SỐ 285
KINH DẦN ĐỦ TẤT CẢ TRÍ ĐỨC
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nhục Chi
Việt dịch:  Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Phẩm 9: TRỤ THIỆN TAI Ý

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Hãy lắng nghe! Bồ-tát Đại sĩ, hạnh trí tuệ Phật vô số như vậy, lại tăng trưởng dần đến chỗ vắng lặng, ý chí ở nơi môn giải thoát, trí tuệ của Như Lai, làm tăng trưởng chí đức, lại dùng tâm từ có thể tu hành được những bí mật Như Lai; nhờ đó thâm nhập được đạo tuệ lớn lao mà không thể nghĩ bàn hay phân biệt; cho đến khi đạt Tam-muội chánh thọ Tổng trì trong sạch cần thiết, xả bỏ những nghiệp nhơ uế, đem lại lợi ích cho tất cả, làm thành tựu đại thần thông rộng lớn cao xa; phân biệt được các cõi để giáo hóa chúng sinh; đi lại một mình, đủ mười Lực, Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, không ai sánh bằng, tu tập gốc đạo Như Lai chí chân, chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh trong các cõi, lập hạnh Từ bi, an trụ nguyện lớn, không bỏ chúng sinh trong mười phương, nhập đạo Địa thứ chín của Bồ-tát. Trụ địa này, nếu thấy những hạnh không vững, tâm còn thiện ác thì phải suy xét để biết rõ, cúng dường kinh điển, phụng sự đấng Chí Chân; lại phải biết rõ pháp hữu lậu, vô lậu, tùy thuận pháp thế tục, để lấy pháp đó độ thế gian. Việc tu hành suy xét không thể nghĩ bàn, thừa phụng rốt ráo pháp không liễu nghĩa; tùy thuận pháp của Thanh văn, Duyên giác, phụng hành các Bồ-tát, kính trọng đạo pháp, thệ nguyện tùy thời, đạt được đạo địa của Như Lai, cũng tùy lúc hành pháp hữu vi nhưng chí khí ở nơi pháp vô vi, suy xét hiểu biết thật rõ ràng. Với trí sáng, hiểu rõ nơi quay về cũng như hiểu rõ tâm hạnh của chúng sinh, những gì nên giữ nên bỏ, như trần lao ô mhiễm, sự thọ lãnh phước họa, sự giữ gìn hạnh nghiệp các căn, sự giữ vững tâm tin; hiểu rõ nẻo quay về của tâm tánh, nơi tạo nghiệp, nơi thọ sinh dừng ở; hiểu rõ ba tụ, nơi nghiệp đưa đến; suy xét hiểu rõ như vậy để quán sát tâm chúng sinh, biết được những việc đúng sai, bao nhiêu là loại tâm. Tâm ấy, chỉ trong khoảnh khắc mà có thể tới, lui, tụ, tán. Tâm ấy, không có thân, tâm không thể hạn lượng. Tất cả sự phát khởi hưng thịnh đều từ tâm; tâm ấy có trần lao hay không; tâm có trói buộc, cởi mở đều như huyễn hóa. Hiểu rõ nơi dừng ở nhân duyên tiến thoái và những trần lao của tâm, sự huyền diệu bay xa chữa trị cho chúng sinh ở đời sau không còn nghiệp duyên trói buộc; đi hay ở, tâm hội họp biệt ly, thọ sinh ở một nơi hay đi khắp trong hiện tại, tới lui qua lại, phân biệt vô minh ân ái trong ba cõi; thấy được các đau khổ đều do ngu si lớn, vô số tội lỗi quyết dứt trừ tất cả, hiểu biết rõ ràng Ba tạng là báu vật, thâm nhập suy xét tám vạn bốn ngàn trần lao, chưa rõ nghĩa tội phước là thiện hay bất thiện; chỉ cho biết vô minh là kẻ làm cho tâm tán loạn, không còn tạo nghiệp, suy xét về Đấng Chúng Hựu, biết có báo ứng; biết chứa nhóm lợi ích, tạo ra hạnh nghiệp thì quả báo không mất; sự quả báo, không quả báo, đen tối, sáng sạch, trắng đen… đều là ngôn từ, hạnh nghiệp quả báo thì có hạn lượng, nhưng ruộng đất phước tội thì không thể hạn lượng. Bậc Hiền Thánh ra đời, làm việc tội phước ở hiện