ngục tốt, tay cầm chĩa ba, qua lại đâm chĩa, phải chịu những nỗi khổ rất nặng nề. Hoặc lúc quá chán nản, cũng có kẻ chạy trốn như cá lủi xuống bùn, liền dùng luỡi câu sắt, móc vào môi kéo lên. Dùng tấm lưới sắt to, kéo, đặt lên rất nóng: Lửa to cháy hừng hực, lật qua lật lại thiêu nướng. Lại lấy kìm sắt banh miệng ra, rồi lấy nước đồng cưỡng bách rót vào. Hoặc hòn sắt nóng, bức bách khiến ăn nuốt. Răng, nướu cổ, lưỡi, mỗi mỗi đều bị cháy tiêu. Từ cổ họng suốt đến dưới, thảy đều bị thiêu đốt.

Lại có hai hòn đá, dùng kèm cặp thân hình, từ đầu đến chân mà cưa xẻ. Ngục tốt hung ác giống như voi say, nộ khí bốc lên, lông tóc dựng đứng. Ngôi sao lửa cháy tán loạn khắp nơi, rượt đuổi những tội nhân kia. Nằm trên giường sắt, dùng dây công kích, hoặc chém chặt, hoặc đục đẽo. Lửa hừng hực bốc lên khắp nơi, chỉ nghe tiếng kêu khóc.

Lại có ngọn núi từ trên hư không rơi xuống, đè bẹp những tội nhân kia, thân hình. tứ chi đều tan nát. Tuyệt vọng ngã khuỵu xuống đất, một hồi lâu mới sống lại. Có các ngục tốt, bộ dạng xấu xí hung ác, hoặc cầm búa bén, hoặc côn gậy, vòng đao, cung tên, chày vồ, máy bắn đá, gậy sắt nóng cháy… các loại khí cụ khổ hình, tra khảo đánh đập tội nhân.

Lại có trăm ngàn ngọn lửa hung dữ từ bốn hướng bay đến, tụ họp trên thân người tội như đốt một khúc cây, thảy đều cháy rụi.

Lại dùng dao bén mà lấy lưỡi, hoặc chặt hoặc cắt ra làm trăm ngàn mảnh. Cho đến hết thảy chi phần của thân hình, bỗng nhiên tan tác như áng mây nổi.

Lại bỏ tội nhân vào trong cái hủ bằng sắt nóng cháy. Lửa hừng hực bốn phía bức bách. Nước sôi sùng sục tràn đầy, nổi lên chìm xuống, giống như nấu đậu. Thân thể căng phồng, nứt xé ra. Da thịt tiêu tan, chỉ còn lại những khớp xương, vương vãi trên mặt đất. Gió nghiệp thổi lên, sống lại như cũ. Các nỗi thống khổ như thế thật đáng kinh sợ. Những người bị đọa vào địa ngục này không thể thoát khỏi.

Lại có địa ngục băng lạnh rộng lớn. Có đống tuyết to cao như núi, gió mạnh rét buốt thổi rót vào không dứt. Có vực sâu lớn, kết thành cối băng, y như được thủy tinh tạo thành. Có các ngục tốt xua đuổi những tội nhân kia, vào hết trong ngục. Bị khổ lạnh lẽo bức bách, phát ra tiếng kêu la buồn thảm. Lại có hai cái chày, thay nhau cất lên, hạ xuống mà đâm giã tội nhân, khiến thân thể của họ nát nhừ như đám bọt nước. Gió nghiệp lại thổi lên lam sống lại, như trước không khác. Thọ khổ lâu dài, nghiệp dứt mới được thoát ra. Những hữu tình kia đều do nhân duyên tuệ nhiễm dục tà, đối với thân sắc của kẻ khác, mê đắm không buông bỏ, Vì tham một chút vui nhỏ nhoi mà phải chịu khổ báo vô cùng. Cho nên đức Thế Tôn sanh lòng thương xót, khởi tâm đại bi mà nói kinh này.

Này các Tỳ-kheo! Các loại nhân khổ hiện hữu ở thế gian, sanh là cội gốc. Nếu không có duyên sanh, thì luân hồi tự dứt. Huống chi là vô lượng nỗi khổ của sanh ở vị lai. Do vì có sanh ắt có Sắc uẩn. Do vì Sắc uẩn nên có Thọ uẩn. Do vì Thọ uẩn nên có Tưởng uẩn. Do vì Tưởng uẩn nên có Hành uẩn. Do vì Hành uẩn nên có Thức uẩn. Thứ tự như thế nối nhau sanh khởi, tăng trưởng nhóm khổ, luân hồi không dứt. Ví như đám giặc xâm nhập vào hoàng thành, tung hoành đốt phá, cướp giật sách nhiễu lê dân. Năm uẩn như thế, nương nơi thành Thức kia, sanh khởi các phiền não, lam tổn hại các căn.

