KINH PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ LẠC

(Kinh Phát khởi sự vui thích thuộc Chí thù thắng của Bồ Tát)

Hán dịch: Đời Đường_ Tam Tạng Pháp Sư BỒ ĐỀ LƯU CHÍ phụng chiếu dịch
Việt dịch: Huyền Thanh

 

QUYỂN HẠ

Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Sơ Nghiệp Bồ Tát đã xuất gia xong, chưa được Tuệ Lực mà muốn được thì nên buông bỏ Pháp nào? Nên tu Pháp nào? Tuệ Lực chưa sinh hay khiến cho sinh ra, Tuệ Lực đã sinh hay khiến cho tăng trưởng?”.

Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: “Này Di Lặc! Sơ Nghiệp Bồ Tát đã xuất gia xong, muốn khiến cho Tuệ Lực được tăng trưởng thì nên đối với lợi dưỡng, biết lỗi lầm ấy cần phải buông lìa. Hoặc ưa thích tụ họp ồn ào, nói chuyện Thế Tục, ham thích ngủ say, rộng kinh doanh mọi việc, ưa thích các Hý Luận…Lỗi lầm như vậy, đều nên xa lìa. Chính vì thế cho nên phải buông bỏ lợi dưỡng, tu chỗ ít ham muốn, buông bỏ các chốn tụ họp ồn ào, ở nơi vắng lặng, buông bỏ nói các chuyện đời, quán nơi Thật Nghĩa, đầu đêm sau đêm xa lìa ngủ mê, quán sát suy nghĩ tùy theo Hành tu tập, buông bỏ mọi việc với các Hý Luận, tu Đạo xuất thế, Từ Niệm (quan tâm yêu thương giúp đỡ) chúng sinh

Này Di Lặc! Sơ Nghiệp Bồ Tát đã xuất gia xong, chưa được Tuệ Lực mà muốn được thì Pháp đó nên buông bỏ, Pháp đó nên tu. Tại sao thế? Vì các vị Bồ Tát ấy đã xuất gia xong, chưa được Tuệ Lực mà muốn được, lại chẳng buông bỏ lợi dưỡng, chẳng tu ít ham muốn mà Tuệ Lực chưa sinh sẽ khiến cho sinh ra, Tuệ Lực đã sinh hay khiến cho tăng trưởng, ắt không có chuyện đó.

Chẳng buông bỏ chốn tụ họp ồn áo, chẳng trụ nơi vắng lặng mà Tuệ Lực chưa sinh sẽ khiến cho sinh ra, Tuệ Lực đã sinh hay khiến cho tăng trưởng, cũng không có chuyện đó.

Chẳng buông nói chuyện đời, chẳng quán Thật Nghĩa mà Tuệ Lực chưa sinh sẽ khiến cho sinh ra, Tuệ Lực đã sinh hay khiến cho tăng trưởng, ắt không có chuyện đó.

Đầu đêm, sau đêm ham thích ngủ mê, chưa từng Giác Ngộ, cột buộc niệm suy nghĩ, chẳng buông bỏ mọi việc, ưa thích các Hý Luận, đối với Đạo xuất thế chẳng thể tu hành, đối với các chúng sinh chẳng sinh Từ Niệm mà Tuệ Lực chưa sinh sẽ khiến cho sinh ra, Tuệ Lực đã sinh hay khiến cho tăng trưởng, cũng không có chuyện đó.

Này Di Lặc! Chính vì thế cho nên Bồ Tát chưa được Tuệ Lực mà muốn được thì nên buông bỏ các Pháp cần phải buông lìa, nên tu các Pháp cần phải tu tập. Tại sao thế? Vì Trí Tuệ của Bồ Tát từ Nhân Duyên sinh, nếu không có nhân duyên, cuối cùng chẳng thể sinh, nhân duyên hòa hợi như thế mới được sinh”

_ Khi ấy Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thế nào gọi là lỗi lầm trong lợi dưỡng? Nếu khi quán sát thời hay khiến cho Bồ Tát ưa thích nơi ít ham muốn, chẳng sinh nhiệt não?”.

Đức Phật bảo Di Lặc: “Sơ Nghiệp Bồ Tát nên quán lợi dưỡng hay sinh ra Tham Dục.

Nên quán lợi dưỡng hay hoại mất Chính Niệm, sinh ra sự giận dữ.

Nên quán lợi dưỡng, nhớ nghĩ việc được mất ấy, hay sinh ra ngu si.

Nên quán lợi dưỡng hay sinh ra Tâm cao thấp ganh tỵ đố kỵ.

Nên quán lợi dưỡng đối với thân hữu, gia đình hay keo kiệt bủn xỉn, đắm trước…sinh ra sự lừa đảo mê hoặc.

Nên quán lợi dưỡng thành tựu mùi vị yêu thích, sinh ra sự lừa dối.

Nên quán lợi dưỡng buông bỏ mầm giống của bốn Thánh không có Tàm Quý (ghê sợ tội lỗi, ham thích Công Đức tốt lành). Chẳng phải là nơi mà tất cả chư Phật đã hứa khả (đồng ý cho phép), tích lũy thói quen kiêu căng dâm dật (kiêu dật), sinh ra sự kiêu ngạo tự phụ (cao mạn).

Nên quán lợi dưỡng đối với ruộng Phước thù thắng, dấy lên sự khinh mạn, làm Ma Đảng (bè đảng của Ma)

Nên quán lợi dưỡng là gốc rễ của mọi điều xấu ác, hủy hoại các điều tốt lành.

Nên quán lợi dưỡng là nơi có nhiều sự tham dính, giống như sương muối mưa đá.

Nên quán lợi dưỡng đối với thân hữu, gia đình…trông đợi nhan sắc, sinh ra sự lo âu buồn phiền

Nên quán lợi dưỡng như sự rối loạn của Tâm lo lắng khi vật yêu thích bị tổn hoại

Nên quán lợi dưỡng đối với bốn Niệm Xứ (Catvāri smṛty-upasthānāni) phần lớn là nơi đã quên mất, giật đổ Pháp Trắng (Pháp tốt lành trong sạch)

Nên quán lợi dưỡng đối với bốn Chính Cần (Catvāri prahāṇāni) phần lớn có sự lùi mất, khiến cho tất cả Luận khác thắng thế.

