PHẬT THUYẾT HẢI LONG VƯƠNG KINH

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 2

Phẩm 5: TỔNG TRÌ

Đức Phật bảo:

-Này Long Vương! Có bốn việc là giáo pháp vô tận, Tạng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Phân biệt vô tận.
  2. Tuệ sáng suốt vô tận.
  3. Trí sáng suốt vô tận.
  4. Biện tài Tổng trì vô tận.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng khó nhiếp lấy vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Tính ấy khó nhiếp lấy.
  2. Tâm đạo khó nhiếp lấy.
  3. Vào pháp khó nhiếp lấy.
  4. Hạnh chúng sinh khó nhiếp lấy.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng kiên cố cầu vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Sở nguyện kiên cố.
  2. Phụng hành kiên cố.
  3. Lập nhẫn kiên cố.
  4. Qua khỏi sự tạo tác nhân duyên kiên cố.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng giảng nói vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Giảng nói các chí thành.
  2. Giảng nói các duyên khởi.
  3. Giảng nói hạnh chúng sinh.
  4. Giảng nói các thừa vốn không tuệ.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng ánh sáng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Soi đến pháp giới.
  2. Soi đến trí tuệ.
  3. Soi đến tuệ minh.
  4. Soi đến sự nói pháp ứng hợp.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng ánh sáng tối thượng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Tinh tấn là tối thượng.
  2. Sức siêng năng tu hành cấm giới là tối thượng.
  3. Cầu tích lũy công đức là tối thượng.
  4. Tụ hợp cầu tuệ là tối thượng.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng vô cùng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Cầu các Độ vô cực không cùng cực.
  2. Không nhàm chán sinh tử không cùng cực.
  3. Khai hóa độ người không cùng cực.
  4. Cầu các thông tuệ không cùng cực.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng không nhàm chán vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Trước Đức Phật nghe kinh không nhàm chán.
  2. Vì người nói kinh không nhàm chán.
  3. Cầu các cội gốc đức không nhàm chán.
  4. Cúng dường Như Lai không nhàm chán.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng không thể thắng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Tất cả phiền não cũng không thể thắng.
  2. Tất cả những ma cũng chẳng thể thắng.
  3. Các ngoại đạo cũng chẳng thể thắng.
  4. Tất cả oán địch cũng không thể thắng.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng không tụ tập vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Chẳng tu tập thừa Thanh văn, Duyên giác.
  2. Chẳng tu tập lợi ích của tất cả cúng dường.
  3. Chẳng tu tập tất cả các mong cầu nhiễm trước.
  4. Chẳng tu tập tất cả các hạnh phàm phu.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng vô đắc vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

  1. Chẳng được sinh ra.
  2. Chẳng được khai hóa người ác giới.
  3. Chẳng được nói kinh vô thượng Đại thừa tại nơi hữu vi.
  4. Chẳng được cầu xin.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng lực vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

  1. Sức nhẫn, chịu đựng tất cả mọi việc ác đã tạo.
  2. Sức tuệ diệt trừ tất cả nghi kết của chúng sinh.
  3. Sức thần thông thấy tất cả ý niệm trong tâm của chúng sinh.
  4. Sức thiện xảo vì tất cả mọi người mà nói pháp cho ứng hợp.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng đại tạng vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

  1. Chẳng tự lấn lướt lừa dối mà đoạn trừ Tam bảo, đó là Đại tạng.
  2. Vào với pháp vô lượng, đó là Đại tạng.
  3. Được tất cả tâm, tùy theo chí nguyện đó là Đại tạng.
  4. Tuệ bình đẳng như hư không đó là Đại tạng.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng vô cực vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

  1. Học rộng vô cực.
  2. Trí tuệ vô cực.
  3. Sở nguyện vô cực.
  4. Thuận chúng sinh nói pháp vô cực.

Đó là bốn.

Bồ-tát lại có bốn việc chẳng tự lấn lướt đến Tạng vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

  1. Nói pháp chẳng tự lấn lướt.
  2. Nói chí thành chẳng tự lấn lướt.
  3. Thuận pháp hạnh chẳng tự lấn lướt.
  4. Được đến đạo cùng cực chẳng tự lấn lướt.

Đó là bốn.

Lại có bốn việc đạt được Tạng vô sở úy vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

  1. Chẳng sợ đường ác.
  2. Chẳng sợ chúng hội.
  3. Chẳng sợ quyết nghi.
  4. Chẳng sợ mất Phật đạo.

Đó là bốn Tạng vô tận là Tổng trì vậy.

Đức Phật bảo Long vương:

-Tạng vô tận tổng trì đó nói lên đức không lường, vào Tuệ vô cực, chứa nhóm hạnh Bồ-tát, do trí tuệ, mong cầu ánh sáng trang nghiêm của Bồ-tát. Của báu của Bồ-tát đã vào pháp tạng, vào cửa Tổng trì, phân biệt ngôn giáo, trang nghiêm thân, miệng, ý, được các cõi nước thanh tịnh, tập hợp tự tại, hộ niệm chánh đạo, vào với chúng sinh, bày tuệ giáo hóa dẫn đường, lực chánh pháp tinh tấn, đủ các Độ vô cực, nghiêm tịnh đạo tràng, chứng được các Phật pháp. Đó gọi là Tạng vô tận là Tổng trì.

Tạng vô tận ấy có số văn tự danh hiệu và các số pháp đi với chánh pháp đều về lại Tạng vô tận là Tổng trì vậy. Bồ-tát vào Tạng vô tận ấy thì đối với các văn tự không có sự phân biệt.

Các pháp thanh bạch chẳng hoại bản tịnh, ưa tất cả pháp chẳng lấn lướt pháp lạc, rốt ráo các pháp, để tâm vào các pháp cũng không lấn lướt lừa dối.

Tất cả pháp của mắt chẳng lấn lướt sự sáng của các pháp.

Các pháp giả danh chẳng lấn lướt pháp nhóm họp. Đã đạt được các pháp chẳng lấn lướt nên hành tinh tấn.

Các pháp định với pháp nhu thuận không có sự lấn lướt.

Các pháp giảng nói không có ánh sáng lấn lướt thiêu đốt các pháp ở trong pháp Vô khởi mà không lấn lướt.

Tin tất cả pháp mà đối với sự ưa thích pháp cũng chẳng lấn lướt.

Nói tất cả pháp mà đối với các ngôn giáo không có sự lấn lướt. Các pháp vốn không mà đối với pháp không nơi hướng đến cũng không lấn lướt.

Các pháp chân đế ngang bằng với pháp ba đời cũng không lấn lướt.

Các pháp thường trụ mà đối với pháp chẳng động cũng không lấn lướt.

Các pháp có bi ai tùy theo niềm vui gốc mà vì hiện bày pháp.

Các pháp đều bình đẳng nên nói không sai khác.

Các pháp tìm cầu dấu vết thì thị hiện các pháp đều bình đẳng. Các pháp đã đến thì thị hiện vào cửa đạo sâu xa.

Các pháp đưa đến lực thì hiện các pháp vô thượng

Các pháp ngu tối thì hiện trí sáng.

Mang lại các pháp thì thị hiện các pháp không có gì quên mất. Tổng trì (nắm giữ) các pháp thì thị hiện các pháp là vô tận.

Các pháp tịch nhiên thì hiện đạm bạc.

Các pháp hư không thì thị hiện pháp rộng khắp

Các pháp vô minh thì hiện gốc si.

Các pháp đều trụ thì hiện chỗ đứng.

Các pháp vào tuệ thì hiện pháp lìa khỏi si.