Lại, già, bệnh, chết đối với các thế gian, lam tổn hại sự an vui, thật không đáng yêu thích như ba loại oan nghiệp, thường theo đuổi:

  1. Thường cầu oán hận, lỗi lầm.
  2. Khiến rơi vào chốn hiểm nạn.
  3. Dò xét, đoạn diệt mạng căn.

Cho nên các Tỳ-kheo thường phải tu tập chánh hạnh lọng phước, thọ trì kinh điển, như chỗ giảng thuyết mà tu hành. Giá như các oán già bệnh chết vây quanh, không sanh hoảng sợ. Ở trong đường ác hiểm nạn ắt co thể siêu việt. Bậc đại trượng phu nầy được lợi ích hai đời. Như hoa sen trong lửa thật là hy hữu, ắt được an trụ trong cái vui vi diệu, tịch tĩnh. Các Tỳ-kheo! Thể tánh của phước báo kia được chỉ bày chân chánh từ nhân đến quả, đều đáng yêu thích, cho đến phát sanh pháp thiện vô lậu. Nghiệp thân, ngữ, ý đều được thanh tịnh, an trụ không thối chuyển, được thọ ký Đạo, như trăng tròn mùa thu, tỏa ánh vàng lấp lánh, hết thảy thế gian đều được lợi ích. Vui thích bố thí rộng lớn, không có giới hạn. Những người đến xin, đều cung cấp cho, khiến cho chúng hữu tình sanh tâm vui vẻ. Như vị tướng chiến thắng tâm mạnh mẽ tiến lên. Như nương vua hiền, lòng được yên ổn. Ví như biển lớn dung nạp các dòng sông. Như núi Di Lô, kiên cố, an ổn, bất động. Hết thảy chúng sanh, cung phụng như cha mẹ. Được các thế gian cung kính cúng dường. Đạt được sự tốt lành thù thắng bậc nhất. Được thân thích, bạn bè khen ngợi. Hết thảy chỗ mong cầu đều được thành tựu. Rốt ráo vượt khỏi biển khổ luân hồi.

