KINH KIM CƯƠNG ĐỒNG TỬ TRÌ NIỆM
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
_Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn:
“Án, truật đệ nậu thú đà nẵng dã, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ ŚUDDHE ANUŚUDDHA-NAYA SVĀHĀ
Hai Vũ (2 tay) kết Liên Hoa Hợp Chưởng. Tụng Chân Ngôn trước bảy lần gia trì ba Nghiệp của thân tâm thảy đều thanh tịnh Vọng Niệm, các lỗi lầm
_Tiếp kết Phổ Lễ Nhất Thiết Như Lai Ấn. Quỳ gối phải sát đất, hai Vũ (2 tay) tay trái che tay phải, ngửa lên cùng dính lưng, đem hai Tín (2 ngón út) hai Tuệ (2 ngón cái) cùng cài ngược nhau rồi để trên đỉmh đầu. Miệng tụng Chân Ngôn ấy, thân trụ Nghi Tướng này, tâm tưởng thân mình đầy khắp Pháp Giới, trước mặt hai vị Phật Bồ Tát đều có thân của mình. Chí thành Tác Lễ Chân Ngôn
“Án, phộc nhật-la vĩ đa”
*)OṂ_ VAJRA VID
_Như vậy dùng ba Nghiệp vận ngang bằng, lễ quán tất cả Thánh Chúng với Mạn Trà La, tượng Bản Tôn xong, liền ngồi Kiết Già hoặc Bán Già, lắng định thân tâm, kết Phật Bộ Tam Muội Gia Ấn. Hai tay kết Phù Dung Hợp Chưởng, mở tay như thế bụm giữ vật, đem hai Định (2 ngón trỏ) phụ ở hai Niệm (2 ngón giữa) bên cạnh vạch của lóng trên, hai Tuệ (2 ngón cái) vịn vạch thứ nhất bên dưới hai Định (2 ngón trỏ) tức thành. Liền niệm Phật Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn:
“Án, đát tha tát cấu nạp-bà phộc dã, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ TATHĀGATA UDBHAVĀYA _ SVĀHĀ
Đem Ấn an ở trên đỉnh đầu, tụng Chân Ngôn ba biến, tưởng Ấn như hình tượng Phật
_Tiếp kết Liên Hoa Bộ Tam Muội Gia Ấn. Hai vũ (2 tay) như trước chắp lại hơi mở khoảng giữa, hai Tiến (2 ngón vô danh) hai Niệm (2 ngón giữa) hai Định (2 ngón trỏ) đều cách đầu ngón của nhau khoảng một Thốn (1/3 dm), đều kèm dựng hai Tín (2 ngón út) hai Tuệ (2 ngón cái) như hình hoa sen hé nở. Tụng Chân Ngôn ba biến, nâng Ấn an trên tai phải bên phải đỉnh đầu, tưởng như Quán Tự Tại Bồ Tát. Liên Hoa Tam Muội Gia Chân Ngôn là:
“Án, bát nạp-mô nạp-bà phộc dã, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ PADMA UDBHAVĀYA _ SVĀHĀ
_Tiếp kết Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn. Như Biến Lễ Ấn lúc trước, an ở trên trái tim, tụng Chân Ngôn ba biến, nâng Ấn an ở trên tai trái bên trái đỉnh đầu, tưởng như Kim Cương Tạng Bồ Tát. Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-lỗ nạp-bà phộc dã, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VAJRA UDBHAVĀYA _ SVĀHĀ
_Xong, kết Hộ Thân Ấn. Hai vũ (2 tay) bên phải đè bên trái, cùng cài chéo các ngón bên trong, dựng thẳng hai Niệm (2 ngón giữa) sao cho đầu ngón dính nhau, hai Định (2 ngón trỏ) hơi co ở lưng hai Niệm (2 ngón giữa) chẳng được dính nhau như hình cái chày Tam Cổ, kèm dựng hai Tuệ (2 ngón cái) trong lòng bàn tay đè trên hai Tiến (2 ngón vô danh) hai Tín (2 ngón út) liền thành.
Trong Bản Kinh hoặc dùng Căn Bản Ấn cũng được. Nay lấy Chân Ngôn của Pháp thông dụng trong Kinh Tô Tất Địa, tức chẳng so sánh được. Hộ Thân Chân Ngôn.