Các pháp thể nhập nên thị hiện phân biệt các pháp.

Các pháp lìa “hữu” mà vì thị hiện pháp lìa sở hữu.

Các pháp có nạn mà vì thị hiện các pháp tỳ vết dơ bẩn.

Các pháp thường niệm mà vì thị hiện việc đời trước.

Các pháp có duyên thì thị hiện các pháp mà có lấn lướt.

Các pháp vào ý chí mà vì thị hiện tịch tĩnh các rối loạn.

Các pháp rất nặng mà vì thị hiện pháp không bị lay động.

Các pháp trụ xứ mà vì thị hiện mọi cõi pháp giới.

Các pháp Đạo sư mà vì thị hiện pháp Chân đế.

Các pháp đạt đến quả mà vì thị hiện chí không điều suy nghĩ.

Các pháp chỉ có ấm mà vì thị hiện diệt trừ năm âm, các pháp khổ hoạn.

Các pháp sinh tử thì thị hiện các pháp không phiền não.

Các pháp tịch tĩnh thì thị hiện các pháp không chỗ nương tựa.

Các pháp như bền chắc thì thị hiện các pháp đoạn dứt mọi sự bền chắc.

Các pháp tịch diệt thì thị hiện các pháp đoạn dứt nhân duyên.

Đức Phật nói với Long vương:

-Đó gọi là văn tự duyên với Tạng vô tận tổng trì. Bồ-tát được sự hưng khởi phân biệt tất cả văn tự này. Ví như văn tự mà chẳng thể tận thì việc nói các pháp chẳng thể tận cũng lại như vậy. Ví như văn tự cũng chẳng từ thân sinh ra, chẳng từ tâm sinh ra, các pháp như vậy chẳng thể biết chỗ, chẳng trụ tại thân, chẳng trụ tại tâm. Ví như văn tự không chỗ nương tựa mà cầu việc giải thoát khỏi phiền não, cũng không có cái thanh tịnh.

Bồ-tát đã được Tạng vô tận tổng trì thì tuy nói về phiền não mà chẳng nhiễm trước bụi bẩn, rốt ráo thanh tịnh. Ví như văn tự chẳng hợp tại thân nhưng vì người khác có điều giải nói thì các pháp như vậy có sự phát khởi dạy bảo thanh tịnh. Như văn tự khi có điều nói thì không chỗ tụ họp, khi không có điều nói thì chẳng ở tại bên trong.

Các pháp như vậy, giả sử khi nói thì không chỗ đi đến, giả sử khi chẳng nói thì chẳng tích tụ ở bên trong. Như văn tự không sắc tướng, không nhìn thấy mà hiện ở bên ngoài.

Các sắc như vậy, không sắc, không thấy, do nhân duyên của tâm mà có thoái chuyển. Như văn tự rỗng không, tự tại, tịch mịch đều do hoảng hốt không tạo tác văn tự.

Các pháp như vậy rỗng không, tịch tĩnh, không có tạo tác. Như văn tự chẳng sinh ra nhiễm ô, sân hận, ngu si, lại nhờ văn tự mà có âm giáo.

Các pháp như vậy chẳng sinh ra nhiễm ô, tham dục, ngu si, mê hoặc mà do từ tưởng niệm khởi lên tham, sân, si. Như văn tự do các duyên tham mà nói được quả chứng thì văn tự không đạt được cũng không chứng đắc.

Các pháp như vậy, do duyên đối ấy mà nói có quả chứng thì xét đến bản pháp không quả, không chứng. Ví như các pháp vốn có chẳng nhờ văn tự, các hạnh như vậy thì các pháp sở hữu đều do Phật đạo.

 

Phẩm 6: Tổng Trì Thân

Đức Phật nói với Long Vương:

Bồ tát đã trụ tạng vô tận mà dùng văn tự cầu Phật đạo là năng lực văn tự của Tổng trì, thân là nơi văn tự quy thú, diệt hết sác tượng, đỉnh thể nhập pháp môn, quán sát trán, mắt Tuệ nhãn, tai Thiên nhĩ, nói danh tự mũi, chế phục loạn ý bằng trán, chặn giữa chân mày, nhiếp lấy tất cả tâm bằng mặt, dẫn dắt tất cả tâm của chúng sinh bằng thiệt căn, điều phục tâm định ý bằng răng, như sư tử xem bườm bước tới, lời nói che dấu rỗng không bằng môi, quán sát tất cả pháp bằng yết hầu, gắng sức làm cho chúng sinh hoan hỷ bnằg mi mắt, đoan nghiêm được gọi là lá lách, xem xét các pháp bình đẳng bằng bụng, vào đến cửa thâm sâu bằng rốn, vào đường phiả, trái bằng bàn tay, tụ hội các pháp bằng vai, mười điều thiện là ngón tay cứu hộ khéo, pháp thanh tịnh là móng đồng, đạt đến niệm hư không bằng hông, theo thứ lớp giảng pháp bằng xương sống, khi nói chẳng lấn lướt, không có đối tượng làm là qua xương mông, đầy đủ tịch quán bằng xương đầu gối, hướng đến pháp chân đế bằng đầu gối, hiểu biết tất cả bằng ấn gót chân xuống đất, tâm ý tịch nhiên bằng mu bàn chân, đi đến mười phương bằng lòng bàn chân, theo thứ lớp nói pháp chân thật bằng bước chân, biết xấu hổ bằng y phục, trang nghiêm chuỗi hoa pháp giúp trang sức, hoa pháp là ngần ấy ngọa cụ, nói đủ thứ là gối pháp, chẳng sân chẳng tranh là hương xoa, việc làm ứng hợp không gì chẳng rõ là đủ loại hương, thể nhập sâu xa giới là hương nói, đối với các pháp tự tại là quyến thuộc, khen ngợi dấu Phạm là bạn thân, được yên ổn là các tri thức, đoạn trừ các oán kết khai hóa mọi người thì thân gần, hiểu rõ các việc là gia thất, tâm ấy thanh tịnh là mẹ; tất cả phương tiện khéo không chỗ nương; tin tuệ là cha, các tâm thông tuệ từ bình đẳng, Thí độ vô cực là nước uống cơm ăn, Giới độ vô cực là an lạc, Nhẫn độ vô cực là trang nghiêm, Tinh tấn độ vô cực là khắc phục bày biện, Nhất tâm độ vô cực là no đủ, Trí độ vô cực là tùy lúc thuận theo, thiện quyền độ vô cực hai câu hợp nghĩa, đạo phẩm là chi tiết của thân… Giảng nói chí thành chưa từng lấn lướt lừa dối, tất cả bậc tôn quý của thế gian là tự tại, đối với pháp tự buông thả.