Nghĩa đây nói đến tự tánh của phước báo, giống như vật dụng bằng vàng, bền chắc đáng yêu. Là chỗ nương tựa tốt đẹp nhất của các chúng sanh. Tự tánh của phi phước không đáng yêu thích, giống như cái bình đất, nhất định bị hư hoại, khiến cho các chúng sanh lưu chuyển trong đường ác. Như cái lọng ở thế gian, được người cầm giữ đi khắp bốn phương, che ngăn nắng nóng. Được lam khéo léo, không lâu cũng sẽ hư hoại. Như thế, chánh hạnh lọng phước duy trì khả năng trừ bỏ các nỗi nhiệt não vốn có của sanh v.v…, và sự thiêu đốt của lửa địa ngục, làm cho thành tựu của các điều thiện giữ gìn không bị hư hoại. Như ở trong thành Xá vệ, có một nữ trưởng giả sánh đôi với một người con trai cùng tộc tánh. Sau sanh được một đứa con, hoang phí vô độ ngày càng suy kiệt túng quẩn. Người chồng nói với vợ của mình: “Ta sẽ đi đến phương xa gắng sức lam ăn, nàng phải thương nghĩ chuyện nuôi dạy con”. Năm tháng trôi qua, người chồng đi vẫn chưa về. Đứa nhỏ tuổi đã lớn lên, dần dần sanh phóng túng, cùng với người con gái gần bên, lần hồi sanh lòng yêu thích. Người con gái kia bèn cởi dải buộc tóc báu trao cho người con trai. Về sau, người mẹ biết được câu chuyện bèn dùng lời lẽ dịu dàng, khéo léo, khuyên răn đủ cách: “Con ta không nên vui với những chuyện thấp kém như thế, phải tự giữ gìn cẩn thận chớ để lòng ta lo”. Thế rồi, ngày càng gia tăng xem xét, bó buộc, không để cho rong chơi nữa. Ban đêm, xếp đặt giường của mình ở ngoài cửa phòng ngủ của con. Cậu con trai, một chiều kia, bị tham dục quấy nhiểu, nằm xuống rồi lại ngồi dậy, giâv lâu, không kham nổi bèn xin mẹ mở cửa để đi tiểu tiện. Người mẹ bảo: “Ở đây có chậu không phải ra ngoài”. Bị mẹ kiểm soát chặt chẽ, lòng dục tăng lên, bèn khởi ý ác, giết hại mẹ mình. Đã tạo tội ác này rồi, lòng rất hoảng sợ, bèn đi đến già lam, thưa: “Bạch Đại đức! Con muốn xuất gia, xin rủ lòng thương xót thâu nhận”. Bấy giờ các thầy Tỳ-kheo không thể xem xét, cật vấn, tìm hiểu duyên do của cậu con trai, bèn cho thế phát. Sau khi đã làm Tỳ-kheo rồi, trốn đi xa khỏi nước kia, Dõng mãnh tinh tấn, kiên cố giữ gìn tịnh giới, tu tập thiền định, vui tụng kinh điển. Nơi chốn kia có vị Trưởng giả, thấy vị Tỳ-kheo này, đầy đủ giới đức như thế, phát tâm cúng dường, kiến tạo già lam, thỉnh vị này lam chủ. Tăng chúng khắp nơi, đều đến nương tựa. Lúc ấy, vì Tỳ-kheo này vì đại chúng mà thuyết giảng kinh điển Đại thừa. Lại khiến tu tập thiền định thích hợp, bốn sự cung cấp không co chỗ thiếu khuyết. Lúc ấy đại chúng tu tập siêng năng, không chút biếng trể. Dần dà, có vị chứng quả A-la-hán. Nhưng vị Tỳ-kheo này, về sau, lại bị bệnh khổ. Dù được uống các loại thuốc hay nhưng bệnh tình càng lúc càng tăng. Bèn triệu tập chúng tăng, khéo bày lời hối tạ: Sai lầm đảm nhiệm ngôi chủ, khinh mạng chúng đức. Cũng vậy, lam não loạn các chúng đệ tử. Rất mong đại chúng từ bi, bố thí cho sự hoan hỷ. Những kẻ thường tình đều chết. Bậc cao quý cũng phải qua đời. Hòa hợp tất có biệt ly, có sanh ắt có diệt. Nói lời này xong, hốt nhiên mạng chung. Khi đó, đại chúng và các đệ tử của vị kia cùng tạo việc thiện lợi để trợ giúp phước báo u minh cho thầy mình, bèn bàn bạc với nhau: Thầy của chúng ta quy tịch, chưa biết thần thức sanh về chốn nào. Trong chúng đệ tử có vị chứng Thánh quả, bèn nhập định xem xét. Bắt đầu ở các cõi trời, kế đến chốn nhân gian, cho tới cõi Ngạ quỷ, Súc sanh, thảy đều không thấy. Bèn lại xem khắp trong các địa ngục. Mới biết thầy mình đọa vào ngục Vô gián. Vị đệ tử thấy rồi, sanh lòng nghi hoặc: “Đại Hòa thượng của chúng ta. lúc lại thế, kiên trì tịnh giới, đa văn, biện tài, tu hành tinh tấn, chưa từng tạm bỏ, thâu nhận cung cấp cho chúng tăng khắp nơi. Nhưng do duyên cớ gì mà lãnh thọ quả báo nặng nề này?” Vị đệ tử kia lại nhập định quán sát, mới thấy nhân trước từng sát hại mẹ của ông, do vì quả báo này phải đọa vào ngục Vô gián. Lửa cháy hừng hực, thiêu đốt thân hình. Bị các ngục tốt chửi mắng đủ cách: “Ngươi lúc ở thế gian, vô trí, thấp hèn tạo các tội ngỗ nghịch này, khiến ai chịu?”. Nói rồi, ngục tốt liền lấy chày sắt cực nóng, đập nát đầu của tội nhân kia, máu chảy rất thê thảm, khổ nói không nên lời. Lúc ấy, vị đệ tử chứng đại A-la-hán, thấy việc này rồi, bèn vận năng lực bi nguyện, dứt trừ khổ não, nương uy đức của Pháp, khiến tội nhân kia biết túc mạng, duyên niệm Tam Bảo, nối tiếp thiện căn, tức thời mạng dứt, sanh lên cõi trời Dạ Ma. Theo lệ thường các vị trời mới sanh, sau khi đã trụ ở cõi trời rồi, khởi ba suy nghĩ:

  1. Quán sát thân trước thọ sanh loài gì?
  2. Ở chốn nào thân hết, mạng chung?
  3. Tu phước gì được sanh lên cõi trời?

Lúc ấy, vị trời kia sau khi đã quán sát những việc này rồi, mới biết thân mình trước tạo tội ngỗ nghịch, nhờ ân lực của Phật được sanh lên cõi trời ấy, do đấy mà khởi suy nghĩ thế này: “Ta nay một lòng, không co niệm tưởng khác, chỉ mong cầu thấy Phật, thân cận cúng dường để báo đáp hồng ân. Do phước lực cõi trời, tự nhiên có các báu anh lạc trang nghiêm thân, Vào lúc đầu hôm, thân phóng hào quang, chiếu sáng rừng Kỳ Đà, thảy đều hiện rõ. Trước đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật. Rồi lấy hoa sen đủ màu trên cõi trời, hoa Mạn-đà-la, để rải trên Phật. Những hoa nầy nhóm lại cao quá gối. Đã dâng hoa cúng dường rồi, thối lui ngồi qua một bên.

Bấy giờ, Thế Tôn biết được suy nghĩ trong tâm của vị trời kia, bèn vì ông thuyết giảng hành tướng ba lượt chyển pháp luân của Tứ đế. Nghe xong, giác ngộ liền được vị Kiến đế. Không rời khỏi chỗ ngồi, chứng được quả Dự Lưu. Chày trí Kim Cang cứng chắc vô lậu đập vỡ các núi Thân kiến, Tà mạng, Pháp Tứ đế này, chẳng phải là các Samôn và Bà-la-môn, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc có thể tuyên thuyết, chỉ Phật Thế Tôn, thương nghĩ đến biển máu và nước mắt của chúng ta, xương chứa như núi, đóng cửa nẻo ác mở đường sanh thiên, cứu khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đều khiến an trụ nơi quả thiện Nhơn, Thiên.