“Án, tát phộc nột sắt-tra phộc hướng yết la, ca nê, củ-lỗ đà, la khất-sái, la khất-sái, hàm, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ SARVA DUṢṬA VAŚAṂKARA, KAṆI-KRODHA RAKṢA RAKṢA MAṂ SVĀHĀ
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn trước, gia trì năm nơi trên thân mình. Trước hết ấn vầng trán; tiếp đến vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng. Đấy là năm nơi. Dùng uy lực của Chân Ngôn gia trì thân mình liền thành khoác mặc giáp trụ Kim Cương.
_Tiếp kết Tịch Trừ Chư Chướng Hệ Phộc Tỳ Na Dạ Ca Ấn. Cùng cài chéo mười Độ (10 ngón tay) của hai Vũ (2 bàn tay) bên trong xong, co hai Tuệ (2 ngón cái) vào trong lòng bàn tay cùng ngược lưng móng tay đều vịn mặt ngón của hai Niệm (2 ngón giữa) rồi nắm quyền, Tâm tưởng Tỳ Na Dạ Ca, loài gây chướng nạn bị 5 cách cột trói. Tịch Trừ Chân Ngôn là:
“Án, độ nẵng, vĩ độ nẵng, đát-la sa dã, thú sái dã, tát phộc vĩ nẵng dã ca nam, hồng, bát tra, sa-phộc hạ”
*)OṂ DHUNA VIDHUNA TRĀSAYA ŚĀṢAYA _ SARVA VINĀYAKĀNAṂ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
_Tiếp kết Bị Kim Cương Giáp Trụ Ấn. Tức Ấn trước, đem dựng thẳng hai Định (2 ngón trỏ) đính đầu ngón, đem hai Tuệ (2 ngón cái) đều vịn vạch thứ nhất bên dưới hai Định (2 ngón trỏ) liền thành. Dùng Ấn như trước gia trì năm nơi trên thân mình thì khắp thân tự nhiên mặc giáp trụ Kim Cương tỏa ánh sáng hách dịch. Chân Ngôn là:
“Án, hột-lý ca nê, dã ma, na hạ, hồng, bát tra, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ HRĪḤ KAṆI YAMA DAHA HŪṂ PHAṬ_ SVĀHĀ
_Tiếp kết Kim Cương Tường Ấn.Tức Giáp Trụ Ấn trước, mở hai Định (2 ngón trỏ) sao cho đầu ngón cách nhau một Thốn (1/3 dm), mở lòng bàn tay như hình bức tường liền thành. Chân Ngôn là:
“Án, hột-lý ca nê, nặc hạ nặc hạ, bát tả bát tả, hồng, bát tra”
*)OṂ_ HRĪḤ KAṆI DAHA DAHA PACA PACA HŪṂ PHAṬ
_Đặt Ấn trên Đỉnh đầu, xoay ba vòng theo bên phải trong không trung kèm tụng Chân Ngôn ba biến. Do sức uy thần gia trì này cho nên vòng khắp bốn phương, tùy tâm xa gần kết thành bức tường Kim Cương, cõi cõi được ánh quang minh chiếu diệu, tất cả các Ma chẳng dám ở gần.
_Tiếp kết Nghinh Thỉnh Thánh Tôn Ấn. Hai vũ (2 tay) cùng cài chéo các ngón bên trong, dựng thẳng hai Định (2 ngón trỏ) sao cho đầu ngón dính nhau, đem hai Tuệ (2 ngón cái) hướng về thân chiêu vời. Thỉnh Tôn Chân Ngôn là:
“Án, độ ninh, bà nga tông, ca ninh đoản lỗ đà, ế duệ hứ, hồng, bát tra”
*)OṂ_ DHUṆI BHAGAVAṂ KAṆI-KRODHA EHYEHI HŪṂ PHAṬ
_Chẳng sửa Ấn trước, liền tụng Chân Ngôn sau. Nghinh Thỉnh Thánh Tôn Giả Quyến Thuộc Chân Ngôn:
“Án, sa bả lý phộc la, ma phộc hạ dã, bà nga tông, ca ninh, củ lỗ đà, tam ma gia ma nỗ sa-ma la , sa-phộc hạ”
*)OṂ_ SAPARIVĀRA MĀVĀHAYA BHAGAVAṂ KAṆI-KRODHA SAMAYAM ANUSMARA_ SVĀHĀ
_Tiếp kết Đô Minh Vương Phẫn Nộ Quân Tra Lợi Ấn tịch trừ các Ma, nỗi sợ hãi tùy theo Thánh Chúng ẩn nấp ngầm trong đó. Dùng uy thần của Minh Vương tìm tòi gánh vác phát khiển loài gây chướng nạn chỉ còn lưu lại Thánh Giả với quyến thuộc của mình.
