KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ soạn tập.
Hán dịch: Sa-môn Nhật Xưng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 7

Nếu có chúng sanh, dùng các thứ đồ vật bố thí cho chúng hữu tình, đó là thức ăn vật uống, y phục ngọa cụ, thuốc men, cho đến hết thảy các thứ châu báu quí giá và các kho tàng đều đem bố thí thì bố thí như thế gọi la bố thí rộng lớn. Hoặc các chúng sanh, tâm vui lam việc bố thí, nhưng chưa đạt đến các loại đồ vật như trên, tùy theo những thứ mình có mà có thể thí cho thì bố thí như thế gọi la Tùy phần thí.

Phật dạy, ở đây có hai loại thí: “Đó là nghiệp thân, ngữ, ý và các uẩn” Thọ, tưởng v.v… cùng với tư đều chuyển. Đồng thời tu tập, hiện tiền thí cho, vui thích tương tục. Đây gọi là thí. Hoặc trong khoảng sát na, phát khởi tâm tịnh, lấy vật mình có mà có thể đem cho cũng gọi là thí.

Lại nói rõ hai loại:

  1. Không thanh tịnh.
  2. Thanh tịnh.

Người khéo thực hành hạnh bố thí phải biết rõ thì có thể kiến lập Nhất thiết chủng trí.

Nếu người bố thí không có giới, không thuận chánh lý thì bố thí như thế không có quả báo. Hoặc người thọ nhận không có giới, không hiểu giáo pháp, chấp sâu tà kiến, nói bố thí không có kết quả thì bố thí cho kia cũng không có quả báo. Đây gọi la không thanh tịnh. Nếu người bố thí có trì giới, chánh kiến, hiểu giáo pháp, biết có quả bố thí thì bố thí như thế là có quả báo. Hoặc người thọ đủ giới, chánh kiến hiểu giáo pháp, nói có quả bố thí, thì đối với người thí kia là có quả báo. Đây gọi la người thí kẻ thọ, cả hai đều thanh tịnh, chánh hạnh viên mãn. Nếu người thí thanh tịnh, kẻ thọ không thanh tịnh, thì đây cũng gọi la thành tựu quả báo bố thí. Hoặc người thí không thanh tịnh, đó là người ngu kia giữ chặt tài sản của mình, giống như kẻ tôi tớ phụng sự chủ. Hoặc bị sai khiến, quan lại đốc thúc, bắt buộc buồn phiền, sau đó mới thí cho. Hoặc bị oán tặc cướp đoạt, tổn hại, chịu các nỗi kinh sợ, sau đó mới cho. Hoặc bị những nỗi khổ già bệnh ràng buộc dần dần bức bách, sau đó mới cho. Các loại cho như thế đều không gọi la bố thí. Hoặc xem ca múa, các loại nghệ thuật biểu diễn, để mua lấy tiếng tốt cho mình. sau đó mới cho. Hoặc thấy người khác cúng tiền tài của cải, tự nói là mình giàu có mà cho gấp bội. Đối với sắc đẹp của người khác, tâm sanh yêu thích, muốn thu lấy về mình, cho gấp bội giá trị của kẻ kia thì cho như thế đều không gọi la thí. Tại sao như vậy? “Bởi lẽ, kẻ kia tuy cho tiền tài mà tâm thường nóng bức, phiền não, cùng kết với Tham, Sân, Si, nghi hoặc v.v… không thuận với chánh lý, tương ưng với bất thiện, chỉ đi đến luân hồi, tạo ra điều không lợi ích, sao có thể chiêu cảm thiện căn xuất thế của kẻ kia?” Như Lai tướng tốt, giữa các ngón tay nối kết đẹp đẽ như mạng lưới là phước báo của bố thí. Những cách cho như trên, ở đây gọi la bố thí không thanh tịnh.

Lại nói hai loại:

  1. Thí rồi không thanh tịnh.
  2. Thí rồi, hồi hướng thanh tịnh.

Lúc ấy ở thành Vương xá, có các đàn việt đã tu tạo phước nghiệp rồi, ở nơi Tăng già lam, trong vườn của chúng Tăng đàn ca múa hát, vui chơi hoan lạc. Lúc ấy,chủ vườn đến thưa cùng chủ chùa. Vị Tỳ-kheo trưởng lão bảo với những người đàn việt kia: Các người vì lẽ gì lại đến đây buông lung? Tạm thời tuy được vừa ý, về sau sẽ chiêu lấy khổ báo? Vị Tỳ-kheo chủ vườn bạch cùng vị Trưởng lão: Những người đàn việt ở đây, lời lẽ hay đẹp khiến cho vui vẻ. Vì cớ gì mà trách họ, khiến mọi người sanh phiền não? Lúc ấy vị Trưởng giả quở mắng người chủ vườn: Ông trước chưa học, không biết giới luật, phục vụ bạch y. Nếu vì tài lợi của họ, thì ông hãy quán xem thọ dụng sự giàu vui này có thể khiến mọi người tâm sanh cuồng loạn, tác ý phi lý, là duyên hủy hoại chánh pháp.

Lúc ấy, vị trưởng lão kia nói kệ:

Nếu ở vườn chúng Tăng
Vui chơi thọ dục lạc
Kẻ ngu kia mù tối
Phá pháp đọa đường ác.
Phải ở trong chốn này
Tu bố thí, trì giới
Cùng hai hành làm bạn
Được đến cửa giải thoát.
Như hồ ao trong sạch
Bên trong trồng hoa sen
Hoa kia đã nở rồi
Sau phải kết thành quả.

Như thế nào nói là bố thí rồi hồi hướng thanh tịnh?” Do người thí kia giữ gìn tịnh giới bền chặt. Thể tánh vui vẻ, xưa nay thanh tịnh. Hết thảy vàng bạc, châu báu hiện có, kho tàng các vật, voi ngựa, xe cộ v.v… tâm không tham tiếc, thảy đều thường bố thí. Biết có quả báo bố thí và đời khác của quả báo ấy. Chán ghét luân hồi, lưu chuyển mau chóng, vui chứng chân thường, lìa các lỗi lầm. Đối với hoan lạc năm dục ở thế gian kia, không sanh nhiễm trước, đều luôn xả bỏ. Đối với sự khen, chê, tâm không dao động. Thấy người đến xin dịu dàng, an ủi, hỏi han, sắc mặt hòa nhã vui vẻ, tránh cau có, buồn bực, như trông thấy thân thuộc tôn kính, lòng không mệt mỏi chán nản. Tùy theo ý muốn của kẻ kia đều khiến cho được đầy đủ. Mau chóng lấy cho, không sanh nghi ngờ hối hận, xa lìa những sự dua nịnh dối trá. Trừ sạch cấu uế bỏn sẻn, chỉ vui với lợi ích của kẻ khác. Gánh vác cho mọi người. Giữ gìn uy nghi. Dứt bỏ những việc kiện cãi.

Hoặc có người đến xin một chi phần của thân thể, thì phải khéo tu nhẫn nhục, không sanh tâm nóng nảy bực bội. Tâm không tán loạn, vui vẻ bố thí tối thượng: Kẻ kia khéo theo phương tiện, cầu xin ở nơi ta. Ta phải vui vẻ mà bố thí cho họ. Khiến cho ta được đầy đủ tịnh giới, tinh tấn, thiền định, thắng tuệ, các Ba-la-mật mau chứng được lạc trú hiện pháp vô vi, thành tựu chánh đẳng vô thượng Bồ-đề.

Lại các chúng hữu tình, do kia giàu có, sắc lực khỏe mạnh, tham đắm dục lạc. Kẻ kia ở thế gian, không gần gũi bạn tốt, không thích nghe pháp Phật, ương ngạnh khó hóa độ. Cho đến phát khởi nhiều loại bệnh khổ: nhức đầu, vàng da, ho hen v.v… hoặc ba nhóm bệnh, lam cho mạng chung.

Lại, quan chức, nông dân, thương nhân thợ thuyền, hết thảy dân chúng ở trong thế gian, tâm thường vội vả, hấp tấp, không lúc nào thong dong, thư thả. Chỉ một bề dong rủi, tìm cầu những thú vui phóng dật, rơi vào hầm sâu hiểm nạn của năm dục, xoay vần luân hồi, không biết cách thoát ra. Dùng tâm đại bi khai thị, răn dạy. Đối với kẻ tối tăm ngu si, làm cho phát khởi trí sáng. Với người không ai cứu giúp, được diệt trừ khổ não. Người không chỗ nương tựa được nơi an ổn, cho đến kẻ đang chịu những đau khổ trong địa ngục, dùng phước nghiệp bố thí mà ta tu tập, bố thí cho chúng hữu tình, khiến đều lìa khổ. Dùng quả báo bố thí mà ta gặt hái được, không cầu những hoan lạc của năm dục ở thế gian, cũng không ưa thích sự giàu sang vinh hiển. Chỉ mong vượt khỏi luân hồi, cứu cánh giải thoát. Đây gọi la bố thí rồi, hồi hướng thanh tịnh.

Đức Phật dạy: Sự bố thí thanh tịnh được thực hiện như thế. Nhân duyên thuở xưa ta nay nói tóm lược. Trong vô lượng đời về quá khứ, có nước tên Thiện Thanh, vua là Thiện Thắng, giàu sang tự tại. Quyến thuộc rất nhiều, dân chúng đông đúc, yên ổn, giàu vui, yêu kính lẫn nhau, không có tranh cãi, kiện cáo, không nghe lời xấu ác, không có bệnh tật. Vườn rừng tốt tươi, cây trái ngon ngọt. Đất đai màu mỡ, không sanh gai gốc, vật dụng nuôi sống thảy đều đầy đủ. Cõi nước rất là thịnh trị. Nhà vua bẩm tánh nhân ái, hiền hòa, thảy xem lê dân giống như con đẻ. Yêu thích chánh pháp, chưa từng tạm bỏ. Tâm đại bi chắc chắn, thương xót hết thảy. Chán ghét lìa bỏ hữu vi, thấu rõ vô ngã. Là bậc đại trượng phu, mọi người đều khen ngợi. An trụ trong sự bo thí rộng lớn, tâm không tham tiếc. Hết thảy vật sở hữu, nhà vua đều thường xả bỏ. Mỗi sáng sớm, vào đàn bo thí, dùng lời le dịu dàng an ủi những người đến xin,. Hoặc họ cần ăn uống thì ban cho món ăn ngon. Hoặc kẻ cầu áo quần thì cho y phục tốt đẹp. Cho đến vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chơn châu, ma ni, kho lẫm các vật, tùy theo ý muốn, thảy đều cung cấp cho. Bố thí như thế rồi, Nhà vua lại vào hậu cung, gọi các nữ quan, tôi trai, tớ gái, đại thần, quan lớn… mỗi mỗi thảy đều thí cho, khiến được đầy đủ. Các vật sở hữu, thảy đều thí xả hết không còn sót lại gì, chỉ còn bộ trang phục mặc trên người. Lúc ấy, vua Thiện Thắng suy nghĩ thế này: Nay trong thành nầy, hết thảy dân chúng ta đã chu cấp, đều được giàu có, đầy đủ, chỉ có những côn trùng là chưa từng được thấm nhuần ân huệ. Suy nghĩ dùng vật gì để có thể cứu giúp chúng. Lúc ấy nhà vua liền đi đến chỗ có nhiều ruồi muỗi cỡi chiếc áo đang mặc, để cho chúng chích hút, khiến đều được no đủ, tâm không chút khổ nhọc. Lúc ấy Đế Thích nhìn xuống cõi nhơn gian, thấy việc này rồi, lấy làm lạ chưa từng có. Vua Thiện Thắng kia, thường khởi tâm đại bi rộng lớn như vậy, lam lợi ích, an lạc cho hết thảy hữu tình. Ta sẽ tự thân hành đi đến để kiểm nghiệm lại sự thật tâm của vua. Vua trời Đế Thích bèn hóa thành con chim Thứu, lông cánh đen kịt, móng mỏ sắc bén, bay đến trước mặt vua muốn mổ lấy hai mắt. Vua tích chứa tâm từ nhẫn trọn không chút khiếp sợ, dùng mắt từ ái, đoái nhìn chim kia, nói: “Nay thân thịt của ta, người mặc tình ăn dùng. Chim vội cúi mình xuống, bỗng nhiên biến mất. Vua Đế Thích lại biến thân mình thành một Bà-la-môn, đi đến trước vua, gần gũi cung kính: “Rất mong đại vương bo thí cho tôi đôi mắt”. Nhà vua liền bảo: “Này Đại Bà-la-môn! Ngươi nếu quả thật cần thiết thì hãy tự mình lấy đi. Ta đối với mắt mình, không chút tham tiếc”. Bấy giờ Trời Đế Thích kia biết hạnh bo thí của nhà vua, chân thật không hư dối, liền ẩn mất thân Bà-la-môn, hiện thân tướng thật của mình, lòng rất hoan hỷ, tán thán: “Lành thay, Đại vương nay tâm đại bi kiên cố, nguyện lực chắc chắn. Nơi nơi chốn chốn, hết thảy chúng sanh nghe tên của đại vương đều được sự tốt lành to lớn. Không lâu sẽ chứng được quả Bồ đề tối thượng”. Bố thí như thế, người chủ thí và vật được bố thí, hoặc nhiều rộng, hoặc nhỏ ít, không gì là không thanh tịnh. Người nầy sẽ chứng được Niệm xứ, chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, các pháp công đức. Đối với đạo Bồ đề, không còn thoái chuyển, là phước điền thanh tịnh tối thượng, có thể trưởng dưỡng thiện căn của hết thảy chúng sanh. Bậc đại trượng phu nầy là chỗ về nương của Cha mẹ, thân thuộc, bạn bè. Như nhà cửa tốt đẹp luôn ngăn chận gió mưa, nóng lạnh, các côn trùng, khiến được an ổn trụ, thường ở nơi vô số Sa-môn, Bà-la-môn v.v… ở trong đại chúng, khéo tuyên thuyết luận nghị, dung mạo hòa vui, thân tâm mạnh mẽ, tinh tường; dùng tuệ quyết định, hàng phục các dị kiến. Ví như hương tượng sức mạnh nơi núi Tuyết, đè bẹp những kẻ oán địch của mình, tâm không chút sợ hãi. Giống như bậc tôn sư, dạy bảo đồ chúng, không bỏ họ. Như mẹ nghĩ nhớ đến con. Phải biết người này, như ao nước trong mát thường cứu giúp hết thảy kẻ mệt khát. Như bông hoa kỳ diệu được mọi người yêu thích, tùy theo nở chỗ nào thì lam trang nghiêm chỗ đó, Như bậc y sư kia khéo điều trị các bệnh, đến chỗ nào thì thường đem sự an lạc đến chỗ đó. Như kẻ trì chú có thể trừ các rắn độc, người kia khéo trừ diệt các độc tham, sân, si, nhiều kiếp bị chìm đắm trong bùn nhơ sanh tử, khiến chúng tu tập các pháp thiện tương ưng và chơn thật, dần dần dẫn đến núi báu công đức. Như rừng chiên đàn, hương thơm theo gió bay xa, mọi người, theo chỗ nghe thấy, không ai không vui lòng. Tiếng tốt, này cũng giống như thế. Ở khắp mọi nơi đều được mọi người kinh vâng. Như kinh đô của vua, yên ổn không có gì lo sợ, hết thảy nhân dân nương tựa mà ở. Người này hành hạnh bo thí, được mọi người thân cận như trăng tròn mùa thu, ánh sáng vằng vặc, hết thảy thế gian, thảy đều chiêm ngưỡng. Người ưa thích tu bo thí cũng lại như thế. Như đấng Mâu ni, các căn tịch tĩnh, tuyên thuyết pháp giải thoát hoan hỉ bố thí, viên mãn rộng lớn, nối nhau không lười trễ. Đây gọi la Bố thí, chánh niệm, giải thoát thanh tịnh.