tại, chứa nhóm nghiệp ở vị lai đều vượt qua hết; hiểu rõ hay chưa rõ nơi quy thú, cũng phân biệt và hiểu rõ phương tiện tùy thời, để biết được tám vạn bốn ngàn tội lỗi, biết nguyên nhân và kết quả; hiểu rõ nguồn gốc các căn Nhu thuận, yếu kém, vừa phải. Nói tóm lại, tùy hạnh nghiệp đời trước của chúng sinh: Hủy hoại, không hủy hoại, hạnh vi diệu vừa phải, hạnh thấp kém, các loại trần lao, không có tài nghiệp đều từ tâm quyết định. Đối với kẻ không hiểu thì khai hóa nguồn gốc, do lưới căn nên phân biệt thoái chuyển, chấp giữ vọng tưởng về các tướng sang hèn, tới lui qua lại, tiến thoái không ngừng; hiểu rõ ba đời, đi mãi không cùng, một mình không bè bạn, luôn bình đẳng với mọi loài, biết rõ tám vạn bốn ngàn căn tánh. Nói tóm lại, hiểu được tâm tin cao thấp vừa, các căn thông đạt đều tùy thuận vào tám vạn bốn ngàn căn tánh; ôm giữ tâm tin thì biết rõ được hạnh nghiệp của chúng sinh, biết cảnh giới cao thấp vừa, tùy theo tám vạn bốn ngàn căn tánh; tâm thượng trung hạ của chúng sinh, của các loài bốn đại với tánh hạnh thiện ác; hiểu rõ nơi quy thú của các căn và tánh hạnh của tâm ấy, tâm ý của bạn bè, bọn đảng; tâm ấy hội họp, biệt ly, đi mãi không ngừng; hoặc có tự đại hay không tự đại, ý ấy điều thuận không chán ghét cũng không lười bỏ; nên một tâm tùy thuận vào pháp môn giải thoát thần thông Tammuội chánh thọ, không hội họp trói buộc trong ba cõi, nguyện đạt được thật tâm, không tạo các hạnh nghiệp ác; tu tập thâm nhập giáo pháp vô ngôn, không dựa vào bạn đảng, không tạo sản nghiệp, không thay đổi, không bạn bè; tu tập giáo pháp, suy xét kỹ lưỡng biết đúng hạnh của chúng sinh, có bao nhiêu hạnh nghiệp thọ sinh, hạnh ấy sẽ thọ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-luân, trời, người, nhân dân, sắc, vô sắc, tưởng, vô tưởng thảy đều biết rõ. Hiểu rõ quả báo của tội, phước đều do ân ái, tình dục, vô minh, ngu tối làm nhân; tinh thần chủng loại luân hồi sinh tử, danh sắc làm bạn. Vì không đạo nghiệp, sinh tử, ngu si, gần gũi ân ái, nên có tham dục, tham cầu ái tình. Không tham vinh hoa, lạc thú của chúng sinh thì luôn biết đúng ba cõi, không bị tổn thương; suy xét kỹ lưỡng biết rõ nơi ở, nơi sẽ đến và dừng. Từ hạnh của chúng sinh và tội phước mà tu tập trần lao; thiện ác chưa rõ, nguồn gốc tạo tác, mà phải luân chuyển không cùng, lại trôi lăn theo bản nghiệp, chưa thể thoát ra thật khó đoạn trừ! Muốn độ những kẻ tham lam, ganh ghét, chưa trừ sạch trần lao; thì tâm phải thông đạt mới có thể vượt qua, đối với việc làm đó phải đạt đến vô sở hữu; suy xét kỹ càng để biết rõ hạnh của chúng sinh; có hiểu biết hay không hiểu biết; chí ở tà nghiệp thì chạy theo nghiệp tà kiến ngu si; ở nơi chánh kiến thì an định nơi chánh nghiệp, trừ được mọi lo sợ, không gì là không rốt ráo. Lại còn có nạn năm nghịch, nên phải hiểu rõ hạnh nghiệp năm căn, thông đạt chánh chân. Vì bỏ được lo sợ và những việc không rốt ráo, nên hiểu rõ tà vạy đã diệt, chân chánh tịch diệt, làm cho những nghiệp ác thành nghiệp tịnh. Chính vì không chỗ nương tựa mà rơi vào tà nghiệp, luân hồi thoái chuyển. Phải dắt dẫn bằng chánh đạo Vô thượng của Hiền Thánh mà tuyên thuyết cho kẻ không hiểu rõ, không tùy thời tụ tán ôm giữ tà