Đức Phật nói với Long vương:

-Đó là Tạng vô tận tổng trì, thân không sắc tượng vậy. Nếu có Bồ-tát đối với tổng trì đó mà ưa thích niềm vui của pháp thì ví như quốc vương ở trong cung, như Thiên đế Thích ở đỉnh Tu-di, uy thần lồng lộng, như Phạm thiên tôn quý tự tại, như A-tu-la ở yên khó có thể chế phục nắm giữ, như biển công đức vô biên siêu việt thù thắng, như núi báu lớn, niềm vui sướng của trời, như cha mẹ có đứa con độc nhất nên vô cùng thương yêu, như vầng trăng tròn đầy chiếu sáng mọi vì sao, không vị nào chẳng cúi đầu, như Đức Thế Tôn vì trời, người phóng ra ánh sáng lớn, như mặt trời mới mọc, ánh sáng nhu hòa, như chim khổng tước ở trong rừng cây phóng ra âm thanh vi diệu, như sư tử ở trong hang núi được đồ ăn thức uống ngon, như khi tâm ý của rồng điều hòa tuôn mưa xuống, như vua Chuyển luân ở đại pháp giáo hóa dân chúng, như các rồng múa phát ra sấm chớp, như vua rồng đã được tự tại tuôn xuống mưa đại pháp, như trời Đế Thích vỗ về giáo hóa tất cả các ngoại đạo, như tướng dũng mãnh tiêu diệt hàng phục địch; trừ các cấu bẩn trần lao, hàng phục dung nạp các ma như nước làm tắt lửa, như gió thổi cỏ rạp; tâm như đất, khai hóa người mù, theo giáo hóa chúng sinh, như lửa đốt cỏ; đều nhịn chịu khổ vui như người nhũ mẫu nuôi con ông trưởng giả; trị liệu mọi bệnh, giữ tâm kiên cường, đủ ước nguyện cho mọi người như ngọc Như ý nắm giữ các báu.

Đức Phật nói với Long vương:

-Nếu có Bồ-tát trụ ở pháp môn Tạng vô tận tổng trì thì có thể gọi là vào đạo tràng của Đức Phật, như biển lớn đều nhận các báu, hòm, tủ chứa đồ trân quý. Tạng vô tận tổng trì như vậy, bao bọc rộng rãi các đạo pháp, là hòm chứa kho tàng báu như hòm chứa vô số hương khiến vô lượng người thỏa lòng ham muốn.

Bồ-tát đã trụ ở pháp môn Tạng vô tận tổng trì thì dùng lời nói chân diệu khai hóa tất cả khiến cho đều được Tổng trì này, vào tất cả âm thanh.

Đất này tên là Đạo tâm. Cõi nước của Đức Như Lai Nhất Bảo Cái trong thế giới Vô tận đó gọi là Mục tiền.

Đây tên là các Thông tuệ. Cõi nước của Đức Như Lai Đạo Long trong thế giới Siêu đắc độ đó gọi là Phổ đạt.

Đây tên là Thí độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Cát Tường trong thế giới Tịch định đó gọi là Tinh khí.

Đây tên là Giới độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Ly Ưu trong thế giới Vô ưu đó gọi là Đa an.

Đây tên là Nhẫn độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Ly Cấu trong thế giới Vô cấu đó gọi là Vô tận cú.

Đây tên là Tấn độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Vô Cấu Quang trong thế giới Phổ minh đó gọi là Thượng độ.

Đây tên là Thiền độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Kiên Yếu trong thế giới Đạo ngự gọi là Tịch hạnh.

Đây tên là Trí độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Vũ Vương trong thế giới Âm vũ đó gọi là Thanh tịnh.

Đây tên là Thiện quyền phương tiện. Cõi nước của Đức Như Lai Ly Cấu Tích trong thế giới Tôn điều đó gọi là Tùy tập tục nghi.

Đây tên là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Cõi nước của Đức Như Lai cát tường nghĩa trong thế giới Phong thịnh đó gọi là lòng nhân thương xót nhiếp lấy hai tịch tĩnh của ta và người.

Đây tên là Khổ, Tập, Tận, Đạo. Cõi nước của Đức Như Lai Thủ Tịch trong thế giới Vô duyệt đó gọi là nguồn gốc bởi căn, căn diệt tận vê gốc.

Đây tên là bốn Ý chỉ. Thế giới phương khác gọi là không dừng.

Đây tên là bốn Ý đoạn. Đó gọi là Thượng thắng.

Đây gọi là Thần túc. Đó gọi là Siêu bộ.

Đây tên là năm Căn. Đó gọi là Duyệt nguyên (nguồn vui).

Đây tên là Năm lực. Đó gọi là Kiên Cường.

Đây tên là Giác ý. Đó gọi là vô minh.

Đây tên là Tám do. Đó gọi là sở độ.

Đây tên là Phân biệt. Đó gọi là mắt thấy.

Đây tên là Hộ ngưỡng. Đó gọi là tùy thuận.

Đây tên là Pháp thí. Đó gọi là thiện nhiếp.

Đây tên là Tịnh quán. Đó gọi là định sát.

Đây tên là Cửa giải thoát. Đó gọi là lìa si.

Đây tên là Công đức. Đó gọi là nghiêm biện.

Đây tên là Trí tuệ. Đó gọi liễu tiện.

Đây tên là Bỏ nhà. Đó gọi là Tu hành. Đây tên là Cụ giới. Đó gọi là Không phạm.

Đây tên là Yên ổn Vô vi. Đó gọi là tịch diệt độ. Đây tên là khen Phật vô lượng. Đó gọi là Phật, mắt Phật phóng ánh sáng.

Đức Phật bảo Long vương:

-Xét về âm thanh lời dạy trong cõi nước các Đức Phật thì lời dạy bảo nhiều vô ngần! Bồ-tát nếu chứng được Tạng vô tận thì đều biết lời dạy bảo bằng âm thanh văn tự của tất cả cõi nước các Đức Phật. Như Lai dù có dùng một kiếp hoặc hơn một kiếp để khen ngợi lời dạy bảo bằng lời nói chương cú hữu vi mà mười phương đã phát ra thì chẳng thể rốt ráo được ý nghĩa âm thanh của cõi nước các Đức Phật.

Khi Đức Phật nói pháp môn Tạng vô tận tổng trì này, sáu vạn vị Bồ-tát được nhập Tổng trì, tám ngàn Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi, ba vạn hai ngàn người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

 

Phẩm 7: TỔNG TRÌ MÔN

Bấy giờ, Đức Phật bảo:

-Này Long vương! Bồ-tát do đó nên lìa khỏi các đường tối tăm, hướng đến các thông tuệ. Trở về thuở xa xưa, chẳng thể kể vô lượng số kiếp, chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Đức Phật hiệu là Phạm Thủ Thiên Vương Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn, có thế giới tên là Tập dị đức, kiếp tên là Tịnh trừ.

Lúc đó, thế giới Tập dị đức giàu có, thịnh vượng, yên ổn, năm giống lúa tự nhiên có, an lạc vô cùng, trời người đông đúc. Như trăm ức bốn châu ở cõi này của ta hợp lại làm một cõi Phật thì ở nước ấy chỉ là một cõi gồm bốn khu vực lớn. So sánh như vậy với trăm ức núi Tu-di. Thế giới Tập dị đức của Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên Vương này rộng lớn vô biên như thế. Thế giới ấy như viên ngọc báu kim cương Quang minh Ma-ni luôn tỏa sáng khắp nơi một cách tự nhiên, thế giới ấy có các thứ báu giăng mắc giáp vòng, che lọng báu, treo tràng phan bằng lụa ngũ sắc, trăm ngàn nhạc cụ ở trong hư không chẳng tấu mà tự kêu lên. Tiếng nhạc ấy nghe vang khắp cõi Phật. Âm thanh nhạc cụ đó chẳng phát ra âm thanh tham, sân, si, dục, chúng chỉ diễn xướng âm thanh tịch nhiên, đạm bạc, pháp lạc hoan hỷ. Chư Thiên, nhân dân nghe tiếng nhạc thì đạt được nhất tâm tịch định yên ổn, bình yên chẳng bị sự nguy hại của phiền não. Cõi ấy bằng phẳng như áo mềm mại, không có lời răn bảo của âm thanh đường ác, trời người thanh tịnh đều hiểu lý vi diệu, chí nguyện ở Đại thừa ít cầu thừa Thanh văn, Duyên giác, nếu có ý nghĩ về ăn mặc, nhà cửa… thì theo ý đều tự nhiên mà đến!