Lại vị bố thí kia thấy có người đến, cầu xin nơi mình, phải đứng dậy, đón tiếp, an ủi. Trước tiên thăm hỏi, dâng các loại nước hương, để người kia rửa tay. Sau đó, như pháp bày biện thức ăn vật uống. Theo chỗ mong cầu của kẻ kia đều thí cho. Nhẫn đến cảnh giới vui vẻ sở hữu, tâm cũng không tham tiếc, hoan hỉ dâng cho. Đã bố thí như thế rồi, người kia tức có thể xả bỏ hết thảy sự ngăn che, trói buộc, có thể thâu lấy hết thảy thiện căn. Một khi bỏ thân này rồi, trung hữu sáng suốt, linh lợi, nhất định sanh về cõi trời Tri Túc, cảnh giới an ổn, diệu lạc bậc nhất. Lúc ấy, cùng trời kia có cây Kiếp-ba, lá tươi tốt xanh biếc, tỏa ánh sáng vi diệu. Hoa báu nở ra, hương thơm xông khắp. Lại còn sanh ra các loại Thiên y thù diệu, trùm các chúng trời, lấy dùng tùy ý. Lại có cung điện thanh tịnh rộng lớn, do châu báu tạo thành, vàng ròng xen lẫn, vô số bình báu, xếp hàng vây quanh. Phan phướn thêu vẽ diệu kỳ, phất phơ theo gió. Lại có vô số trăm ngàn Thiên nữ, hình dáng thướt tha, diễm 1ệ, không gì sánh kịp. Những vòng hoa thù diệu nối kết trang sức xiêm y. Đai áo bằng châu báu, dùng buộc thân hình, xuyến vàng, khoen ngọc, ngọc kha, ngọc bội, châu anh lạc, theo bước đi uyển chuyển khua vang, nghe thật đáng yêu. Những thiên nữ như thế trong cõi kia đông đầy. Lúc ấy, Thiên nữ đẹp đẽ bậc nhứt kia biết có một thiên tử mới sanh về cõi nầy, bèn cùng các quyến thuộc biểu diễn các thứ kỹ nhạc, đi đến cửa thành cõi trời, cung nghinh đón tiếp. Khi đó trong chúng vị thiên tử mới sanh về, uy đức tôn quý riêng biệt hình sắc khác lạ, tóc xanh biếc mềm mại, nhuần thấm, xoắn quanh phía hữu. Hết thảy bụi bặm đều không thể dính. Mắt trong sáng, dài. rộng như hoa sen xanh. Sắc môi đỏ đẹp như trái tần bà. Răng trắng đều khít như ngọc kha, như tuyết. Thân phát ra ánh sáng, cùng mặt chiếu sáng, dài ngắn xứng hợp, người nhìn thấy vui vẻ. Vị Thiên nữ đẹp đẽ bậc nhất kia thưa cùng thiên tử: “Nay trong cõi trời này, những hoan lạc thù diệu, trọn không có cõi nào hơn. Rất mong nhân giả cùng tôi kết lam phu thê, an trụ lâu dài nơi cõi này, cùng nhau vui vầy. Liền lấy bình vàng, rót nước rửa tay, và mũ báu cõi trời, các loại anh lạc, các vật dụng trang nghiêm thân, đều lấy dâng cho thiên tử. Lại có Thiên nữ, tay cầm phất trần trắng dẫn đường, đi đến rừng hoa báu, biểu diễn múa hát, tấu các loại âm nhạc. Cả hai cùng nhìn nhau hưởng thọ dục lạc thù diệu. Kế đến lại bay lên lầu quán vi diệu giữa trời, dạo chơi mọi nơi chốn, nghỉ ngơi, tùy ý tự tại. Hoặc trong ao báu cùng dạo chơi vui đùa. Các thiên nữ kia giành nhau hái hoa sen, ai nấy đều dâng lên vị thiên tử mới sanh. Hoặc là rải hoa, trải khắp mặt đất. Mọi người đều sanh tưởng dục, đều đến gần gũi. Lại có một vị trời đi tới vui mừng, an ủi: Nhân giả thuở xưa, nơi cõi nhân gian, tu hạnh Du Già phá trừ tham dục, diệt nhân duyên bất tịnh, nay được sanh về đây, thọ lạc thù thắng được các Thiên nữ cũng kính, vây quanh. Lúc ấy vị trời kia liền đảnh lễ, hoan hỷ, khen ngợi rồi nói kệ:

Lành thay, Nhân giả sanh trời này
Được thọ năm thứ dục thù thắng
Như trăng tròn sáng đẹp trời cao
Nở đóa sen xanh hương tỏa ngát
Xưa tu muôn hạnh thiện rộng lớn
Thân phát ánh sáng tịnh vi diệu
Thường dùng mắt từ nhìn chúng sanh
Nên được người trời đồng cung kính.
Lại có rừng chiên đàn thanh tịnh
Cành lá nương nhau thật đáng yêu
Dây dài trải khắp, rũ bốn phương
Hoa thơm chen lẫn thảy tốt tươi
Có các Thiên nữ ỡ trong đây
Dung nhan trắng sạch rất đoan nhã
Thân hình mềm mại tỏa hương diệu
Đua tài ca múa không biết mệt
Tôi nay được hầu hạ nhân giả
Mắt sáng lòng vui chưa từng có
Đời này thỏa ý không luống bỏ
Nào phải chút duyên mà có được
Trăm ngàn Thiên nữ thường vây quanh
Nhờ hành phước trước mà trang nghiêm
Thí báo như thế khó nghĩ bàn
Cần phải dứt hẳn các nghi hoặc

Lúc ấy vị Thiên tử mới sanh dùng kệ đáp:

Nếu muốn tăng trưởng kho công đức
Phải tu thí thanh tịnh rộng lớn
Chắc chắn có được vui thượng diệu
Nước, lửa, phi nhơn không thể phá
Hoan lạc Thiên giới thật hy hữu
Thọ dụng tùy ý thảy hiện tiền
Những người thông tuệ ở thế gian
Phải phát tâm tịnh hành bố thí

Các chúng hữu tình phải khéo suy nghĩ, bố thí như thế rồi, thọ báo thù thắng cõi trời, sau sanh vào cõi người, trong gia đình vọng tộc, đầy đủ uy danh lớn, sắc tướng đoan nghiêm, được mọi người vui thích nhìn. Thân thuộc đầy đủ, giàu có vô lượng. Ví gặp duyên xấu ác cũng không thể phá hoại. Như trong kinh Nhân duyên, mẹ của vua Tỳ Xá Khư nói: Lúc ấy, con gái của vua cùng với quyến thuộc đi ra khỏi cung, đến hoa viên du ngoạn. Sau khi vui chơi rồi bèn nghỉ ngơi, cởi những vật trang sức bằng châu báu quý ra, lấy để vào trong khăn bịt đầu rồi giao cho tỳ nữ của mình. Lại đi đến chỗ Phật, vui nghe chánh pháp. Nghe xong, trở về cung. Nữ tỳ chợt quên mất món đồ mình giữ. Cô con gái của vua nghe, lấy làm không vui. Cô thưa cho vua cha biết. Người mẹ nói với nhà vua: “Vật này nhất định còn. Giả sử có người thấy, cũng không thể lấy được. Ta ở trong nhiều kiếp, cho đến đời này, đối với vật của người khác, không sanh một chút ý tham. Nếu như khởi niệm này, thì ta phải muốn lấy hết thảy tài vật, thân phần của chúng sanh, ta phải không thể được thấy chư Phật, khiến chúng hữu tình được quả báo như ý”. Lúc ấy, Tôn giả A-nan trông thấy vật này rồi, bèn lấy cất, sáng hôm sau đi đến cung, dâng nộp cho vua. Vua nói: Vật bị đánh mất kia, nhờ Tôn giả trông thấy. Người khác nếu nhặt được ắt đã giấu đi. Người mẹ nói với vua: “Sao con không tin?” Ta đem vật này ném ở nơi ngã tư đường để kiểm chứng phước lực của mình, xem ai có thể lấy nó?. Sau khi đã vất bỏ như thế rồi, những người qua lại, ai nấy đều trông thấy, lấy làm lạ, hoặc nói là bất tịnh, hoặc nói là rắn độc, rồi bo đi. Vua vẫn con nghi, chờ mẹ ngủ say, tháo lấy chiếc nhẫn của Bà ném xuống sông. Bà mẹ thức dậy hỏi: “Ai lấy chiếc nhẫn đi?” Vua thưa: “Nhờ phước lực giữ gìn, người nào dám lấy?”. Người mẹ nói: “Chờ đấy! Sau nhất định sẽ tìm được”. Bỗng một hôm, sai người vào chợ mua một con cá đem về. Lúc mổ bụng cá thì thấy chiếc nhẫn. Mọi người đều kinh lạ. Nhà vua liền tán thán: “Hay thay, Mẹ ta, lời nói chắc thật như tiếng gầm của Sư tử”. Về sau, Tôn giả A nan lại đến chỗ vua. Nhà vua bội phần tin tưởng, bèn nói: “Phước lực chân thật như thế, rốt cuộc tôi sẽ vui tu phước nghiệp”.

 

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 8

Phật dạy: Đại vương! Nên biết hết thảy chúng sanh ở thế gian, do vì bo thí thanh tịnh nên phước báo lãnh thọ, kẻ oán thù không thể phá hoại. Giả sử trăm ngàn người cũng không thể cướp đoạt. Đi đến chỗ nào phước cũng dẫn đầu, cho đến đời khác, phước cũng như vậy, giống như bạn bè, thường tìm kiếm theo đuổi. Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Do đời trước tích tập
Những phước hạnh rộng lớn
Nay được lam đế vương
Đủ an lành tôn quý
Trăm ngàn kẻ tùy tùng
Xếp hàng trước mặt vua
Do phước lực thâu phục
Chiêm ngưỡng đều kính sợ
Phải biết phước nghiệp kia
Như mắt bụng, tay chân
Thường yêu thương, giữ gìn
Khiến nối nhau không dứt
Ta xưa tu hạnh thí
Hết thảy đều xả bỏ
Chỉ giữ một con voi
Theo ý mình cỡi đi
Vui nương chốn núi rừng
Tu tập các thiền định
Lúc ấy dân trong nước
Thảy đến cùng đi theo
Tay cầm phất trần trắng
Hoặc là cầm tán lộng
Lại lấy các đệm cỏ
Trải giường tòa chỗ đến
Mọi người cùng thưa vua
Chúng tôi không phước tuệ
Nay mong đều gần gũi
Cùng tu các hạnh lành
Phước là tài sản báu
Thường được vui chơn thật
Phước là người thân nhất
Dẫn đến nơi an ổn
Phước tợ ngọc như ý
Đặt trong lòng tay mình
Tạo an lành tối thượng
Chỗ cầu đều thành tựu
Đủ sắc tướng tốt đẹp
Thọ năm dục vui vẻ
Lời nói người thích nghe
Khéo léo thật rõ ràng
Thọ mạng được dài lâu
An ổn không lo phiền
Hết thảy mọi chúng sanh
Trông thấy như thân hữu

Nếu các hữu tình, ở nơi phước điền thù thắng, thuận theo chánh lý, chuyên tâm bố thí, chắc chắn trong đời này, hiện tại có được phước báo tương ưng giàu có sung túc. Như phu nhân Kim Phát, nghe công đức Phật, tâm sanh kính ngưỡng, bèn lấy tóc vàng vi diệu có trước của mình, dâng lên Như Lai. Lại, con gái của vua Thiện Tư, dùng món ăn ngon lạ cúng dường cho Tôn giả Tu Bồ Đề. Lại, con gái của Bà-la-môn Tu Phát, tự cắt tóc mình đem bán để thết cơm cúng dường Tôn giả Đại Ca Chiên Diên, tóc lại mọc như cũ. Ba người con gái này, do bố thí thanh tịnh, thân hiện lại đều được lam hoàng hậu của nước. Lại, Trưởng giả Phước Nghiêm, cúi mình tới thỉnh Phật và các vị La Hán đến nhà thết trai cúng dường, kho lẫm lại đầy tràn. Như cô gái chăn trâu cầm hương chiên đàn và cô gái nhà nông lấy bông lúa mạch cúng dường tháp Phật. Cả hai cô gái đều được sanh Thiên. Như thế được thọ hưởng nhân duyên của quả báo hiện tại. Như kinh Thắng Quân vương nói: Lúc Phật ở thành Xá-vệ, phu nhân Mạt Lợi, vợ vua Thắng Quân, mới sanh một bé gái, đủ mười tám tướng trạng cực xấu. Tuổi lớn dần phải tìm nơi gả chồng. Những nhà quý tộc kia, không ai muốn làm cha chồng cô gái. Còn những dòng họ thấp kém, ý vua không bằng lòng. Khi ấy, có con một người trưởng giả nước ngoại, sinh sống lâu trong thành này, mọi chi phí tiêu dùng đều cạn sạch, lẻ loi đi khắp nơi, chưa có chỗ sánh đôi. Quan lại tâu với vua, có thể cho kẻ kia yết kiến. Vua bèn triệu đến và bảo anh ta: Ta có một trưởng nữ, nhận khanh lam rễ. Nếu cùng theo nhau thì phú quý trọn đời. Nếu như muốn về nước, cũng có thể cùng về. Con gái con vua bèn lấy những thứ châu báu quý giá trang sức nơi thân, rồi vua đem gả cho kẻ kia cùng ban cho vô số các loại tiền của vật báu. Người con trưởng giả, khi ấy, bèn lấy cô công chúa nầy làm vợ. Chẳng bao lâu sau, hai vợ chồng cùng trở về bản quốc. Đã về đến nhà, bà con thân tộc của người con trai bày lễ xin gặp mặt. Người con trưởng giả nói: “Vợ tôi là con gái của vua, xem mặt đâu có dễ. Nếu muốn xem, tất phải chọn ngày”. Về sau, những người thân thuộc lại đến nhà. Người con Trưởng giả nói: “Xin hẹn bảy ngày sau, ra khỏi thành đến hoa viên sẽ cùng gặp nhau ở đấy”.

Mọi người hỏi gạn lại: “Lời nói này chắc chắn. Nếu không đến ta sẽ phạt năm mươi vạn tiền”. Bảy ngày đã đến, người con trưởng giả kia bày biện đầy đủ các loại thức ăn ngon lạ. Trước lấy một phần đem để trong phòng, rồi báo cho vợ biết, khóa chặt cửa phòng 1ại, tiếp theo người con trưởng giả mang khoản tiền bị phạt và thức ăn, vật uống đi vào hoa viên. Lúc ấy, mọi người ở trong vườn, xa thấy người con Trưởng giả kia chỉ đến một mình, đều bảo nhau: “Người này nói dối không theo sự nghị bàn trước”.

Khi đã đến vườn, người con Trưởng giả thưa cùng bà con thân thuộc: “May mắn là không thấy ai nóng giận, xin được nộp khoản tiền phạt. Mọi người nói vợ ông là hạng tôn quý, giấu kín trong nhà, ánh sáng của mặt trời mặt trăng còn không cho gặp huống gì chúng ta, làm sao có thể thấy được”

Lúc ấy, con gái của vua tự than thầm: “Ta tuy tuổi trẻ mà hình dung xấu xí. Đây là nghiệp ác gì mà chiêu cảm lấy sự thô xấu này” Rồi lớn tiếng than: “Khổ thay Khổ thay! Khiến cho chồng ta phải chịu nhiều sự hỗ thẹn, thường phải nói dối và bị trách phạt. Sống ở trên đời như thế thì sống lam gì” Than xong liền lấy dãi lụa tự thắt cổ mình. Lúc ấy, vị thần thủ hộ nhà thấy sự việc này bèn nói với cô gái con vua: “Ta phải cởi ra để bảo toàn tánh mạng, không để cho chết yểu. Nên biết đức Thế Tôn, đại bi vô tận, thường vui cứu độ các chúng hữu tình, thường khởi niệm thế này:

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào giảng nói pháp chánh yếu, khiến sanh tín hiểu?

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến chúng tẩy trừ cấu uế tham dục.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ dứt trừ lỗi lầm của sân hận

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến diệt trừ ngu si ám độn.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ tăng trưởng hết thảy thiện căn.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ xuất ly bùn nhơ sanh tử.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ vượt qua biển khổ luân hồi.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ giải thoát khỏi sự cột trói của phiền não.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ nhổ bỏ tên độc tuệ ác.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ cắt dứt bốn dòng thác dữ, khiến đến bờ kia.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ thoát khỏi các loại khổ độc của ba đường ác.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, bố thí nước pháp, khiến họ dứt trừ khát ái.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ chán ghét bệnh ung nhọt của cảnh giới.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ phá vỡ màng vỏ vô minh từ vô thỉ.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ đè bẹp núi cao ngã mạn.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ xa lìa các điều ác, mặc áo hổ thẹn.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ tu tập đầy đủ Giới, Định, Tuệ học.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ thông đạt các pháp, tâm được tự tại.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ đạt được tuệ nhãn thanh tịnh.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ vượt vào cửa đại giải thoát.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ phát khởi tâm Đại Bồ Đề.

– Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, dùng vòng hoa Bồ đề kết vòng trên đầu chúng.

– Ta nay phải khiến cho con gái vua Thắng Quân, thay đổi hình dạng xấu xí, được sở nguyện.

Đây là đức Thế Tôn, trong từng sát-na, sát-na, niệm niệm quán sát hết thảy chúng sanh, hoặc gần, hoặc xa, hoặc tốt đẹp, hoặc xấu kém, tánh thượng, trung, hạ, đều hay cứu độ. Mắt tuệ thảy đều thấy, không bỏ sót một chúng sanh nào. Như có kệ nói:

Phật không bỏ chúng sanh
Xa gần đều hóa độ
Như trái lúc chín tới
Tự nhiên sanh vị ngọt
Cho nên đức Mâu Ni
Oán thân chỉ một tưởng
Lợi lạc các chúng sanh
Cũng không mong quả báo

Bấy giờ, đức Thế Tôn, trước vì thu phục, giáo hóa ngoại đạo lõa hình Ni Kiền Tử nên hiện tướng đại nhân ngồi trên hoa sen báo, thân mặc y hồng, rực rỡ như mặt trời mới mọc, sắc tướng tịch tĩnh, an trụ uy nghi, giống như núi vàng phát ánh sáng vô cùng tận. Ở trong đại hội vô so người trời, như ở giữa muôn vì sao hiện rõ ánh trăng tròn. Cũng như cây Đa-la báu nơi thiên cung, gió nhẹ lay động, mọi người thích nương ở. Như cây San-hô, hoa báu trang nghiêm. Như trong mâm vàng, đốt đèn đuốc lớn. Như voi hương trắng lội vào sông Ni liên, được bụi phấn nơi nhụy hoa sen vàng phủ đầy. Cũng như mùa xuân, cây Yết-ni-ca nở ngát hoa vàng, mọi người đều ưa thích, khéo có thể điều phục hết thảy hữu tình; vào trong các đường ác, không sanh mệt chán, du hóa nẻo thiện, khéo thuyết giảng các pháp, đều khiến phát tâm được vui an ổn. Do chúng hữu tình từ vô thỉ đến nay, nối nhau tạo tác các hạnh ác, tham, sân, si v.v… Hoặc oán hoặc thân và không thân oán, bình đẳng thương xót giống như một người con, đều khiến xuất ly khỏi hiểm nạn luân hồi. Như mặt trời xua tan bóng đêm, khiến hết hẳn không còn sót. Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng âm thanh của bậc Nhất thiết trí, vì ngoại đạo kia, lược nói pháp chánh yếu. Nên biết thế gian, pháp động, bất động, dùng trí thấu suốt, thảy đều “không tịch”. Do tâm hư vọng, mê lầm nơi nhận thức chơn thật, tự tánh Niết Bàn xưa nay thanh tịnh. Ngoại đạo kia nghe thuyết giảng như thế, tâm được khai ngộ, liền có thể đoạn trừ các nga mạn chấp chặt. Ví như sư tử cất tiếng gầm rống, tự nhiên có thể làm rạn nứt tảng đá to. Lúc ấy, đức Như Lai bẻ gãy những dị kiến kia, luận nghị thù thắng, hiện đại thần thông, bay lên cõi trời A-ca-ni-trá. Tất cả chúng sanh ở trong cõi nầy, thảy đều ngợi khen công đức của Phật, hết thảy thế gian không ai có thể hơn. Lại hiển hiện tướng ô-sắt-ni-sa: Tướng vô kiến đảnh, ly cấu tối thắng. Sắc xanh biếc xoay quanh phía hữu, nhuần thấm rất đáng yêu. Lại phóng ánh sáng từ tướng bạch hào ở giữa hai mắt, như trăng tròn mùa thu. Đây là công đức đệ nhất của Như Lai, chẳng phải cùng điều thiện nhỏ của Phạm Thiên mà cảm được. Là do tâm đại bi, lợi tha của Phật phát khởi. Giả như các chúng sanh nhiều như vi trần nhóm họp, an trụ trong chánh tư duy, cũng không thể suy lường được tướng ô-sắt-ni-sa kia. Chẳng cứng, chẳng mềm; chẳng thành, chẳng hoại; chẳng gấp, chẳng hoãn, chẳng động, chẳng tĩnh; chẳng trầm trệ, chẳng dao động; chẳng bằng phẳng, chẳng hiểm trở; chẳng hợp, chẳng tan; chẳng bám, chẳng lìa; chẳng siêng, chẳng lười; chẳng lo, chẳng toan, chẳng bệnh, chẳng não. Hết thảy chúng sanh bình đẳng cùng có công đức đệ nhất, an lành tối thắng. Khi đó ngoại đạo kia, tâm tin hiểu thanh tịnh, ở trong pháp Phật, được trụ an ổn.

Bấy giờ, cô gái con vua, ở trong nhà mình, nhờ hào quang của Phật chiếu, tâm được an ổn vui vẻ, liền khởi suy nghĩ thế này: Nay Phật ở đời, lam lợi lạc chúng sanh. Có kẻ gặp nguy nan đều nhờ Phật tế độ. Chỉ mong Thế Tôn, không bỏ lòng Đại bi, thương xót che chở, hộ trì, hiện thân trước con. Nói những lời như thế rồi hướng về phía xa, rạp mình kính lễ, buồn khóc rơi lệ. Phật biết được ý của nàng, khiến trong căn nhà ấy hốt nhiên nghiêm tịnh. Lúc ấy, đức Như Lai, từ đất vọt lên, thân sắc vàng ròng, tướng hảo đoan nghiêm. Cô gái con vua, thấy thân tướng Phật, tán thán chưa từng có, dùng hương hoa thù diệu kính dâng cúng dường. Lại dùng ngọc anh lạc, châu báu quí giá phụng cúng. Chấp tay đảnh lễ, cung kính gần gũi. Bóng Phật che thân, mau được đoan chánh. Lòng rất vui mừng, hân hoan cực độ, cúi mình trước Phật, dùng kệ tán thán:

Thích Sư tử tối thắng
Nương hang đá Chỉ la
Đủ thiểu dục tri túc
Lìa lỗi lầm thế gian
Trí tuệ là răng bén
Tàm, quý là tóc râu
Hàng phục các ma oán
Như ngoạm loài hươu nai
Nhẫn là áo giáp chắc
Từ lực lấy làm cung
Khéo bắn tên trí tuệ
Diệt trừ giặc phiền não
Tâm giải thoát lam ao
Chánh hạnh lam bờ đê
Nước tinh tấn không nhơ
Nở hoa sen ý giác
Dũng mãnh lìa các lỗi
Dứt trừ căn ba cõi
Thí pháp lạc bình đẳng
Lành bệnh Tham, Sân, Si
Đủ uy đức mạnh mẽ
Tướng tốt để trang nghiêm
Tăng trưởng tâm công đức
Gánh vác cho hữu tình
Khéo trụ các uy nghi
Các căn không tán loạn
Như hoa câu phược la
Người thấy sanh vui thích
Không sợ không cấu nhiễm
Tâm tối thắng tịch tĩnh
Giải thoát hết buộc trói
Thành tựu hết thảy trí
Mâu ni, Đại ngưu vương
Thế gian không ai sánh
Thường cứu các chúng sanh
Hoặc bệnh, hoặc ưu não
Mặc Tăng-già-lê hồng
Lặng trong mà bất động
Con dùng các thí dụ
Tâm thanh tịnh xưng tán
Như cây đa-la vàng
Thân cao thẳng uy nghiêm
Cũng như cây trụ vàng
Tỏa ánh sáng rực rỡ
Lại như thỏi vàng kia
Mạ bột gỗ chiên đàn
Thân tướng Phật như thế
So sánh không thể biết
Hoặc bảo núi vàng diệu
Một ngọn cao chót vót
Bị cuồng phong thổi dữ
Trụ vững vàng như cũ.
Hoặc bảo A-tu-la
Cùng vua trời đánh nhau
Xe vàng kia rơi xuống
Bổng hiện ra nơi đây
Hoặc bảo cờ Đế Thích
Do vàng ròng tạo thành
Uy nghiêm lại rực rỡ
Bỗng hiện ra nơi đây
Hoặc bảo trời Đa văn
Lầu gác báu vi diệu
Dùng châu báu trang nghiêm
Bỗng hiện ra nơi đây
Hoặc Phật mẫu Trì Địa
Lộ ra kho báu quý
Phóng ánh sáng rực rỡ
Bỗng nhiên hiện nơi đây.

Đức Phật bố thí hóa độ rồi, bỗng nhiên ẩn mất. Khi ấy, cô gái con vua kia ngồi kiết già, một lòng chuyên chú, tưởng niệm thân Phật. Lúc này, người con trưởng giả, trước ở trong vườn, bị bạn bè thân thích ép uống đến say bí tỉ. Mọi người cùng luận bàn với nhau: Có thể lấy chìa khóa cửa trong tay nó. Rồi cả đám mau chóng đến nhà kia, mở cửa mà nhìn, mới thấy vợ của người này, hình dáng như tiên nữ. Ai nấy đều ngạc nhiên, bất giác cung kính thi lễ. Lúc ấy, người con trưởng giả về đến, thấy vợ mình dung nhan đoan chánh. Người vợ bèn đem sự việc trên thuật lại cho chồng biết. Nay Phật Thế Tôn, bậc phước điền tối thượng, con nay lại đến, cung kính cúng dường. Đã làm Phật sự rồi bèn tự mình phát thệ: “Nếu các nghiệp ác mà thân này của tôi sở hữu, chiêu lấy quả báo xấu xí này, mong không thọ lại nữa”. Cho đến hết thảy chúng sanh trong thế gian lìa thân thô xấu, đều được đoan chánh. Liền ở trước Phật, dùng kệ nói lại ý này:

Thế Tôn sắc tướng diệu
Trang nghiêm đều đầy đủ
Thường khiến chúng hữu tình
Người thấy được như ý
Con nay đem chút thiện
Đến khắp chúng hữu tình
Thảy dứt nhân thô xấu
Đều được báo đoan nghiêm

Phật nói: Này hiền nữ! Ta không tự tán thán, không nói lời dối trá, không cầu mong cúng dường. Tùy theo nghiệp báo thọ lãnh của chúng hữu tình, khởi tâm đại bi mà cứu độ chúng. Bèn nói kệ:

Ta là Điều Ngự Sư thế gian
Không cầu tiếng khen và lợi dưỡng
Thường giỏi bẻ gãy cờ năm dục
Đều khiến chúng sanh tâm tịch tĩnh
Ba minh, hai hành thảy đầy đủ
Tạo an lành cho chúng nhơn thiên
Ta đã hàng phục các ma oán
Rốt ráo không người có thể hơn
Lìa hẳn lỗi lầm trong ba cõi
Không sanh phiền não, tâm giải thoát
Tập khí kia dứt hết không còn
Được thọ thế gian, rộng cúng dường
Nếu có chúng sanh đến gây ác
Tâm vẫn bất động như hư không
Thề sẽ đảm đương chúng phàm ngu
Chứng được trí vô lậu viên minh
Nếu có đủ bốn chúng Tỳ-kheo
Cùng đến chỗ ta vui nghe pháp
Đều khiến đầy đủ các luật nghi
Chắc chắn sẽ được thành bậc trí
Ta là Thái tử vua Tịnh Phạn
Vui tu khổ hạnh nơi hang núi
Thoát được nguồn khổ sanh, lão, bệnh
Do đấy thành tựu đạo vô thượng

Cô gái con vua kia, do ở nơi Phật Thế Tôn, tâm tịnh bố thí nên hiện thân chứng được sắc tướng đoan nghiêm. Nếu người mong cầu an lạc tối thượng, phải ở nơi Phật cúng dường thanh tịnh. Đây gọi la Phật nói chánh hạnh lọng phước. Tỳ-kheo các ông, phải thường vui thích thọ trì. Đối với Thí, Giới, Định phải siêng tu học.

 

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 9

Nếu đối với phước điền tối thắng của Phật v.v… chuyên tu hạnh bố thí, thì nhất định sẽ gặt hái được quả báo. Như thế cho đến, hiện thấy ở thế gian, sự phú quý của bậc vua chúa được tôn sùng không ai sánh kịp. Đầu đội mũ báu, châu báu xen lẫn, khoen tai, xuyến, vàng ngọc rực rỡ, ánh sáng giao nhau. Dung nghi trắng sạch, đủ tướng đoan nghiêm, vòng báu ngọc châu, anh lạc dùng trang sức y phục. Cung điện chỗ ở cao rộng, nguy nga, tráng lệ. Lầu gác, cửa nẻo thảy đều tinh xảo, khéo léo. Tơ thêu, lụa vẽ đủ màu, màn che giăng khắp. Thú ngọc, sư tử, chim câu chi la, đặt ở trong lồng, dùng để thưởng ngoạn. Tường thành cao chót vót, các lực sĩ bảo vệ vòng quanh, voi, ngựa, xe cộ qua lại tấp nập. Dân chúng cư trú, an ổn, giàu vui, không có tranh cãi, kiện cáo, trộm cắp, trốn chạy, các việc quấy nhiễu, khủng bố v.v… Nơi nơi đều có cây ta-la, cây đa-ma-la, cây chiêm-bác-ca, cây vô-ưu v.v… cành lá, hoa quả tươi tốt đáng yêu. Chỗ vua muốn đi, ở nơi ngã tư, dọn dẹp sạch bụi bặm dơ bẩn, ngói đá, gai góc. Dùng các loại nước thơm rải khắp trên mặt đất. Trăm ngàn loại kỹ nhạc: Tiêu, sáo, đàn không hầu. Đánh trống, thổi loa, kẻ tùy tùng dẫn đường trước sau. Vua cỡi long tượng, uy đức tôn quý riêng biệt, vô cấu tối thượng. Gỗ ngưu-đầu-chiên-đàn, mài dùng để xoa thân. Hương thơm nghe xa. Áo quần lụa đỏ như mặt trời mới mọc. Tay phải cầm phất trần trắng thật đẹp, báu phệ lưu ly dùng lam cán. Căng dù lọng đẹp, hoàng kim làm thân. Vô số các loại châu báu trang trí rực rỡ. Lúc bấy giờ trong thành kia, hết thảy dân chúng hoan hỷ chắp tay, đồng tâm tán thán, rải các thứ danh hoa, trải khắp mặt đất. Có các văn sĩ, nhân sĩ chọn những ý tưởng hay khó, lam ra những bài ca vịnh, ghi chép tán dương đức hóa của vua. Vua nghe rồi, vô cùng vui thích. Quả báo tốt đẹp như thế, do bo thí mà được. Đây nói: đó là ở nơi phước điền thù thắng, chuyên tu hạnh thí, thành tựu lọng phước.

Bố thí thế nào khiến các hữu tình hoàn toàn thu được sự giàu vui thế gian, thọ dụng cảnh giới năm dục thù diệu? Phải biết, phước nghiệp bố thí như thế không chỉ chiêu lấy sự giàu vui rộng lớn mà thậm chí nhân vô thượng trí cũng có thể thành tựu. Phải biết sự bố thí này là kho tàng vững chắc, không bị nước, lửa, giặc cướp phá hoại, phải biết sự bố thí này là người bạn tốt nhất, đời này, đời khác luôn là bạn tốt. Phải biết sự bố thí này như hạt giống tốt, mọi thời, mọi lúc đều được quả như ý. Nên biết sự bố thí này như thềm thang kỳ diệu hay dẫn lên cõi trời, thọ các lạc. Nên biết sự bố thí này giống như ngọn đèn sáng có thể phá tan bóng tối tham lam, bỏn sẻn của Ngạ quỷ. Ở trong nẻo ác thường lam sự cứu giúp. Ở chốn hiểm nạn, thường làm sự cứu hộ. Vượt biển sanh tử, có thể đến bờ kia. Nếu các chúng sanh biết như thế rồi, luôn luôn phát khởi tác ý thanh tịnh, siêng tu bố thí nối nhau không dứt. Đối với những vật sở hữu tâm không xẻn tiếc, cũng không uổng phí, giác ngộ sâu sắc. Đây thảy đều là những vật không bền chặt. Cuối cũng vui tu nghiệp thí thanh tịnh. Do vì lẽ này, tiếng tốt lan xa, người thấy vui kính, thường được người tốt nương tựa cùng ở, ở trong đại chúng, tâm không khiếp nhược. Khéo trụ uy nghi, tán thán công đức bố thí. Có thể nhận lấy sự giàu có, xa lìa đường ác, được sanh lên cõi trời, đi đến thành giải thoát. Khiến người khác tin hiểu, lìa cấu uế xan tham. Nên biết người này là đại Bồ tát, là Thiện trí thức là Đại trượng phu, thường nuôi lớn thiện căn chơn thật của chúng hữu tình. Hết thảy chúng sanh phải đi đến thân cận cúng dường, vui nghe chánh pháp, như lý tu tập, cầu đạo xuất ly.