Lúc ấy, vị trời kia liền nói kệ:

Ta do nhiễm dục, tội lỗi sâu
Đọa vào trong địa ngục Vô gián
Nhờ ân lực Phật được sanh Thiên
Lại khiến chứng được đạo Niết-bàn
Ta nhờ nương tựa Pháp nhãn tịnh
Thoát hẳn luân hồi các đường ác
Và dòng Sanh tử vị lai kia
Được đến bờ giác ngo tịch tĩnh
Ta nay được thấy đấng Mâu ni
Trong trăm ngàn kiếp khó gặp gỡ
Khéo vượt khổ nhân: “Sanh, lão, bệnh,
Nguyện thọ thế gian rộng cúng dường.
Lấy châu Anh lạc nguyện dâng hiến
Chắp tay nhiễu quanh tâm hoan hỉ
Nên ta đảnh lễ đấng lưỡng túc
Thường khiến Người, Trời sanh giác ngộ.

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 6

Lúc ấy, vị Trời vượt lên khỏi nẻo ác, dùng kệ tán thán Phật rồi, tâm sanh hoan hỷ giống như thương chủ được tài lợi lớn. Như người nông phu gặt hái được mùa. Cũng như dũng tướng, đánh trận khải hoàn. Như người mắc bệnh lâu, mau chóng lành mạnh. Bấy giờ trong hội chúng, có một vị A-la-hán biết được nhân duyên đầu cuối của vị Trời kia. Do đấy nhớ lại vị Bổn sư của mình, viên tịch đã lâu, không biết ở chốn nào. Khi đó có một người đàn việt, thiết trai dâng cúng ở chùa, có một vị Tỳ-kheo, múc nước sạch mới troug phiên hành đường của mình, để phục vụ chúng tăng. Vị A-la-hán kia lấy bát bằng đồng trắng, nhận nước, muốn uống. Đầu ngón tay của ông chạm vào nước cực kỳ mát mẻ liền tự suy nghĩ. Thầy ta thuở xưa từng làm chủ chùa, không biết việc của đại chúng, sẻn tiếc các vật, tham đắm những vật nuôi sống, thường mong muốn thân sau sanh lại chốn nầy, có tội như thế, nếu đọa vào địa ngục biển đồng sôi, muốn uống nước cam tuyền này há có thể được sao?” Suy nghĩ như thế rồi, bèn nhập định tìm xem Bổn sư của mình. Tìm khắp trong các địa ngục, rồi đến chốn bàng sanh, ngạ quỷ thảy đều không thấy. Vị này lại suy nghĩ: “Há chẳng phải xưa kia gieo trồng thiện căn, nay được thành thục, thác sanh vào cõi tốt đẹp. Liền thứ tự, lần lượt quán sát khắp các cõi trời, mới thấy Bổn sư của mình sanh vào cõi Tứ Vương Thiên. Bấy giờ, tôn giả liền đi đến chỗ của Thầy mình, an ủi thăm hỏi, rồi nói với ông: “Con nghe cõi trời này, chỉ tu các điều thiện, giữ gìn tịnh giới chắc chắn, mới có thể sanh về. Thầy đời trước có tội tích chứa sao có thể về đây?” Vị trời này bảo với Tôn giả: “Tôi thuở xưa, từng lam chủ chùa, ngu si, hạnh ác không từng phát lồ, lúc sắp mạng chung, chí thành, khẩn thiết, chỉ có Phật Pháp Tăng là chỗ tôi quy y. Do đấy, duyên niệm ân lực của Tam Bảo, nương thiện căn này, đuợc sanh về đây. Lúc ấy, Tôn giả kia nghe nói thế rồi, tâm thanh tịnh phát khởi, được điều chưa từng có. Tức ở trong đại chúng, người trời, bực hữu học, vô học, thốt lên ba lần: “Kỳ lạ thay”.Trình bày đầy đủ sự việc trên. Thần lực của Phật, Pháp, Tăng, công đức khó nghĩ bàn, có thể tiêu trừ vô lượng nỗi khổ cực nơi chốn địa ngục; có thể nuôi lớn vô lượng thiện căn của hữu tình. Đoạn trừ phiền não, xé tan các lưới nghi. Rốt ráo đi đến bờ giác ngo. Những người có trí phải siêng năng tinh tấn, lam thanh tịnh thân, ngữ, ý; tu tập bố thí, trì giới, thiền định. Đây tức là có thể báo đáp hồng ân của chư Phật. Nhưng chúng hữu tình tánh dục mỗi người mỗi khác, dần dần khiến tu tập đầy đủ ba loại hành nghiệp này. Hoặc ưa thích hiện tại được giàu có, thọ dụng năm thứ dục, Thế Tôn phương tiện khuyến khích bố thí. Hoặc ưa thích sanh thiên, thọ những thú vui thù thắng, vi diệu, Thế Tôn phương tiện, khiến trì tịnh giới. Hoặc ưa thích giải thoát, xuất ly bờ khổ, Thế Tôn phương tiện, khiến tu tập thiền định. Cho nên đức Thế Tôn tuyên thuyết ba hành này, gọi la lọng phước, phải vâng làm đầy đủ. Ví như hai con quy tranh nhau ba món đồ: “cái tráp, đôi giày, cái chày. Cả hai, lời to tiếng lớn cùng tranh cãi với nhau. Nghe nói nơi chốn kia có Bà la môn, người này rất chính trực, có thể phân xử việc ấy. Hai con quy bèn khiêng ba vật đi đến chốn nọ, chắp tay thưa: “Bạch đại Bà la môn: “Xin ông vì chúng tôi chia đều những vật này”. Vị Bà la môn nói: “Đây la vật nhỏ, sao phải tranh giành với nhau mà từ xa đến đây xin phân định?” Hai con quỷ nói: “Đây chẳng phải là vật nhỏ. Rất khó có được. Ông xem cái tráp nầy, là vật có thể biến hiện. Tùy theo ý muốn, đồ vật đều từ trong tráp nầy hiện ra. Còn đôi giày này, nếu ai mang vào thì có thể lên trời, thọ hưởng các sự an vui thù diệu, còn cái chày kia thì có thể đánh dẹp hết thảy oán địch, đều khiến phải lui tan”. Vị Bà la môn nghe hai con quỷ nói thế rồi, liền bảo chúng lui ra đứng một bên, ông nói: “Ta nay sẽ vì các ngươi, suy nghĩ một chút, rồi phân chia ba món đồ này, mỗi người đều được bằng nhau. Vị Bà la môn kia nói xong liền vội vàng mang giày, rồi lấy cái chày và cái tráp, cỡi hư không bay đi. Hai con quỷ thấy thế, hối hận là đã cho kẻ kia biết được ba món đồ này nên bị ông ta chiếm hữu.