Trời người đồng đẳng không có người cùng khốn thiếu thốn, y phục, ẩm thực, như trên cõi trời Đâu-suất. của cải trong dân chúng nước ấy bình đẳng không sai khác. Đức Như Lai ấy sống lâu tròn sáu mươi bảy vạn hai ngàn năm. Nhân dân cõi ấy sống lâu cũng lại như vậy, không có người chết yểu. Bồ-tát của cõi Phật ấy có đến bảy mươi hai ức còn Thanh văn rất ít.

Bấy giờ, có vị Chuyển luân thánh vương hiệu là Vô Tận Phước, làm chủ mười sáu cõi trong bốn thiên hạ. Vua Vô Tận Phước ấy có tám mươi tư ức phu nhân như ngọc nữ của trời, có bốn vị thái hậu: một tên là Ly Cấu, hai tên là Vô Cấu Quang, ba tên là Thanh Tịnh, bốn tên là Tịnh Cú Tử, có tám muôn bốn ngàn con trai thân tướng đều lớn và dũng mãnh, có tám con gái đoan chánh đẹp đẽ. Họ đều để tâm vào Đại thừa.

Lúc đó, vua Vô Tận Phước đang ở tại thành lớn tên là Cụ lạc. Chiều Đông tây của thành ấy dài hai ngàn bốn trăm bốn mươi dặm. Chiều Nam bắc cũng vậy. Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên Vương xuất hiện ở nước đó. Vua Vô Tận Phước kiến lập tinh xá, trồng rừng cây lớn tên là vườn Thượng hương quang, để Đức Phật dừng nghỉ khi hành hóa. Chính giữa thành, cung điện của nhà vua được xây dựng bằng bảy báu hợp thành. Trong thành có tám muôn bốn ngàn đường lớn, hẻm nhỏ, tám muôn bốn ngàn lan can, bực cửa. Mỗi một đường lớn, hẻm nhỏ có tám muôn bốn ngàn nhà ở. Thành lớn ấy có bảy lớp vách, bảy lớp lan can, bảy lớp hàng cây, bảy lớp giao lộ. Bao quanh thành có một vạn vườn dạo chơi. Hào đào quanh thành ấy có bảy lớp chứa đầy nước tám vị, sinh ra hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng với mùi thơm sực nức. Uyên ương, le le, nhạn cùng nhau hót vang. Thành ấy như vậy, gọi là bình đẳng không lường chẳng thể nghĩ bàn.

Nhà vua cúng dường Đức Phật, dâng cúng sự yên ổn, mọi việc đầy đủ không gì thiếu thốn, ở hàng trăm ngàn năm chẳng thể giới hạn. Nhà vua ra lệnh cho con cháu, thân tộc, bạn bè, quyến thuộc và nhân dân trong nước đi đến tòng lâm Thượng hương quang, yết kiến Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên vương. Họ cúi đầu dưới chân Đức Phật rồi lui về đứng một bên.

Đức Phật bảo vua:

-Có bốn việc làm đại quốc vương quân tử thánh chúa được tự tại cùng với những người bất đồng, tăng thêm pháp lành. Những gì là bốn?

  1. Kiến lập niềm tin vững chắc, luôn đến với Hiền thánh, vui mừng thưa thỉnh, cầu đức, thích nghĩa lý.
  2. Dùng pháp tự vui, thường quán pháp vô thường, khổ, không, phi thân, quan sát sự dơ bẩn của cõi hữu vi và cuộc đời hiện tại đều trở về với biệt ly.
  3. Tự nhiếp lấy tâm mình, vào hạnh không buông lung, hiểu rõ dục lạc không ham muốn lợi lộc.
  4. Chẳng hủy hoại phước đức đời trước, chẳng phế bỏ tâm đạo, chí ham tuệ vi diệu.

Đó là bốn việc Thánh chúa nước lớn còn được tự tại cùng với người bất đồng.

Vua Vô Tận Phước bạch Đức Thế Tôn:

-Bồ-tát có bao nhiêu pháp để được tự tại?

Đức Phật bảo vua:

-Bồ-tát có tám pháp để được tự tại. Những gì là tám?

  1. Được năm thần thông để tự vui sướng chưa từng thoái lui, không gì ngăn ngại, cũng trừ sân hận mà tâm không hại.
  2. Thỏa mãn Thánh tuệ, nhiếp lấy ánh sáng đạo, việc làm đã hoàn thành, hiện được thông đạt.
  3. Thần túc thành tín bứng đi các sở hữu, dùng trí tuệ thánh để lìa bỏ tất cả tà kiến trần cấu.
  4. Được bốn giải minh thì sự kiến lập chỗ Phật không đắm trước, chẳng trụ.
  5. Đầy đủ lực hành xứ thì chứng được Tam-muội Vô tận phước hải ấn.
  6. Có thể làm vui chúng sinh, thu tóm lời dạy của tất cả chư Phật để thành Tổng trì.
  7. Tâm ấy thanh tịnh, điều nghe chẳng quên, đáp ứng như điều mong muốn mà vì người nói pháp.
  8. Vào vị nhất nghĩa, trụ ở bản tế, chẳng chấp ngã, ngã sở, chẳng khởi pháp nhẫn.

Đó là tám việc được tự tại.

Đức Phật bảo vua:

-Lại có Tổng trì tên là Bảo sự. Bồ-tát được Tổng trì này thì được tự tại đối với các pháp.

Bấy giờ Đức Phật vì vua nói về tuệ của Tổng trì Bảo sự. Trọn trăm ngàn năm khắp phân biệt ý nghĩa, nhà vua bỏ việc nước, bỏ tất cả mọi duyên, chuyên tinh một lòng cùng với quyến thuộc nghe nhận giáo hóa. Trong trăm ngàn năm nhà vua chưa từng tưởng đến dục, không có ý sân hận, chẳng niệm tưởng đến hại, chẳng đoái hoài đến vợ con, đất nước, quyến thuộc, tất cả sở hữu mãi chẳng kể đến, chỉ nguyện cầu niềm vui pháp, lập chí theo Phật đạo, lòng đại Từ thanh tịnh, bình đẳng với tất cả mà thực hành đại Bi, mặc áo giáp đại đức mà nghe nhận pháp. Như vậy đủ trăm ngàn năm lãnh thọ giáo huấn của Đức Phật xong, do pháp cốt yếu của Tổng trì Bảo sự này mà việc làm hoàn thành, vượt khỏi hoạn nạn đầu tiên đến cuối cùng của bảy trăm vạn kiếp, tiêu trừ các tội lỗi đã tích chứa hàng mười vạn kiếp, gặp hàng ức trăm ngàn Đức Phật và theo thọ nhận gốc đức. Vua ấy, ở hằng hà sa số kiếp làm trời Đế Thích, hoặc làm Phạm thiên hay Chuyển luân thánh vương, đã tích lũy công đức, dùng tâm chí thanh tịnh ngự trị các pháp, dùng tâm chẳng loạn nghe trăm ngàn Đức Phật, lãnh thọ chẳng quên. Vua và các con đều chứng được pháp Nhẫn nhu thuận. Tám vạn bốn ngàn thể nữ trong cung đều phát ý học đạo Bồ-tát. Tám muôn bốn ngàn người chứng được pháp nhẫn, chín mươi ức chư Thiên, nhân dân đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân, ba mươi sáu ức người học thừa Thanh văn được Pháp nhãn tịnh, một vạn sáu ngàn Tỳ-kheo rõ hết ý giải. Vua Vô Tận Phước bỏ nước, từ vương vị, chẳng ưa những niềm vui ở trên trời và thế gian, chỉ đặt chí nguyện vào đạo Vô thượng chánh chân. Hay tin vua xuất gia tu đạo làm Sa-môn nên các con cũng vậy đều làm Sa-môn. Nhân dân trong nước thấy nhà vua bỏ nước nên sáu vạn người đều làm Sa-môn; thể nữ, bốn đại phu nhân trong cung cũng làm Sa-môn. Lời Phật dạy thanh tịnh, khắp nơi nhờ ân yên ổn, gieo trồng các cội gốc đức, mọi hạnh đầy đủ.