Như trên đã nói. Nếu đối với Phật v.v… chuyên tu hạnh Thí, nhất định thu được quả báo. Giả sử không gặp một Phật, Bồ tát nào mà có thể giữ gìn tâm thí như thế, thì quả báo chiêu cảm cùng đồng như trước không khác. Cho nên đức Thế Tôn dùng phương tiện chỉ bày khiến các chúng sanh thứ tự, lần lượt tu học.

Bấy giờ, đức Thế Tôn du hóa, nương ở tại thành Vương-xá, trong rừng trúc Ca-lan-đà. Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liền, suy nghĩ thế này: “Nay đức Thế Tôn cùng các Thanh văn, chúng đại đệ tử, trụ trong rừng này, cần phải xây dựng một tăng phường thanh tịnh. Suy nghĩ như thế rồi, Tôn giả bèn đến chỗ của Đế Thích, thưa: Thưa Thiên chủ! Dám xin nhân giả, vì Phật Thế Tôn, xây dựng tịnh xá trong thành Vương-xá, nơi rừng trúc Ca-lan-đà, để Ngài và các đệ tử, các vị Đại A-la-hán, cùng an cư ở đây. Vua trời Đế Thích, nghe nói thế rồi lòng rất hoan hỷ, vâng dạ nhận lời. Liền lấy vô số vàng bạc, châu báu, đế thanh, ma ni, phệ, lưu ly v.v… xây dựng hai lớp cửa, hành lang, hiên mái, cửa nẻo, cung điện lầu gác. San-hô làm cột, dùng các loại châu báu trang hoàng. Lại lấy các loại ngọc báu khắc thành hình các loài phi cầm quí, treo lơ lửng trong hư không, tư thế như đang cất cánh bay liệng. Vô số gương báu, bao quanh treo rủ xuống, trong suốt không vết nhơ, rực rỡ như trăng, sao. Vô số y trời, sáng sạch mềm mại, vàng ròng làm giá, dùng để phơi trải y áo bên trên. Vòng báu kim cang, vòng hoa chơn châu, tạp xí xếp hàng thứ tự, lấy làm trang nghiêm. Đốt các thứ danh hương, khí quyện tỏa tan khắp. Đốt vo số loại đèn, ngày đêm chiếu sáng. Cúng dường như thế, là việc thế gian chưa từng có. Ở trong vườn kia, nơi nơi đều trồng hoa long-tựtại, hoa chiêm- bác-ca, hoa ngung-lỗ-ma, hoa câu-trá-ba, hoa vô-ưu. Hoa nở khắp nơi, trông rất đáng yêu. Ở trong rừng hoa có đình bằng san hô, cửa nẻo chạm khắc kỳ xảo. Đều dùng các loại châu báu trang hoàng nghiêm sức. Gió nhẹ thổi hoa, mùi hương thoảng bay rất xa. Có các Thiên nữ đạo chơi, dừng ở trong vườn. Những món trân kỳ thượng diệu lấy làm châu anh lạc, thú ngậm chân đeo, phát ra tiếng kêu leng keng. Trong rừng còn có các Dược xoa nữ, hình dung đoan nghiêm, tranh nhau cùng đuổi chạy xem, búi tóc còn sót lại hoa báu, thay nhau vui cười.

Còn các hồ ao thanh tịnh rộng lớn do các thứ báu họp thành, nước hương tràn đầy. Trong hồ còn có hoa sen báu to lớn. Bạc trắng làm lá, hoàng kim làm thân. Các Thiên nữ thù diệu đứng ở bên trong đổi sắc mặt làm vui, dâng các điệu ca múa vi diệu. Lại còn có vô số hoa sen màu vàng, hoa ưu-bát-la, hoa câu-một-na, hoa-ca-ha-la, chiếu sáng rực rỡ hương thơm tỏa ra, mùi hương hòa quyện xông ngát. Có các loài chim nước: Chim tử uyên ương, chim le le, chim nhạn, bay liệng, đậu làm tổ trong hoa, sửa sang lông cánh. Lại có các chú cá đùa giỡn, nhỡn nhơ bơi lội qua lại, chạm hoa, lật mình trên sóng làm kinh sợ những chú có bể, vịt nước. Bao quanh hồ đều lấy vàng, bạc, pha lê và các trân báu mà làm bực thềm. Trên bờ ao lại có rừng cây kiếp ba, cành dài đong đưa trên nước, lá dầy kín, giao tàn rợp bóng, các loại hoa kỳ diệu, xen nhau nở rực. Vo số trăm ngàn nhân sĩ, dân chúng, giàu có, trang nghiêm, biểu diễn các thứ kỹ nhạc, tới lui thưởng ngoạn không có chướng ngại. Lúc ấy vị Thiên chủ kia, vì Phật Thế Tôn tạo lập Tinh xá tròn một tháng mới xong. Sửa sang bày biện những việc phải làm, không để có chỗ thiếu sót, vô số kho tàng, thảy đều đầy tràn. Trước tiên đi đến chỗ Phật thưa thế này: Đất này tốt lành, rộng rãi trang nghiêm, thanh tịnh, so với vườn Hoan hỷ bằng nhau không khác. Rất mong Như Lai đến đây an cư. Lúc ấy, Phật vì thương xót Thiên chủ kia, liền nhận lời. Lại dùng trăm ngàn long tượng tối thắng dâng cúng Như Lai. Và lấy trăm ngàn thiên nữ thù diệu che lọng, cầm phất trần quạt gió mát để hầu hạ các vị đại đệ tử. Lại lấy trăm ngàn chúng Càn-thát-bà tấu âm nhạc thù diệu cúng dường.

Bấy giờ, trong thành Vương xá có một Trưởng giả, nhà rất giàu, tiền tài của báu vô lượng, sánh với vua trời Đa văn vẫn còn hơn. Nhưng Trưởng giả kia nhiễm sâu tà kiến, tín thọ pháp của ngoại đạo Ni Kiền Tử. Vị Trưởng giả thấy sự việc này rồi, ôm lòng nghi hoặc. Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên biết thời cơ của Trưởng giả kia đã chín, liền đến giáo hóa dẫn dắt, vì ông mà thuyết giảng pháp yếu, tán thán công đức của Phật. Trưởng giả kia nghe pháp rồi, tâm sanh ngộ giải, thưa cùng Tôn giả: “Tôi nay phát tâm, quy y Như Lai, muốn đến thân cận, cung kính cúng dường”. Bèn cùng Tôn giả đồng đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, đứng qua một bên. Tôn giả bạch Phật: Vị đại Trưởng giả này, bỏ tà về chánh mới phát tín tâm, nay muốn cúng dường Phật và chúng Tăng. Duy nguyện Đại bi nhận lời cầu thỉnh của kia. Phật biết việc này rồi, lặng yên chấp nhận. Lúc ấy Trưởng giả kia biết Phật đã thọ thỉnh, tâm vô cùng hoan hỷ, khúm núm trở về, liền lấy vô số các loại trân báu tơ lụa thượng diệu, nghiêm sức chỗ ở của mình, cửa nẻo, lầu gác, phòng xá đều lam cho sạch mới. Nấu nướng thức ăn vật uống, trăm món ngon khéo. Sửa sang xếp đặt xong xuôi liền sai sứ giả đến trước bạch với Thế Tôn: Giờ ăn sắp đến, chỉ mong Đại Bi thọ nhận sự cúng dường nhỏ mọn của con. Lúc ấy đức Thế Tôn từ Tăng phường đi ra, uy đức tự tại tướng hảo đoan nghiêm, thân phóng ánh sáng, như mặt trời to đỏ ửng, cùng các đệ tử, các vị Đại A-la-hán, các căn tịch tịnh, tâm được tự tại, đi đứng trang nghiêm, tao nhã, đến nhà của vị Trưởng giả kia. Lại có trăm ngàn thiên tử, thiên nữ, tâm ý thư thái, lìa các tán loạn, bột chiên đàn xoa thân, cung kính vây quanh. Dân chúng trong thành thấy việc này rồi, quái lạ chưa từng có, đi đến thưa chuyện với vị Trưởng giả. Lại có trăm ngàn thanh nam, tín nữ tâm sanh hoan hỷ, trong khoảnh khắc đều đảnh lễ, mỗi người mang bột kiên hắc chiên đàn đốt để cúng dường. Hương được đốt quá trăm ngàn hộc. Lại tấu lên vô lượng âm nhạc vi diệu, du dương, âm thanh chấn động khắp mặt đất. Lúc ấy vị Trưởng giả kia, dùng phướn lọng thứ tự bày bố, khắp nơi màn che trướng phủ châu anh lạc trang nghiêm, đốt hương báu lớn, tự thân đi nghinh đón. Những thân tộc nội ngoại của Trưởng giả, mỗi người mang theo các thứ danh hoa, đầy hai bàn tay để rải cúng dường. Lúc này, Phật Thế Tôn đã đến nhà Trưởng giả kia rồi. Ở chính giữ nhà, vì Phật thiết tòa, tơ lụa thượng diệu, trải chồng hai lớp mềm mại. Đệm chiếu bằng lụa năm màu, trải khắp mặt đất, cờ báu bày biện ngay hàng thẳng lối. Lưới châu bốn phía rủ xuống. Treo các cờ phang rực rỡ, màu sắc che lẫn. Trăm ngàn linh báu phô bày, nối liền bên trên. Gió nhẹ lay động, phát ra âm thanh du dương. Vòng hoa chơn châu. Màn báu rủ khắp. Hương hoa, hương đốt, bình tắm, nước sạch, thảy đều bày biện, chuẩn bị xong. Thỉnh Phật thăng tòa. Lại dùng lụa trắng thượng diệu, mới mẻ, cắt may y mặc, quỳ dâng cúng Phật. Sau đó vị đại A-la-hán thượng thủ và các Tỳ kheo tân học đi vào trong nhà thứ tự lần lượt ngồi, Kế, dùng những món thượng vị trong những thức ăn vật uống, cúng thí cho Phật và Tăng, thảy đều được đầy đủ. Ăn xong mọi người cất bát, rửa tay. Lúc ấy vị trưởng giả kia chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn, rồi dùng kệ tán thán:

Như Lai đầy đủ tướng thù thắng
Vẻ đẹp tùy hình trang nghiêm thân
Tóc dài, dày kín không rối loạn
Bóng mượt, xanh biếc như ong chúa
Như Lai trán rộng lại bằng phẳng
Cũng không khuyết giảm rất bền chắc
Lông trắng giữa mày thường xoắn phải
Như trăng thu tròn tỏa ánh vàng
Như Lai hai mắt rất thanh tịnh
Mi như trâu chúa không hề chớp
Dài rộng tốt đẹp thường chiếu sáng
Như hoa câu na thật đáng yêu
Như Lai đầy đủ bốn mươi răng
Sạch trắng bằng khít như ngọc kha
Tướng lưỡi rộng dài thật khó bàn
Hồng tươi như hoa Bát-la-xa
Như Lai lại có mũi công đức
Cao vót, ngay thẳng lộ không hiển
Môi không vểnh, sứt, không trề xuống.
Tươi nhuận như màu quả Tần- bà
Như thế, Đại Tiên mặt tròn đầy
Đôi tai mềm mại cùng đối xứng
Ví như đóa sen màu nở trọn
Xa lìa cấu nhiễm nhìn không chán
Như Lai thân tướng như thỏi vàng
Kiên cố đầy chắc không gì sánh
Sắc vai giống như hoa Chiêm-bặc
Cũng không ốm gầy lộ gân mạch
Hai tay no tròn thật nhuần thấm
Chỉ tay hiện rõ các hình tượng
Đủ dấu bánh xe; trục, căm, vành
Cờ báu, bình báu và cả cá
Ngực rộng như ngực loài sư tử
Đức tướng hỷ toàn phân minh hết
Lượng bụng phẳng đầy xứng thân hình
Rún sâu, xoáy phải, trong tròn sạch
Hai bắp chân như chân hươu chúa
Đi không xoay lại thân đều chuyển
Chân phải cất trước hiện dấu ấn
Thong thả, vững vàng như Sư tử
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Như mặt trời lên chiếu sáng khắp
Thường tạo an lành cho chúng sanh
Trời, A-tu-la đều tin lễ

Trưởng giả dùng kệ tán thán đức Phật rồi, tâm vô cùng hoan hỷ, tín lực kiên cố, ở trong Đại chúng, lại nói kệ:

Mâu ni bậc mười lực
Phá diệt các lưới ma
Lìa hẳn phiền não cấu
Các căn thường tịch tĩnh
Tộc họ thù thắng nhất
Là giòng họ Cam-giá
Mạnh mẽ, thật tinh tấn
Giác ngộ các lỗi lầm
Thích Sư tử vô úy
Đầy đủ các công đức
Thành tựu pháp vi diệu
Vì chúng sanh khai thị
Trong biển khổ ba cõi
Các hiểm nạn luân hồi
Lấy Giới làm căn bản
Cuối cùng thường siêu việt
Do thọ trì tịnh giới
Điều phục tự tâm mình
Khéo khuất phục ma oán
Xứng thọ cúng dường tốt
Đủ đại trí đại bi
Không bỏ thệ nguyện xưa
Thương xót các hữu tình
Đều khiến lìa ưu khổ
Thầy Điều Ngự tối thắng
Tam giới không ai sánh
Khéo nhổ các tên độc
Dứt ràng buộc ba cõi
Hiển hiện đại thần thông
Thường bẻ các dị kiến
Khai thị tám Thánh đạo
Khiến tu các phạm hạnh
Đây gọi thương chủ lớn
Luôn tạo hội thí lớn
Đây gọi bậc đại trí
Vì làm mắt thế gian
Đây gọi đại trượng phu
Thường chóng xa các ác
Dứt thác dữ sanh tử
Đến được bờ yên ổn
Thế Tôn, đại đạo sư
Họ lớn Kiều Đáp Ma
Đủ thân tướng kim sắc
Người thấy không biết chán
Dẫn dắt các chúng sanh
Nhập hiểu nơi chánh giáo
Lìa hẳn các bất thiện
Tâm thanh tịnh không nhơ
Như mây ở trên trời
Rót vị pháp cam lồ
Khiến hết thảy hữu tình
Nhuần chủng tử thiện căn
Như Lai, bậc đại Thánh
Và các chúng Tỳ-kheo
Trụ an ổn tối thượng
Được đến nơi bờ kia.

