KINH ĐẠI THỪA MẬT NGHIÊM

Hán dịch: Tam tạng Sa-môn Bất Không, chùa Đại hưng thiện
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

BÀI TỰA BẢN DỊCH MỚI KINH MẬT NGHIÊM ĐỜI ĐẠI ĐƯỜNG

Trẫm từng nghe ở phương Tây có vị Thánh nhân, diễn nói lời pháp vô ngôn, rủ lòng dạy pháp mà không dạy, bày giải quyền thật, cứu giúp kẻ mù lòa, khiến cho kẻ làm việc lành không nhanh được nhanh, lợi ích cho người, từ địa vị phàm phu, liền thành Thánh quả, hướng dẫn kẻ mê muội đến đỉnh cao tột, chỉ cho người đạt quán bằng thế giới Mật nghiêm siêu việt chẳng nhiễm tịnh, do ngã mà có thật đúng sai. Song nước Sở, nước Việt chẳng sinh ra chỉ trong tâm niệm, tức thì hiện trước mắt, đâu phải việc cá lặn chim bay.

Hay thay Mật Nghiêm! Dấu vết thì vượt khỏi ba cõi, lượng thì bao trùm pháp giới, tướng lìa dù là rất nhỏ, chẳng phải là chỗ Thanh văn nghe được, đâu phải là sắc, là có thể thấy được, vì thường giữ tâm thanh tịnh, cho nên được dặn dò giao phó. Mục đích kinh này muốn thức suối lặng yên, là hạt ngọc làm sạch nguồn ý, cuối cùng cậy nhờ đó mà sự ngay thẳng có thể có được; soi sáng cảnh sạch trong sáng suốt của tự giác, đi sâu đến chỗ cao tột của tâm, chỉ có kinh này mà thôi.

Phàm làm việc phiên dịch kinh này, là nhằm mục đích như vậy. Tuy phương ngôn có khác, mà bản chất vẫn đồng. Kinh này viết bằng tiếng Phạm toàn là kệ tụng. Trước hết, dịch giả dịch bằng văn xuôi, rắn hóa thành rồng đâu cần đổi vảy, nhà trở thành quốc gia đâu cần đổi tên họ, như vậy có lầm lẫn đâu mà cho là nặng, nhẹ, cho là cùng hay khác. Ngược lại càng thêm rõ ràng hết sức tốt đẹp.

Tam tạng Sa-môn Bất Không, ở chùa Đại hưng thiện, là bậc rường cột của thuở thượng pháp, chèo mái thuyền trong biển ái; cầm hạt ngọc giới, làm gương sáng nhập tâm; đi trên tuyết, cỡi trên mây, hiểu cùng tận chân đế của “Lộc dã.” Làm cánh buồm lướt trên biển, nghiên cứu sự sâu xa của ngài Mã Minh. Tiếng miêu tả có tám cách chuyển âm, lời lẽ hoàn mỹ cả hai bên, đủ để ta có được cái cửa mà dòm ngó, soi xét những ý nghĩa rốt ráo được phơi bày.

Chiếu theo lệnh vua, chiêu tập Sa-môn nghĩa học mau đến kinh thành, ban cho chức Hàn lâm học sĩ như Liễu, Kháng… để dịch rõ kinh này, làm kinh hộ quốc… Đối chiếu với nhiều kinh chữ Phạm, phiên âm các chữ giản tự; căn cứ vào bản chánh, y theo lời tụng, làm cho mùi các chánh bản không thay đổi, tinh hoa như trăng sáng của kinh vẫn luôn luôn đầy đủ. Như vậy, chẳng phải không đẹp sao? Chẳng phải không đẹp sao?

Lời của trẫm kém hoa mỹ, văn thì không đủ tráng lệ, nhưng chí của trẫm, thì muốn lưu hành nghĩa lý sâu xa này, truyền bá cho đến muôn đời. Vì vậy mà có bài tựa của kinh này.

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: ĐẠO TRÀNG MẬT NGHIÊM

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật với tất cả pháp tự tại vô ngại, trụ khỏi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, vô tưởng; Đức Phật dùng sức Thần túc thông du hý ở thế giới Mật nghiêm. Thế giới này chẳng phải là cảnh giới ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, đến được. Cùng với Phật là những vị tu tập thắng Du-già và những vị Đại Bồ-tát trong ức cõi Phật, nhiều như vi trần, điều có mặt.