Nên quán lợi dưỡng như tự mình nói rằng đã được Thần Thông Trí Tuệ, cho nên sinh ra sự trái ngược.

Nên quán lợi dưỡng: trước, sau, được, mất… sinh ra sự oán ghét

Nên quán lợi dưỡng hỗ trợ sự giận dữ hiềm thù, nói lỗi lầm xấu ác ấy cho nên có nhiều sự tìm cầu lựa chọn toan tính.

Nên quán lợi dưỡng vì nuôi mạng sống, kinh doanh các Nghiệp của đời, tính toán suy nghĩ cho nên giảm đi sự an vui.

Nên quán lợi dưỡng cho đến Thiền Định, Tam Muội Giải Thoát, Tam Ma Bát Để (Samāpatti: Đẳng Chí)….Tâm như Dâm Nữ hay lùi mất.

Nên quán lợi dưỡng buông lìa Trí Đoạn (Trí Tuệ Bát Nhã đoạn trừ phiền não), bị rơi vào: Địa Ngục, Quỷ đói, súc sinh, cõi Diêm Ma La, các đường ác.

Nên quán lợi dưỡng cùng với Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) Ô Đà Lạc Ca () đồng ở Pháp Trụ, bị rơi vào đường ác.

Này Di Lặc! Sơ Nghiệp Bồ Tát như vậy quán sát lỗi lầm của lợi dưỡng, ưa thích nơi ít ham muốn, chẳng sinh nhiệt não. Tại sao Thế? Này Di Lặc! Bồ Tát ít ham muốn đối với tất cả lỗi lầm thảy đều chẳng sinh, kham làm Pháp Khí thanh tịnh của chư Phật mà chẳng bị ràng buộc là Tại Gia hay Xuất Gia, trụ ở niềm vui của Ý chân thật tối thắng, chẳng vì thấp kém cũng chẳng sợ hãi, lìa sự sợ hãi bị rơi vào các đường ác, không thể che lấp, buông bỏ mùi vị đam mê, giải thoát được cảnh giới của Chúng Ma, là nơi mà tất cả chư Phật đã khen ngợi, chư Thiên với loài người cũng sẽ yêu thích, ở các Thiền Định mà chẳng bị nhiễm dính, trụ ở cùng cực. Tâm ấy ngay thẳng không có lừa dối, ở trong năm Dục cũng chẳng phóng dật. Nhìn thấy lỗi ấm ấy, như thuyết tu hành, hay trụ ở mầm giống của bậc Thánh, người đồng Phạm Hạnh (Brahma-caryā) cũng sẽ yêu thích.

Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát Trí Tuệ thông mẫn thì đối với Công Đức này hay biết như vậy. Dùng niềm vui của Ý thù thắng nên buông bỏ lợi dưỡng, dùng niềm vui của Ý thù thắng trụ ở nơi ít ham muốn, để chặt đứt Tham Ái mà phát khởi”

_ Khi ấy Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thế nào gọi là lỗi lầm trong chỗ tụ họp ồn ào. Nếu quán sát thời Bồ Tát ở một mình tại chỗ Nhàn Tịnh, chẳng sinh nhiệt não?”

Đức Phật bảo Di Lặc: “Sơ Nghiệp Bồ Tát cần phải quán sát lỗi lầm của sự tụ họp ồn ào, nếu quán sát thời hay khiến cho Bồ Tát ở một mình tại chỗ Nhàn Tịnh, chẳng sinh nhiệt não.

Này Di Lặc! Thế nào gọi là hai mươi loại lỗi lầm ở chốn tụ họp ồn ào?

1_ Chẳng bảo vệ Thân Nghiệp

2_ Chẳng bảo vệ Ngữ Nghiệp

3_ Chẳng bảo vệ Ý Nghiệp

4_ Đầy đủ nhiều sự tham dục

5_Tăng trưởng ngu si

6_ Đam mê nói chuyện của đời

7_ Lìa lời nói xuất thế

8_ Ở trong Phi Pháp tôn trọng tu tập

9_ Buông bỏ, xa lìa Chính Pháp

10_ Thiên Ma Ba Tuần được dịp thuận tiện gây hại

11_ Đối với sự chẳng phóng dật thì chưa từng tu tập

12_ Đối với Hạnh phóng dật thì thường ôm giữ nhiễm dính

13_ Có nhiều sự tìm cầu, lựa chọn, toan tính

14_ Hao tổn giảm bớt Đa Văn (Bahu-śrūta)

15_ Chẳng được Thiền Định

16_ Không có Trí Tuệ

17_ Mau chóng mà được điều chẳng phải là các Phạm Hạnh

18_ Chẳng yêu thích Phật

19_ Chẳng yêu thích Pháp

20_ Chẳng yêu thích Tăng

Này Di Lặc! Đây là Bồ Tát quán hai mươi loại lỗi lầm ở nơi tụ họp ồn ào”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói Kệ rằng:

“_Xa lìa các tham, giận

Chẳng trụ nơi Hội Náo (tụ họp ồn ào)

Nếu chuyên trụ chốn ấy

Lỗi đó chẳng nên làm

_ Kiêu mạn với Giác Quán (tìm cầu, chọn lựa, toan tính)

Đều do Hội Náo sinh

Người hoại Hạnh không Giới

Khen ngợi chốn Hội Náo

_ Người ngu ưa Thế Luận

Lùi mất Đệ Nhất Nghĩa (Paramārtha: Chân Lý tối cao của Phật Giáo)

Phóng dật nhiều Giác Quán (tìm cầu, lựa chọn, toan tính)

Lỗi đó chẳng nên làm

_ Tỳ Khưu bỏ Đa Văn (Bahu-śrūta)

Nói luận chẳng như Lý

Tổn giảm các Thiền Định

Thường suy nghĩ Thế Gian

Người ham dính suy tư

Sao được chỗ vắng lặng

Tâm ấy thường tán loạn

Lìa hẳn nơi Chính Quán

Mau được Phi Phạm Hạnh (Chẳng phải là Phạm Hạnh)