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 10

Trưởng giả lại dùng kệ xưng tán Phật rồi, tiếp phát lời chí thành thệ nguyện rộng lớn: Đem công đức thiện căn tu tập của con, nguyện đời vị lai được thành Phật đạo, cũng như Thế Tôn, thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, dùng pháp dược vô thượng của trí vô ngại, chữa lành bệnh tham, sân, si của chúng sanh. Đối với người không thân thích, vì họ làm chủ tể. Đối với người tối tăm, vì họ mà soi sáng. Người chưa điều phục khiến khéo điều phục. Người chưa tín hiều, khiến sanh tín hiểu. Người chưa yên ổn, khiến được yên ổn. Người chưa Niết bàn, khiến chứng Niết-bàn. Rồt ráo xa lìa sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não. Đều khiến cho được sanh Thiên, thọ hưởng an lạc thù diệu. Lại thường khuyên tu hành tám Thánh đạo. Khai thị tuyên dương pháp Bốn Thánh đế khiến chúng hữu tình kia nghe rồi, tâm được ngộ giải, tán thán vo so các công đức của Phật, Pháp, Tăng, vô lượng trí tuệ, tự tánh thanh tịnh, thần thông rộng lớn, không ai có thể hơn, thường nhổ mọi gốc khổ não sanh tử luân hồi. Phương tiện khuyến dụ, dẫn dắt vào thành giải thoát, dần dần khiến tu các pháp công đức, thủ hộ tịnh giới, tu Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na. Đối với bốn thứ vô úy, Bốn loại Thần túc, Bốn pháp chánh cần v.v… sửa trị các sự lười biếng phóng dật. Đối với bốn niệm xứ, ghi nhớ rõ không quên. Đối với Bốn tâm vô lượng, bình đẳng tu tập. Nương nơi ngũ căn, ngũ lực, đoạn trừ chướng nơi năm nẻo, hiểu rõ tướng năm uẩn, mình người đồng đẳng, thành tựu viên mãn Sáu Ba-la-mật. Dùng bảy Thánh tài rộng thí cho hết thảy. Tu giới thanh tịnh đầy đủ, đi trên hoa bảy Giác chi, nhất tâm an trụ nơi bảy phương tiện quán, phân biệt diễn thuyết tám chi Thánh Đạo, thường giỏi tu tập chín Định thứ đệ. Đầy đủ mười lực danh truyền mười phương, được mười loại tự tại cho đến thành Phật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn thấy Trưởng giả kia ở trong đại chúng, phát thệ nguyện rồi, khen ngợi: Lành thay! Người này thật là rộng lớn trong loài người, sư tử trong loài người, tối thượng tối thắng. Đại tiên trong loài người, lìa các cấu nhiễm, như hoa sen trắng; có thể chuyên chở hết thảy chúng sanh, có thể gánh vác quả Bồ đề vô thượng. Khi ấy đức Thế Tôn bèn duỗi cánh tay kim sắc như hoa sen nở. Mạng lưới trên ngón tay, hoa văn khéo léo, như cha vỗ về con, vỗ vào đảnh đầu của Trưởng giả, dùng Phạm âm, như sấm sét mùa xuân, nói: Ngươi ở đời vị lai, sẽ được làm Phật, hiệu là Năng Mãn Chúng Sanh Chí Nguyện gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Đầy đủ mười lực, phá diệt chúng ma, cõi nước thanh tịnh, rộng lớn giàu vui. Lúc ấy, ở trong hư không có các vị Thiên tử mưa hoa hương vi diệu để cúng dường. Hết thảy hữu tình khắp thế giới của Phật đều phát tín tâm, vui tu phước hạnh. Đức Thế Tôn nói kệ:

Người ở đời vị lai
Chứa công đức thù thắng
Ở trong biển sanh tử
Cứu vớt kẻ chìm đắm
Qua vô số kiếp rồi
Sẽ được thành Phật đạo
Tuệ nhãn sạch không dơ
Hiện chứng hết thảy pháp
Đủ tướng phóng ánh sáng
Như mặt trời ban mai
Khiến hết thảy chúng sanh
Trừ tối tăm ba độc
Trong đại chúng trời người
Tối thắng không ai hơn
Khéo điều phục hữu tình
Đều khiến tu phạm hạnh
Là đạo sư bậc nhất
Đầy đủ Nhất thiết trí
Được Bồ đề tối thượng
Như hoa sen khỏi nước.

Khi ấy, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, thọ ký thành Phật cho Trưởng kia rồi, lúc nầy dân chúng trong nước của vua Tần-bà-ta-la đều phát tín tâm, khen là chưa từng có. Do ở nơi chư Phật v.v… chuyên tu hạnh thí, nên ở trong cõi trời, người thường làm bậc chủ tể, có uy đức lớn. Thường dùng lòng đại bi làm lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sanh. Quả vị Bồ đề vo thượng quyết định đạt được. Cho nên Phật dạy: Các thầy Tỳ-kheo v.v… đối với kinh điển này, thường phải thọ trì, vì chúng nhân mà tuyên thuyết.

Đã thuyết minh rộng hạnh Bố thí, sợ nhiều hãy tạm dừng. Nay sẽ hiển bày công đức Trì giới. Vì sao sau Bố thí, liền nói Trì giới? Đây là nương theo các kinh, thứ tự như thế. Lại các chúng sanh, phóng dật, tham đắm dục lạc, phần nhiều do trong tâm tự suy nghĩ tà vạy, rồi thuận theo tạo tác, cho đến hiện hành, lưu chuyển nơi thân, ngữ, phá hủy giới cấm. Vì khiến chúng sanh phát khởi đối trị, nên sau bố thí nói tướng trì giới. Nếu đệ tử Phật và các bạch y đối với giới cấm kia, giữ gìn chắc chắn, không hủy phạm, đó gọi la trì giới thanh tịnh. Hoặc các chúng sanh phát khởi suy nghĩ tà, thân, ngữ, ý nghiệp tạo tác nhiều tội, sát hại chúng sanh, đoạn mạng căn người. Vật sở hữu của người khác, không cho mà lấy. Tham vướng nhiễm dục, tâm không tạm bỏ. Nói dối, nói thêu dệt, nói lời hung ác, nói hai lưỡi; khởi tà kiến lớn, bài bác không có nhân quả. Giết cha, hại mẹ, giết A-la-hán. Dùng tâm ác độc, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng, phá tháp, hủy hoại chùa, trộm vật của chúng Tăng, làm nhơ tịnh hạnh Ni, đối với những người thiện ưa thích nhục mạ. Thường vui tụ tập, nói lời vô nghĩa, khinh chê giáo pháp, tham kinh doanh việc thế gian, Tà mạng nuôi sống, tạo các nghiệp ác: quết thịt nghêu sò làm nem, làm lính coi giữ ngục, đồ tể giết hại, đánh bắt cá, đào tường khoét vách, trộm cắp. Cho đến, người nghèo có chút ít tài vật cũng tước đoạt. Cho người khác thuốc độc, lam tổn hại chúng sanh, voi, ngựa, trâu v.v… vui vì đấu chọi. Phá hoại xóm làng, chặt đốt cây cối. Phát ngôn sàm độc, chê trách bậc hiền thiện. Dối hiện uy nghi, tâm dua nịnh quanh co, luôn nói điều bất thiện. Đã tạo các tội ác rồi, lúc sắp mạng chung, vo số tướng khổ thảy đều hiện tiền, thần thức đã diệt, nghiệp ác theo đuổi, đọa vào địa ngục, thọ khổ vô cùng. Địa ngục có bốn:

  1. Lửa than
  2. Phẩn tử thi
  3. Rừng kiếm
  4. Sông tro.

Bốn địa ngục này gọi là cận biên. Lại co tám địa ngục căn bản nóng.

  1. Đốt cháy
  2. Đốt cháy dữ dội
  3. Chúng hợp
  4. Kêu la
  5. Kêu la to
  6. Nóng cháy
  7. Nóng cháy cực độ
  8. Vô Gián.

Lúc ấy, trong địa ngục kia, có các ngục tốt bộ dạng xấu xí, hung ác, thật đáng kinh sợ hoặc làm đầu trâu, đầu lừa, đầu voi v.v… Thân hình mập mạp, mạnh mẽ, da dẻ đen đúa, lông tóc đỏ hoe, cau mày trợn mắt, mũi hếch, môi trề, hai tay cứng rắn, cầm gậy sắt hoặc cầm búa bén sáng, kích, chùy sắt, cưa sắt, bánh xe kiếm v.v… vô số các loại khổ cụ đều phát ra lửa dữ. Những ngục tốt này hung hiểm, gấp gáp, đối với những tội nhân kia không có chút tâm từ. Hoặc đốt, hoặc nấu, hoặc chặt, hoặc cưa. Bỗng chốc mạng chung, nhưng trong khoảnh khắc sống lại. Hoặc lại chạy vào địa ngục tro nóng, địa ngục phẩn tử thi. Bàn chân cháy chín, cất bước lên thì lại như cũ. Xa thấy rừng cây, liền chạy đến trốn tránh. Đến rồi thì cành lá đều là mũi nhọn, từ trên rơi xuống, chặt cắt thân hình. Lại có các loài thú dữ: “chim, thú, cọp, tê giác, sư tử, cá ma kiệt v.v… há miệng phun lửa. Răng chúng bén nhọn, nhấm nháp, ăn nuốt. Những hữu tình tạo ác có cây to bằng sắt, gọi là cây Ta-lạp-mạt- lê, bên trên có trăm ngàn gai sắc bén nhọn. Mỗi một gai sắt dài mười sáu ngón tay. Khi đó ngục tốt xua đuổi tội nhân, theo vị trí trên dưới của chúng trên cây mà khiến gai đâm ngược vào. Các loài chim hung ác, tranh nhau đậu lên trên chúng, mỏ bén, móng cứng. Hoặc mổ, hoặc quặp. Ngục tốt hoặc dùng hòn sắt nóng to, lại dùng kềm banh miệng ra, bức bách phải nuốt. Hoặc nước đồng nấu chảy, rót vào miệng tội nhân, từ cổ họng suốt đến dưới, thảy đều cháy bỏng chín. Hoặc dùng đinh sắt đóng xuống lưỡi, rồi lấy cày sắt khiến trâu cày lên trên, hoặc ném tội nhân vào cối sắt to, lại lấy chày mà quết nát nhừ. Hoặc lấy hộp sắt kẹp lấy thân hình tội nhân. Nơi tai, mũi, miệng thảy đều vọt máu ra, hết thảy thân phần bị hủy hoại không còn sót chỗ nào. Lại có hầm than lớn rất sâu, cháy nóng dữ dội. Bắt những tội nhân kia ném vào trong ấy, giây lát biến thành khói lửa. Lúc này những ngục tốt đều quở trách: “Ngươi, thuở xưa tạo nhiều điều ác, tâm không từ bi, hủy phạm giới cấm. Nay thọ quả báo như thế, tự mình phải biết. Trong địa ngục này rất đau khổ, khó kham, khó nhận, lâu dài thọ tội, nghiệp hết mới thoát ra”. Cho nên Phật dạy: “Tỳ kheo, các ông, thường phải ở nơi kinh này, thọ trì đọc tụng, vì chúng nhân mà diễn nói, khiến tu Thí, Giới, thành tựu được lọng phước”.

Phật dạy: Kẻ phá giới kia, do tuệ ác, trong tâm suy nghĩ, không khởi đối trị, nhiệt não bức bách, gây tạo các tội. Giống như trong bọng cây khô đặt vào mồi lửa, tất sẽ bị thiêu cháy. Như hạt giống hư, tuy gieo vào ruộng tốt nhưng cuối cùng không thể nảy mầm. Kẻ phá giới, ở nơi ruộng pháp Phật, không thể sanh mầm thiện cũng giống như thế. Lại như cây rừng, thảy đều đốn gốc thì thân cây, cành, lá không thể lại tươi tốt, kẻ phá giới, chặt đứt thiện căn, hoại pháp công đức, cũng lại như vậy. Giống như giếng cạn những kẻ khô khát muốn tìm lấy nước, tất không thể được. Kẻ phá giới, hết thảy người thiện cầu pháp nơi họ, cũng không thể được. Như Chiên-trà-la, không thể làm vua, hết thảy dân chúng không chịu tin phục. Người phá giới, không kham nói pháp, hết thảy chúng sanh, không hay nghe thọ. Thí như người, ở nơi cây mía chín rục, muốn tìm cầu vị của nó, trọn không thể được. Nếu ở nơi người hủy phạm giới cấm, mong cầu công đức rốt cuộc không thể có. Lại các bạch y thấy Sa-môn kia, đơn độc không vướng bận tịch tĩnh an lạc, xả bỏ gia đình, vui lam Sa-môn. Còn kẻ kia không co nhân chánh, tâm không quyết định, ngu si ám độn. Đã làm Sa-môn rồi lại vui thích kinh doanh, sự nghiệp của thế tục, tham đắm, nhiễm dục, phá hủy giới cấm. Lúc ấy trong đại chúng, có các vị Trưởng lão cao đức quở trách và vì kẻ phá giới nói kệ:

Ngươi giữ ba y Phật
Ưa lam hạnh phi pháp
Ô nhục chúng thanh tịnh
Không khác Chiên-trà-la
Trong tâm suy nghĩ tà
Các cảnh giới năm dục
Giống như trâu nghé kia
Thường nghĩ đến cỏ nước
Vui làm việc thế tục
Buôn bán các châu báu,
Thêm bớt giá trị hàng
Nói năng không chơn thật
Kia như nguồn lợi tràn
Tâm thường không biết đủ
Vì cầu chút tài lợi
Gây tạo sự dối trá
Ví như ong hút hoa
Phải nương rừng hoa sen
Trái lại vào bụi gai
Uổng công chịu gian khổ
Trong biển pháp Phật ta
Trọn không chứa tử thi
Ở trong ruộng muối kia
Không sanh lại hạt giống
Như bệnh hủi bám quanh
Không cách nào chữa trị
Ngươi tạo các nghiệp ác
Sao không thấy hoảng sợ
Giống như chiếc thuyền thủng
Mình người sao qua sông?

Phật dạy: “Người phá giới không thể làm được gì do vì đa dục, tâm nhiều mong cầu, xâm phạm sắc đẹp của kẻ khác; thường ôm lòng lo sợ, danh tiếng hủy hoại, xa lìa thiện tri thức. Nên biết những kẻ ấy như người tham lam bỏn sẻn kia, rốt cuộc không có một chút công đức bố thí. Người phá giới, như kẻ nghèo cụt tay, tuy đến được núi châu báu mà không lấy được gì. Như bình không sạch, tuy đầy mà vô ích. Như hố bẩy thú, người thấy đều lánh xa. Như rắn ở trong nhà, người thường lo sợ. Như vườn rừng đẹp, bên trong lù lù một con cọp dữ. Như đường hiểm ác, không ai muốn đi đến. Như xe bị phá hư không thể vận chuyển. Như kẻ xấu ác, mọi người đều xua đuổi. Như rắn độc kia, mắt không muốn nhìn. Như rừng Thi đà, mọi người đều chán ghét. Như voi điên kia bị người hung dữ chế ngự. Như kẻ trộm cắp, người giàu ghét sợ. Giống như họa vẽ hoa chiêm bác ca. Kẻ kia không có hương Giới cũng lại như vậy. Như rừng chiên đàn, có cây côn ma, mùi hôi thối của nó cùng hòa lẫn, phải mau chóng đốn bỏ, Giả sử trong miệng có trăm ngàn lưỡi không thể nói hết lỗi lầm của sự phá giới, muốn biết số lượng, thật không có bờ bến. Do phá giới nên không thể làm tăng trưởng hết thảy pháp thiện bình đẳng của chúng sanh. Như trong khế kinh nói: “Có một người đàn ông, bảo với rể của mình: “Ngươi nay sửa soạn xe vào rừng đốn cũi”. Do vì đốn cũi, kẻ ấy để lạc mất con bò. Thế rồi do đi tìm bò, lại để người ta lấy mất xe. Bò còn chưa tìm được, xe lại mất, người này hoảng hốt, tìm kiếm khắp nơi. Đi đến một cái ao, thấy có chim chóc, liền lấy búa từ xa ném vào chúng. Chim không trúng mà búa lại rơi xuống ao. Liền cởi áo để trên bờ rồi lội xuống ao tìm búa. Búa không tìm được mà áo lại bị người trộm, ở trần về nhà. Lúc ấy đã chiều tối. Về đến đầu cổng, núp dòm vào cửa sổ. Người nhà đều cho là đạo tặc đến, dùng gậy mà đánh, bị thương hết một mắt, máu trong mắt trào ra, bấc tỉnh nằm trên đất. Lại có loài côn trùng dữ từ trên rơi xuống, ngửi thấy mùi máu tanh, lại ăn một con mắt. Đến sáng, cha vợ từ nhà đi ra, biết là chàng rể, lấy làm lạ hỏi duyên cớ. Anh ta mới thuật lại đầy đủ sự tình.