Ở trong thí dụ này, phải khéo phân biệt. Bố thí như cái tráp, vì được như ý. Trì giới như đôi giày, vì được sanh thiên. Thiền định như cái chày vì có thể hàng phục chúng ma. Đây gọi la Thế Tôn nói Thí, Giới, Định, phương tiện thâu nhận lọng phước chánh hạnh.

Trong phần này lại nói rõ ba loại hạnh ác; đó là bỏn sẻn, phá giới và tán loạn, lam sanh khởi các tội lỗi, là căn bản luân hồi trong nẻo ác, thường phá hoại công đức của bố thí, trì giới và thiền định. Cho nên đức Thế Tôn dùng các cách hiển thị lỗi lầm của bỏn sẻn, giống như cấu uế vấy bẩn hữu tình, chiêu cảm lấy những điều bất xứng ý. Như thế, người bỏn sẻn tuy tích chứa tiền tài của báu nhưng không thường thí xả, thì giống như diều hâu, chim cú đậu giữa ngàn sen. Đối với cha mẹ, không thường cung cấp, Thân thích tụ họp thì lẫn tránh đi. Không tin lời hay tốt, không vui nghe kinh pháp. Ỷ mình giàu có, không hài lòng với vinh hoa của người khác. Giống như voi say, tánh khó điều phục. Cũng như rắn độc không ai muốn thấy. Người tốt thấy rồi, thảy đều lánh xa. Đối với nghiệp trước tốt đẹp không thích vui theo. Thấy người đến nhờ vả, lòng ắt khó chịu. Như ở giếng khô mà mong cầu nước. Lời nói thốt ra, người không muốn nghe. Theo chỗ đi đến, không có người cùng trò chuyện. Ở trong đại chúng thì như người ngu si. Qua ngả tư đường, giống như thây thúi. Người ngu si kia, tuy ở thế gian mà không thường xa lìa các lỗi xấu ác, không có thể hộ trì các công đức thiện, không thể nuôi lớn các chủng tử thiện. Người bỏn sẻn như thế tạo cái nhân bần cùng. Hiện tại tuy giàu có mà không thường thọ dụng. Người hạ mình đến cầu xin không thể thi ân một chút. Nên biết người này như rừng Thi Đà (rừng tử thi), mọi người ở thế gian không ai thích nương tựa. Nhân duyên bỏn sẻn này như trong kinh Đại Danh Trưởng Giả nói.