Huyên Tạp (ồn ào tạp nhạp) không lễ nghi

Cũng chẳng từng yêu Phật

Với yêu thích chúng Thánh

_ Vứt bỏ Pháp lìa Dục

Ham dính lời phi Pháp

Ta thường bỏ ngàn thân

Chi phần với đầu, mắt

Vì cầu Đạo vô thượng

Nghe Pháp không chán ghét

Các người Phi Pháp đó

Nghe ít, liền chán bỏ

_ Xưa Ta làm quốc vương

Cầu bài Kệ bốn câu

Vợ con với tài bảo

Thảy đều hay đem cho

Cớ gì nơi người Trí

Mà chẳng siêng nghe Pháp ?!…

Ta thường bỏ tất cả

Phi Pháp với Hý Luận

Vì ở trăm ngàn Kiếp

Khó thể được Giải Thoát

Các ngươi nên vui mừng

Chí cầu Pháp vi diệu

_ Nếu vui thích Giải Thoát

Các Công Đức tối thắng

Các sự nghiệp Thế Gian

Chẳng phải chỗ nên hỏi

Áo, cơm không thắng lợi

Cũng chẳng chứng Niết Bàn

Nên khen ngợi Tối Thắng

Các Tỳ Khưu khéo đến!

Nên khiến ngồi Kiết Già

Trợ nói các Pháp Yếu

Thân người rất khó được

Tùy phần, hành Pháp trắng

Đọc tụng với Thiền Định

_ Ông nên hỏi như vậy

Như Lai vào Niết Bàn

Di Pháp (Pháp lưu lại cho đời) sẽ diệt hoại

Tỳ Khưu nhiều phóng dật

Vui Chúng, vứt nhàn tĩnh

Vị ăn uống, lợi dưỡng

Ngày đêm bàn chuyện đời

Người ngu ở trong mộng

Kinh sợ mà chìm nổi

Tự biết nhiều hủy phạm

Sẽ đọa ba đường ác

Nên sinh Tâm vui vẻ

Một mình ở Nhàn Tịch

Hoặc tại A Lan Nhã (Araṇya)

Chí cầu Đạo vô thượng

Chẳng nên nhìn lỗi người

Nói mình rất Tôn Thắng

Gốc kiêu căng phóng dật

Đừng khinh người thấp kém

Ấy ở trong Di Pháp

Dần dà mà giải thoát

Tỳ Khưu tuy phá Giới

Tin sâu nơi Tam Bảo

_ Đấy tức Nhân giải thoát

Chẳng nên nhìn lỗi ấy

Tồi phục nạn tham giận

Đừng sợ nơi phóng dật

Tập Pháp khác nên thế

Do vậy chẳng cần nói

Nếu Tỳ Khưu trong sạch

Rình tìm lỗi của người

Đấy chẳng phải chân thật

Chẳng gọi tu Chính Pháp

Người như Lý tu hành

Cần phải tự quán sát

_ Các Tỳ Khưu cầu Đạo

Buông lìa ngôn luận ác

Thường dùng Tâm vui vẻ

Một mình ở Nhàn Tịnh”

Khi ấy Bồ Tát Di Lặc lại bạch Phật rằng: “Thật hiếm có ! Bạch Đức Thế Tôn! Ham dính nơi tụ họp ồn ào liền có vô lượng lỗi xấu ác như vậy, lùi mất Công Đức, không có lợi ích, tăng trưởng phiền não, bị rơi vào các nẻo ác, xa lìa Pháp trắng. Vì sao lại có Bồ Tát cầu Thiện Pháp (Kuśala-dharma: Pháp tốt lành) nghe lỗi lầm đó mà chẳng ưa thích ở một mình tại chốn Nhàn Tĩnh?!…”

_ Bấy giờ Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thế nào gọi là lỗi lầm trong việc nói chuyện đời? Nếu quán sát thời Bồ Tát nên trụ tại nghĩa quyết định, do quán nghĩa đó, chẳng sinh nhiệt não”

Đức Phật bảo Di Lặc: “ Sơ Nghiệp Bồ Tát cần phải quán sát lỗi lầm của việc nói chuyện đời có hai mươi loại. Nếu quán sát thời hay khiến cho Bồ Tát trụ tại nghĩa quyết định, do quán nghĩa đó, chẳng sinh nhiệt não”

Này Di Lặc! Thế nào gọi là hai mươi loại lỗi lầm nơi việc nói chuyện đời?

1_ Tâm sinh kiêu căng, chẳng kính Đa Văn

2_ Ở các chỗ tranh luận, dấy lên nhiều sự chấp dính

3_ Mất nơi Chính Niệm Như Lý Tác Ý

4_ Chỗ chẳng tương ứng, thân nhiều xao động

5_ Mau chóng, cao thấp hoại nơi Pháp Nhẫn (Dharma-kṣānti)

6_ Tâm thường ngang ngạnh, chưa từng huân tu Thiền Định Trí Tuệ

7_ Chẳng đúng thời nên bị sự nói năng, ngôn luận ràng buộc

8_ Chẳng thể bền chắc chứng nơi Thánh Trí

9_ Chẳng phải là nơi mà Trời Rồng cung kính

10_ Vì Biện Tài thường ôm ấp sự thấp hèn đê tiện.