Ấn ấy đem hai Tín (2 ngón út) bên phải đè bên trái, cùng giao nhau bên trong. Co song song hai Tiến (2 ngón vô danh) đều đè trên chỗ giao nhau của hai Tín (2 ngón út). Dựng thẳng hai Niệm (2 ngón giữa) đính đầu ngón, đều hơi co hai Định (2 ngón trỏ) ở sau lưng hai Niệm (2 ngón giữa) sao cho chẳng dính nhau như hình cái chày Tam Cổ Kim Cương, kèm dựng hai Tuệ (2 ngón cái) đè trên hai Tiến (2 ngón vô danh) tức thành. Đưa Ấn lên không trung xoay theo bên trái ba vòng tịch trừ Ma ác, chọn lựa phát khiển. Liền tức xoay theo bên phải ba vòng kết thành Kim Cương Quang Minh Kiên Cố Đại Giới. Tất cả Phàm Thánh chẳng dám vượt qua Giới này. Ai làm trái vượt qua sẽ biến đổi Tam Muội Gia (Samaya), quyết định chẳng yên, chúng Thánh âm thầm phạt kẻ làm trái vượt qua vì chúng Thánh có lời thề vậy. Liền tụng Quân Tra Lợi Chân Ngôn là:
“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã
Na mạc thất-chiến phộc nhật-la bá noa duệ, ma hạ dược xoa, tế nẵng bát đa duệ
Án, a mật-lật đa quân noa lý, khước khước, khư khư, khư hứ khư hứ, để sắttra để sắt-tra, mãn đà mãn đà, hạ nẵng hạ nẵng, nghiệt nhạ nghiệt nhạ, vĩ táp-phổ tra dã, vĩ táp-phổ tra dã, tát phộc vĩ cận-nẵng, vĩ nẵng dã kiếm, ma hạ nga noa bát để , nhĩ vĩ đa đắc, ca la dã, hồng, bát tra”
*)NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ŚCAṆḌA VAJRA-PĀṆĀYE MAHĀ-YAKṢA-SENAPATAYE
OṂ_ AMṚTA-KUṆḌALI KHAKHA KHAKHA KHAHI KHAHI TIṢṬA TIṢṬA BANDHA BANDHA HANA HANA GARJA GARJA VISPHOṬĀYA
VISPHOṬĀYA_ SARVA VIGHNA VIGHNĀṂ VINĀYAKAṂ MAHĀ-
GAṆAPATI JĪVITĀNTA KARĀYA HŪṂ PHAṬ
_Liền kết Thượng Phương Kim Cương Võng Ấn. Tức Tường Ấn trước, đem hai Tuệ (2 ngón cái) mở bung dựng thẳng liền thành. Đem Ấn trên đỉnh đầu xoay theo bên phải ba vòng, tụng Chân Ngôn ba biến tức thành cái lưới Kim Cương che khắp bên trên ấy. Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, bán nhạ la, hồng, bát tra”
*)OṂ_ VAJRA-PAṂJALA HŪṂ PHAṬ
_Tiếp Hiến Át Già Hương Thủy Dục Thánh Tôn Ấn. Dùng Nghinh Thỉnh Ấn trước, đem hai Tuệ (2 ngón cái) đều vịn vạch thứ nhất dưới gốc hai Định (2 ngón trỏ) rồi đem Ấn ngang trái tim, duỗi ngang bằng như hình Luy Bôi, nâng Ấn ngang trán phụng hiến. Nếu có vật dụng chứa nước thơm liền dùng Ấn này đè lên, gia trì ba biến hoặc một biến, sau đó nâng lên dâng hiến. Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-lỗ na ca, hồng”
*)OṂ_ VAJRA UDAKA HŪṂ
_Tiếp kết Bảo Sơn Ấn. Dùng Độc Cổ Xử Ấn, buộc lóng trên khiến ngang bằng như hình đỉnh đầu bên trên, kèm dựng hai Tuệ (2 ngón cái) đè trên các ngón trong lòng bàn tay liền thành. Tụng Bảo Sơn Chân Ngôn là:
“Án, a tả la, hồng”
*)OṂ_ ACALA HŪṂ