Người cha liền vì chàng rể nói kệ:

Mất áo rồi hư mắt
Thân người sao chịu thế?
Đã không kham việc làm
Do đấy mà bỏ xa
Cũng như đệ tử Phật
Thà phế bỏ đa văn
Nơi giới phải hộ trì
Phá giới như không mắt
Nên biết người hủy giới
Giả danh làm Sa môn
Không xứng thọ cúng dường
Mất các công đức lành

Ở đây lại nói, ví như trưởng giả có nhiều con, thường khuyên răn dạy dỗ, khiến không phóng túng, liền đem kho tàng, vô số các loại tài vật, nô tỳ tôi tớ, thảy đều giao phó cho. Như thế thì có thể giữ sự giàu vui lâu dài. Trong số các người con, hoặc có kẻ xa xỉ, hoang phí, mê đắm nữ sắc. Trưởng giả nghe rồi, liền nhóm họp thân thuộc tha thiết trách mắng, lấy một ít tài vật phân cho và đuổi ra khỏi nhà, lại răn đe: “Cẩn thận chớ phóng túng, hủy hoại tiêu tan tài sản của ngươi, sau phải chịu nghèo khổ, bị người khác bỏ đi. Người con này của Trưởng giả, không theo lời cha dạy. Chẳng bao lâu sau, tiền bạc đều hết sạch, hình dung tiều tụy, phải xin ăn để tự nuôi sống, bị thân tộc khinh ghét. Lúc ấy, người cha thấy thế sanh lòng sầu não, tâm quyết định bỏ. Ở trước mọi người, lớn tiếng tuyên bố: “Đây không phải là con ta. Đây không phải là con ta. Khiến kẻ kia nghe rồi, ôm lòng hổ thẹn.

Phật dạy: “Ta cũng như thế, nếu các đệ tử phá hủy giới cấm, không hổ không thẹn tức liền đuổi hẳn ra khỏi pháp Phật, cũng không giao phó cho Bồ đề phần v.v… các pháp công đức, các loại Thánh tài. Bèn ở nơi Trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn v.v… ở trong đại chúng, lớn tiếng nói: “Người này phá giới, chẳng phải là đệ tử ta, khiến kẻ kia nghe rồi xấu hổ với tội lỗi”.

Lại các bạch y, đã xuất gia rồi, phải nương nơi Sa-môn thanh tịnh mà trụ, mặc y cà sa, cầm giữ bình bát, đội đèn tinh tấn, tu tập đa văn. Trái lại nương thế tục, sinh sống bằng nghề bất chính, cỡi voi, ngựa, thân mang giáp trụ, cầm cung, đeo tên, vào trong quân trận. Những việc như thế ở trong pháp ta, hủy hoại luật nghi, mắt không muốn thấy. Ví như thế gian họa vẽ đèn đuốc, dẫu cho thật nhiều cũng không thể xua tan bóng tối. Người ngu si kia không thể phát khởi Thánh trí vo lậu, chiếu sáng thế gian, cũng lại như thế. Như kẻ phường chèo, mặc áo mũ đẹp, ở trước mọi người, tự xưng là vua, nhưng kẻ kia thật sự không có niềm vui bậc nhất đó. Người phá giới tuy mặc cà-sa, làm hình tướng Samôn nhưng không có cái vui vi diệu xuất thế thanh tịnh. Lại như người nghèo, dối xưng giàu sang. Ở trong đại chúng, lớn tiếng tự nói: “Ta là trưởng giả. Nhưng kẻ kia thật sự không được tự tại tùy ý. Người phá giới giả danh Sa-môn ắt không thể được quả giải thoát thù diệu”.

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 11

Ở đây lại nói: Người phá giới, đối với vô số các loại pháp thiện công đức hiện có của Như Lai, không thể thành tựu. Ví như con gái vua bị đem gả cho kẻ nghèo. Đã về nhà kẻ kia rồi, bảo với chồng: “Ta là con gái vua, điều mong muốn phải được như ý. Phải có các vật trang sức nơi thân như các chuỗi châu báu anh lạc, vòng hoa, hương đốt thù diệu, Kho tàng của cải vật dụng thảy đều đủ cả. Nếu được như thế ta sẽ ở đây”. Người chồng nghèo nói: “Những vật như trên, trong nhà đều không có”. Cô gái con vua nghe rồi bèn trách mắng chồng: “Nghèo thiếu như thế, Ta sẽ bỏ đi”.

Phật dạy: “Người phá giới cũng lại như thế, không thể chu toàn cho người con gái giải thoát thanh tịnh tối thượng. Cũng không thể thành tựu được các hương Noãn, Đảnh, Nhẫn v.v… để đốt. Cũng không thể được hoa giới Biệt giải thoát. Cũng không thể thành tựu được vòng hoa do Thiền định giải thoát. Cũng không thể được các loại kho tàng Bồ đề phần v.v… Cũng không thể thành tựu được Trí vương do văn, tư tu v.v… Cũng không thể được Bồ đề Chánh Đẳng tối thắng, tối thượng. Cũng không thể được hàng Duyên Giác, Thinh văn làm quyến thuộc. Người phá giới này, do không có nghiệp thiện, ở trong đời hiện tại, không có phước đức. Hết thảy người thiện không vui thích ở chung. Có nói ra điều gì người không tin dùng. Đối với pháp tài, công đức xuất thế gian Như Lai hiện có thì vĩnh viễn mất phần.

Bấy giờ trong chúng hội, Tôn giả A-Nan liền từ tòa ngồi đứng dậy, tiến tới trước bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Người hủy phạm giới, trong chúng đệ tử, vì sao không vì họ thuyết giảng pháp chánh yếu? Lại không thâu nhận mà bị đuổi ra? Mọi người đều nói Như Lai chẳng phải là bậc Đại bi.

Phật bảo Tôn giả A-nan: Ta đối với hết thảy chúng sanh trong thế gian, thương xót bình đẳng, đối với pháp tuyên thuyết, tâm không sẻn tiếc. Do kẻ kia không phải là pháp khí, không thể nhận lãnh nổi nên không tuyên thuyết trao cho họ. Chẳng phải như kẻ trí ở thế gian thuyết pháp, đối với các chúng sanh, có tướng trái thuận. Nếu người chống trái, không vì kẻ đó nói pháp như vật giữ trong nắm tay, giữ kỹ không trao cho. Như có quốc vương mở hội bố thí lớn, thỉnh các Sa-môn, Bàla-môn, những vật cần dùng đều cung cấp đủ. Có Bà-la-môn từ phương khác đến, đứng trước mặt vua, xin nhiều vật. Vua nghe nói rồi, thảy đều không cho. Khi ấy có vị cận thần, khuyên vua tùy ý thí cho Bà-la-môn. Vua bèn trả lời: Chẳng phải là có chỗ xẻn tiếc. Vì người này không có đức, nên không cho. Phật nói: Này A-nan! Ta cung như vậy. Do kẻ kia phá giới chẳng phải là pháp khí nên không vì họ mà thuyết giảng. Ví như vì kẻ kia mà thuyết, kẻ ấy cũng không thể lãnh thọ, như bình có lỗ thủng không thể chứa nước, giá như ngày đêm gắng sức múc nước, chẳng mấy chốc lại chảy ra hết. Người phá giới này không thể dung nạp nước pháp công đức, cũng lại như thế. Nếu chỉ vi phạm phần nhỏ giới cấm, người này đối với các loại pháp bảo Bồ đề phần v.v… cũng không thể thành tựu. Phải biết người ấy, tho trì tịnh giới, không được viên mãn. Cũng không tăng trưởng. Giới hạnh như thế vì không tăng trưởng nên ở nơi pháp giải thoát cũng không tăng trưởng, do đó chỗ sở đắc của kia chẳng phải là đạo tịch tĩnh. Chỉ được gọi là tương tợ giải thoát. Nếu ở nơi Giới pháp, giữ gìn chắc chắn không hủy phạm, người này ắt ở nơi các loại pháp tài: “Bồ đề phần v.v… mỗi mỗi đều đạt hiểu biết, tư duy như lý được trụ yên ổn. Tỳ-kheo các ông, ở nơi kinh điển này, thường vui tho trì, vì người diễn nói công đức của Bố thí, Trì giới, thành tựu được lọng phước.

Nếu các Tỳ-kheo trụ nơi chánh Tư duy, gần gũi bạn lành, vui nghe chánh pháp thường từ bỏ những nhiệt não buồn sợ của thế gian, ngăn dứt pháp ác, không để cho sanh khởi. Như diệt lửa dữ, khiến không còn sót. Nếu các Tỳ-kheo trụ nơi tà tư duy, dẫn đến sanh phóng dật, khiến tâm tán loạn, thì chỉ thâu lấy nhân duyên năm dục, là chỗ phát sanh phiền não của các hữu tình, quyết định hoại mất các pháp công đức. Như mưa đá phi thời làm tổn hại lúa mạ, thường tạo nên các loại tai nạn ở thế gian. Thường ôm 1òng dua nịnh quanh co, không có hổ thẹn, bị hàng bạch y chê bai khinh mạn. Người phi pháp này, ý chí thấp kém. Đối với quả thiện thanh tịnh của Sa-môn, tâm không vui cầu. Đối với các nước pháp cam lồ của Như Lai thì không thể uống. Ưa làm các việc ác, mong cầu đi đến đường hiểm, thâu lấy địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, các chốn ác khổ cùng cực, lấy làm chỗ nương tựa. Hoặc đối với lời Phật dạy, tâm không tín tho. Tuy hủy phạm giới chút ít mà phải thọ báo vô cùng. Huống chi tạo tác nghiệp ác rộng nhiều, quả chiêu cảm, khổ báo là khó lường. Như kinh Y La Diệp Long Vương Nhân Duyên nói:

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở tại thành Phược-la-noa, trong rừng Thi Lộc, chỗ đọa của Tiên nhân, vì các đại chúng tuyên thuyết pháp chánh yếu. Lúc ấy, Y-la-diệp Long Vương biết Phật Thế Tôn đang ở tại thành kia thuyết pháp, bèn phát tâm thanh tịnh, muốn đi đến chỗ Phật, thân cận cúng dường, liền khởi suy nghĩ thế này: Thân ta thuộc loài rồng. có nhiều oán cừu, nếu như cùng gặp gỡ, ắt bị tổn hại. Bèn biến thân mình làm Chuyển Luân Thánh Vương, tướng mạo đoan nghiêm, uy đức tự tại. Dùng các châu anh lạc báu trang sức nơi thân hình. Cầm lọng tán khéo đẹp, cỡi xe báu, đủ bảy báu, ngàn người con, trong ngoài đi theo. Lại lấy chín mươi câu chi quân binh, trước sau vây quanh. Lại có trăm ngàn ngoại đạo Phạm chí, Bà-la-môn v.v… những người xin ăn, thảy đều đi theo, uy thần phòng giữ, như Thiên Đế Thích, liền đi nhanh đến pháp hội Như Lai.

Bấy giờ, đức Thế Tôn, có bốn chúng đệ tử, các chúng Thiên, long Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… cung kính vây quanh, vì họ thuyết pháp. Lúc ấy nơi chúng hội, thấy sự việc này rồi đều sanh kinh nghi, tiến tới trước bạch Phật: – Đây là vua nào mà uy thần như thế?

Phật nói với đại chúng: Đây la vua loài phi nhân. Hãy chờ trong chốc lát, tự sẽ biết vị này.

Khi đó Long vương đã đến chỗ Phật, đầu mặt cung kính đảnh lễ Phật, lui ngồi qua một bên.

Phật nói: Long vương! Ngươi xưa ngu si, nay thọ báo nầy. Lại do duyên gì mà đến đây? Phải nên mau chóng đứng lên rời khỏi chỗ này, bỏ sự biến hiện trở lại nguyên hình, thì có thể tới đây, hiển thị cho hội chúng. Long vương thưa:

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con thân rồng, có nhiều kẻ đối nghịch. Nếu bỗng nhiên gặp nhau ở đây, nhất định khởi lên tai nạn. Do vì lẽ này, nên phải biến hóa.

Phật Thế Tôn nghe vua kia nói như thế rồi, bèn ra lệnh cho thần Đại Dược Xoa Kim Cang Thủ đi theo đi theo để bảo hộ Long vương khiến tới chỗ khác, lúc này mới trở lại hình dáng cũ. Thân hình dài lớn, thô xấu, các loại tướng ác, chứa nhóm thành thân. Do vì nghiệp trước mà có bảy đầu, trên mỗi một đầu có cây Y-la. Do vì cây ấy cứ lung lay làm cho khổ sở, máu mủ tuôn trào, rất là hôi hám dơ uế, bị vô số loài giòi trùng rúc rỉa. Đã hiện bày nguyên hình rồi, trở lại đến chỗ Phật, đầu của rồng tại thành Phược-la-noa, đuôi đến nước Bạc-xoa-thila. Bấy giờ, các đại chúng, người lìa tham đã lâu, thấy hình trạng xấu ác này còn sanh kinh sợ, đều khởi suy nghĩ: “Đây là loài hữu tình gì mà chiêu cảm quả báo như thế, lại đi đến đây?” Phật bảo đại chúng:

– Đây là hữu tình vừa biến làm Chuyển Luân Thánh Vương đi đến chỗ ta. Ta khiến rời đi, hiện nguyên hình. Các Sa-môn nghe Phật nói thế đều buồn rầu, than thở im lặng mà trụ. Long vương Y-la-diệp đã hiện thân rồng rồi, buồn khóc bạch Phật:

– Ngưỡng mong Thế Tôn, đại bi thương xót, dự ghi cho con bao giờ thoát khỏi nẻo ác này?

Phật nói: Long vương, Ta nay sẽ vì ngươi nói rõ, nên sanh lòng tin chắc chắn. Lui về sau, ở đời vị lai, lúc thọ mạng của chúng sanh tám vạn tuổi, có Phật ra đời gọi la Từ Thị; Phật ấy sẽ dự ghi thời gian phải trải qua của ngươi, thoát khỏi thân rồng này.

Long vương nghe Phật nói bèn cất tiếng khóc rống lên, nước mắt chảy như sông. Phật dùng tâm đại bi, lời lành dạy bảo:

Ngươi nên tự hối lỗi mình, không thể chỉ thêm buồn khổ. Nay trong hội này, khó có thể ở lâu.

Long vương kia tự nơi thâm tâm tự nghiêm trách mình: “Nghiệp ác ấy của ta không có ai tương tợ. Nguyện nương Phật lực, sớm lìa khổ này. Bèn phát thệ nguyện: Từ đây về sau, đến hết đời vị lai, tâm không suy nghĩ tà, không sanh phóng dật. Cho đến con dế, con kiến cũng không sanh tâm sát hại. Nói lời thề này rồi, đảnh lễ chân Phật, liền trong hội chúng, bỗng nhiên biến mất”.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay thưa hỏi Như Lai: “Vị Long vương này trước kia tạo nghiệp gì, phải đọa vào loài rồng?” Lại do nghiệp gì mà có bảy đầu, trên mỗi một đầu, có cây Y-la, mỗi khi lay động, thật là thống khổ, máu mủ trào ra?” Kính mong Như Lai, vì chúng con giảng nói nhân duyên ấy, khiến rõ tội phạm.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan: “Ngược về quá khứ, trong Hiền kiếp lúc tho mạng của chúng sanh hai vạn tuổi, có Phật ra đời, tên là Ca Nhiếp Ba gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thời đó, Long vương kia, ở trong pháp Phật, xuất gia tu đạo, Làm Tam Tạng Tỳ-kheo, chán sợ phiền não, tu hạnh xa lìa, ở chốn vắng lặng, tu tập Xa-ma-tha. Từ định ra rồi, mặt trời đã quá giữa, bèn vào xóm làng kia mà hành pháp khất thực. Hoặc có được đồ vật, hoặc không được đồ vật, bị người chửi mắng, sanh khởi phiền não. Ra khỏi xóm làng ấy về đến A-lan-nhã, dưới cây Y-la, rồi du hành trở lại, nhân đó dùng hai tay hái lá, gồm bốn lần, hái rồi lại hái, vò nát rồi vứt đi. Phật biết được chuyện này, bèn quở trách Vị Tỳ-kheo kia, và nói giới tướng khiến Tỳ-kheo ấy hối lỗi. Vị Tỳ-kheo đó do không tin thọ lại nói: “Đây là vật vô tình, đâu có lỗi gì” Do hai nhân duyên, nên thọ khổ báo như thế: “Khất thực quá giờ, phải chịu quả báo sanh vào loài rồng, do không tin lời Phật nên sanh cây y-la trên đầu”.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo: Long vương Y-la-diệp kia, chỉ tạo chút nhân ác, nay phải chịu nhiều thống khổ. Tự mình tạo nhân, tự mình thọ quả. Chẳng phải Địa giới, Thủy Hỏa, Phong giới bên ngoài có thể chiêu tập mà thảy đều do nội tâm tạo tác.