Những vị ấy tên là Đại Bồ-tát Tồi Nhất Thiết Ngoại Đạo Dị Luận, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, Đại Bồ-tát Nhất Thiết Phật Pháp Như Thật Kiến, Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự Tại, Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế, Đại Bồ-tát Thần Thông Vương, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, Đại Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, Đại Bồtát Trì Tấn làm người đứng đầu; tất cả các vị đều vượt qua cảnh giới tâm, ý, thức của ba cõi, ứng thân theo sở nguyện, chuyển được sinh y, thành tựu Thủ-lăng-nghiêm địa Tam-muội Pháp vân như huyễn, được vô lượng chư Phật dùng tay xoa đầu, trụ ở cung Liên hoa ngoài ba cõi.

Bấy giờ, Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri từ chỗ an trú pháp lạc, trong cảnh giới Thánh trí tự giác sâu xa vi diệu, phóng ra vô lượng màu sắc; rồi từ Tam-ma-địa, rời khỏi điện Đế lôi quang diệu trang nghiêm, cùng chư Bồ-tát vào điện Vô cấu nguyệt tạng.

Đức Phật bước lên tòa Sư tử đạo tràng Mật nghiêm; ngồi yên chỗ xong xem sét bốn phương, rồi từ ánh sáng trang nghiêm giữa hai lông mày phóng ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng sạch trong, vây bủa đan nhau thành võng lưới ánh sáng. Khi ánh sáng đó chiếu đến, tướng trang nghiêm của tất cả cõi Phật, đều hiện ra rõ ràng như là một cõi Phật. Những cõi Phật khác cũng được tô điểm trang nghiêm rất tinh tế nhiều như vi trần. Thế giới Mật nghiêm vượt trội hơn các cõi Phật khác, xa lìa mặt trời, mặt trăng và các vì sao, như là tánh vô vi, không giông vi trần. Trong cõi Mật nghiêm, Đức Phật và đệ tử, cùng những vị ở thế giới khác đến hội này, đang như trong Niết-bàn, lấy hư không Phi trạch diệt tánh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi hiện những oai thần công đức tốt đẹp của Phật và Bồ-tát ở thế giới đó xong lại dùng Phật nhãn xem khắp các chúng Bồ-tát trong mười phương, rồi bảo Đại Bồ-tát Nhất Thiết Phật Pháp Như Thật Kiến:

–Này Như Thật Kiến! Thế giới gọi là Mật nghiêm này trong đó đối với cõi Dục, Sắc, Vô sắc và nơi hữu tình vô tưởng Bồ-tát dùng sức Tam-ma-địa, sinh ra lửa trí tuệ, thiêu đốt hết sạch sắc cho đến vô minh, chuyển sinh y, được thăng tỳ sở nguyện, trong sức bằng sức thần túc thông, cả toàn thân lúc này giống như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ngọc ma-ni và điện, như đế cung, san hô, hạt lợi-đa-la, vàng ròng, chiêm-bặc, khổng tước và ảnh tượng của trăng, hoa trong gương. Sắc thân như vậy, trụ ở các Địa, làm nhân tu vô lậu, nhờ Tamma-địa mà được tự tại; đem mười nguyện Vô tận hồi hướng hết, sẽ được thân thù thắng và đến được cõi Mật nghiêm.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Nhất Thiết Phật Pháp Như Thật Kiến từ chỗ ngồi đứng đậy, trịch áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, lễ Phật, chắp tay, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con có điều muốn hỏi cúi xin Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri rũ lòng thương xót, cho phép con nói.

Phật bảo Như Thật Kiến:

–Hay thay! Hay thay! Tùy theo lời ông hỏi, ta sẽ nói để làm cho tâm ông được vui lòng.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Nhất Thiết Phật Pháp Như Thật Kiến, được Đức Phật cho phép, liền bạch:

–Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có cõi Phật này là siêu việt hơn

cõi Dục, Sắc, Vô sắc và cảnh giới của hữu tình vô tưởng không?