_Tiếp Hiến Liên Hoa Tòa Ấn. Liền dùng Át Già Ấn trước, hướng đầu hai Tuệ (2 ngón cái) ra bên ngoài mở dựng, cách nhau khoảng nửa Thốn như hình hoa sen. Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la vĩ la dã, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VAJRA VIRĀYA _ SVĀHĀ
_Tiếp hiến năm Cúng Dường.Trước tiên kết Đồ Hương Ấn, tức Độc Cổ Xử Ấn trước hơi co hai Tuệ (2 ngón cái) vịn vạch thứ nhất bên dưới hai Định (2 ngón trỏ) cách nhau khoảng một Thốn (1/3 dm) liền thành. Đồ Hương Chân Ngôn là:
“Án, ca nê củ-lỗ đà tát phạ tát đát phạ sa yết ra ra khất sái ra khất sái tát phạ sân đà nĩnh, sa phạ ha”
*)OṂ_ KAṆI-KRODHA SARVA SATVĀ SAKARA RAKṢA RAKṢA _ SARVA GANDHANI SVĀHĀ
_Tiếp kết Hiến Hoa Ấn. Tức Độc Cổ Xử Ấn trước, ló Hữu Tuệ (ngón cái phải) liền thành. Tụng Hiến Hoa Chân Ngôn là:
“Án, ca nê bổ-sáp bà mẫu nạp-bà phộc, hồng”
*)OṂ_ KAṆI PUṢPAM UDBHAVA _ HŪṂ
_Tiếp kết Thiêu Hương Ấn. Tức Độc Cổ Xử Ấn trước, ló Tả Tuệ (ngón cái trái) liền thành. Tụng Thiêu Hương Chân Ngôn là:
“Án, ca nễ củ lỗ đà, ổ nghiệt-la năng sắt-tra-lỗ đắc-yết tra bột la phộc, ngật-lý hận-noa, ngật-lý hận-noa, độ bôn, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ KAṆI-KRODHA UGRA DAṂṢTRA ATKAṬA VAIRAVA GṚHṆA GṚHṆA DHUPAṂ_ SVĀHĀ
_Tiếp kết Hiến Thực Ấn. Dựa theo Độc Cổ Xử Ấn trước, ló hai Tuệ (2 ngón cái) với hai Tín (2 ngón út) sao cho đầu ngón trụ nhau, bốn ngón còn lại cùng cài chéo nhau bên trong, nắm quyền liền thành. Chân Ngôn là:
“Án, ca nê hồng hồng sa-phộc hạ”
*)OṂ_ KAṆI HŪṂ HŪṂ_ SVĀHĀ
_Tiếp kết Đăng Minh Ấn. Tức Độc Cổ Xử Ấn trước, hướng hai Tuệ (2 ngón cái) về thân, kèm dựng liền thành. Tụng Đăng Minh Chân Ngôn là:
“Án, ca nê, nễ ba, nễ ba dã, hồng bát tra, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ KAṆI DĪPA DĪPAYA HŪṂ PHAṬ_ SVĀHĀ
_Tiếp kết Phổ Cúng Dường Ấn. Chắp hai tay lại, bên phải đè bên trái, giao chéo lóng thứ nhất của các ngón.Liền quán tưởng từ Ấn tuôn ra mọi loại mây biển cúng dường hóa thành bảy báu, cung điện, lầu gác, quần áo, thức ăn uống, Nhạc Trời thượng hảo tràn đầy Pháp Giới cúng dường tất cả Thánh Chúng.
Nay lược ra đề cử một hai, nếu rộng nói thì mỗi mỗi như sự cúng dường đã nói trong Kinh Hoa Nghiêm. Liền tụng Chân Ngôn ba biến hoặc bảy biến. Chân Ngôn là:
“Án, a mô già, ma nê, bát nạp-ma nhập-phộc la, bát-la vạt đa gia, hồng”
*)OṂ_ AMOGHA-MAṆI –PADMA JVALA PRAVARTTĀYA HŪṂ
_Làm các Cúng Dường như trên xong, dùng tay phải ném chày Kim Cương, tụng Bản Chân Ngôn, ở trước Chúng Thánh, tâm tưởng như đối diện với Đấng Chí Tôn, làm thế đạp múa phỏng theo tượng Kim Cương Tát Đỏa, ở trước mặt Đức Như Lai, giỡn ném cây chày ấy, nhân tiện gia trì năm nơi trên thân mình. Tay trái cầm lấy cái chuông Kim Cương ở trên trán lắc chấn ba lần biểu thị cho âm thanh của Thiên Nhạc cúng dường Thánh Chúng khiến cho vui thích. Cũng tụng Bản Chân Ngôn, tâm trụ Tát Đỏa Diệu Tam Muội Địa.