nghiệp. Phật tử! Nếu quay về với tuệ của Bồ-tát Đại sĩ này thì được an trụ địa Thiện tai ý của Bồ-tát. Đã an trụ địa này, thì hiểu rõ được tất cả hạnh nghiệp của chúng sinh, tùy các loại bản hạnh mà giải thoát và khai hóa cho chúng sinh; nên hiểu rõ chúng sinh, để tùy thời dạy dỗ, biết cách khuyên dạy Thanh văn, Duyên giác, hóa độ các Bồ-tát, giảng thuyết Như Lai địa, tùy chúng sinh đó mà thuyết pháp, dắt dẫn lợi ích độ thoát; với tánh hạnh đó, tùy bản căn sẽ được giải thoát mà thuyết pháp; với nhân hạnh nghiệp thì phải hiểu rõ nguồn gốc mà khai hóa, dùng các giáo pháp tu tập như pháp môn suy xét giải thoát, pháp môn nhân giải thoát mà thuyết pháp. Trụ địa này, sẽ thấy được sự hưng long của Đại pháp sư, ủng hộ được vô số pháp tạng của Như Lai, đến được chỗ Pháp sư học hỏi thâm nhập, hiểu rõ Thánh tuệ, phụng hành tuyên thuyết, đủ bốn Biện tài, phân biệt đủ hạnh nghiệp của Bồ-tát, theo pháp để thường tu tập, không bị sự hủy hoại. Bồ-tát Đại sĩ có bốn biện tài phân biệt đạt không thoái chuyển. Bốn Biện tài đó là gì? 1. Phân biệt pháp. 2. Hiểu thật nghĩa. 3. Tùy thuận thứ lớp. 4. Hiểu rõ biện tài. Phân biệt pháp là biết giảng thuyết tướng tự nhiên của các pháp. Hiểu thật nghĩa là thông đạt chỗ quy thú của các pháp. Tùy thuận thứ lớp là giảng thuyết không lầm lẫn, phân tích trí tuệ sâu xa của các pháp. Hiểu rõ biện tài là không có gì trói buộc được, biết các pháp không gián đoạn, phân biệt giảng rõ các pháp. Hiểu rõ pháp là pháp tự nhiên, thân tự nhiên. Hiểu thật nghĩa là phân biệt sự sáng suốt đều từ kinh điển. Tùy thuận thứ lớp là thông đạt tất cả pháp, có thể giảng thuyết được, không làm cho gián đoạn. Phân biệt biện tài là đúng như giáo pháp, không có chỗ mong cầu, diễn giảng không ngằn mé. Thông hiểu pháp là thông đạt pháp hiện tại, tuyên thuyết chỗ quy thú. Hiểu thật nghĩa là biết cái lý báo ứng của pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, không có sự hủy hoại. Phân biệt biện tài là nhất nhất giảng thuyết mà không có hai tâm, không ngằn mé, phóng ra ánh sáng pháp. Thông hiểu pháp là có thể biết các pháp, phân tích được mọi việc. Hiểu thật nghĩa là phân biệt các nghĩa, ai nấy đều nương nhờ. Tùy thuận thứ lớp là tùy thuận lời lẽ xa gần của chúng sinh mà thuyết pháp. Phân biệt biện tài là quán sát sự vận hành của các tâm tánh nhân đó mà diễn giảng kinh pháp. Thông hiểu pháp là hiểu biết phương tiện, thông rõ pháp tuệ, không hủy hoại các pháp lành. Hiểu thật nghĩa là biết pháp vốn không, an trụ tuệ không hai, vì vậy mà hiểu rõ nguồn gốc, thông tỏ hết thảy. Tùy thuận thứ lớp, diễn thuyết hạnh nghiệp, Thánh tuệ là của cải, không sao phá được. Phân biệt biện tài là thông tỏ các nghĩa lý, tùy lúc hiểu rõ gốc ngọn. Thông hiểu pháp là biết rõ nguồn gốc các pháp là một, nếu mất nguồn gốc thì trôi lăn trong sinh tử không cùng. Hiểu thật nghĩa là vượt qua năm ấm, bốn đại, mười tám giới, sáu nhập, phương tiện giải thoát, hiểu rõ mười hai nhân duyên đều không đầu mối. Tùy thuận thứ lớp là giảng thuyết nguồn gốc của chúng sinh, xoay vần trong năm thú, chí tánh hòa nhã, âm thanh nhu nhuyến, ai nghe cũng đều lãnh thọ. Phân biệt biện tài là diễn giảng pháp quan trọng, trí sáng tăng chuyển không