Lúc ấy đức Thế Tôn ở thành Xá vệ, trong khu vườn rừng Kỳ đà Cấp Cô Độc. Lúc bấy giờ trong thành kia có vị đại trưởng giả tên là Đại Danh, rất giàu có nhưng không có con bỗng nhiên mạng chung. Bấy giờ đại vương Thắng Quân, nước Kiều-tát-la nghe việc này rồi, vội đến nhà ông, bụi đất đầy mình. Đến rồi, thu lấy hết thảy kho tàng và các tài vật, tất cả đều giao cho quan lại. Việc xong, xa giá trở về, đi đến chỗ của Thế Tôn, đầu mặt lễ chân Phật, rồi lui ra, ngồi xuống một bên. Đức Phật hỏi: “Này Đại vương” Vì cớ gì mà vội vàng, bụi đất đầy mình, đến đây?”Nhà vua đem sự việc vừa rồi thuật lại đầy đủ cho Thế Tôn. Đức Phật nói: “Này Đại Vương” Vị Trưởng giả kia tài vật giàu có cỡ nào?” Nhà vua thưa: “Nhà ông ta rất giàu, có nhiều tài sản, vàng bạc, châu báu, kho lẫm các vật. Mỗi thứ có vô lượng trăm ngàn câu chi. Giàu có như thế, không người sánh kịp, thế nhưng ông ta chỉ dùng gạo giã thô to để ăn. Áo quần để mặc thì rách nát, cũ, xấu. Đi ra ngoài thì dùng xe cũ kỹ, kết lá lam lọng. Hễ lúc muốn ăn thì trước tiên đóng cửa lại. Mỗi ngày tuy có ăn uống nhưng chưa từng no đủ. Nếu như có Sa-môn hay Bà la môn, những người xin ăn. những kẻ đường xa lỡ bước, những người lam nghề… những người như thế đến xin ăn uống thì không co người nào từng được hứa cho chút ít”. Lúc ấy, đại vương Thắng Quân lại thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn” Xin vì con nói về trưởng giả Đại Danh, cái quả báo do lỗi lầm bỏn sẻn chiêu cảm, khiến cho người nghe đều được khai ngộ”. Phật nói: “Này Đại Vương” Vị Trưởng giả như thế tuy là cự phú, nhưng không cung phụng cho cha mẹ, tự mình cũng không thường thọ dụng. Đối với phước điền thù thắng, không vui thích bố thí. Bạn bè quýến thuộc, chưa nghe ai được một chút ân giúp nào. Kẻ tôi tớ người giúp việc cùng dân chúng thảy đều lìa bỏ. Nên biết người này, tuy sống trong sự giàu có, nhưng do vì lòng bỏn sẻn nên không cùng thuận hợp. Như ở nơi bất tịnh mà sanh ra hoa sen. Như trong vườn rừng tốt đẹp, có con cọp dữ ngồi chực mồi. Như trong thức ăn ngon quý, bỏ thuốc độc vào đấy. Như châu báu ma ni, sinh ra nơi núi cao chót vót. Như trái chín ngon ngọt, trồng trên sườn núi cao. Như mặt đất sạch sẽ, đem phẩn uế bôi lên. Như uống thuốc độc, mong kéo dài thọ mạng. Như ke dâm nữ tự xưng phạm hạnh. Như kẻ nhiều sân hận muốn mọi người yêu kính. Như người giảng giải xằng bậy, tự xưng khéo luận nghị. Nói năng như trẻ ngu si. Không có chuẩn mực, phi pháp nói pháp, bất thiện nói thiện chịu nhiều sự chê trách của thế gian. Ở đây chỉ giữ tài sản, uổng danh nhà giàu, tuy có của báu mà không lợi ích cho ai, suốt ngày khổ nhọc như kẻ không tiền. Mọi người thấy rồi đều bảo rằng không tốt. Thân thích bạn bè trông thấy, không ai thèm thăm hỏi. Người bỏn sẻn như thế, mọi người đều ghét bỏ. Như bầy nhạn kia không đậu rừng lạnh. Do tài sản kia, tự tạo ràng buộc. Không biết mạng sống như thác đổ núi cao. Không nhớ nghĩ vô thường, nỗi sợ lớn sắp đến. Trong khoảnh khắc sát na, mạng sống mất đi. Nên biết giàu có cũng không trụ lâu, giống như tai voi, không tạm ngừng nghỉ. Ở nơi thầy giảng pháp, không thường hạ mình thưa hỏi. Nghe khen ngợi hạnh bố thí, tâm không vui tin. Thấy người đến hóa đạo, chạy trốn, tránh xa. Ví có kẻ được gặp quay lại chửi mắng. Kẻ ngu như thế tuy nhiều tiền của, như cái người ta có được trong mộng không khác, keo kiệt cho đến chôn giấu trong đất, ví gặp bệnh khổ, không cầu thuốc hay. Nghe mời thầy thuốc, tâm sanh ưu phiền. Do đây bệnh càng thêm nặng, cuối cùng mạng chung. Mọi người nghe kẻ kia mất, không ai là không hả hê. Hết thảy thân phần thân tướng vỡ ra, khó dám đến gần. Lửa dữ thiêu đốt, khói tanh bốc lên. Nên biết người này, nhất định phải đọa vào cõi ác. Ở trong địa ngục chịu khổ vô cùng. Ra khỏi địa ngục, sanh vào ngạ quỷ hình dạng dài lớn, thân thể trần truồng, đen gầy thường bị lửa dữ thiêu đốt, mọi chi phần đều cháy phỏng. Hai mắt sâu như hố, bụng cực kỳ to, cổ họng nhỏ như kim. Trải qua một kiếp dài không được ăn uống, da liền sát xương, không thể tự nhẫn chịu, thường ăn phân dơ để tự nuôi mạng, môi mép vấy bẩn, không sanh lòng gớm ghiếc. Nếu thấy đờm dãi, cùng nhau tranh cướp. Hoặc được chút phần, phải nhiều sự hoảng sợ. Hoặc lại sanh ra nơi chốn đồng hoang xa xôi, hoặc nơi biển cạn. Ở chỗ ấy không nghe đến tên nước. Thân thể cao lớn, giống như ngọn núi, bị gió mạnh thổi, lay động phát ra tiếng. Lại bị chim chóc bay đến đậu nghỉ, hoặc mổ hoặc nắm lấy. Phải chịu, cái nỗi khổ não. Từ đây được thoát ra, sanh vào các loài quỷ khác, đó là Dạ-xoa, La-sát-sa, Bố-đơn-na, Yết-trá-bố-đơn-na, Tắckiến-na, Ốt-ma-na v.v . Nếu như được lam người, thân hình xấu xí, da dẻ đen đúa, thô nhám. Hình dạng như hun khói. Các căn đóng kín, mắt không thấy rõ, nghèo cùng, đói khát, xin ăn để tự sống. Thường cầm gạch đá, tự đập ngực mình. Có được thức ăn dư thừa bỏ đi, hoặc đã sanh giòi, bèn cho là đủ. Thường bị gió mưa, nóng lạnh bức bách. Bị các loài côn trùng ruồi muỗi cắn chích. Trọn không có được sự tốt đẹp, vui vẻ. Những quả báo xấu ác như thế thật đáng ghê sợ”. Hành nghiệp tham lam bỏn sẻn này, lại như kinh Tôn Giả Sở Vấn nói: “