(Phần trên dùng cái chuông, cây chày, hai Chân Ngôn với Ấn. Nguyên lai do Thầy thọ nhật sự mật truyền chẳng ghi chép nơi văn. Trí của người phàm có hạn, hoặc truyền chẳng hết, hoặc người học lãnh thọ chẳng rõ, cho đến có nhiều loại mà trước sau ghi chép chẳng đồng. Ngày nay dùng sách xưa tạm viết lại (thảo) việc che dấu lúc trước)
Người tu hành lại lo sợ trong việc thừa sự cúng dường, hoặc có sự quên mất, lầm lẫn, sơ ý phạm giới cấm của Tam Muội Gia. Hoặc có tội chướng, nghiệp xưa trong nhiều đời mà chưa được tiêu trừ. Tụng Kim Cương Bộ Bách Tự Chân Ngôn, dùng bổ khuyết cho việc tiềm ẩn lúc trước mà diệt trừ các lỗi, được thân tâm thanh tịnh, tương ứng với Pháp. Bách Tự Chân Ngôn là:
“Án, Phộc nhật-la tát đa-phộc, tam ma dã, ma nỗ bá la dã, phộc nhật-la tát đa-phộc đát-vị nỗ bả để sắt-xá, niết-lý trạc minh bà phộc, tố cấu sổ minh bà phộc, a nỗ la cật cấu minh bà phộc, tố bố sổ minh bà phộc, tát phộc tất địa dâm minh , bát-la duệ tha, tát phộc yết ma tố tả, minh, tức đá, thất-lý dược củ lỗ , hồng, hạ hạ hạ hạ, hộc- sa nga tông, tát phộc đát tha nga đá, phộc nhật-la, ma, nhĩ, muộn tả, phộc nhật-lý bà phộc, ma hạ tam ma dã, tát đa-phộc, Ác”
*)OṂ_ VAJRA-SATVA SAMAYAM ANUPĀLAYA_VAJRA-SATVA TVENA UPATIṢṬA DṚḌHO ME BHAVA_ SUTOṢYO ME BHAVA_ SUPOṢYO ME BHAVA _ ANURAKTO ME BHAVA_ SARVA SIDDHIṂ_ME PRACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTAṂ ŚRĪYAṂ KURU HÙM _HA HA HA HA HOḤ_ BHAGAVAṂ SARVA TATHĀGATA VAJRA _ MĀ ME MUṂCA_VAJRĪ BHAVA_ MAHĀSAMAYA-SATVA_AḤ HŪṂ
Ấn ấy. Hai tay, bên phải đè bên trái, cùng cài chéo các ngón bên ngoài rồi nắm quyền, dựng thẳng hai ngón giữa cùng hợp nhau. Đây gọi là Tam Muội Gia Ấn.
Do kết Ấn này gia trì bốn nơi trên thân là: trái tim, vầng trán, cổ họng, đỉnh đầu với tụng Bách Tự Chân Ngôn hay trừ tất cả tội nặng từ vô thủy đến nay.Phá bốn trọng cấm, năm nghiệp Vô Gián, tội phỉ báng Kinh Phương Đẳng …Tội của nhóm như vậy thảy đều tiêu diệt huống chi lỗi nhỏ lầm lẫn quên mất mà chẳng được thanh tịnh sao.