Đức Phật nói:

-Này Long vương! Vua Vô Tận Phước, vị Thánh đế chuyển luân, bấy giờ chẳng phải là ai khác mà chính thân ta. Các con của vị Thánh đế chuyển luân bấy giờ thì hôm nay là các Bồ-tát Đại sĩ trong hội này; Tổng trì Bảo sự mà Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên Vương giảng nói cho vua Vô Tận Phước thì hôm nay Như Lai đang nói về tổng trì Vô tận tạng này vậy.

Đức Phật nói với Long vương:

-Hôm nay, Như Lai dùng tuệ vô trước quan sát các gốc của con người mà vì họ nói pháp. Ta từ vô lượng số trăm ngàn ức ức các Đức Phật đã nghe Tạng tổng trì Vô tận. Do nhiều lần nghe kinh này nên hôm nay ta mới chí niệm dũng mãnh bước đi một mình không ngại như thế, biện tài khó bì kịp, chí mang trí tuệ. Nếu có Bồ-tát nghe tên của tổng trì Vô tận này, hoặc có người nói Tổng trì này thì đều sẽ chứng được biện tài Vô trước. Vì sao? Vì do Tổng trì này, về sau đời vị lai là chỗ lưu bố của Tổng trì Ly cấu đều chính là sự kiến lập tám muôn bốn ngàn Pháp tạng của Như Lai. Cửa Tổng trì đó là đầu mặt vậy. Tám muôn bốn ngàn hạnh đều trở về với Tổng trì, tám muôn bốn ngàn Tam-muội đều phát xuất từ Tổng trì, tám muôn bốn ngàn Tạng tổng trì thì Tổng trì Vô tận là nguồn gốc.

Đức Phật nói với Long vương:

-Giả sử Bồ-tát không trụ, không chấp trước, thì đối với bốn cách giải nghĩa sẽ tuông xuống như mưa đại pháp khiến đều nương cậy vào Tạng vô tận này. Tạng tổng trì Vô tận này thể nhập thuận theo thứ lớp từng câu từng chương. Các trời, rồng, thần, thần Hương âm, thần Vô thiện, thần Phượng hoàng, thần Điềm Nhu… đều cùng theo hộ trì. “Duyên ứng hợp ý – Tùy thuận ý – Dấu an lạc – Ý ngay thẳng – Vượt qua – Vô tận cú – Thứ lớp – Mặt sáng – Mắt sáng – Sáng chói – Lập chí – Ý thanh tịnh – Bước đi vào – Sức dũng mãnh – Cứu tối tăm – Giữ gìn – Là trên hết – Pháp môn tịch tĩnh – Vào tịch tĩnh – Diệt trần – Lìa chỗ ở – An trú thiện – Tùy thuận – Lìa thứ lớp – Không chỗ đến – An trụ – Không chỗ trụ – Nơi đến – Không nơi đến – Trụ cốt lõi – Tuệ nhạy bén – Trí căn – Chuyển bản căn – Ánh sáng mặt trăng – Mặt trời lửa sáng – Ánh sáng thiện lìa cấu – Vô cấu – Tịnh các cấu – Hiểu điều đã kiến lập – Chư Thiên giúp đỡ – Hộ các quỷ mị – Dạy các Thừa – Phạm thiên biến hóa – Đế Thích khen – Tứ thiên hộ – Chúng thánh mến – Tiên nhân nương về – Các chủng tộc đều tu hành – Mở trói lao ngục – Hộ trì trời người – Xả các trần lao – Phá hoại chúng ma – Hàng phục ngoại đạo – Trừ dục trí sáng – Khai hóa tự đại – Chẳng xúc phạm Pháp sư – Chẳng loạn chúng hội – Vui ưa pháp lạc – Hộ trì được pháp âm – Chẳng đoạn trừ Tam bảo – Từ mẫn chúng sinh – Khen ngợi đức nghĩa (sáu mươi hai việc)”.

Đức Phật bảo:

-Này Long vương! Những pháp cú đó là hộ trì Tạng tổng trì Vô tận. Nếu có Pháp sư nhận sáu mươi hai chương cú này mà phúng tụng thì được ba mươi hai điều không sợ hãi. Những gì là ba mươi hai?

  1. Học rộng không sợ.

2 Khen ngợi người khác khắp nơi không sợ.

  1. Lời nói không lỗi lầm đáp ứng đúng không sợ.
  2. Ném bỏ, trịnh trọng mà không gì sợ.
  3. Vào biện tài theo âm thanh không sợ.
  4. Không gì ngăn ngại, tâm không sợ.
  5. Giữ đạo tâm, chí ấy không sợ.
  6. Vui vẻ với mọi người, bước đi không sợ.
  7. Mau chóng giải quyết hồ nghi, giác ý không sợ.
  8. Quan sát mọi người không khiếm khuyết không sợ.
  9. Lời nói, việc làm tương ứng, không khuyết không sợ.
  10. Giới cấm thanh tịnh, tâm mặt không sợ.
  11. Nhẫn nhục thanh tịnh, kiên cường không sợ.
  12. Đối với chân đế phát nguyện mà chẳng chuyển trở lại chỗ ở không sợ.
  13. Tâm chẳng lầm lẫn tuệ biện tài không sợ.
  14. Có thể vui trong chúng hội, trí tuệ không sợ.
  15. Biết pháp thâm diệu, hàng phục giáo hóa không sợ
  16. Lìa khỏi hý luận, sư tử không sợ.
  17. Hàng phục các ngoại đạo, không thọ nhận không sợ.
  18. Không tham ăn mặc, vui không tỳ vết không sợ
  19. Hàng phục mọi giặc khiến cho chúng trụ ở chánh kiến, không mắng không sợ.
  20. Người trí chẳng hủy báng dẫn đường ngự trị không sơ.
  21. Nói các kinh chẳng loạn…không sợ.
  22. Tùy lúc mà dạy bảo không dua nịnh không sợ.
  23. Nói và làm tương ứng, lìa kiêu mạn không sợ.
  24. Thấy tất cả mọi người khiêm thuận không sợ.
  25. Vô tận cú vốn tu thiện, thưa hỏi không sợ.
  26. Khai hóa tất cả bằng vô lượng pháp tùy theo mọi người mà dạy bảo không sợ.
  27. Thân mình thanh tịnh nên hàng phục ma không sợ.
  28. Trừ các trần lao đại Từ không sợ.
  29. Lòng chẳng ôm hại, đại Bi không sợ
  30. Hộ trì chúng sinh, trí tuệ không sợ, dùng pháp trị nước.

Đức Phật nói với Long vương:

-Bồ-tát nghe Tạng tổng trì Vô tận này hoan hỷ tin nhận liền được ba mươi hai vô úy. Giả sử Bồ-tát chẳng đoạn ba mươi hai vô úy này thì từng chút từng chút dần dần thành tựu bốn Vô sở úy của Như Lai, Vô sở úy của Phật. Những trời, người trước được nghe tiếng gầm sư tử thì mặc tình lắng nghe tất cả những điều đã hỏi. Họ đều không có người có thể đến được trí cùng cực của Như Lai, cũng chẳng dám đoạn dứt lời nói của Đức Phật. Vậy nên, Bồ-tát muốn đạt đến Vô sở úy đó thì phải học hành Tạng tổng trì Vô tận.