Phật bảo:

–Này thiện nam! Từ đây trở lên, qua trăm ức cõi Phật, có các cõi Phật như Phạm âm, cõi Phật Ta-la Thọ Vương, cõi Phật Tinh Tú Vương; qua những cõi Phật như vậy, lại có vô lượng trăm ngàn cõi Phật khác rộng lớn, nguy nga, tráng lệ; là chỗ trang nghiêm của chúng hội Bồ-tát. Chư Phật trong đó, đều vì Bồ-tát, nói về pháp lạc hiện tại tự giác Thánh trí, xa lìa phân biệt, đạt được chân như thật tế, là pháp rốt ráo của cảnh giới đại Niết-bàn. Cho nên phải biết, ngoài cõi này, còn có vô lượng cõi Phật như vậy.

Này Như Thật Kiến! Trong chúng hội Bồ-tát, nơi cõi Mật nghiêm này, không phải chỉ có ông sinh tâm hạn lượng, thưa hỏi Như Lai đâu. Ở đây có Đại Bồ-tát, tên là Trì Tấn, đối với cảnh giới của Phật, đã sinh tâm hạn lượng, dùng thần thông, bay lên phương trên, vượt qua trăm ngàn câu-chi và Căng-già sa… thế giới chư Phật, như không thể thấy được cảnh của Như Lai, liền cho là điều hiếm có, biết Phật và Bồ-tát là không nghĩ bàn, đành phải trở lại thành Xá-vệ, ở thế giới Ta-bà, vội tới gặp ta, sám hối tạ tội; khen công đức của Phật là vô lượng, vô biên, giống như hư không, trụ trong cảnh tự chứng, đến cõi Mật nghiêm.

Bấy giờ, trong hội, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, là vị có khả năng diễn thuyết tướng của các Địa rất sâu sắc, vững chắc, đến tận nguồn gốc của các Địa ấy; từ chỗ ngồi, đứng dậy, trịch áo vai hữu, gối phải quỳ sát đất, đảnh lễ Phật, chắp tay, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con có ít việc muốn hỏi Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, cúi xin Thế Tôn Từ bi dạy cho con.

Phật bảo:

–Này Kim Cang Tạng! Ông muốn hỏi ta điều gì? Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ tùy theo chỗ nghi của ông mà giảng thuyết cho.

Được Phật cho phép, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật nghĩa là gì? Giác ngộ về điều gì? Cúi xin Thế Tôn giảng nói về cảnh giới thắng nghĩa, cho biết pháp tánh của Phật; để cho những vị tu hạnh Bồ-tát trong ba đời, đối với cái thấy về các sắc tướng đã tích tập và để cho các ngoại đạo dị luận còn bị dính mắc tu hành theo cảnh giới phân biệt, khởi lên những hiểu biết vụn vặt về tánh tự tại, thời, phương, hư không, ngã, ý căn, cảnh và hòa hợp; những cái thấy biết như vậy, sinh ra sự dính mắc vô minh, ái, nghiệp, nhãn sắc với nhãn, lúc đó lại duyên sắc và tác ý; những pháp như vậy, làm nhân duyên cho nhau, như đẳng vô gián duyên; tăng thượng duyên, sở duyên duyên, chúng hòa hợp sinh ra thức dính mắc vào hành, rồi sinh ra có, không… cùng đủ các loại ác giác ở trong ngã pháp, lại có những người đối với các uẩn của hữu tình, rơi vào không tánh kiến. Vì muốn cắt đứt sự hiểu biết mê lầm như vậy, cúi xin Thế Tôn chỉ cho phương pháp thoát ly tướng sở tri của năm loại thức, để có thể đối với các pháp được sự tự tại; làm cho chúng con nghe và hiểu được về nghĩa Phật, về giác ngộ đại Bồ-đề, rồi nhờ giác ngộ về tướng sở giác tri của năm loại thức mà thành Chánh giác.

Bấy giờ, Phật khen Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Hay thay! Hay thay! Kim Cang Tạng! Tự tại mười Địa có đại thông tuệ, vượt qua cảnh giới phân biệt, thường muốn hiện bày pháp tánh Phật chủng tối thắng Du kỳ; không phải chỉ có ông, đối với nghĩa Phật Bồ-đề sở giác mà sinh ý niệm hiếm có, thưa hỏi ta đâu. Đã có Hiền Huyễn và vô lượng Phật tử, đối với nghĩa này, sinh tâm hiếm có, dùng đủ các loại suy nghĩ để chọn lựa tìm cầu thể Phật.