11_ Là nơi mà các bậc Thân Chứng đã quở trách

12_ Chẳng trụ Chính Tín, thường ôm ấp sự hối hận

13_ Tâm có nhiều sự nghi ngờ, dao động chẳng yên

14_ Giống như người hát xướng, tùy chạy theo âm thanh

15_ Nhiễm dính các Dục, tùy theo Cảnh lưu chuyển

16_ Chẳng quán chân thật, chê bai Chính Pháp

17_ Có sự mong cầu, thường chẳng được vừa ý

18_ Tâm ấy chẳng điều hòa, bị người vứt bỏ

19_ Chẳng biết Pháp Giới (Dharma-dhātu) tùy thuận bạn ác

20_ Chẳng hiểu thấu các Căn bị phiền não ràng buộc che quấn

Này Di Lặc! Đây là hai mươi loại lỗi lầm ưa thích nói chuyện đời của Bồ Tát”

Lúc đó, Đức Thế Tôn một lần nữa nói Kệ rằng:

_ Kiêu ngạo nơi Đa Văn

Chấp dính các tranh luận

Mất niệm chẳng Chính Tri (Hiểu biết chính đúng)

Là lỗi nói chuyện đời

_ Xa lìa Chính Tư Duy (Samyak-saṃkalpa)

Thân Tâm chẳng vắng lặng

Lùi mất nơi Pháp Nhẫn

Là lỗi nói chuyện đời

_ Tâm ấy chẳng điều thuận

Xa lìa Xa Ma Tha (Śamatha: Thiền Chỉ)

Với Tỳ Bát Xá Na (Vypaśyanā: Thiền Quán)

Là lỗi nói chuyện đời

_ Chẳng tôn kính Sư Trưởng

Yêu thích nơi Thế Luận

Trí Tuệ chẳng bền chắc

Là lỗi nói chuyện đời

_ Chư Thiên chẳng cung kính

Rồng, Thần cũng như thế

Lùi mất nơi Biện Tài

Là lỗi nói chuyện đời

_ Bậc Thánh thường quở trách

Người ham dính như vậy

Hư hao nơi Thọ Mệnh

Là lỗi nói chuyện đời

_ Các Hạnh đều khuyết giảm

Xa lìa Đại Bồ Đề

Khi chết sinh lo khổ

Là lỗi nói chuyện đời

_ Tâm nghi ngờ, dao động

Giống như gió thổi cỏ

Trí Tuệ chẳng bền chắc

Là lỗi nói chuyện đời

_ Ví như người ca xướng

Khen kẻ khác cứng mạnh

Người ấy cũng như thế

Là lỗi nói chuyện đời

_ Chạy theo đời nói năng

Nhiễm dính các cảnh Dục

Thường hành nơi Tà Đạo

Là lỗi nói chuyện đời

_ Tâm mong cầu chẳng được

Lừa dối nhiều tranh luận

Xa lìa nơi Thánh Hạnh

Là lỗi nói chuyện đời

_ Người ngu được chút lợi

Tâm ấy thường dao động

Như khỉ vượn hiếu động

Là lỗi nói chuyện đời

_ Trí Tuệ nhiều lùi mất

Không có Tâm giác ngộ

Nơi người ngu nhiếp giữ

Là lỗi nói chuyện đời

_ Mê hoặc nơi tai, mắt

Cho đến Ý cũng thế

Thường đi cùng phiền não

Là lỗi nói chuyện đời

_ Người ngu ưa Thế Thoại (nói chuyện đời)

Suốt đời thường chậm chạp

Chẳng bằng nghĩ một Nghĩa

Được lợi không bờ mé

_ Ví như vị mía ngọt

Tuy chẳng lìa vỏ lóng

Cũng chẳng từ vỏ lóng

Mà được vị thù thắng

Vỏ lóng như Thế Thoại (nói chuyện đời)

Nghĩa lý giống Thắng Vị (mùi vị thù thắng)

Thế nên bỏ Hư Ngôn (lời nói rỗng không, vô vị)

Suy nghĩ nơi nghĩa thật

_ Các Bồ Tát Trí Tuệ

Hay biết lỗi Thế Thoại (nói chuyện đời)

Thường yêu thích suy nghĩ

Công Đức Đệ Nhất Nghĩa

Pháp Vị với Nghĩa Vị

Vị giải thoát bậc nhất

Ai, người có Trí Tuệ

Tâm chẳng sinh mừng vui?!…

Vì thế nên vứt bỏ

Các lời nói không lợi

Thường vui siêng suy nghĩ

Đệ Nhất Nghĩa thù thắng

_ Pháp bậc nhất như vậy

Nơi chư Phật khen ngợi

Thế nên người Minh Trí (Trí sáng suốt)

Nên vui siêng tu tập”

Khi ấy Bồ Tát Di Lặc lại bạch Phật rằng: “Thật hiếm có ! Chỉ Đức Thế Tôn mới có thể khéo nói lỗi lầm của việc nói chuyện đời. Suy nghĩ Công Đức lợi ích của nghĩa thù thắng (Thắng Nghĩa).

Thế Tôn! Vì sao có Bồ Tát mong cầu Trí Tuệ chân thật của Như Lai mà lại rơi vào việc nói chuyện đời hư hão lừa dối?!…”

Bấy giờ Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thế nào gọi là lỗi lầm trong việc ngủ mê? Nếu quán sát thời Bồ Tát cần phải phát khởi tinh tiến, chẳng sinh nhiệt não”.

Đức Phật bảo Di Lặc: “ Sơ Nghiệp Bồ Tát cần phải quán sát lỗi lầm của việc ngủ mê có hai mươi loại. Nếu quán sát thời hay khiến cho Bồ Tát phát khởi tinh tiến, ý vui thích không có mệt mỏi”.

Này Di Lặc! Thế nào gọi là hai mươi loại lỗi lầm nơi việc ngủ mê?

1_ Lười biếng chẳng siêng năng

2_ Thân thể nặng nề

3_ Nhan sắc tiều tụy

4_ Tăng các bệnh tật

5_ Hỏa Giới suy kém

6_ Ăn vào chẳng tiêu hóa được

7_ Thân thể sinh mụn nhọt

8_ Chẳng siêng tu tập

9_ Tăng trưởng ngu si

10_ Trí Tuệ kém cỏi

11_ Làn da mờ đục

12_ Hàng Phi Nhân (Amanuṣya) chẳng kính trọng

13_ Làm hành động ngu độn

14_ Bị phiền não ràng buộc

15_ Tùy Miên (Anuśaya:tên gọi khác của phiền não hoặc tùy phiền não) che lấp Tâm

16_ Chẳng ưa thích Pháp Thiện

17_ Giảm tổn Pháp trắng

18_ Thực hành Hạnh thấp kém

19_ Chán ghét sự tinh tiến

20_ Bị người khinh rẻ

Này Di Lặc! Đây là hai mươi loại lỗi lầm ưa thích ngủ mê của Bồ Tát”