Nếu các hữu tình, rốt ráo ưa tạo hắc nghiệp phi pháp thì chắc chắn phải thọ khổ báo ở trong đường ác. Nếu các hữu tình, rốt ráo vui tạo bạch nghiệp thanh tịnh thì nhất định thọ báo vui ở trong cõi người, trời. Nếu các hữu tình, nghiệp gây tạo, thiện ác xen lẫn thì lãnh thọ quả báo lẫn lộn. Cho nên, các thầy Tỳ kheo, đối với hắc nghiệp kia, rốt ráo chớ tạo, đối với bạch nghiệp, nhất định tu tạo. Quả báo chợt đến, giống như dòng thác dữ, nghiệp thiện ác, ảnh hưởng không sai. Như có bài tụng:

Dù trải vô lượng kiếp
Nghiệp kia không thể hoại
Lúc quả báo thành thục
Chúng sanh nhất định thọ

Phật nói: Tỳ-kheo các ông, phải nương theo lời Phật, tư duy như lý, đối với giới cấm không nên phạm dù chút ít. Cho nên ta nay phân biệt tỉ mỉ nỗi lo sợ lỗi lầm của sự hủy phạm giới. Vì khiến hữu tình sanh tâm sợ hãi sâu xa, dứt hẳn các điều ác, siêng làm các điều thiện, Tỳ-kheo các ông, ở nơi kinh điển này, vì mọi người diễn thuyết, khiến thành tựu lọng phước.

Bấy giờ, trong chúng hội, Tôn giả A-nan-đà thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn, tướng trì giới này, làm sao biết rõ?

Phật bảo Tôn giả A-nan: Muốn vào pháp Phật, trước phải giữ năm giới, đó là: Không sát sanh, lìa lấy vật không cho, lìa tham muốn tà hạnh, dứt lời nói hư dối, lìa phóng dật uống rượu. Hành tướng như thế, mỗi mỗi rõ biết. Này A-nan! Nơi nơi xứ xứ, thành ấp xóm làng có các thiện nam, tín nữ nương tựa nơi pháp thiện, vui giữ tịnh giới, phát sanh tâm thanh tịnh, ở nơi năm giới này trọn đời có thể vâng giữ.

Như kinh Tạo Tác Phước Nghiệp nói: Như thế nào là trì giới được thành việc phước. Nếu người có thể đối với hết thảy hữu tình, không làm việc giết hại, người này được gọi là trì giới không giết hại. Người sát sanh, từ nơi tâm sơ khởi, quyết định sẽ giết hại những vật nào, hoặc khiến người khác giết. Khởi tâm gia hạnh thật sự đoạn mạng sống của hữu tình kia, chặt cắt thọ dụng. Người này gọi là phạm tội sát sanh.

Nếu người đối với tài vật sở hữu của người khác, lìa sự không cho mà lấy. Hoặc làm việc cướp lấy. Hoặc kẻ khác để quên, giấu không trả. Thậm chí, từ đầu, khởi tâm gia hạnh, trộm lấy vật kia. Người này gọi là phạm tội trộm cắp.

Nếu người có thể lìa hết thảy nhiễm dục, hoặc ở nơi sắc của người khác, không sanh tâm xâm phạm. Người này được gọi là trì giới không dâm. Người ham muốn tà hạnh, chẳng phải trong thân tộc, làm trò, buôn bán nơi xóm làng, chỗ sanh nhiễm dục, đều không nên đến. Hoặc thân quyến kẻ khác, thường được giữ gìn, khéo sắp đặt phương tiện, để lại châu báu của mình, hoặc kẻ khác gặp nạn mà sanh cưỡng bức. Khởi tâm như thế cho đến việc làm, người này gọi là phạm tội tà dục.

Nếu người thường lìa lời nói hư dối, phát ngôn chân thật, tâm miệng không trái, người này gọi là trì giới không nói dối. Người nói dối đó là thấy nói không thấy, không nói đúng sự thật. Như trong Luật nói: “Như có Tỳ-kheo, từ phương xa đến, hoặc có người hỏi: “Có thấy người này, nọ không?” Vị kia thật sự đã thấy nhưng đáp: “Không thấy. Những sự loại như thế gọi là mắc tội nói dối.

Nếu người đối với rượu, đã răn không uống. Hoặc gió thổi bay mùi thơm, cũng không muốn ngửi, người này gọi là trì giới không uống rượu.

Rượu có ba loại:

1. Tô-la. Là lấy gạo, men trộn lẫn tạo thành.

2. Mai-lý. Loại này chỉ dùng rễ, quả, hoặc hoa, lá v.v… lấy nước làm thành. Hai loại rượu này đủ sắc, hương, vị. Do gió thổi mùi hương, nghe đều muốn uống. Uống rồi mê say, ắt sanh phóng dật.

3. Ma-tha. Loại này lược không nói rõ. Ba loại rượu này, nếu vui thích uống, người này gọi là phạm tội uống rượu.

Lại như kinh Nan-nỉ-ca nói: “Rượu Ma-tha đó, không nên làm ra. Tỳ kheo uống vào rồi dẫn đến phóng dật, hao tổn tài vật, thọ dụng không đủ tăng thêm sân hận, hoặc cùng đánh đuổi nhau, cùng thêm vào lời hung ác, tranh cãi, cho đến mất áo, khỏa thân, không biết xấu hổ. Tiếng xấu lan rộng, người tốt lánh xa. Bỏ quên việc tụng tập kinh điển Đại thừa, tổn giảm trí tuệ, tăng trưởng vô minh. Không kính Tam Bảo, cha mẹ, tôn thân. Ở trong dòng họ, không được tôn trọng. Như thế, người phá giới do vì uống ba loại rượu kể trên, sanh các lỗi lầm. Cho nên phải biết, đối với việc sát sanh v.v… không gây tạo nữa, thường phải xa lìa.

 

KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP

QUYỂN 12

Nay ở đây lược nói tướng trì giới. Bắt đầu từ các căn, nhận giữ kín đáo. Uống ăn biết lượng, giảm trừ ngủ nghỉ, thường vui tôn trọng, tu các phạm hạnh, nghe những việc hưởng tho dục lạc thuở xưa không thích nghĩ tưởng. Lại có thể hiển thị công đức của Sa-môn, xuất ly mọi lỗi lầm của luân hồi nơi nẻo ác. Thân cận thiện tri thức, tác ý như lý, vui nghe chánh pháp, hiểu sâu nghĩa lý, trừ tham, sân, si, dứt các phiền não, bỏ tưởng hư vọng, thêm lớn minh tuệ, chỉ mong giải thoát, không sanh mệt mỏi. Nếu như có hủy phạm tội cấu vi tế thì không che giấu. Hết thảy tài vật tâm không keo kiệt, thường vui thí giúp cho những chúng sanh nghèo khổ. Biết ro năm dục có nhiều tội lỗi. Đối với quyến thuộc của mình, ân ái ràng buộc, sanh tưởng xa lìa. Ở một mình trong rừng, nơi đồng hoang, bỏ chốn ồn náo. Không nuôi lớn vật khác với những kẻ tham. Có người đến cầu pháp, không sanh lòng tiếc sẻn, ganh ghét. Liền vì những kẻ ấy thuyết giảng khiến họ tin hiểu. Thường dùng kiếm tuệ diệt giặc phiền não. Được các thiện nhơn tôn trọng ngợi khen, xứng đáng thọ những vật cúng dường của thế gian như: “Y phục tốt đẹp, ngọa cụ, các thức ăn uống v.v… Đối với những mùi vị thịt, ý tưởng dứt tuyệt, quên hẳn. Nơi danh lợi thế gian tâm không mong cầu, tranh lấy. Đối với hai loại nghiệp đạo thiện, bất thiện, hoặc làm, hoặc ngừng, tin hiểu chắc chắn. Đã tự mình hiểu biết rồi, trừ bỏ nga mạn, dùng tâm lợi lạc, vì người khác diễn thuyết, hóa độ các Ni Kiền tử ngoại đạo v.v… khiến họ cũng sanh tâm tin hiểu, an trụ trong pháp Phật. Ngoài ba y của mình, những vật sở hữu khác, dùng tâm thanh tịnh mà bố thí cho mọi người. Người như thế tức là đã ở trong chủng tộc Thánh. Thân tâm mát mẻ, lìa các nóng bức, ưu não. Ro biết sáu xứ không có chân thật, giống như ung nhọt. Bị vật ngăn che, thường bị ruồi muỗi phiền não cắn hút. Những người có trí, siêng cầu phương tiện, nương nơi chánh niệm xứ và tám Thánh đạo dùng khói hương pháp thiện, xông lên đuổi đi. Ro biết năm uẩn giống như cây chuối, nếu sanh tâm tham, thì khởi tưởng không bền chặt. Do vì lòng tham kia làm hư hoại chánh đạo. Trước chế ngự các căn, khiến không tán loạn. Dần dần khiến tu tập, trụ vào Tam-ma-địa. Rõ biết cảnh giới, bản tánh chỉ là khổ, giống như rừng gai, rậm rạp khó vượt qua. Cũng như bụi bặm, ô nhiễm hữu tình. Dùng nước chánh pháp gội rửa sạch. Quán sát như thế, uẩn, xứ, giới kia, sanh trưởng các phiền não mê muội, không đáng yêu thích.

Đây nói ro Trì giới, có hai loại:

  1. Trì giới không thanh tịnh.
  2. Trì giới thanh tịnh.

Như trong luật nói: “Có hai vị Tỳ-kheo, tinh tấn trì giới. Mỗi người ở một nơi, tiếng tốt đồn xa. Lúc ấy, dân chúng đều kính ngưỡng đạo đức của họ, cùng nhau đi đến chỗ ở của hai vị, thân cận cúng dường. Bấy giờ có Nhà vua tên là Ca-ni-sắt-sá, nghe biết hai vị Tỳ-kheo này hộ trì tịnh giới, nên cùng với quần thần đi đến chỗ của họ. Thấy một vị lão niên, uy nghi trang nghiêm, tu tập thiền định, bèn sanh tâm kính ngưỡng, ý muốn thưa hỏi. Vua thưa: “Bạch Đại Đức! Trì giới như thế, ý mong cầu điều gì?” Vị Tỳ-kheo đáp: Mong muốn của tôi là đời sau được làm vua Nhà vua nghe nói thế, lòng thấy không vui: Trì giới như thế sao không có trí tuệ biện biệt chọn lựa. Lại đi trở vào vòng trói buộc của sanh tử luân hồi? Ngươi làm điên đảo mê hoặc chư Thiên và dân chúng. Ta nay ở đây, không cúng dường. Trì giới như thế gọi là không thanh tịnh.

Nhà vua lại đi đến chỗ ở của vị Tỳ-kheo tân học. Đến rồi, vua liền hỏi: “Thầy nay trì giới, ý mong cầu điều gì?” Vị Tỳ-kheo thưa: “Ơn vua đoái hỏi, điều mong cầu của tôi là nguyện chứng thành Bồ đề, làm lợi lạc quần sinh. Vua nghe nói thế, lòng rất vui: “Trì giới như thế thì không lầm lẫn, xa lìa các cấu nhiễm, gọi là thanh tinh. Ta nay phải thực hiện sự cúng dường tối thượng”. Sa-môn như thế, phát tâm rộng lớn, Đế Thích, chư Thiên đều nên cúng dường. Lúc ấy dân chúng, nghe vua ngợi khen, đều cùng chắp tay, đảnh lễ xuống chân vị Tỳ-kheo. Vua bèn quay nhìn các vị cận thần theo hầu, bảo: “Các ngươi mỗi người hãy lấy vật quý báu mà dâng cúng. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.

Như đức Thế Tôn nói: Có mười loại duyên, gọi là trì giới không thanh tịnh:

  1. Thâu lấy tổn hại.
  2. Đắm sâu nhiễm dục.
  3. Không cầu xuất ly.
  4. Thường sanh lười biếng.
  5. Mong cầu mưu tính khắp.
  6. Thoái thất chánh hạnh.
  7. Tà mạng nuôi sống.
  8. Mất vui yên ổn.
  9. Nghe ít không học.
  10. Bỏ quên việc tụng tập.

– Thế nào gọi là Thâu lấy tổn hại? Đó là đối với vua, con vua, các đại thần, sợ uy thế của họ, thường phải xa lìa, cho đến vô số các loại luật nghi ác. Tỳ kheo, nếu bị bức bách vì khát không nên ở những nơi kia, cầu xin nước để uống. Vì chưa dứt trừ phiền não, chưa chứng được thần túc, không thể tự điều phục mình, sanh nhiều sự sợ hãi.

– Thế nào gọi là đắm sâu nhiễm dục? Đó là ở nơi năm trần cảnh, liên tục khởi tưởng bất chính, tự tánh buông lung, phóng túng, bỏ việc tu tập thiện.

– Thế nào gọi là không cầu xuất ly? Đó là xả bỏ chỗ tốt đẹp hướng đến chỗ lỗi lầm, lại chê bai chỗ tốt đẹp tán thán năm dục lạc.

– Thế nào gọi là thường sanh lười biếng? Đó là luôn luôn nghĩ nhớ những việc lợi phi nghĩa đã làm trong quá khứ, cùng nhau tranh chấp. Ỷ vào của cải mình có, tiêu dùng tùy ý sanh kiêu mạn. Phần nhiều đối với những bậc cao niên đức độ, không thường kính trọng, không khởi ý thưa thỉnh.

– Thế nào gọi là mong cầu mưu tính khắp? Đó là đối với những vị thiện tri thức, đồng phạm hạnh, dua nịnh, tán dương lẫn nhau, vì cầu lợi dưỡng.

– Thế nào gọi là thoái thất chánh hạnh? Đó là ưa tạo các điều ác, trái vượt giới pháp, không co phương tiện thiện để khởi đạo đối trị.

– Thế nào gọi là tà mạng nuôi sống? Đó là sợ mình khó nuôi dưỡng nỗi mình, tâm không biết dừng đủ. Như ở trong Luật nói: “Tỳkheo sinh sống bất chính, làm luật nghi phi pháp, giả hiện dị tướng. Ở trong đại chúng, tự khoe đức mình. Nói nhiều, không biết hỗ thẹn. Hoặc ỷ lại dòng họ, đa văn luận nghị. Hoặc có lúc phi thời thuyết pháp cho kẻ khác, tuy có chút ít đức, do vì tham lợi, người nghe pháp, phần nhiều không tin thọ. Nghe có người nói, ở nơi chốn nọ, có Trưởng giả thuộc tộc họ lớn Bà-la-môn, bố thí áo quần, các loại vật dụng nuôi sống, liền đi đến đó, nói với trưởng giả: “Ta là Trưởng lão đức độ, sẽ lấy những vật tốt đẹp bậc nhất, mong sẽ được thí trước”. Bấy giờ vị Trưởng giả sợ tranh giành ầm ĩ, không muốn trái ý nên cấp cho. Kẻ giúp việc thấy thế, đều sanh lòng khinh chê, vật thí không đem cho, lại xua đuổi khiến bỏ đi. Lúc này vị Tỳ kheo kia tâm sanh buồn phiền, ở trước mặt Trưởng giả nói lời thế này: “Ta trước đã không muốn đi đến chỗ tộc họ thấp kém để cầu những vật cầu dùng. Nay đã không được, ở cũng không hổ thẹn, kẻ kia tuy dòng họ thấp kém nhưng cũng hay vui thí xả”. Tỳ kheo như thế, xảo ngôn dối trá để mong cầu nhiều, tâm thường nóng bức phiền não.

– Thế nào gọi là mất vui yên ổn? Đó là người trì giới phải nên an trụ việc làm trong chỗ không khổ, không vui. Chẳng phải như các ngoại đạo Ni kiền tử, nằm ngồi trên gai gốc, năm thứ lửa, nướng thân, luống thọ khổ nhọc, không có được chút lợi lạc nào. Nếu bám nơi lạc cũng không có chỗ chứng đắc, chỉ tăng thêm phóng dật, sau ắt chiêu cảm lấy khổ báo.