Việc học hành Tổng trì đó ra sao?

Hành không mắt, hành không sắc, hành không nhãn sắc thức. Hành không tai, hành không tiếng, hành không nhĩ thanh, thức.

Hành không mũi, hành không hương, hành không thức hương, mũi.

Hành không lưỡi, hành không vị, hành không thiệt vị, thức. Hành không thân, hành không xúc chạm, hành không thức, xúc chạm, thân.

Hành không tâm, hành không pháp, hành không thức, pháp, tâm.

Hành không sắc, hành không sắc sinh, hành không sắc diệt, hành không sắc xứ, hành không thông tưởng, hành không thức hành, hành không thức sinh, hành không thức diệt, hành không thức xứ. Tất cả không hành động, đó là ứng với hành Tổng trì.

Lại nữa, này Long vương! Hành sắc ấy rỗng không, tâm chẳng rỗng không sắc. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì. Thông, tưởng, hành, thức; hành thức ấy rỗng không, tâm chẳng rỗng không thức. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành vô tưởng sắc ấy chẳng nghĩ đến hành vô tưởng. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì. Thông, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Hành vô tưởng thức ấy chẳng nghĩ đến hành vô tưởng thức. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành chẳng đoạn sắc ấy là đối với sắc hành không hành, hành chẳng sắc sinh, hành chẳng sắc khởi, hành chẳng sắc tịch, hành sắc như chân đế, hành sắc như bản tịnh, hành cũng chẳng nghĩ sắc như chân đế, bản tịnh. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì. Thông tưởng hành thức cũng lại như vậy.

Hành chẳng đoạn thức ấy là đối với thức hành không hành, hành chẳng thức sinh, hành chẳng thức khởi, hành chẳng thức tịch, hành thức như chân đế, hành thức như bản tịnh, hành cũng chẳng nghĩ thức như chân đế, bản tịnh. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành đối với nguyên do thành pháp giới là hành chẳng tưởng pháp giới, hành chẳng tưởng các nhập vốn tịnh rỗng không của pháp giới, chẳng tưởng vốn tịnh rỗng không. Đó là ứng với hành Tổng trì. Nếu hành tất cả pháp duyên khởi mà chẳng tưởng duyên khởi thì đó ứng với hành Tổng trì.

Hành chẳng nương cậy các pháp, hành chẳng nương chẳng cậy thì đó ứng với hành Tổng trì.

Hành các pháp như vốn không là hành chẳng hoại các pháp vốn không. Nếu hành đối với các pháp trụ ở bản tế thì hành chẳng nghĩ bản tế trụ ở các pháp. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành biết tham dục ấy là hành chẳng đối với pháp giới tưởng niệm đến tham dục. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Hành biết sân hận ấy là hành chẳng đối với pháp giới tưởng niệm đến sân hận. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Hành biết ngu si ấy là hành chẳng đối với pháp giới tưởng niệm đến ngu si. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Hành đẳng phần ấy là hành chẳng đối với pháp giới có sự hủy hoại. Nếu đối với tám muôn bốn ngàn những điều tu hành mà vào đến pháp giới không có ngần ấy hành thì đó ứng với hành Tổng trì. Hoặc hành hoặc hợp hành, đối với hành, hợp hành mà không có cái để hành, cũng không gì chẳng hành. Vì sao? Vì hành ấy không lường cũng không có sự vượt qua, cũng không nghĩ tưởng. Vậy nên, hành đó là hành bình đẳng.

Đối với hành bình đẳng cũng không gì hủy hoại, cũng chẳng hữu vi, cũng chẳng vô vi, cũng chẳng nhận, cũng không gì chẳng nhận, không xứ, không trụ nên gọi là hành bình đẳng. Bồ-tát hành như vậy thì được pháp môn Tạng tổng trì Vô tận vậy.

Đến đây, Đức Thế Tôn nói kệ tụng:

Tâm ý người ấy được thanh tịnh
Được Độ vô cực thông kinh điển
Âm thanh mọi người đều biết rõ.
Khi được Tổng trì, thành như vậy.
Tâm hạnh chúng sinh quán biết hết
Ý nghĩ thiện, ắc và trung gian
Phân biệt sự tạo lập bản tánh
Để vì nói pháp luôn ứng hợp.
Biết rõ hết nhân duyên báo ứng
Khiến chẳng thấy thường và vô thường
Đều do ném bỏ, rơi biên tế
Tùy thuận hóa, phân biệt Tổng trì.
Giải sáng tỏ phương tiện vấn tự
Biết vô lượng số những âm vang
Hiểu rõ nghĩa lý pháp vi diệu
Người được Tổng trì, thành như vậy.
Chứng được Thiên nhãn không cấu bẩn
Cũng như vậy, Thiên nhĩ sạch trong
Trí tuệ không lường, biết mọi hạnh
Nhớ việc ở ngàn kiếp xưa nay.
Được bốn Thần túc cũng như vậy
Giây lát đến nhiều nước không lường
Cúng dường Đạo sư nhiều vô số
Nghe giảng pháp, Tổng trì này xong,
Ngần ấy ma, đến trăm ngàn ức
Chẳng thể nhìn biết cảnh giới hành
Con người thanh tịnh không phiền não
Giảng nói kinh pháp vô số ngàn.
Ví như hoa sen không nhiễm ô
Cũng như vậy, chẳng nương thế pháp
Thường giải thoát các điều không, có
Đẳng tâm tất cả như hư không.
Nắm giữ sắc tướng mà dũng mãnh
Mọi người chiêm ngưỡng không nhàm chán
Tiến, dừng an tường, hành không khuyết
Ở đời vì thương xót quần sinh.
Trời Đế Thích, Phạm và Hộ thế
Cúi đầu lễ cung kính cúng dường
Lòng ấy chẳng do kiêu mạn nói
Cũng vậy khi được tổng trì xong.
Miệng nói nhu nhuyến như âm Phạm
Vì mọi người nói hợp với tâm
Lời thấm nhuần lưu loát phải lúc
Có thể giáo hóa không che ngăn.
Ở tại trong chúng không gì sợ
Làm sư tử gầm không gì khó
Hàng phục tất cả những dẫn chúng
Như vậy là thành tịnh Tổng trì.
Người dua nịnh kia khó điều hóa
Kiêu mạn tự đại hưng khởi lên
Nghe lời nói pháp thánh minh đó
Cúi đầu lễ, cống cao bỏ liền.
Vào với bản tịnh, pháp giới tịch
Hiểu rõ các pháp thông đạt nghĩa
Do vậy lời nói không cùng tận
Biết luật pháp, phân biệt văn tự.
Bản tánh con người pháp giới tịnh
Cũng như vậy hiểu chúng sinh tịnh
Biết rõ vốn không, người không gốc
Giảng nói kinh pháp không ngăn ngại.
Việc tận không tận chẳng thể biết
Việc không tận không thể tận cùng
Hiểu biết rõ đường đó tịch mịch
Thì nói không trụ ức quyển kinh.
Chẳng ở thân các văn tự ấy
Cũng chẳng tại ý, chẳng ở tâm
Bản tánh vẫn tự rỗng tịch mịch
Ví như trong núi tiếng hô vang.
Xét Tổng trì chẳng chấp trước chữ
Không âm, không ngôn, không lời lẽ
Do biết thú hướng của văn tự
Giả sử lời nói không ngại ngăn.
Không tâm, không ý cũng không tưởng
Giả sử có nói mà không niệm
Lại nữa biết xa lìa pháp tuệ
Giảng nói kinh thuận theo ứng hợp.
Để vào phân biệt nghĩa tứ cú
Hiểu nghĩa lý, pháp biết rõ ràng
Xét suốt âm thanh, thuận điều nghe
Nên giảng “vô trước” chẳng thể lường.
Tập quen nguồn gốc nương ở tuệ
Nên nói ngần ấy pháp thâm sâu
Tuệ hiểu rõ được thuận và nghịch
Pháp có đỉnh đến vượt bờ kia.
Nếu có phương tiện để cứu giúp
Các khiếp nhược lẫn điều hoảng hốt
Tạo ra trí sáng là giải thoát
Như vậy mới thành tựu Tổng trì.
Thân, miệng, ý đều đã tịch tĩnh
Chẳng chấp có, các tuệ phân rành
Giảng nói không chán, trừ sân hận
Được trụ tổng trì là dũng mãnh.
Pháp Tổng trì ấy, tâm nắm giữ
Ý đã hội nhập, trụ pháp tuệ
Người có nghe ấy chưa từng quên
Thuận đúng như nghe, chọn kinh điển.
Nghĩa Tổng trì ấy, pháp chẳng loạn
Xét ở pháp hành, không chỗ vào
Pháp bình đẳng nên nói bình đẳng
Ứng hợp bình đẳng thuận thanh tịnh.