cùng tận, ánh sáng ấy chiếu khắp, trừ sự tối tăm, ai nấy đều nhờ ánh sáng đó. Hiểu các pháp là chỉ dạy một phẩm có vô số Bồ-tát Đại sĩ, phát tâm từ rộng lớn, lập tâm bi không cùng, khai phát Đại thừa. Hiểu thật nghĩa là phân biệt các thừa, vượt qua giới hạn, mở rộng hạnh nghiệp, thản nhiên không bè bạn, độc lập giữa mọi người. Tùy thuận thứ lớp là giảng thuyết tất cả các thừa, bậc học thượng, trung, hạ không hủy hoại được, dần dần dắt dẫn nhập vào đạo lớn. Phân biệt biện tài là tu Nhất thừa không bờ mé, tuyên thuyết chánh pháp, chiếu soi nguy ách khổ não của ba cõi, trừ bỏ ấm cái, đạt đến Tam-muội. Thông hiểu pháp là thực hành hạnh nghiệp Thánh tuệ của Bồ-tát, chỉ dẫn tu hành các pháp, đạo sáng siêu vượt, vời vợi vô lượng. Phân biệt biện tài là diễn giảng gốc ngọn của mười trụ xứ định; chỉ dạy cho kẻ học được toại nguyện, không mất chí hạnh, vượt qua được thế tục, thông đạt tất cả. Tùy thuận thứ lớp là tuyên nói giới cấm, tùy theo sự mong cầu mà uyển chuyển dắt dạy, không bị hủy hoại. Phân biệt biện tài là giảng thuyết tất cả hạnh là không cùng tận, diễn giảng bản nghiệp chí thành chân chánh, không dừng ở thừa Thanh văn, Duyên giác. Thông hiểu pháp là tâm thông đạt tự nhiên, tất cả Như Lai đều là một Phật, đều dùng vô số oai lực hiểu rõ thật nghĩa, nhờ đó mà chuyển pháp luân, đạt Nhất thiết trí để có sự độ thoát. Hiểu thật nghĩa là biết rõ bao nhiêu chủng loại, an trụ chánh chân, trong khoảnh khắc phân biệt nơi sẽ hướng về, tuyên thuyết tất cả những đúng sai của đạo, tục. Tùy thuận thứ lớp là như Đấng Chánh Giác, phân tích ngôn từ, xem nguồn gốc của nó, hạnh thượng trung hạ, tâm sâu cạn mà dắt dẫn hóa độ. Phân biệt biện tài là diễn giảng kỹ từng câu chữ nghĩa, trí tuệ không cùng của kinh pháp, không làm cho đoạn dứt; phải cho no đủ. Thông hiểu pháp là thỉnh cầu Như Lai, tuyên thuyết chỉ dạy hết thảy mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tu tập tâm từ mà chuyển bánh xe pháp, thông đạt hết thảy tuệ nhẫn không cùng tận. Hiểu thật nghĩa là biết được tám vạn bốn ngàn các phẩm hạnh của chúng sinh, theo chí tánh đó mà quán sát nguồn gốc, theo như sự tin ưa mà giảng pháp Như Lai để giải trừ những phiền não. Tùy thuận thứ lớp là đối với tất cả hạnh nghiệp không bị sự hủy hoại, rống tiếng sư tử, nói lời của Như Lai, âm thanh của tám bộ, nghe khắp mười phương, thấy rõ tất cả. Phân biệt biện tài là thông đạt trí tuệ oai thần sáng suốt của Như Lai, diệt trừ trần cầu tối tăm, dùng sức hành đạo của mình, theo sự tin ưa ấy mà khai hóa, làm cho ai nấy đều toại nguyện.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Bồ-tát an trụ Địa thứ chín, phước đức cao vợi, biện tài như vậy, dần dần đạt được tạng pháp vô cực của Như Lai, làm bậc đại Pháp sư, tạo lập pháp khí, làm vua các pháp, thông đạt thật nghĩa Huyền diệu Tổng trì, cứu độ ba cõi, là pháp chủ Tổng trì. Nói tóm lại, dùng thần thông Thánh tuệ để cứu độ, dùng Tổng trì sáng suốt soi rọi mười phương; dùng Tổng trì thiện ý để nhiếp tất cả ý; Tổng trì như đất, đi lại như hư không, oai thần khó đạt, pháp môn giải thoát vô cực là trọng yếu của Tổng trì Đế chủ, Tổng trì Sở hướng, Tổng trì Sở du vô lượng hồi hướng, tới lui qua lại đều khắp, đạt