Như Lai nghĩa là gì? Sắc là Như Lai chăng? Khác với sắc là Như Lai chăng? Như vậy, ở trong uẩn, xứ, giới và các hành, trong ngoại mà tìm cầu thì không thể thấy Như Lai; vì tất cả đều là pháp được tạo ra, nên hoại diệt; trong uẩn không có Như Lai, phân tích cho đến cực vi, đều không thấy được. Vì sao dùng diệu trí tuệ, định ý, quán đúng, cũng không thấy được? Vì uẩn là thấp hèn, nhiễm ô; còn Như Lai là Pháp thân thường trú.

–Thiện nam! Ông có thể nhập vào pháp giới sâu xa. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ông nói.

Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng yên lặng thọ giáo.

Phật nói:

–Thiện nam! Tam-ma-địa Thắng tự tại kim cang tạng. Như Lai chẳng phải uẩn, cũng chẳng phải khác uẩn; chẳng phải nương uẩn, cũng chẳng phải không nương uẩn; chẳng sinh, chẳng diệt; chẳng tri, chẳng sở tri, chẳng căn, chẳng cảnh. Vì sao? Vì uẩn, xứ, giới và căn, cảnh… đều là hữu lậu, không nên trong ngoài ở chúng mà tìm kiếm Như Lai. Vả lại, sắc là vô tri giác, không có sự nhớ suy, sinh rồi phải diệt, giống với cây, cỏ, gạch, ngói, do vi trần hợp thành, như bọt nước tụ. Còn thọ thì nhờ hai pháp hòa hợp mà sinh; giống như ý tưởng về bọt nước, áo, bình… cũng từ hai nhân duyên đó, hòa hợp mà sinh ra; như bóng nắng, do ánh sáng mặt trời chiếu xuống đất, hơi nóng bốc lên như làn sóng nước; những loài chim thú… vì quá khát, ở xa nhìn thấy, cho đó là nước thật. Tưởng cũng như vậy, không có thể tánh, giả dối, không thật, chỉ là trí phân biệt, giống như thấy tánh của mọi thể tướng khác nhau phải nhờ danh tự mới được. Định là quán sát chúng thật kỹ, ví như thỏ có sừng, Thạch nữ có con… đó chỉ có giả danh; như sắc trong mộng, chỉ vọng tưởng mà thấy, thức dậy thì chẳng có, trong mộng vô minh thấy đủ các loại hình sắc của nam nữ… khi thành Bậc Chánh Giác, thì không còn thấy cái đó. Hình như thân cây chuối, bên trong không có lõi; lìa khỏi cảnh của thân, thì không có thể tánh. Hiểu biết các việc đều như mộng ảo, trống rỗng, giả tạo, không thật. Ví như nhà ảo thuật hoặc học trò ông ta, dưa vào những loại cây, cỏ, gỗ, gạch, ngói mà bày ra các hình tượng đầy màu sắc; còn giả làm hình dạng người, voi, ngựa… với đầy đủ các loại hình tướng trang nghiêm xinh đẹp. Người ngu tham cầu cái không thật, đó chẳng phải là trí sáng. Sự hiểu biết cũng lại như vậy, dựa vào cái khác mà hoạt động, toan tính phân biệt cùng khắp, sinh ra ôm giữ hai loại là năng thủ và sở thủ. Nếu tự mình biết rõ như vậy, tức là chuyển đến chỗ diệt hết. Cho nên thể của chúng vốn không, giống với kẻ không thật.

Này Kim Cang Tạng! Như Lai là thường trụ, luôn không thay đổi, là cảnh giới tu quán hạnh niệm Phật, gọi là Như Lai tạng; giống như hư không, chẳng thể hoại diệt, gọi là cảnh giới Niết-bàn, còn gọi là pháp giới. Ba đời chư Phật Thế Tôn, đều tùy thuận theo đây mà tuyên thuyết. Như Lai ra đời hoặc không ra đời, thì tánh này vẫn thường trụ, gọi là pháp trú tánh, pháp giới tánh và Ni-dạ-ma tánh.