Lúc đó, Đức Thế Tôn một lần nữa nói Kệ rằng:

“_ Thân nặng không khuôn phép

Lười biếng thiếu trách nhiệm

Nhan sắc không sáng bóng

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Người ấy thường bệnh não

Gom chứa nhiều Phong (bệnh trúng gió) Hoàng (Bệnh vàng da)

Bốn Đại (đất, nước, gió, lửa) trái ngược nhau

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Ăn uống chẳng tiêu hóa

Thân thể không sáng bóng

Âm thanh chẳng trong trẻo

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Thân ấy sinh mụn nhọt

Ngày đêm thường ngủ say

Các Trùng (sâu, bọ, côn trùng) sinh cơ quan

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Lùi mất nơi tinh tiến

Túng thiếu các tài bảo

Nhiều mộng, không giác ngộ

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Lưới Si (Moha) thường tăng trưởng

Ưa dính vào các Kiến (Darśana: Kiến thức)

Hưng vượng khó chữa trị

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Tổn giảm nơi Trí Tuệ (Prajñā)

Tăng trưởng nơi ngu si

Chí Ý thường kém cỏi

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Kia (người ấy) trụ A Lan Nhã

Thường ôm Tâm lười biếng

Phi Nhân được dịp hại

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Hồ đồ mất Chính Niệm

Phúng Tụng chẳng thông lợi

Nói Pháp, nhiều quên lãng

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Do Si dấy mê hoặc

Trụ ở trong phiền não

Tâm ấy chẳng an vui

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Công Đức đều tổn giảm

Thường sinh Tâm ưu hối (lo lắng hối hận)

Tăng trưởng các phiền não

Là lỗi ưa ngủ mê.

_ Xa lìa các bạn tốt

Cũng chẳng cầu Chính Pháp

Thường hành trong Phi Pháp

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Chẳng vui cầu Pháp Lạc (niềm vui của Pháp)

Tổn giảm các Công Đức

Xa lìa nơi Pháp trắng

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Tâm người ấy khiếp nhược

Luôn thiếu nơi vui vẻ

Chi phần nhiều ốm yếu

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Tự biết thân lười biếng

Ganh ghét kẻ tinh tiến

Ưa nói xấu người ấy

Là lỗi ưa ngủ mê

_ Bậc Trí hiểu lỗi ấy

Thường lìa nơi ngủ mê

Người ngu tăng lưới Kiến

Không lợi, tổn Công Đức

_ Bậc Trí thường tinh tiến

Siêng tu Đạo thanh tịnh

Lìa khổ được an vui

Nơi chư Phật khen ngợi.

_ Các kỹ nghệ Thế Gian

Với Công Xảo xuất thế

Đều do sức tinh tiến

Bậc Trí nên tu tập

_ Nếu người hướng Bồ Đề (Bodhi)

Hiểu rõ lỗi ngủ mê

An trụ sức tinh tiến

Giác ngộ sinh Tàm Quý (Ghê sợ tội lỗi, ham thích Công Đức)

_ Thế nên các bậc Trí

Thường sinh Tâm tinh tiến

Buông lìa nơi ngủ mê

Thủ hộ mầm Bồ Đề”

Khi ấy Bồ Tát Di Lạch bạch Phật rằng: “Thật hiếm có! Bạch Đức Thế Tôn ! Ham dính vào sự ngủ mê liền có vô lượng lỗi lầm như vậy. Nếu có người nghe mà chẳng sinh Tâm lo lắng, hối hận, chán lìa…phát khởi tinh tiến thì nên biết người đó rất ư ngu si. Nếu có Bồ Tát vì muốn chí cầu A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Anuttarāsamyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác) nghe nói Công Đức lợi ích của nghĩa câu chân thật như vậy, đối với các Pháp Thiện mà sinh lười biếng, chẳng khởi tinh tiến trụ Bồ Đề Phần (Bodhyaṅga) thời không có chuyện đó”.

Bấy giờ Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thế nào gọi là lỗi lầm trong mọi công việc? Nếu quán sát thời khiến cho Bồ Tát chẳng kinh doanh mọi việc, siêng tu Phật Đạo”

Đức Phật bảo Di Lặc: “ Sơ Nghiệp Bồ Tát cần phải quán sát hai mươi loại lỗi lầm ưa thích kinh doanh mọi việc. Nếu quán sát thời hay khiến cho Bồ Tát chẳng kinh doanh mọi việc, siêng tu Phật Đạo.

Này Di Lặc! Thế nào gọi là hai mươi lỗi lầm?

1_ Ham dính nghiệp thấp kém của Thế Gian

2_ Là nơi mà các vị Tỳ Khưu đọc tụng tu hành đã khinh chê

3_ Cũng là nơi mà vị Tỳ Khưu siêng tu Thiền Định đã quở trách

4_ Tâm thường phát khởi Nghiệp sinh tư lưu chuyển từ vô thủy

5_ Trông đợi thức ăn do Cư Sĩ với Bà La Môn có Tâm trong sạch, tin tưởng bố trí

6_ Đối với các tài vật thì Tâm ôm lấy chấp dính

7_ Thường ưa thích kinh doanh rộng rãi công việc của Thế Gian

8_ Nghĩ nhớ đến nghiệp nhà, thường ôm ấp sự lo âu than thở

9_ Kẻ ấy có tính hung ác tàn bạo, nói năng thô lỗ

10_ Tâm thường giữ nhớ siêng năng tu sửa nghiệp nhà.

11_ Yêu dính các mùi vị, tăng trưởng tham dục

12_ Không có chỗ lợi dưỡng thì chẳng sinh vui vẻ

13_ Sinh ra nhiều nghiệp gây não hại chướng ngại

14_ Thường ưa thích gần gũi với các Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di

15_ Chỉ nghĩ nhớ đến quần áo, thức ăn để vượt qua ngày đêm

16_ Cân nhắc, hỏi han dự nghiệp mà Thế Gian đã làm

17_ Thường ưa thích phát khởi sự nói năng Phi Pháp

18_ Ỷ lại vào sự kinh doanh mọi việc mà dấy lên sự kiêu mạn

19_ Chỉ tìm kiếm lỗi lầm của người mà chẳng tự quán sát chính mình

20_ Đối với người nói Pháp thì Tâm ôm ấp sự khinh chê.