nhiều loại Tổng trì phương tiện. Đầy đủ tất cả như vậy, đạt vô số trăm ngàn Tổng trì, ân thanh tùy thích, thông đạt tất cả các pháp, phân biệt không sao lường được; giảng thuyết kinh điển không ai diễn được. Cứ thế, Tổng trì tất cả pháp môn chánh đạo mà không thể hạn lượng được; nghe pháp của vô số chư Phật Thế Tôn hiện thân thuyết giảng, nghe rồi thì không quên; giảng thuyết lại được những gì đã nghe; ở chỗ của các Như Lai, đều học hỏi, lãnh thọ, đọc tụng vô số trăm ngàn ức Tổng trì. Ví như pháp của mỗi Đức Như Lai khai hóa thì không có ngằn mé, là Vô thượng Chí chân; pháp của các Như Lai cũng vậy không khác. Nên cúi đầu đảnh lễ để được thêm tinh tấn đối với vô số bậc Chí chân Chánh đẳng giác mà nghe nhận pháp môn, bậc Thanh văn, Duyên giác không thể diễn giải được; học rộng nghe nhiều giúp lãnh thọ các môn Tổng trì như vậy, rồi đạt đến biện tài mà kiến lập. Pháp và Thánh chúng cao xa vời vợi; nếu khi họp hội đầy cả Tam thiên đại thiên thế giới, thì tùy tâm chúng sinh mà ứng hóa thuyết pháp, nơi nào có pháp tòa thì ngồi tòa thuyết pháp, thực hành Thánh chỉ Như Lai; đạt được đại Nhất sinh bổ xứ thứ mười, ở đâu cũng đều được tự do tự tại, cao quý không ai bằng, ánh sáng soi khắp mọi nơi. Ngồi nơi pháp tòa, trong khoảnh khắc vừa mới phát tâm, chỉ dùng một mà đã có bao nhiêu là âm thanh diễn thuyết cho khắp hội chúng; và trong chốc lát, ánh sáng từ miệng phóng ra tất cả âm thanh diễn thuyết ban bố giáo hóa, làm cho thông hiểu tất cả; chiếu soi tam thiên đại thiên thế giới và các cõi sắc, cõi vô sắc; để diễn nói pháp âm. Lúc ấy, chúng sinh ở trong tam thiên đại thiên thế giới đều đến hỏi nghĩa lý và được giảng thuyết chỉ bày tất cả mọi việc, không quanh co, không giảng trùng lặp, làm cho ai nấy đều thông hiểu; trong khoảnh khắc, các Bồ-tát lúc này cũng đều lãnh thọ lời dạy, dùng một lời mà dạy dỗ được khắp nơi. Nói tóm lại, khắp cả hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, năm mươi đại thiên thế giới; cho đến cả trăm Tam thiên đại thiên thế giới, vô số đại thiên thế giới; khi phóng quang làm việc pháp, kiến lập Thánh chỉ oai thần của Như Lai, thì thường tùy thời, vì chúng sinh mà làm việc Phật, sự phát triển an lập rồi dần dần tăng trưởng; Thánh tuệ được lãnh thọ như ánh sáng chấn động, làm cho tinh tấn tu tập. Mỗi ánh sáng đều từ lỗ chân lông phóng ra, soi chiếu vô số thế giới của chư Phật đầy khắp cõi trần; thấy vô số cõi Phật không sao đếm được; thấy đại chúng tu tập ở đạo tràng, nghe Đức Phật giảng giáo pháp. Mỗi Như Lai đều vì vô số loài chúng sinh, mà giải trừ phiền não. Mỗi chúng sinh với đủ loại tâm tánh, không sao nói hết, tâm tánh mỗi mỗi đều khác nhưng dùng đạo pháp thì dẫn dắt khai hóa được. Sự độ thoát của mỗi Đức Như Lai là thế. Tất cả các Đức Như Lai, cũng vậy không khác. Ví như một lỗ chân lông, tất cả các lỗ khác cũng vậy; khi diễn nói pháp âm khai rộng chí tánh, suy xét sự thích nghi các nơi, để dắt dẫn kẻ chưa hiểu biết, tất cả Đức Như Lai trong một khoảnh khắc hiện thân thì cũng đều lãnh thọ pháp môn từ một âm thanh, rồi tùy sở thích, thuận theo sự khen ngợi của chúng sinh trong đạo tràng, muốn nghe pháp ấy mà nhận được đầy đủ. Đối với việc ấy chúng ta cũng phải