Này Kim Cang Tạng! Vì nghĩa gì, gọi là Ni-dạ-ma? Vì xa lìa được tất cả lỗi lầm đưa đến thân sau; lại nữa, Tam-ma-địa này, chắc chắn dứt trừ những điều ác, cho thân sau, nên gọi là Ni-dạ-ma. Nếu có người, trụ ở Tam-ma-địa này đối với các hữu tình, tâm không luyến ái, nên chứng được thật tế và Niết-bàn, thì cũng như cục sắt nóng, bỏ vào nước lạnh, xả bỏ hữu tình cũng vậy. Chư Bồ-tát xả, mà không chứng. Vì sao? Vì đại tinh tấn, đại Bi và các Độ, là các đoạn hạt giống Phật, hướng theo Thanh văn thừa, đi trên con đường ngoại đạo tà kiến? Vì bùn lầy Tam-ma-địa sẽ làm chìm mất, giống như voi già lún nơi bùn lầy; mùi vị cảnh giới định cũng lại như vậy, thoái chuyển tất cả pháp môn của Phật, thì không được nhập vào rốt ráo tuệ. Thế nên, Bồ-tát xả mà không chứng, chỉ trụ đến gần kề mà thôi; dùng rốt ráo tuệ, nhập vào Pháp thân Phật, giác ngộ được oai đưc rộng lớn của Như Lai, sẽ thành Chánh giác, chuyển bánh xe diệu pháp, thì cảnh giới của trí và các sắc sẽ là những tư dụng, nhập vào định Như Lai, vui trong cảnh giới Niết-bàn. Tất cả Như Lai làm cho thoát ra khỏi định, lần lượt gia hạnh, vượt qua Địa thứ tám, khéo léo quyết chọn đến địa Pháp vân, thọ dụng oai đức rộng lớn của Như Lai, nhập vào cảnh giới nội chứng của chư Phật, cùng với Vô công dụng đạo Tam-ma-địa tương ưng, dạo khắp mười phương, không rời chỗ cũ, mà vẫn luôn dựa vào cõi Phật Mật Nghiêm. Đầy đủ Kim cang tự tại đại biến hóa, hiện ra cõi Phật, mà thành tự tại, chuyển sinh y thành trí Tam-ma-địa và tùy nguyện thọ thân, đầy đủ Thần thông, bước đi oai đức giống như ngỗng chúa. Ví như trăng sáng, bóng hiện khắp những nơi trong nước, Phật cũng như vậy, tùy theo các hữu tình mà hiện các sắc tướng, đối với các chúng hội đều đem lại lợi ích; lại còn khiến đến cõi Phật Mật Nghiêm, tùy theo tánh muốn đó mà mở bày chỉ bảo dần dần, sẽ vì tất cả Bồ-tát, tất cả Thiên vương tự tại ở cõi Dục mà nói, sẽ làm thanh tịnh cung điện ma-ni bảo tạng, làm cho mọi nơi đều an lạc… lần lượt cho đến các Địa, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, hiện ra sự giàu có, an vui, công đức trang nghiêm cho đến tận đời vị lai, tùy theo căn cơ mà ứng hiện. Giống như các tiên thành tựu được sức Tổng trì… và các thần ở cung điện Linh tiên cùng nhân hành mà không thể thấy.

Như Lai trụ nơi chân thân, ẩn hiện biến hóa chỉ dạy đã xong mà không thể thấy, cũng như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn nói bài kệ:

Căn, uẩn như ổ rắn
Cảnh giới duyên chỗ xúc
Vô minh sinh ái, nghiệp
Huân tập trói buộc chặt
Tâm, tâm sở, ác giác
Vây trói như rồng quấn
Độc giận lại nổi lên
Như ngọn lửa bùn cháy.
Những người tu quán hạnh
Thường nên quán như vầy:
Xả bỏ các uẩn, pháp
Một lòng không biếng trễ
Như ở giữa hư không
Không cây mà có bóng
Làn gió, dấu chân chim
Muốn thấy, khó thể được
Với năng tạo, sở tạo
Trong sắc và phi sắc
Muốn tìm thấy Như Lai
Điều đó khó cũng vậy.
Chân như và thật tế.
Cùng thể tánh chư Phật
Sở hành của nội chứng
Cảnh giới không nói được
Niết-bàn gọi là Phật
Phật cũng gọi Niết-bàn
Lìa năng sở phân biệt
Làm sao mà thấy được.
Vàng vụn còn ở quặng
Trong quặng không thấy vàng
Người trí khéo nấu lọc
Vàng ròng mới hiện ra.
Phân tích nơi các sắc
Cho đến cùng cực nhỏ
Để tìm cầu các uẩn
Hoặc một hoặc tánh khác
Thể Phật không thấy được
Cũng chẳng không, có Phật.
Người định, quán Như Lai.
Ba mươi hai tướng tốt
Và các việc khổ, vui
Đều làm cho sáng tỏ.
Vì vậy không nên nói
Định Như Lai là không
Có Phật Tam-ma-địa
Phật, thiện căn, thiện xảo
Phật, Nhất Thiết Thế Thắng
Và Phật, Chánh Đẳng Giác
Năm Đức Phật như vậy
Và những biến hóa khác
Như Lai tạng, có đủ
Ba mươi hai tướng tốt.
Cho nên Phật chẳng không
Người định thường quán thấy
Vượt ra ngoài ba cõi
Vô lượng chư cõi Phật
Cõi Như Lai vi diệu
Đầy khắp Phật tử tốt
Định tuệ cùng giúp nhau
Làm thành tánh vững chắc
Vui ở cõi Mật nghiêm
Tất cả đồng tướng Phật
Siêu việt hơn sát-na
Thường đến Tam-ma-địa.
Định Thế Tôn hơn hết
Các tướng để trang nghiêm
Quán các pháp như mộng
Hiện rõ nơi các pháp
Chúng là Phật hóa thân
Từ trời Đâu-suất xuống
Phật đang trú Mật nghiêm
Thân Phật hiện nơi đó
Trụ chân mà chánh thọ
Tùy duyên sinh các tướng
Như trăng giữa hư không
Hiện rõ nơi có nước
Như bóng ngọc ma-ni
Màu sắc đều hiện rõ.
Như Lai trụ chánh định
Ảnh hiện cũng như vậy
Ví như hình với bóng
Chẳng một, cũng chẳng khác
Đấng Trượng Phu hơn vậy
Thành tựu các sự nghiệp
Chẳng hơn tánh cực vi
Lúc nào cũng tự tại
Cũng chẳng ngoài các duyên
Mà làm ra thế gian.
Như Lai dùng nhân duyên
Trang nghiêm thân mình tạo
Tùy chỗ cầu của đời
Mới thấy đều hiện rõ.
Tam-ma-địa du hý
Trong ngoài đều có hết
Núi, sông, rừng, đồng trống
Bạn bè cùng quyến thuộc
Các sao và nhật, nguyệt
Hiện hình trong gương sáng
Các thế gian như vậy
Thân này có tất cả
Như tay năm hạt cải
Rải ra khắp mọi nơi.
Phật ở định tự tại
Mâu-ni tôn quý nhất.
Không làm ra thế gian
Chỉ có Phật hóa ra.
Người ngu si vô trí
Bị ác giác trói buộc
Ôm lý lẽ có, không
Thấy ngã và phi ngã
Hoặc nói hoại hết thảy
Hay nói một phần nhỏ
Những loại người như vậy
Thường tự tại thân mình.
Phật khắp trong ba đời
Làm Đại sư quán hạnh
Xem đời như thành hờ
Làm ra các sự nghiệp
Cũng như sắc trong mộng.
Nai khát thấy bóng nắng
Cố sức làm các nghiệp
Như dây mà buộc gió
Phật dùng trí phương tiện
Tự tại mà thấy biết
Ví như người thợ giỏi