Này Di Lặc! Đây là hai mươi loại lỗi lầm ưa thích kinh doanh mọi việc của Bồ Tát”.

Lúc đó, Đức Thế Tôn một lần nữa nói Kệ rằng:

“_ An trụ nghiệp thấp kém

Xa lìa Hạnh thù thắng

Lùi mất lợi ích lớn

Là lỗi ưa mọi việc

_ Tỳ Khưu vui đọc tụng

Với người tu Thiền Định

Tất cả đều quở trách

Là lỗi ưa mọi việc

_ Thường hành nghiệp sinh tử

Buông lìa Nhân giải thoát

Chờ nhận của Tín Thí

Là lỗi ưa mọi việc

_ Vui nhận các tài bảo

Chẳng được, sinh ưu não

Trụ nơi Hạnh thấp kém

Là lỗi ưa mọi việc

_ Người đó nhiều ái nhiễm

Qua lại nhà Dâm Nữ

Như chim vào trong lồng

Là lỗi ưa mọi việc

_ Thường lo than nghiệp nhà

Luôn ôm Tâm nhiệt não

Nói ra, người chẳng tin

Là lỗi ưa mọi việc

_ Chẳng nhận Tôn Giả Giáo (sự dạy bảo của Tôn Giả)

Trái quy củ, khinh chê

Hủy phạm Giới trong sạch

Là lỗi ưa mọi việc

_ Tâm ấy nhiều tưởng nhớ

Siêng kinh doanh nghiệp đời

Chẳng tu Trí chặt đứt

Là lỗi ưa mọi việc

_ Tâm tham luôn mạnh mẽ

Vui dính các mùi vị

Không có Tâm biết đủ

Là lỗi ưa mọi việc

_ Được lợi, sinh vui vẻ

Không lợi, liền ưu não

Tham lận không Tâm Nhân (hiền lành nhân từ)

Là lỗi ưa mọi việc

_ Não hại không Từ Mẫn

Tăng trưởng các nghiệp ác

Ái Mạn cùng ràng buộc

Là lỗi ưa mọi việc

_ Xa lìa nơi Sư Trưởng

Gần gũi Tri Thức ác

Xua đuổi người Trì Giới

Là lỗi ưa mọi việc

_ Ngày đêm không Tưởng khác

Chỉ nhớ cầu cơm áo

Chẳng thích các Công Đức

Là lỗi ưa mọi việc

_ Thường hỏi Trí Thế Gian

Chẳng thích lời Xuất Thế

Ham yêu nơi Tà Thuyết

Là lỗi ưa mọi việc

_ Cậy mình biết mọi việc

Khinh mạn các Tỳ Khưu

Giống như người cuồng say

Là lỗi ưa mọi việc

_ Tìm yếu kém của người

Chẳng tự thấy lỗi ấy

Khinh hủy người có Đức

Là lỗi ưa mọi việc

_ Người ngu si như thế

Không có phương tiện khéo

Khinh mạn người nói Pháp

Là lỗi ưa mọi việc

_ Nghiệp thấp kém như vậy

Đầy đủ các lỗi lầm

Sao người có Trí Tuệ

Yêu thích mà tu tập?!…

_ Nghiệp thù thắng trong sạch

Đầy đủ các Công Đức

Thê nên người có Trí

Yêu thích thường tu tập

_ Nếu thích nghiệp thấp kém

Bậc Trí sẽ quở trách

Như người buông nhiều tiền

Tham cầu chút ít phần

_ Thế nên người sáng Trí

Nên buông Nghiệp thấp kém

Nên cầu Pháp thắng thượng

Chư Phật thường khen ngợi”

Khi ấy Bồ Tát Di Lạch bạch Phật rằng: “Thật hiếm có! Bạch Đức Thế Tôn ! Các vị Bồ Tát ấy buông lìa Nghiệp tinh tiến thù thắng, mà phát khởi việc thấp kém. Nên biết người đó rất ư kém Trí, Giác Tuệ rất cạn cợt”

Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: “Này Di Lặc! Nay Ta thành thật nói cho ông biết. Nếu có Bồ Tát chẳng tu các Hạnh, chẳng chặt đứt phiền não, chẳng tập Thiền Tụng, chẳng cầu Đa Văn thì Ta nói người đó chẳng phải là kẻ xuất gia.

Này Di Lặc! Nếu có Hành Giả siêng tu Trí ĐoạnTrí Xuất Sinh, Trí Thành Tựu…chẳng tạo làm nghiệp đời, kinh doanh mọi việc thì Ta nói người đó trụ ở Như Lai Giáo.

Nếu có Bồ Tát vui thích làm nghiệp đời, kinh doanh mọi việc, làm điều chẳng cần làm thì Ta nói người đó trụ ở Sinh Tử. Do đó Bồ Tát chẳng nên gần gũi.

Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát kinh doanh nhiều mọi việc, tạo dựng tháp báu tràn đầy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới. Bồ Tát như vậy chẳng thể khiến cho Ta sinh vui vẻ, cũng chẳng phải là cúng dường cung kính Ta.

Di Lặc! Nếu có Bồ Tát đối với Pháp Ba La Mật tương ứng cho đến thọ trì một bài Kệ bốn câu, đọc tụng tu hành, vì người diễn nói… thì người đó mới là kẻ cúng dường Ta. Tại sao thế? Vì Bồ Đề của chư Phật được sinh ra từ Đa Văn, chứ chẳng được sinh ra từ mọi việc vậy.

Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát siêng kinh doanh mọi việc, khiến kẻ kia đọc tụng tu hành diễn nói cho các nhóm Bồ Tát kinh doanh nơi mọi việc. Nên biết người đó tẳng trưởng nghiệp chướng, không có các Phước Lợi. Tại sao thế? Vì ba loại Phước Nghiệp đã nói như vậy, tất cả đều từ Trí Tuệ mà sinh ra. Thế nên Di Lặc! Bồ Tát kinh doanh công việc ở chỗ của các vị Bồ Tát đọc tụng tu hành diễn nói kia…chẳng nên gây chướng ngại, làm Lưu Nạn (chướng nạn của sự tu hành). Bồ Tát đọc tụng tu hành diễn nói ở chỗ của các vị Bồ Tát tu Thiền Định chẳng nên gây chướng ngại, làm Lưu Nạn (chướng nạn của sự tu hành).