như vậy. Trí tuệ sáng suốt, biện tài thông triệt, hạnh nghiệp trong sạch, vui lòng chúng sinh, trong khoảnh khắc, thân đó sẽ đi khắp các cõi. Chúng sinh nhờ đạt đạo địa Bồ-tát này mà ngày đêm tăng trưởng, ý niệm không thay đổi, nhập hạnh Phật đạo, đạt được pháp bình đẳng của Như Lai, thành tựu pháp môn giải thoát thâm diệu của Bồ-tát. Nhờ nhập trí tuệ này, nên thường thấy chư Phật, không hề rời xa, kiếp nào cũng thấy vô số trăm ngàn ức chư Phật, cúng dường phụng sự, học hỏi Như Lai, lãnh thọ giáo pháp đã giảng, nắm giữ kinh điển, rồi tuyên thuyết, gốc công đức ấy ngày thêm nhiều, vượt quá không ai sánh. Phật tử! Ví như thợ bạc, tạo thành các chuỗi ngọc trang sức, để dâng lên Chuyển luân thánh vương, trang sức ở cổ sáng rực; làm tăng ngọc nữ báu không ai bằng. Ban đêm ở trên lầu cao chiếu khắp bốn cõi thành, ngọc của chúng sinh bị che khuất không hiện được, chỉ riêng ngọc này là sáng soi. Cũng thế, Phật tử! Bồ-tát đạt hạnh Thiện tai ý khai sĩ này thì phước đức càng tăng thêm, càng nhiều, không ai sánh bằng, vượt qua hàng Thanh văn, Duyên giác, vượt cả Bồ-tát mới phát tâm từ Sơ địa đến Địa thứ tám. Ánh sáng phước đức của vị này, tiêu diệt tâm trần lao của chúng sinh và soi sáng tất cả, từ ân đức đó, bỏ ác làm thiện, bỏ tục vào đạo. Phật tử! Ví như ánh sáng của Đại phạm thiên soi khắp ba ngàn cõi nước, không nơi nào mà không chiếu đến, mọi loài đều được sáng soi. Cũng thế, Bồ-tát trụ ở địa Thiện tai này, dùng hết thảy ánh sáng công sức soi rọi chúng sinh để thấu đạt cao xa; dùng đạo pháp sáng soi, bỏ tục vào đạo. Phật tử! Đó là hạnh nghiệp rộng lớn Huyền diệu bình đẳng của trụ Thiện tai ý thứ chín. Dù trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết phước đức của Bồ-tát này. Bồ-tát Đại sĩ an trụ ở Địa này, hoặc làm Phạm Thiên, hoặc làm Đại phạm vương, tự tại trong ba ngàn cõi, tạo lập pháp Thanh văn, Duyên giác và các hạnh Bồ-tát, giảng thuyết không cùng, chói sáng không gì sánh, chỉ vẽ rõ ngọn gốc chí tánh của chúng sinh. Đó là đạo nghiệp bố thí cho người, ái kính nhân hòa, lợi ích cho người; khuyên bảo cúng dường tài vật. Dùng bốn ân đó mà cứu độ tất cả. Thường xuyên tích lũy công đức và luôn niệm Phật, để tâm không xa rời, cho đến khi được đầy đủ sự thành tựu Nhất thiết trí, suy niệm ấy cũng không quên mất; suy nghĩ cách làm bậc Tối Tôn của chúng sinh, đem Thánh đạo đến khắp để dắt dẫn kẻ chưa hiểu biết, vừa phát tâm siêng năng tinh tấn tu tập theo sắc tượng như vậy, liền đạt được vô số, vô lượng Tam-muội chánh thọ như số bụi trong trăm ngàn cõi Phật; thấy các Bồ-tát cũng như số bụi trần trong trăm ngàn cõi Phật tập trung làm quyến thuộc. Tất cả đều nhờ nguyện lực diệu đạo đưa đến. Sở nguyện của các Bồ-tát đặc biệt thù thắng, cảm động biến hóa không thể nói hết. Dù trải qua vô số trăm ngàn kiếp cũng không thể nghĩ bàn được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Lực này không thể lường
Phụng hành pháp của Phật
Tuệ vi diệu thứ nhất
Chúng sinh khó hiểu được
Chính mình nghe thọ trì
Tạng bí mật của Phật
Bởi vì các chúng sinh
Nên nhập Địa thứ chín
Nhờ đó đạt Tổng trì
Tam-muội rất tối tôn
Rộng lớn nghiệp thần thông
Biến khắp tất cả cõi
Hiểu rõ sức Thánh tuệ
Tối thắng hiện mọi nơi