Khéo điều khiển máy móc
Như thuyền trưởng giữa biển
Tay giữ chắc lái thuyền
Vô biên tịch diệu nhất
Đấng Trượng Phu đầy đủ
Bậc lợi căn dễ chứng
Người độn căn xa lìa
Là người tu hành định
Sở y của diệu định
Người có đủ định tuệ
Rõ biết ở nơi tâm
Thể Phật thanh tịnh nhất
Chẳng có, cũng chẳng không
Xa năng giác sở giác
Và lìa nơi hạng lượng
Tâm diệu trí tương ưng
Là cảnh giới thù thắng
Các tướng vọng hiện ra
Lìa tướng là Như Lai
Thường đoạn các phiền não
Định không bị nhiễm ô
Không động và bị động
Ở trên đường vô nhiễm
Đủ các trời vi diệu
Càn-thát, A-tu-la…
Chúng tiên và ngoại đạo
Luôn ca ngợi cúng dường
Nơi kia, vui không sợ
Tâm không bị lay động
Do Du-già vốn tịnh
Cho nên vượt bờ kia
Phật hóa hiện dấu vết
Vì trời, người dạy nghiệp.
Phật chẳng hiện đây, kia
Như mặt trời, mặt trăng
Trụ nơi trí viên ứng
Lìa dục, hiện cõi người
Loài khác, các ngoại đạo
Đều tùy nghi điều phục
Đủ những loại trí, pháp
Vương luân, tứ phệ-đà
Đều là chư Như Lai
Giữ định lực mà nói
Hiện quốc vương triều hội
Và các lệnh các nước
Chốn sơn lâm tu đạo
Đều do Phật hiện hóa
Mười phương các kho báu
Sinh ra báu trong sạch
Là oai thần tự tại
Của Bậc Thiên Trung Tôn
Trí tuệ vượt ba cõi
Và các loại tài trí
Làm ra những phương tiện
Nhờ Phật mà thành tựu
Làm nhiều loại vòng hoa
Nghiệp hành đó là nhân
Vui cười những lành xảo
Giảng thuyết hiện ca vịnh.
Hoặc hiện sinh Đâu-suất
Nghiệp Thiên nữ vây quanh
Ca múa hòa vui sướng
Ngày đêm thường tập hợp
Hoặc hiện làm ma vương
Đầu đội bằng mão báu
Quản lý cả thế gian
Cho, lấy và bắt, thả
Tuy ở trong các loài
Hiện làm người trí sáng
Thường ở trong Mật nghiêm
Vắng lặng không cử động
Cảnh Đại Mâu-ni này
Phàm ngu vọng phân biệt
Như người bị đau mắt
Như nai thấy sóng nắng
Như đời xem ảo thuật
Nắm lấy điều trong mộng
Cảnh giới Thiên trung thiên
Phật tử thấy rất thật
Vì do cảnh thù thắng
Như tỉnh ra khỏi mộng
Na-la, Y-xá-phạm
San-na, Đơn diệu hỷ
Đồng tử Kiếp-tỳ-la
Các Thủ-ca, Thị Tưởng
Cảnh giới hoặc loạn kia
Không thấy chánh Du-già
Tương lai, tiên khổ hạnh
Quá khứ và hiện tại
Vì tập khí che tâm
Đều không thể biết được
Lành thay! Kim Cang Tạng!
Đi khắp trong các Địa
Lại nhờ oai thần Phật
Mà ở cõi Mật nghiêm
Kim cang tạng này đây
Thị hiện nhập đẳng trì
Cảnh giới chánh định ấy
Do đây cùng tương ưng
Nếu có vọng phân biệt
Thắng tánh cùng vi trần
Như thợ làm đồ vật
Các hình tướng khác nhau
Sinh chỉ là pháp sinh
Diệt cũng chỉ pháp diệt
Vọng chấp tất cả vật
Đều vi trần làm ra
Ví như đền soi vật
Từ nhân biết được quả
Tướng đầu không nắm bắt
Về sau hoại cũng vậy
Chẳng phải trong quá khứ
Có thể mà tìm được
Vị lai cũng như vậy
Lìa duyên không có tánh
Xa lìa các loại duyên
Khắp cầu không có thể
Không thấy tánh có, không
Cũng không thấy có không
Phân biệt ngã, vi tế
Hữu tình như cái, bình
Dòng tà hoại chánh đạo
Có ba trăm sáu mươi
Qua lại trong sinh tử
Không có pháp Niết-bàn.