_Liền kết Bản Tôn Ấn. Chắp hai tay lại, đem hai ngón Vô Danh: bên trái an bên dưới chỗ ở trước, bên phải an trên chỗ ở lúc sau, đè lưng ngón vô danh trái rồi giao ngón tay ở sau lưng hai ngón giữa, hai ngón trỏ đều móc đầu hai ngón Vô Danh, kèm dựng hợp hai ngón giữa; hai ngón cái cũng kèm dựng vịn lóng giữa của hai ngón giữa; hợp dựng hai ngón út liền thành. Tụng Căn Bản Chân Ngôn, dùng Ấn gia trì bốn nơi trên thân. Chân Ngôn là:
“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã – Nẵng mạc thất-chiến noa phộc nhật-la bá noa duệ ma hạ dược xoa tế nẵng bát đa duệ. Đát nễ-dã tha: An, gia nê độ nĩnh, hồng, bát tra, sa-phộc hạ”
*)NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ŚCAṆḌA VAJRA-PĀṆAYE MAHĀ-YAKṢA-SENAPATAYE
TADYATHĀ: OṂ_ KAṆI DHUṆI HŪṂ PHAṬ_ SVĀHĀ
_Lại kết Căn Bản Ấn thứ hai. Tức Tối Sơ Hộ Thân Ấn trước cũng gọi là Độc Cổ Xử Ấn. Đây đồng với Đa La Bồ Tát Ấn . Đệ Nhị Căn Bản Chân Ngôn là:
“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã – Nẵng mạc thất-chiến noa phộc nhật-la bá noa duệ ma hạ dược xoa tế nẵng bát đa duệ. Đát tha dã tha: Án, độ nẵng vĩ độ nẵng, ca nê củ-lỗ đà tát phộc diễn đát-la nê, hồng”
*)NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ŚCAṆḌA VAJRA-PĀṆAYE MAHĀ-YAKṢA-SENAPATAYE
TADYATHĀ: OṂ_ DHUNA VIDHUNA KAṆI-KRODHA _ SARVAYAṂ TRAṆI_ HŪṂ
_Tiếp kết Đầu Ấn. Tức Độc Cổ Xử Ấn trước, đem hai ngón cái đều móc đầu hai ngón Vô Danh, ở trong lòng bàn tay vịn bên trong lóng trên tức thành. Chân Ngôn là:
“Án, hồng hồng ma ma bát tra”
*)OṂ_ HŪṂ HŪṂ MAMA PHAṬ
_Tiếp kết Đỉnh Ấn. Tức Độc Cổ Xử Ấn trước, dựng thẳng hai ngón cái cùng trụ nhau tức thành. Chân Ngôn là:
“Án, hột-lý, chiến noa ca nê, nặc hạ, bát tả, hồng bát tra, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ HRĪḤ CAṆḌA-KAṆI DAHA PACA HŪṂ PHAṬ_ SVĀHĀ
_Tiếp kết Tâm Ấn. Tức Căn Bản Ấn trước, an trên trái tim, dùng Tâm Chân Ngôn gia trì một biến. Chân Ngôn là:
“Án, ca ninh, hồng bát tra”
*)OṂ_ KAṆI HŪṂ PHAṬ
_Tiếp nâng Niệm Châu (tràng hạt) ngang trái tim, dùng Tùy Tâm Chân Ngôn gia trì bảy biến. Chân Ngôn là:
“Án, ca nê độ ma, hồng bát tra”
*)OṂ_ KAṆI DHUMA HŪṂ PHAṬ
Hai tay ngang trái tim cầm tràng hạt niệm tụng. Thân ngồi ngay thẳng, nghiễm nhiên chịu khó suy tư, tâm trụ Bản Tôn Uy Đức Diệu Quán. Tức cùng với tượng vẽ như gương soi hình chẳng một chẳng khác, trong sạch không có vết dơ, bên ngoài tưởng uy quang, tâm trụ Từ Bi Diệu Quán; thương xót các loài trong sáu nẻo, loài sinh theo bốn cách (Trứng, thai, ẩm ướt, chuyển hóa) bị luân hồi chẳng ngưng dứt.
Nay Ta phát tâm mãnh lợi dũng tín, chí thành tụng niệm Chương Cú Thần Diệu, tâm trụ Bản Tôn Du Già Quán Trí. Nay thân tâm của Ta đã được thanh tịnh thì hồi hướng Công Đức Thần Lực gia bị, dụng khắp Pháp Giới, cứu khắp Hữu Tình. Mong sự gia trì này đều như bên ngoài thân của Ta.
Nếu y theo Bản Kinh liền có mười lăm Đạo khác, Chân Ngôn với dùng Ấn Khế tổng hợp tụng tập khiến cho tinh thục, đợi đến việc tương ứng thời nhận lấy dùng. Do chuẩn bị gặp việc, nạn cấp bách thì bổ túc chẳng thiếu, cũng phi thường dùng đầy đủ như trong Kinh Đại Nhật nói.
Đây chẳng bày hàng xếp lối, gặp việc thiết yếu thì tự nhặt lấy dùng.
ĐẠI PHẪN NỘ KIM CƯƠNG ĐỒNG TỬ
NIỆM TỤNG CÚNG DƯỜNG NGHI QUỸ
_ Hết_
Lịch Ứng, năm thứ ba, tháng bảy. So sánh mượn sự ghi chép của người khác khiến cho Pháp trụ lâu dài
Một lần so sánh kiểm tra xong Tất Địa Kim Cương Kinh. NGHIÊM (?TĨNH NGHIÊM 40 tuổi)
16/06/2008