Chí nguyện tâm từ mẫn
Chánh trụ Địa thứ chín
Nhờ thông đạt Địa này
Thù thắng giữ tạng pháp
Pháp giải thoát chân diệu
Nghĩa đức không phân biệt
Đang hành hạnh hữu lậu
Thân Hiền thánh cõi đời
Tâm này không thể lường
Tối tôn hiểu thật nghĩa
Phân biệt rõ các pháp
Tư duy đến rốt ráo
Thành tựu việc ba thừa
So lường mọi tạo tác
Hữu vi hay vô vi
Hiểu rõ việc nên làm
Làm hết cả hai việc
Thuận đời mà hòa nhập
Vì thâm nhập tuệ này
Ý vi diệu thù thắng
Thâu nhận tâm chúng sinh
Suy tìm nguồn gốc chúng
Tâm giống như bức họa
Rời xa nhưng luân chuyển
Thần thức thật khôn lường
Sáng soi thâm nhập hết
Các pháp trần lao kia
Kết bạn khó chữa trị
Trói buộc phải thọ sinh
Xoay vần gần tai họa
Tạo tác bao nhiêu việc
Thâm nhập phân biệt nghiệp
Bình đẳng không quả báo
Nhân duyên đã tiêu diệt
Thâm nhập thấu rõ căn
Cao thấp và vừa phải
Trừ diệt các quá khứ
Thông suốt nghĩa vị lai
Vững tin vô ương số
Thanh tịnh không thanh tịnh
Thông suốt tám vạn hạnh
Và bốn ngàn việc làm
Thâm nhập các chủng loại
Thành tà kiến trần lao
Vì thế bị rong ruổi
Vô cùng không thể dứt
Tâm bị sự trói buộc
Dắt dẫn cùng nhau đi
Suy xét tâm ý này
Trói buộc không dừng dứt
Chí tánh như đường thẳng
Trói buộc như che trăng
Không còn nơi an trụ
Cũng chẳng chốn dừng chân
Vì thế khó giáo hóa
Cõi người không trở lại
Dùng kim cang chặt đứt
Đạo ấy vẫn không khác
Phần bộ tùy theo nghiệp
Sinh ở trong sáu nẻo
Dục tình là ái nhuận
Vô minh: Ruộng tội phước
Thần thức là thấp nhất
Tạo hành là danh sắc
Ở trong ba cảnh giới
Đi lại không cùng tận
Lên đến các cõi trời
Tâm chạy theo trần lao
Qua lại khắp tất cả
Nên phải bị sinh tử
Chúng sinh tạo ba nghiệp
Vì thế phải qua lại
Những ngọn lửa tà kiến
Đi theo vết thần thức
Tất cả những hạnh ấy
Đều do trụ địa này
Từ tâm tánh chúng sinh
Theo đó hiểu các căn
Vì chúng giảng kinh pháp
Phân biệt rõ các việc
Phân tích nghĩa lý này
Biện tài khéo quyền biến
Nếu ai đến được chỗ
Pháp sư đã an trụ
Nói năng không chấp trước
Như ngọn núi Tu-di
Như nước mưa thấm ướt
Cam lộ thấm khắp nơi
Căn lực của Giác ý
Tràn đầy như biển lớn
Hiểu rõ thật nghĩa tuệ
Hiểu pháp cũng như vậy
Tất cả đều chấm dứt
Đạt được các biện tài
Được vô số sáng suốt
Một vạn môn Tổng trì
Cầm giữ pháp giải thoát
Như mưa trong biển lớn
Cứ thế đạt Tổng trì
Và Tam-muội thanh tịnh
Đồng thời thấy vô số
Trăm ngàn ức Đức Phật
Nhờ nghe được Pháp bảo
Lại thường xuyên tuyên thuyết
Lời rõ ràng thông suốt
Tiếng tự nhiên vi diệu
Trong khoảnh khắc phát tâm
Biết tam thiên thế giới
Chúng hội của phàm phu
Có bao nhiêu tâm niệm
Làm vui lòng tất cả
Theo căn tánh của chúng
Sự thâm nhập đều vậy
Như biển lớn bốn phương
Phước đức còn hơn đây
Tổng nhiếp đạt tinh tấn
Suy xét thật khó lường
Như cát của sông Hằng
An trụ và thuyết pháp
Độ chúng sinh phàm phu
Người nghe đều thọ trì
Như gieo giống trong đất
Giả sử các chúng sinh
Đang ở trong mười phương
Có ái khiến cho họ
Đều ngồi vào một chỗ
Thông đạt hết tất cả
Tánh hành niệm như vậy
Chỉ dùng một âm thanh
Ai cũng được no đủ
Bậc trung tôn an trụ
Pháp vương tối thượng này
Đi khắp các cõi nước
Thành đệ tử Thế Tôn
Ngày đêm luôn an trụ
Thù thắng hợp chí nguyện
Trụ nơi tịch vi diệu
Pháp giải thoát dũng mãnh
Luôn phụng sự cúng dường
Lạy vô số Đức Phật.