Này Di Lặc! Nếu Bồ Tát kinh doanh công việc của một cõi Diêm Phù Đề (Jampu-dvīpa) ở chỗ của một vị Bồ Tát đọc tụng tu hành diễn nói thì cần phải gần gũi cúng dường thừa sự. Nếu các hàng Bồ Tát đọc tụng tu hành diễn nói của một cõi Diêm Phù Đề ở chỗ của một vị Bồ Tát siêng tu Thiền Định cũng nên gần gũi cúng dường thừa sự. Nghiệp Thiện như vậy thì Như Lai tùy vui, Như Lai vui thích hứa nhận. Nếu đối với Bồ Tát siêng tu Trí Tuệ mà thừa sự cúng dường, sẽ được vô lượng nhóm Phước Đức. Tại sao thế? Vì nghiệp Trí Tuệ là tối thắng vô thượng, vượt qua chỗ hành của ba cõi (tam giới). Thế nên Di Lặc! Nếu có Bồ Tát phát khởi tinh tiến thì ở trong Trí Tuệ, nên siêng tu tập”.

Khi ấy Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Đức Như Lai khéo nói lỗi lầm ưa thích chỗ tụ họp ồn ào, nói chuyện đời, ngủ mê, kinh doanh mọi việc của Sơ Nghiệp Bồ Tát.

Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là lỗi lầm trong Hý Luận? Nếu quán sát thời khiến cho Bồ Tát sẽ được trụ ở chốn vắng lặng, không có các tranh luận”

Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: “Lỗi lầm thuộc Hý Luận của Sơ Nghiệp Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên. Nay Ta lược nói có hai mươi loại. Thế nào gọi là hai mươi loại lỗi lầm?

1_ Ở đời hiện tại bị nhiều thứ khổ não

2_ Tăng trưởng sự giận dữ, lùi mất Nhẫn Nhục

3_ Bị các Oán Đối gây não nại

4_ Ma (Māra) với dân Ma đều sinh vui vẻ

5_ Căn lành chưa sinh thảy đều chẳng sinh

6_ Căn lành đã sinh, khiến bị lùi mất

7_ Tăng thêm các Tâm đấu tranh, ganh oán

8_ Tạo làm nghiệp của Địa Ngục, nẻo ác

9_ Sẽ bị quả xấu xa, chẳng lành

10_ Lưỡi chẳng mềm mại, nói năng ngọng ngịu

11_ Chẳng thể nhớ giữ Giáo Pháp đã thọ nhận

12_ Chẳng được gặp Kinh Văn chưa được nghe

13_ Các Thiện Tri Thức thảy đều buông lìa

14_ Mau chóng gặp gỡ các Tri Thức ác

15_ Tu hành nơi Đạo, khó được xuất ly

16_ Mỗi mỗi thường nghe lời nói chẳng vừa Ý

17_ Nơi nơi sinh ra, có nhiều sự nghi ngờ

18_ Thường sinh ở nơi có tám nạn, chẳng được nghe Chính Pháp

19_ Tu hành Pháp trắng có nhiều chướng ngại

20_ Ở chỗ thọ dụng, có nhiều thứ oán ghét

Này Di Lặc! Đây là hai mươi loại lỗi lầm ham dính Hý Luận của Bồ Tát”

Lúc đó, Đức Thế Tôn một lần nữa nói Kệ rằng:

_ Đời này thường khổ não

Lìa Nhẫn, nhiều giận dữ

Oán thù sinh Tâm hại

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Ma với quyến thuộc Ma

Thường sinh Tâm vui vẻ

Đánh mất các Pháp lành

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Thiện chưa sinh, chẳng sinh

Thường trụ ở đấu tranh

Gây tạo nghiệp nẻo ác

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Thân hình nhiều xấu xí

Sinh ở nhà hèn kém

Nói năng thường ngọng ngịu

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Nghe Pháp chẳng thể giữ

Hoặc nghe chẳng vào tai

Thường lìa các bạn lành

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Gặp gỡ Tri Thức ác

Nơi Đạo, khó xuất ly

Thường nghe lời chẳng thuận

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Tùy theo nơi sinh ra

Thường ôm Tâm nghi ngờ

Nơi Pháp, chẳng thể hiểu

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Thường sinh trong tám nạn

Xa lìa chốn không nạn

Đầy đủ không lợi ích

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Nơi Thiện, nhiều chướng ngại

Lùi mất Chính Tư Duy

Nhận chịu nhiều oán ghét

Là lỗi ưa Hý Luận

_ Các lỗi lầm như vậy

Đền nhân Hý Luận sinh

Thế nên người có Trí

Mau chóng nên xa lìa

_ Người Hý Luận như vậy

Khó chứng Đại Bồ Đề

Thế nên người có Trí

Cũng chẳng nên gần gũi

_ Nơi Hý Luận, tranh luận

Dấy nhiều các phiền não

Bậc Trí nên xa lìa

Nên cách trăm Do Tuần

_ Cũng chẳng gần nơi ấy

Dựng lập các nhà cửa

Thế nên người xuất gia

Chẳng nên trụ tranh luận

_ Các ông không ruộng, nhà

Vợ con, với đầy tớ

Đến địa vị vinh hoa

Duyên nào dấy tranh luận?!…

_ Xuất gia trụ vắng lặng

Thân khoác mặc áo Pháp

Chư Tiên đều kính sự

Nên tu Tâm nhẫn nhục

_ Như vậy người Hý Luận

Tăng trưởng Tâm độc hại

Sẽ rơi vào nẻo ác

Thế nên phải tu Nhẫn.