Bấy giờ, đức Thế Tôn trụ ở thành Vương xá, trong rừng trúc Calan-đà. Lúc ấy trong thành kia có con một vị trưởng giả thường đến chỗ Phật, vui thích nghe pháp, phát tâm tịnh tín, muốn cầu xuất gia. Liền thưa với mẹ: “Mong mẹ cho con, ở trong Pháp Phật, xuất gia cầu đạo”. Người mẹ nói: “Nay mẹ chỉ có một mình con. Đợi khi mẹ chết rồi, lúc ấy con sẽ theo ý mình”. Người con nghe theo lời dạy của mẹ, gắng sức kinh doanh, tài vật kiếm được thảy đều dâng mẹ: “Xin mẹ lấy tiền của nầy tùy ý tiêu dùng, nếu có dư thì tạo các nghiệp phước”. Người mẹ có được tiền rồi, không chịu bố thí, chứa nhóm cho nhiều chôn giấu dưới đất. Nếu có Sa-môn đi đến khất thực thì vung tay chưởi mắng, bảo là quỷ đến. Người con nghe biết lấy làm không vui: “Mẹ ta cớ gì đối với chút ít ẩm thực mà không bố thí” Lại tìm cách khuyến dụ. Người mẹ nói dối là đã cho rồi. Không lâu sau, người mẹ mạng chung, lúc ấy người con Trưởng giả bố thí rộng lớn để cầu phước báo cho mẹ. Sau đó bỏ nhà xuất gia. Đã vào pháp rồi, siêng năng tinh tấn, vui nghe chánh pháp, tư duy như lý thành căn lực, thông đạt hành hữu vi, giác ngộ pháp sanh diệt, dứt các nẻo luân hồi siêu việt năm nẻo, phá vỡ vỏ vô minh, lìa tham nơi ba cõi. Thấy vàng bạc châu báu giống như gạch ngói, tô cắt thân mình, không sanh lòng yêu, giận, tâm được bình đẳng giống như hư không. Chắc chắn đoạn hết thảy phiền não, hiện tiền chứng đắc quả