Thành tựu đạo cao vợi
Trang nghiêm như Chuyển luân
Sáng soi trừ trần cấu
Thọ pháp phóng hào quang
Như ánh sáng Phạm thiên
Chiếu tam thiên cảnh giới
Công đức trụ địa này
Soi vô số Phạm thiên
Phật phân biệt giảng thuyết
Tạo lập ra ba thừa
Những ai siêng tu tập
Thương xót các chúng sinh
Nhập vào Nhất thiết trí
Đạt hạnh Thánh giả tuệ
Cõi nước không thể lường
Cho đến thành Vương xá
Dùng oai lực suy xét
Tam-muội khắp mười phương
Thấy mười phương chư Phật
Thế Tôn lời nhu nhuyến
Phát thệ nguyện vi diệu
Tâm không thể đo lường
Đó là Trụ thứ chín
Thật vi diệu khó hiểu
An trụ rồi tự diễn
Đó là hạnh Đại thừa.

Vô số chư Thiên cõi trời Tịnh cư đến nghe chánh pháp vô thượng, trụ trong hư không, tâm vui mừng khôn xiết, cung kính khiêm nhường, an trụ vâng lời. Vô số Bồ-tát ở trong hư không, vui mừng rải các hoa thơm, làm vui lòng tất cả, đốt sạch hết nhơ uế trần lao của chúng sinh. Tự tại Thiên vương vui mừng, trụ ở trên cao cùng vô số chúng, hoan hỷ dâng cúng áo đẹp của trời, trân báu của cõi Phạm Thiên, nhất tâm quy y; vô số ngọc nữ xinh đẹp, trổi nhạc đảnh lễ. Tất cả đều phát ra âm thanh hình tượng như vậy. Các hàng Phật tử quyến thuộc ngồi khắp cả cõi Phật. Ánh sáng ấy rực rỡ, chiếu soi khắp nơi, các thân đều nhu nhuyến, khắp các cõi đều được soi sáng. Ánh sáng từ mỗi lỗ chân lông của Đấng Như Lai Chí Chân thật là rực rỡ, diệt trừ hết trần cấu của chúng sinh; số bụi ở các cõi nước còn có thể đếm được nhưng số chúng hội này không thể đếm được. Ngay lúc đó, tất cả đều được thấy các tướng vi diệu của thân Phật, thấy các Chuyển luân vương đi đến các nước khác, làm việc tối thượng, tốt đẹp, cao vợi; thấy các đấng Thánh hiền, đại thần tôn quý của cõi trời và người, từ cõi Đâu-suất giáng hạ vào thai mẹ rồi đản sinh, tuy ở trong thai, nhưng hiện ở vô số cõi nước, vừa sinh ra thì hiện thành cõi Phật. Bản nguyện của đấng Đạo sư là vì chúng sinh mà xuất gia, để thành tựu Phật đạo, làm bậc Tối chánh giác, chuyển bánh xe pháp, thị hiện vô số cõi Phật; ví như nhà ảo thuật, học các chú thuật, tùy thuận thọ mạng, hiện ra vô số phép thuật. Đức Thế Tôn cũng vậy, tu học trí tuệ, vì chúng sinh mà xuất gia, ở chỗ trống rỗng, tịch tĩnh không tướng, các pháp bình đẳng ví như hư không. Giáo pháp, giới luật của Phật rất lợi ích, nhưng vốn là không, chỉ thị hiện sự thù thắng. Sự đi ở của Phật và các hạnh an trụ đều là tự nhiên; vì thương yêu chúng sinh mà giảng thuyết thành kinh điển, thấy tất cả các pháp đều là tướng bình đẳng; tướng của các tướng thì vô tướng là thứ nhất. Dùng Thánh tuệ hiển rõ thật nghĩa của các pháp, bỏ được ác tướng và các hành nghiệp của hữu tưởng, vô tưởng. Hiểu rõ các hành, thành bậc tôn quý của mọi người, tuyên thuyết vô số ức âm thanh nhân hòa; nếu tại thế thì hàng phục các người nữ của trời ma, biết được chúng hội chí chân tịch tĩnh như vầng trăng chiếu khắp thiên hạ.

Bồ-tát Kim Cang Tạng giảng các hạnh nghiệp, các Phật tử tu tập hạnh Đại thừa, thực hành huân tập mười việc hạnh nghiệp, thấy điềm lành, tâm vui mừng khôn xiết. Các bậc Thánh tuệ thượng nhân cũng đều vui vẻ ca ngợi.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10