 

Phẩm 8: PHÂN BIỆT DANH

Khi Đức Phật nói bài kệ về chương cú này, quyến thuộc của Hải Long Vương gồm một vạn ba ngàn rồng đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Họ lại bạch rằng:

-Ngài tuyên nói rộng rãi lời nói này, kính Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ đạt được Tạng tổng trì Vô tận này. Chúng con sẽ vì tất cả mọi loài chúng sinh nói kinh pháp rộng nói.

Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật:

-Thật chưa từng có, bạch Thế Tôn! Nên mới khiến cho các rồng phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Con người ngược lại chẳng thể phát khởi đại đạo vậy.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

-Một vạn ba ngàn rồng đó, vào thời Đức Phật Ca-diếp đều làm Sa-môn, theo Đức Như Lai Ca-diếp một lần nghe nói hạnh Bồ-tát, đồng thời vui mừng khen: “Hay thay, hay thay! Đức Phật nói việc Đại thừa chẳng thể nghĩ bàn! Chúng cùng với dòng họ, bạn bè đều đi khất thực nhưng vì tham lợi chẳng thận trọng, chẳng hộ trì cấm giới. Do đó sau khi mạng chung bị đọa vào trong loài rồng”. Lúc đó, theo Đức Phật Ca-diếp nghe lời dạy Đại thừa, khen ngợi Đức Phật Ca-diếp. Do duyên của cội gốc đức báo ứng nên nay nghe ta nói, khen ngợi Đại thừa và giảng về Tạng tổng trì Vô tận, họ đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Này Xá-lợi-phất! Ông hãy quan sát sự chí tâm đặc biệt kỳ lạ đó! Nay ta thọ ký cho họ rằng, hằng hà sa số kiếp cúng dường các Đức Phật, tích lũy đạo phẩm, tự thành đạo Vô thượng chánh chân hiệu là Tuệ Thượng, Trí Thượng, Pháp Thượng, Phạm Thượng. Khi được thành Phật, do bốn việc đó nên hiệu thế giới là Vô cấu tạng, kiếp tên là Đại hân. Các rồng ấy đều đồng một kiếp được thành đạo Vô thượng chánh chân Tốì chánh giác, giống như ở kiếp Hiền sẽ có ngàn Đức Phật ra đời.

 

Phẩm 9: THỌ KÝ

Đến đây, Hải Long vương bạch Đức Phật:

-Con từ kiếp đầu tiên ở biển lớn, từ Đức Như Lai Câu-lâu-tần ra đời đến nay, quyến thuộc thê tử của các rồng trong biển lớn rất ít. Hôm nay thì vợ con, quyến thuộc xa gần của chúng rồng nhiều lắm, giả sử muốn tính toán cũng chẳng thể cùng tận. Bạch Thế Tôn! Việc này thế nào? Có gì biến đổi kỳ lạ?

Đức Phật bảo Long Vương:

-Ấy là những người ở trong Phật pháp xuất gia giữ luật, hành giới chẳng đủ, hiện tại thành tựu giới, vi phạm giới hạnh mà chẳng bỏ chân kiến, chẳng đọa địa ngục. Những loại người như thế, sau khi mạng chung rồi đều sinh trong loài rồng.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Thời Đức Phật Câu-lâu-tần có chín mươi tám ức người tại gia và xuất gia trái phạm cấm giới nên đều sinh trong loài rồng.

-Thời Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có tám mươi ức người tại gia và xuất gia hủy phạm cấm giới, buông thả tâm nên sau khi mạng chung đều sinh ra trong loài rồng.

-Thời Đức Phật Ca-diếp có sáu mươi tư ức người tại gia và xuất gia phạm giới nên sau khi mạng chung đều sinh trong loài rồng.

-Ở trong đời của ta có chín trăm chín mươi ức người tại gia và xuất gia với biết bao sự đấu tranh, quen biết bao hành động, bài báng kinh điển, giới luật nên sau khi mạng chung đều sinh trong loài rồng. Như hôm nay cũng có người sinh ra!

Đức Phật nói với Long Vương:

-Do đó ở trong biển lớn của ông, vợ con quyến thuộc của các rồng nhiều chẳng thể tính kể. Sau khi ta vào Niết-bàn có nhiều ác Tỳ-kheo, ác Ưu-bà-tắc trái phạm cấm giới sẽ sinh trong loài rồng, hoặc đọa vào địa ngục.

Hải Long vương bạch Đức Phật:

-Đến nay, Tỳ-kheo bỏ nhà tu đạo mà phạm giới bị đọa vào trong loài rồng thì có gì đặc thù?

Đức Phật dạy:

-Bỏ nhà tu hành, tới nay Tỳ-kheo phạm giới bị đọa vào trong loài rồng, họ tu hành với phương tiện chẳng thể thanh tịnh nhưng lại rất có lòng tin ở Phật pháp. Do sức chí tâm, họ ở trong loài rồng, sau khi mạng chung được sinh lên trời và nhân gian, sẽ gặp các Đức Phật ra đời của kiếp Hiền. Họ đều sẽ gặp! Giả sử có người chẳng được giải thoát thì đều ở trong kiếp Bạt-đà vào Niết-bàn ngoại trừ người có chí nguyện Đại thừa. Này Long vương! Hãy xem sự rộng lớn của lời Phật dạy! Nhân duyên khác lạ xuất gia, bỏ các pháp ác được vượt qua các loài khác.