A-la-hán. Vua Trời Đại Phạm, các chúng trời Đế Thích thảy đều tôn trọng, cúng dường tán thán. Bấy giờ, Tôn giả ở trong một thảo am bên bờ sông Hằng, tu tập thiền định, chợt có một con quỷ, hiện ra đứng trước mặt, thân hình trần truồng, xấu xí, đen đúa như gốc cây cháy, đầu tóc rối bù, bụng to, cổ nhỏ, mọi thân phần đều bốc cháy, phát ra tiếng kêu khóc thảm thiết. Tôn giả hỏi: “Ngươi là ai?” Quỷ thưa Tôn giả: “Tôi là mẹ Ngài”. Từ khi mạng chung đến nay trải qua hai mươi lăm năm, đọa vào trong loài Ngạ quỷ, chịu đói khát vô cùng. Không nghe đến ăn uống và tên nước. Giá như thấy sông to, bỗng nhiên khô cạn, xa trông thấy rừng cây trái, đến nơi thì không có. Cho đến trong sát na cũng không có chút ít vui vẻ. Rất mong Tôn giả cứu giúp cho tôi. Xin nương chỗ nầy, cầu chút ít nước uống. Tôn giả nghe rồi buồn khóc, than: “Sanh tiền không tạo phước, chết đọa vào nẻo ác, phải phát lòng chí thành, sám hối tội lỗi trước”. Quỷ nói: “Tôi bị phiền não bỏn sẻn che lấp tâm tư đối với các phước điền, chưa từng thí xả chút ít”. Những tài vật sở hữu trước đây, thảy đều ở nhà cũ, đào đất chôn giấu, xin Tôn giả hãy vì tôi, mau lấy những vật này, tổ chức hội đại thí dâng cơm cúng dường Sa-môn và Bà-la-môn. Bố thí cho kẻ bần cùng, cúng dường chư Phật và chúng Hiền thánh, xưng gọi tên tôi, phát lồ sám hối, nguyện cho thân tôi sớm thoát khổ nầy. Tôn giả bảo: “Nếu có thể như thế, nghiêm khắc, trách mắng, hối hận lỗi lầm, tội sẽ được tiêu diệt. Quỷ thưa: “Tôi do thân trước không hổ, không thẹn nên chiêu cảm lấy thân thể trần truồng này, không kham ở như thế này”. Tôn giả bảo: “Nếu đã tạo tác rồi, thì tâm không thương tiếc”. Nghiệp kia quyết định. Nếu có thể phát lồ thì tội không tăng trưởng. Nay đã phát tâm, có thể được trụ ở đây. Lúc ấy, Tôn giả mời thân thuộc của mẹ mình trở lại ngôi nhà cũ, đào lấy các tài vật, như lời quỷ kia thỉnh cầu, vì quỷ tổ chức hội bố thí. Lấy các món ăn ngon bổ cúng dường Tam Bảo và các Bà la môn. Những người xin ăn đều cho no đủ. Lúc ấy mẹ của Tôn giả đứng một bên thấy vô so người, tụ hội đông đúc hổ thẹn hình dáng xấu xí của mình, rơi lệ kêu khóc, chỉ cầu xin Thế Tôn, thương xót cứu độ. Lúc ấy, Tôn giả nằm vóc sát đất, lớn tiếng vì mẹ mà gọi tên họ của bà, nguyện nương việc thiện này sớm được giải thoát. Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng diệu lực của phương tiện, hiện uy thần gia trì vì bà thuyết pháp và chúng hội kia có trăm ngàn chúng sanh nghe pháp giác ngộ, được sự hiểu biết chân thật. Quỷ được lìa khổ, liền mạng chung. Tôn giả, sau đó, lại nhập định xem xét thấy quỷ kia sanh lại trong loài quỷ có tài sản. Liền đi đến chỗ của quỷ, vì quỷ ấy giảng nói túc nhân khiến phát tâm, khuyên hành hạnh bố thí. Nay phải tu phước, sớm cầu xuất ly. Quỷ nghe khuyến hóa, suy nghĩ giây lát rồi thưa: “Bạch Tôn giả” Tôi không thể bố thí”. Tôn giả nghe thế bèn than trách: “Ngươi thật là ngu si, tập khí bỏn sẻn vẫn còn”. Không biết hắc nghiệp, lần lượt vây quanh, nẻo quỷ rất hung hiểm, sao không chán sợ?” Dùng đủ mọi cách khẩn thiết răn trách, kế đến dỗ dành khuyến hóa được hai tấm vải trắng. Tôn giả nhận rồi, cầm giữ bố thí cho chúng Tăng. Chưa kịp đổi bán, mới khiến một vị Tỳ khưu thu lấy cất giữ. Quỷ vẫn còn xẻn tiếc, tâm không muốn thí xả nên ngay đêm đó lén lấy đi. Vị Tỳ khưu sau khi phát hiện mất hai tấm vải mới đến bạch Tôn giả. Tôn giả suy nghĩ: “Đây chẳng phải người nào khác, ta sẽ đến lấy”. Đã đến chỗ của quỷ rồi, quả nhiên lấy được tấm vải. Quỷ lại lén cắp ba lần như thế. Tôn giả cũng ba lần thu hồi lại như trước. Vị Tỳ-kheo thu giữ vải tâm cũng sanh phiền não, bèn chia xé ra, đem phân phát cho chúng Tăng. Ai nấy đều đã thọ nhận rồi, hoặc dùng để vá y. Quỷ kia lại đến, trộm lấy y đem đi.

Đức Phật dạy: “Nên biết tâm tham lam, bỏn sẻn là lỗi lầm lớn. Do sự trói buộc của tâm này vĩnh viễn đọa vào nẻo ác. Cho nên Ta nay phương tiện chỉ rõ, khiến các chúng hữu tình đoạn trừ cấu uế bỏn sẻn, vui tu hành nghiệp bố thí thanh tịnh rộng lớn. Đây gọi là nhiếp thọ chánh hạnh lọng phước bố thí.

Pages: 1 2