_ Tù cấm với cột trói

Hình hại bị đánh đập

Các nỗi khổ như vậy

Đều do tranh luận sinh

_ Kẻ Hý Luận như vậy

Thường gặp Tri Thức ác

Tiếng tăm chẳng tăng trưởng

Tâm chưa từng vui vẻ

_ Nếu buông nơi tranh luận

Không thể tìm dịp hại

Quyến thuộc chẳng xa lìa

Thường gặp được bạn lành.

_ Nơi Thừa (Yāna) được thanh tịnh

Dứt Nghiệp Chướng không sót

Tồi Phục nơi Ma Quân

Siêng tu Hạnh nhẫn nhục.

_ Tranh luận, nhiều lỗi lầm

Không tranh, đủ Công Đức

Nếu người có tu hành

Nên trụ ở Nhẫn Nhục”

Khi ấy Bồ Tát Di Lặc lại bạch Phật rằng: “Thật hiếm có! Chỉ Đức Thế Tôn mới có thể khéo nói lỗi lầm như vậy, khiến cho các vị Bồ Tát sinh Tâm giác ngộ. Trong năm trăm năm ở đời Mạt Thế sau này, có thể có Bồ Tát nghe nói lỗi lầm do tranh luận như vậy mà hay sinh lo âu hối hận, buông lìa phiền não chăng?”

Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: “Này Di Lặc! Trong năm trăm năm ở đời Mạt Thế sau này, ít có Bồ Tát hay sinh lo lắng hối hận, buông lìa phiền não. Phần lớn có Bồ Tát, Tâm ấy ngang ngạnh chẳng tôn kính nhau, ôm ấp Tăng Thượng Mạn (Abhimāna) cùng nhau tranh đúng, sai….nghe nói Công Đức thù thắng của nghĩa thâm sâu như vậy, tuy có thọ trì đọc tụng diễn nói, do Bồ Tát đó có nghiệp chướng sâu nặng, nên chẳng thể được sinh Công Đức thù thắng, liền đối với Kinh này nghi ngờ chẳng tin, chẳng chịu thọ trì, vì người diễn nói. Khi Ma Ba Tuần nhìn thấy việc đó xong, vì lừa dối mê hoặc cho nên hiện hình Tỳ Khưu đi đến chỗ ấy, nói lời như vầy: “Các Kinh Điển này đều là Thế Tục khéo dùng văn từ mà chế tạo ra, chẳng phải là điều mà Đức Như Lai đã tuyên nói. Tại sao thế? Vì Công Đức lợi ích mà Kinh này đã nói, thì ngươi đều chẳng được”. Do sự lừa dối mê hoặc của Ma Ba Tuần, nên đối với Không Tính (Śūnyatā), nghĩa Lợi (Artha) tương ứng với Khế Kinh (Sūtra) thâm sâu thì Tâm sinh

nghi ngờ dấy lên các tranh luận, chẳng chịu thọ trì đọc tụng diễn nói

Này Di Lặc! Các người ngu ấy chẳng thể biết rõ, do nghiệp của chính mình cho nên chẳng thể được Công Đức thù thắng kia. Khi nghiệp của chính mình đã tiêu tan xong thì quyết định sẽ được Công Đức như vậy”

_ Bấy giờ Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Đức Phật đã nói Công Đức lợi ích trong Thế Giới Cực Lạc (Sukha-vatī) của Đức Phật A Di Đà (Amitābha:Vô Lượng Quang). Nếu có chúng sinh phát mười loại Tâm, tùy theo mỗi một Tâm, chuyên niệm hướng về Đức Phật A Di Đà thì khi chết, người đó sẽ được sinh về Thế Giới của Đức Phật ấy”

Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: “Này Di Lặc! Mười Tâm như vậy chẳng phải là chỗ mà các Phàm Phu, Trượng Phu bất thiện, kẻ đủ phiền não có thể phát khởi được!…Nhóm nào là mười?

1_ Tâm đối với các chúng sinh: khởi Đại Từ không có tổn hại

2_ Tâm đối với các chúng sinh: khởi Đại Bi không có bức não

3_ Tâm đối với Chính Pháp của Phật: chẳng tiếc thân mệnh, vui thích thủ hộ

4_ Tâm đối với tất cả Pháp: phát sinh Thắng Nhẫn không có chấp dính

5_ Tâm chẳng tham: lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, niềm vui của Ý trong sạch

6_ Tâm cầu Phật Chủng Trí: ở tất cả thời không có quên mất

7_ Tâm đồi với các chúng sinh: tôn trọng, cung kính, không có thấp kém

8_ Tâm chẳng dính vào Thế Luận, đối với Bồ Đề Phần sinh quyết định

9_ Tâm gieo trồng các căn lành, không có tạp nhiễm trong sạch

10_ Tâm đối với các Đức Như Lai: buông lìa các Tướng, khởi tùy niệm

Này Di Lặc! Đây gọi là Bồ Tát phát mười loại Tâm. Do Tâm đó cho nên sẽ được sinh về Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Này Di Lặc! Nếu người ở trong mười loại Tâm này, tùy thành một Tâm, vui muốn sinh về Thế Giới của Đức Phật ấy, nếu chẳng được sinh, ắt không có chuyện đó”

_ Khi ấy Tôn Giả A Nan (Ānanda) bạch Phật rằng: “Thật hiếm có! Chỉ Đức Thế Tôn mới có thể mở bày diễn nói Công Đức chân thật của Như Lai, phát khởi niềm vui thuộc chí thù thắng của Bồ Tát.

Thế Tôn! Nên dùng tên nào gọi Kinh này ? Chúng con thọ trì như thế nào?”.

Đức Phật bảo A Nan rằng: “Kinh này tên là Phát Khởi Bồ Tát Thắng Chí Lạc, cũng gọi là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn. Dùng danh tự đó, ông nên thọ trì”.

Đức Phật nói Kinh này xong thời Bồ Tát Di Lặc với các vị Thanh Văn, tất cả Thế Gian, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà….nghe điều Đức Phật đã nói đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

 

KINH PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ LẠC

(Kinh Phát khởi sự vui thích thuộc Chí thù thắng của Bồ Tát)

Dịch xong một Bộ gồm 02 quyển vào ngày 16/04/2012__

Trang 1 2