Bấy giờ, có con của Long vương hiệu là Uy Thủ bạch Đức Phật:

-Thật chưa từng có, bạch Thế Tôn! Loài rồng thân cận Đức Như Lai, thật khó gặp, khó nghe! Tuy có tạo tác mọi tội chướng nhưng nếu khởi lên một ý thiện, tâm nghĩ đến Phật pháp thì nhất định chẳng mất đức và nhờ hạnh đó mà được diệt độ. Nay con nguyện phát ý đạo Vô thượng chánh chân! Do Đức Phật Thế Tôn khó gặp khó nghe nên khiến cho hành động Bồ-tát không có sai trái khuyết điểm, đi dến đạo tràng, không khiến trong lòng quên mất cội gốc đức, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Bất cứ ở đâu cũng thường gặp các Đức Phật, được nghe kinh pháp, cúng dường chúng Tăng và khai hóa chúng sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Long Vương tử Uy Thủ:

-Hay thay, hay thay! Những điều ông hỏi là mới phát tâm cứu hộ tất cả. Hôm nay ông chí tâm khởi Bi vô cực mà dấy lên ý đạo. Nhờ cội gốc đức này, Như Lai khen ngợi ông! Bảy ngày, bảy tháng hoặc đến một năm làm công đức mà phước chẳng thể cùng tận, nhờ gieo trồng hạnh thiện mới như vậy.

Đức Phật thấy được ý nghĩ trong lòng của con vua rồng Uy Thủ, liền cười rạng rỡ. Phép cười của chư Phật có vô lượng số màu sắc, mà từng sắc từng sắc đều khác. Ánh sáng từ miệng Đức Phật phát ra soi chiếu thế giới chư Phật nhiều chẳng thể kể xiết. Ánh sáng ấy nhiễu quanh thân Đức Phật ba vòng rồi theo đỉnh đầu mà vào.

Bấy giờ, Hiền giả A-nan dùng kệ khen Đức Phật:

Trăm phước công đức trang nghiêm thân
Thể đủ ba mươi hai tướng tốt
Trong sạch không bẩn như ánh trăng
Ngài cười hôm nay, vui điều gì?
Lìa ba cấu không bụi sạch trong
Như trăm lá hoa, hành không mệt
Được trời, người, thần rồng cung kính
An trụ, nay vì sao Ngài cười?
Hay thay! Răng đều bằng sạch trong
Mặt Đấng Thập Lực sắng thơm sạch
Do trừ căn nguyên của tử sinh
Nay Thế Tôn cười vì điều gì?
Không tỳ vết, tâm như hư không
Ý bình đẳng bạn lành, kẻ oán
Giữ chí như đã không ghét thương
Nguyện Thế Tôn sao vui cười vậy?
Lời giảng âm thanh như Phạm thiên
Như âm chim Ai loan vi diệu
Lời nói nhu nhuyến ai chẳng mừng
Sao Ngài cười? Nguyện Thế Tôn nói!
Tâm đôi Thánh tuệ, không chấp trước
Biết vận hành tâm cả ba đời
Hiểu căn mọi người được vui mừng
Nay Đạo sư cười, cảm gì vậy?
Vì là thành Y vương
Trị Hệu bệnh chúng sinh
Hay thí yên rốt ráo
Duyên gì cười? Thế Tôn
Hộ đức vì con nói
Chư Thiên và nhân gian
Nghe đều sẽ vui sướng
Chí ở các thông tuệ!

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

-Ông có thấy con vua rồng Uy Thủ đứng ở trước Phật chí tâm phát ý đạo Vô thượng chánh chân chăng?

Tôn giả A-nan đáp:

-Thưa vâng, con đã thấy!

Đức Phật dạy:

-Con vua rồng Uy Thủ đó, trải qua tám trăm lần chẳng thể kể vô lượng số kiếp sẽ được làm Phật hiệu là Tuệ Kiến Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Tịnh trụ, kiếp tên là Minh sát. Con vua rồng đó chí thành phụng hành đạo Bồ-tát, gặp vô lượng số các Đức Phật cúng dường phụng sự, thường tu phạm hạnh, khai hóa độ thoát vô lượng chúng sinh, khiến họ an trụ ba thừa.

Thế giới Tịnh trụ của Đức Như Lai Tuệ Kiến giàu có thuần thục, năm giống lúa dồi dào, an lạc không lường, trời người đông đúc, quần áo, đồ ăn thức uống giống như trên cõi trời Viêm. Đức Phật ấy sẽ sống lâu đến trăm vạn năm, có sáu mươi ức Hiền thánh chúng Tăng Thanh văn, một trăm hai mươi vạn ức Bồ-tát. Những vị thân cận Đức Như Lai Tuệ Kiến ấy đều được Tam-muội Từ hạnh. Đức Như Lai Tuệ Kiến nói kinh, nếu hành giả Thanh văn lần đầu thấy Phật thì được Đạo tích, thấy lần thứ hai thì được Vãng lai, thấy lần thứ ba thì được Bất hoàn, thấy lần thứ tư thì được Vô sở trước. Người có chí Đại thừa thì vừa đến hầu hạ Đức Như Lai Tuệ Kiến liền được Nhẫn nhu thuận, thấy lần nữa thì được thần thông, thấy lần thứ ba thì được Biện tài tổng trì, thấy lần thứ tư thì được pháp Nhẫn bất khởi. Thế giới Tịnh trụ không có người hủy phạm giới, ý thanh tịnh không tà đều trụ ở chánh kiến. Người ở đó sau khi mạng chung không có đường ác đều sinh lên trời hay cõi Phật thanh tịnh…

Con vua rồng Uy Thủ nghe Đức Phật thọ ký rất đỗi vui mừng, lòng lành phát sinh. Ông dâng trăm ngàn chuỗi ngọc để tung lên trên Đức Phật, chắp tay nói kệ khen:

Nhân Tôn thanh tịnh như ánh trăng
Uy thần, vô lượng chúng tôn kính
Năng lực Tổng trì ấy không lường
Nguyện cúi lễ Đấng Vô Biên Tuệ
Thánh từ chẳng thể hạn lường
Chẳng thể bàn trí sáng không vết
Cầm giới rộng, định trụ khắp cùng
Cúi đầu Nhân Tôn như hư không
Không lường không hạn ức kiếp số
Không gì chẳng vào, hạnh rốt cùng
Do vậy hiểu biết những chúng sinh
Chỗ về tâm tánh các cội gốc.
Dung nhan Thế Tôn, người nhìn thấy
Một lòng quan sát không nhàm chán
Chẳng bị mê hoặc của trần tục
Bẩn dơ ái dục đều diệt tan.
Ai loan, Câu-di các thần, quỷ
Cũng như vậy, tiếng của Phạm thiên
Tiếng nghe mười phương rất vi diệu
Sánh tiếng Như Lai siêu việt hơn.
Giả như mặt trời rơi xuống đất
Nước biển phải khô, Tu-di tan
Hư không còn nát, đất lật ngược
Trọn không khác, lời nói Thế Tôn.
Thế Tôn chí thành nói chắc chắn
Đem Đại Thánh Tuệ trao cho con
Con không hồ nghi trừ lưới kết
Được Phật tự tại làm Chúng Hựu.
Mười phương vô lượng ức vạn nước
Đầy trân bảo cưng thầy dẫn đường
Giả sử có người phát tâm đạo
So trồng đức trước thì đầy hơn.
Cúng dường Chánh Giác, đức đệ nhất
Nếu người phát chí Đạo Phật Tôn
Là đã báo ân Đấng Thập Lực
Mạng Đạo Sư này chẳng đoạn tan.

Con vua rồng nói bài kệ khen Đức Phật này rồi, mười ngàn người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân và đều nói lên:

-Khi Đức Như Lai Tuệ Kiến chứng được Tối chánh giác thì chúng con đồng lòng nguyện sinh về thế giới Tịnh trụ để phụng trì lời dạy chánh pháp của Đức Như Lai đó, đồng thời cúng dường Đức Phật đó. Sau khi Đức Phật diệt độ, chúng con lần lượt bổ xứ vào cõi ấy, được Tối chánh giác.

Đức Phật thọ ký cho họ đều sẽ sinh về thế giới Tịnh trụ.

Pages: 1 2 3 4