– Thế nào gọi là nghe ít, không học? Đó là bên ngoài tuy phònggiữ lỗi ác, bên trong không có tuệ sáng, chỉ có ngu si, lại không thường thưa hỏi.

– Thế nào gọi là bỏ quên việc tụng tập? Đó là chỉ nghĩ đến việc ăn no, không thể tấn tu. Ăn no đầy ruột, đầy bụng bất tịnh chảy tràn. Thật chẳng phải là Sa-môn, mà tự xưng phạm hạnh. Giống như thổi loa ốc, chỉ đuổi theo tiếng hư ảo.

Mười duyên như thế, tùy theo đầy đủ một loại, gọi là trì giới không thanh tịnh. Những người tu hành phải khéo biết ro.

Nếu người thâm tâm tin hiểu chắc chắn, cho đến một lỗi nhỏ, cũng sanh lòng sợ hãi, phải biết người này khéo trụ tịnh giới. Như trong Luật nghi nói: “Có một Trưởng giả mua được một nô bộc, đã nhỏ lại nghèo, bán thân để tự cứu giúp. Nhưng kẻ kia trong tâm thọ trì giới Phật. Một hôm, Trưởng giả sai sát sanh, kẻ nô bộc liền thưa: “Trưởng giả là bậc chánh nhân, sao lại khiến người tạo nghiệp sát?” Ở nơi việc thiện, bất thiện cần phải phân biệt” Vì giữ giới Phật nên không dám theo lệnh” Trưởng giả thức tỉnh, bèn dừng việc sát hại.

Lại có vị Quốc vương tên là Kế-la-ca, thường dùng hình phạt nghiêm khắc để cai trị muôn dân. Nếu kẻ thứ dân kia, có các lỗi lầm, thuộc về quan gia, tất sẽ tru lục. Lúc ấy, có một người, sắp sửa bị giết. Kẻ Chiên-trà-la kia dập đầu trước vua thưa: “Tôi nay phát tâm, mới lãnh thọ giới Phật. Đối với các tội nhân, thề không giết hại. Thậm chí loài dế, kiến cũng không làm tổn hại”. Nhà vua nói: “Ngươi tôn trọng giới Phật, chống lại lệnh nước. Đã không có chỗ dùng, nuôi ngươi phỏng ích gì?” Lúc ấy, kẻ Chiên trà la lại thưa vua: “Tôi nay nhất định không hủy phạm tịnh giới, xin vua xem thử: “Đế Thích, chư Thiên, ở nơi giới Phật chế còn không dám trái vượt, huống chi chúng tôi” Nhà vua nói: “Nếu thật vậy sẽ dùng nghiêm hình trước chặt đầu ngươi”. Chiên trà la thưa: “Nay thân này của tôi, thuộc về nhà vua. Nhưng ở đời sau, trọn không có thân nào sót lại. Dùng công đức của thiện căn trì giới này, nguyện sẽ được sự an vui hạnh phúc tốt đẹp nhất ở thế gian, cho đến chư Thiên, theo nguyện ý mà đi tới. Ở đời vị lai, vui cầu pháp thiện, tăng trưởng sức mạnh: Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ. Dùng nước công đức rửa sạch cấu nhiễm ba độc: Tham v.v… rửa sạch không còn thừa lại gì. Quyết định sẽ được các quả: “Dự lưu, cho đến Pháp thân vi diệu, thanh tịnh của Như Lai”. Đã phát nguyện này xong, ở trước đại chúng, cao tiếng xướng: “Tôi nay thân này từ nhân duyên sanh, trong khoảng sát na, ắt sẽ chấm dứt, vì hộ trì giới Phật, tâm không lo sợ” Nhà vua nghe kẻ kia nói thế, càng thêm phẫn nộ, liền sai sứ giả, đuổi kẻ chiêntrà-la, vào rừng Thi-đà giết hại mạng nó. Lúc ấy dân chúng đều kinh sợ than thở, bèn nói với nhau: “Người này là bậc đại trượng phu, thật là ít có. Vì hộ trì giới của Phật mà bỏ thân mạng mình.”

Cho nên phải biết, hết thảy chúng sanh, chẳng hạng lớn nhỏ, chủng tánh cao thấp, chỉ trong tâm sâu xa có thể đủ sự hổ thẹn, tin hiểu chắc chắn mà không hủy phạm, thì được gọi là trì giới thanh tịnh.

Ở đây lại nói rõ trì giới không thanh tịnh. Như trong Luật nói: Có một vị Tỳ-kheo, tu hạnh xa lìa, trú trong hang núi. Bỗng nữa đêm, tự lấy lương khô ăn. Do vì vội vàng nên làm bể cái bình. Lúc ấy chúng nghe, rồi quở trách vị Tỳ-kheo kia: Dù ở trong hang núi mà lại ăn phi thời thì cũng gọi là trì giới không thanh tịnh.

Lại có vị Tỳ kheo vốn là Bà-la-môn, sau nương theo pháp Phật, xuất gia tu đạo, vui ở chốn đồng hoang, sống một mình. Do vì thói quen, thường vào ban đêm, gấp y cà sa lại xoạc chân mà ngồi. Có đám học trò trước, chợt đến thăm hỏi. Bèn nói với họ: “Đây nếu không có người, ngươi có thể vào trong rừng Am-la kia, hái trái cây mang về”. Đệ tử vâng lời dạy, liền đi đến chỗ ấy, bèn bị người chủ bắt trói. Đây cũng gọi là trì giới không thanh tịnh.

Lại có Tỳ-kheo, ở nơi A-Lan-nhã, tu hạnh tịch tịnh. Vào làng khất thực, lạc qua nhà mại dâm. Cô gái kia hỏi: “Tỳ-kheo trì giới, vì cớ gì đến đây, chỗ không giải thoát?” Nếu vui thích hòa hợp sẽ vào hầm lửa”. Tỳ-kheo như thế, khó ở chốn vắng lặng vì không khéo quán sát nên bị kẻ kia chê trách. Đây cũng gọi là trì giới không thanh tịnh.

Có hai vị Tỳ-kheo, trụ ở A-lan-nhã, nhưng thật sự không có đức, tự bảo có đức. Theo đám thương nhân vào trong biển lớn. Gió đen hung dữ thình lình nổi lên, sóng to ầm ập đến. Mọi người đều kinh hoàng. Các loài thủy tộc, cá Ma-kiệt v. v. . . tới lui, qua lại ngang dọc, húc đâm làm hư hoại tàu thuyền. Mọi người đều rối loạn, kêu khóc bi thương. Hoặc nổi lên được cứu vớt, hoặc bị chìm đắm. Lúc ấy, vị Tỳ-kheo già, đã rơi xuống nước rồi. Nghĩ lại mình già yếu, mạng không thể thoát được, liền cởi các phao ra, cho người bạn đồng hành. Kẻ kia đã được phao rõi, lấy nhiều châu báu, ngọc ma-ni, v.v… bèn bị mất mạng. Đây gọi là trì giới không thanh tịnh.

Kế lại nói rõ trì giới thanh tịnh. Có một vị Tỳ-kheo, lặn lội đường xa, bèn bị các đạo tặc, cướp đoạt hết cả y áo. Trong số có một người, trước làm Sa-môn, biết vị này hộ trì giới, bèn bảo đám kia: Lấy cỏ trói lại, bỏ ông ta đó rồi đi. Vị Tỳ-kheo luôn nghĩ tưởng giới Phật chế. Hết thảy cỏ lá không được bứt đứt, nằm nép bên đường, không dám động đậy. Gặp lúc vua đi săn bắn. Từ xa trông thấy, tưởng là ngoại đạo lõa hình, do nga mạn không chịu đứng dậy. Liền đi đến cật vấn, mới biết đây la Tỳ-kheo, vì hộ trì tịnh giới, không làm tổn hại cỏ lá. Vua khen là chưa từng có, rồi sai người cởi trói cho ông ta, cho ăn uống lại cung cấp cả áo quần. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.

– Có hai vị Tỳ-kheo từ phương xa lại, muốn đi đến cúng dường Xá-lợi của Như Lai. Hành trình vất vả, mệt khát, muốn tìm nước uống. Vị Tỳ-kheo thứ nhất bị cơn khát bức bách, không bận tâm xem suy xét, uống nước liền. Vị Tỳ-kheo thứ hai tuy cũng khát nhưng xem xét coi nước có trùng không. Vị này bảo với bạn đồng hành của mình: “Thà tự mình chết khát, không làm thương tổn sinh mạng kẻ khác”. Không chịu trái phạm giới luật của Thế Tôn, ngồi ngay thẳng trong rừng, chịu khát mà chết. Do nhân duyên này được sanh lên cõi trời Đao-lợi, gặp Phật nghe pháp, chứng quả Dự-lưu. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.

Có vị Ưu Bà Tắc, tu phạm hạnh đã lâu. Bỗng một hôm, nhà ông bị lửa cháy. Ông răn bảo các con: “Các con cẩn thận chớ lấy nước có trùng tưới vào lửa. Tại sao như vậy?” Ta hộ trì những con trùng nhỏ nhít trong nước, không đoái tiếc tài sản, của cải. Há vì chút lợi nhỏ mà phải đọa vào đường ác. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.

Cho nên, người trí cần phải an trụ trong sự trì giới thanh tịnh, rốt ráo xa lìa sự trì giới không thanh tịnh. Nên biết đức Như Lai xuất hiện ở thế gian, thường vui làm lợi ích cho hết thảy mọi hữu tình, đóng cửa vào nẻo ác, chỉ đường sanh lên Trời. Đốt củi phiền não, nhổ gốc tham dục, giáo hóa các chúng sanh, lìa bỏ nhà, dứt trói buộc, đều khiến gặt được sự tốt lành an vui. Cứu cánh vượt qua dòng thác dữ sanh tử, cỡi thuyền trí tuệ đến nơi bờ kia. Dần dà, chứng đắc trọn vẹn đạo quả Bồ đề Niết bàn; kiến lập cờ pháp lớn, hàng phục các ngoại đạo, nga mạn, kiêu căng, các pháp bất thiện, thảy đều khiến phát tâm. Dõng mãnh tinh tấn, dùng nước chánh pháp, tẩy rửa sự khát ái. Kẻ nghe pháp rồi, nương theo lời dạy mà tu học. Tích tụ pháp tài, kho tàng báu công đức, an trụ nơi thần thông, xuất ly ba cõi, thấu rõ thắng nghĩa đế, an trụ chốn giải thoát. Trì giới như thế, được chư Phật khen ngợi. Phải biết người này là mắt của thế gian, thường dẫn dắt chúng sanh đến nơi an ổn. Cũng như đèn sáng, thường phá bóng tối si mê. Như nước trong sạch, thường tẩy rửa bụi nhơ tội lỗi. Như thuốc hay, chữa lành bệnh phiền não, khéo nhổ mũi tên dục. Như ruộng tốt ở thế gian, sanh trưởng lúa công đức. Luôn giỏi chỉ dạy những chúng sanh lười biếng, khiến sanh tâm hoan hỉ, vui giữ tịnh giới.

Nếu người ưa tạo tác nghiệp đạo bất thiện, như ở chung với kẻ oán thù, ắt sẽ bị tổn hại. Như nương theo pháp của ngoại đạo, Bà-la-môn, mà cầu xuất ly, trở lại chiêu cảm lấy tai vạ lỗi lầm. Phải nương trụ nơi giáo pháp của chư Phật xưa, lấy y ca sa làm tướng cờ hiệu để cầu giải thoát thì có thể tiêu diệt được các cội gốc bất thiện, khiến chúng ma quân sanh lòng lo sợ. Dùng dao trí tuệ chặt đứt phiền não, được danh xưng lớn, lìa các sự suy hoại, họa hoạn. Cứu cánh là thành tựu đạo Bồ đề mầu diệu. Như nói: Trí giả Mã Minh kiên trì tịnh giới, khéo nói pháp yếu, hiện đời có được danh tiếng, nghĩa lợi. Lại sanh về cõi Trời, hưởng thọ phước báu thù thắng, tăng trưởng các loại công đức tuệ sáng. Nên biết người luôn giỏi hộ trì tịnh giới như người nghèo có được bình quý, theo chỗ mong cầu thảy đều được như ý. Thường phải tinh tấn, cung kính hộ trì. Như phụng thờ thầy tổ không có ý tưởng mỏi mệt. Người giữ gìn tịnh giới cũng lại như vậy.

Như đức Thế Tôn nói: Trì giới thanh tịnh, thì có thể đạt được mười công năng:

1. Do trì giới, nên những việc làm ra đều không có chỗ lầm lẫn. Không sanh phiền não, tâm thường vui vẻ. Do vì vui vẻ, thâm tâm vui với chánh pháp. Do vì vui nơi chánh pháp, thân được nhẹ nhàng an ổn. Do vì khinh an, thọ vui thắng diệu. Do vì diệu lạc, dẫn đến sự sanh khởi thiền định. Do vì được định, rõ biết bờ mé chân thật. Do vì rõ biết bờ thật, an trụ nơi Bồ đề, lìa bỏ nhiễm ô chướng ngại, an trụ trí vo ngã, ắt có thể dứt hẳn phiền não vi tế: Sự sanh của ta đã tận, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau, đi đến cảnh giới Niết-bàn.

2. Do vì trì giới, ba nghiệp hiện có không tạo tội ác, xa lìa đường dữ. Lúc sắp mạng chung, tâm không sợ hãi. Nghiệp phước tự tạo, các điều thiện hiện tiền, tùy ý vãng sanh cõi đẹp hưởng vui.

3. Do vì trì giới, tiếng tốt lưu truyền khắp, người nghe khen ngợi.

4. Do vì trì giới, ngủ yên ổn, thức yên ổn, thân tâm không ưu não.

5. Do vì trì giới, thường được chư Thiên, thương tưởng, hộ trì.

6. Do vì trì giới, ở trong đại chúng, tâm không khiếp nhược.

7. Do vì trì giới, không bị loài phi nhơn dò tìm chỗ yếu của mình.

8. Do vì trì giới, được các người ác, xem như thân tộc.

9. Do vì trì giới, vật dụng không thiếu, không phải mong cầu, thường được người thiện cung kính cúng dường.

l0. Do vì trì giới, những điều mong cầu, tùy tâm đều được thành tựu. Nếu muốn sanh vào dòng họ tôn quý, trưởng giả, giàu có lớn, nhà Bà-la-môn, hoặc lại mong cầu sanh vào chư Thiên nơi Sáu cõi trời thuộc cõi Dục cho đến cõi trời cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc cầu quả lìa dục A-lahán, giải thoát tịch tĩnh đều được toại ý.

Trì giới như thế, công đức đạt được, ví như biển lớn, sâu rộng vô biên, Nếu ta thứ tự tuyên thuyết đầy đủ, cùng tận đời vị lai cũng không thể nói hết. Như đã nêu ở trước, công năng trì giới, những người nào từng đạt được quả báo thù thắng như thế?” Như Phật, bậc Đại tiên, thảy đều thành tựu. Từ lúc mới phát tâm, tu trì tịnh giới, cho đến đạt được ba minh, sáu thần thông, Lực, vô úy v.v… ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đẹp đẽ vi diệu, ro ràng, tròn đầy không bớt. Tóc xanh biếc xoay quanh phía mặt, nhuần thấm như màu đen con ong. Sau cổ treo một vòng ánh sáng tròn đầy giống như ánh trăng tròn. Diện mạo đoan nghiêm như hoa sen nở, hình nghi đĩnh đạc như núi vàng ròng. Hai bàn chân bằng phẳng đứng yên tốt đẹp, vững vàng. Tay chân tròn đầy như cây Ni-câu-luật-đà. Thường dùng mắt từ ái nhìn các chúng sanh. Hết thảy người trông thấy Phật, đều được lợi ích, phương tiện cứu tế, xa lìa đường ác. Trong các thế gian, không ai sánh bằng, cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.

Nếu các chúng sanh tho trì tịnh giới, thì có thể đạt được công đức như trên, cùng các đức Như Lai, bằng nhau không khác. Khéo lợi lạc hết thảy hữu tình, cho nên sau Bố thí nói rõ sự trì giới, hành tướng thứ tự, như trước đã nói. Tỳ-kheo các ông, thường phải nhất tâm, vui hành trì bố thí, trì giới, vì người chỉ bày. Đây gọi là thành tựu đầy đủ lọng phước.

HẾT

Pages: 1 2