Phẩm 2: NHẬP MẬT NGHIÊM SINH THÂN VI DIỆU (PHẦN 1)

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Nhất Thiết Phật Pháp Như Thật Kiến, với vô lượng oai lực, tự tại trong thế gian, đội mão báu, chuỗi ngọc trang nghiêm đầy thân; từ tòa đứng dậy, quỳ gối phải xuống đất, thưa Tôn giả Kim Cang Tạng:

–Thưa Tôn giả! Tôn giả có thể khéo léo thông đạt ba thừa ở thế gian, tâm không có sự chống trái, đang trong pháp lạc, trụ ở trí nội chứng, là bậc Thầy đại định, đối với định, được tự tại, có thể tùy thuận nói về tướng của các Địa, thường ở trong tất cả cõi Phật, diễn thuyết pháp mầu sâu xa cho các vị đứng đầu. Cho nên, nay tôi mời Ngài, nói về sự không tùy thuận hạnh khác, về cảnh giới trụ trong nội chứng, lạc thú trong hiện pháp, của các bậc Thánh, khiến cho tội và trong chúng các Đại Bồ-tát được thấy pháp ấy, để an vui tu hành, hướng tới Phật địa, để được thân do ý thành và thân do ngôn thuyết, lực thông tự tại đều được đầy đủ, chuyển hóa chỗ nương tựa, không trụ thật tế, giống như các sắc màu của ngọc Chân-đa ma-ni, hiện các sắc tượng, có thể dẫn tới các cõi cung điện của Thiên vương và trong tất cả cõi Mật nghiêm của Phật, để nói về hạnh Mật nghiêm.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói bài kệ đáp lại:

Lành thay! Chủ trời, người
Thù thắng, trong Bồ-tát
Thỉnh nói nhập Mật nghiêm
Pháp tánh của vô ngã
Nên biết cảnh phân biệt
Tướng sở thủ của tâm
Nếu xả sự phân biệt
Mới thấy đời phân biệt
Biết rõ duyên của đời
Liền được Tam-ma-địa
Nay ta sẽ nói, bày
Nhân chủ, hãy lắng nghe!
Trời nóng, thấy sóng nắng
Tướng thế gian cũng thế.
Nhân của năng sở tướng
Không mà vọng phân biệt
Năng giác sinh sở giác
Sở giác nương năng hiện
Lìa kia tức không đây
Như ảnh sáng tương tùy
Không tâm cũng không cảnh
Lượng năng, sở đều không
Chỉ nương nơi một tâm
Như vậy mà phân biệt.
Pháp năng tri, sở tri
Chỉ tâm lượng sở hữu
Tâm sở tri đã không
Năng tri không thể được
Tâm là tự tánh pháp
Có tánh bị nhiễm đục
Địa tám được thanh tịnh
Địa chín được Tĩnh lự
Giác tuệ là Địa mười
Quán đảnh, chứng Như Lai
Pháp thân được vô tận
Là cảnh giới của Phật
Rốt ráo như hư không
Tâm thức cũng như vậy.
Vô tận không thể hoại
Các đức đã trang nghiêm
Luôn là không nghĩ bàn
Chư Phật cõi Mật nghiêm
Ví như bình bị vỡ
Mảnh sành mới hiển hiện
Ngói vỡ, bụi nhỏ hiện
Chia bụi thành rất nhỏ
Nhân hữu vi như vậy
Mà thành pháp vô lậu
Như lửa đốt hết củi
Lại đốt cháy chỗ khác
Chứng như được chuyển y
Xa lìa sự phân biệt
Trụ nơi thí bất động
Hiển hiện trong Mật nghiêm.
Vô sinh hiện các sắc
Không trụ các thế gian
Thường cắt đứt các kiến
Nương về vô ngã này
Cắt dòng chảy liên tục
Không hoại cũng không sinh
Dứt hết tất cả kiến
Nương về vô ngã này
Các nghi hoặc đã diệt
Vắng lặng, không nghĩ bàn
Làm sạch tất cả kiến
Nương về vô ngã này.
Các thứ pháp thế gian
Xưa nay tánh vô ngã
Chẳng vì phá hoại không
Và dụ được hiện rõ
Như lửa đốt hết củi
Với nó liền tự tắt.
Quán sát ở ba đời
Trí vô ngã cũng vậy
Gọi là hiện pháp lạc
Cảnh giới của nội chứng
Nương đó nhập các Địa
Trừ sạch ác vô thủy
Lìa bỏ chỗ nương đời
Xuất thế mà an trụ.
Tâm ấy chuyển thanh tịnh
Luôn ở cõi Mật nghiêm.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Như Nhật Kiến và các vua… hướng về Bồtát Kim Cang Tạng cùng thưa:

–Nay chúng tôi đều muốn nương về, cúi mong Tôn giả chỉ cho chúng tôi chỗ nương về.

Lúc đó, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng dùng bài kệ, đáp lại:

Thể Phật chẳng có, không
Đã đốt cháy cây uẩn
Vượt lên chúng ma vương
Mà trụ trước Mật nghiêm
Giác ngộ tịnh, vô cấu
Chủ nhân hãy nương về
Xa lìa nơi giác lượng
Chứng được vô sở hữu
Các thiền định Mật nghiêm
Chủ nhân hãy nương về
Cõi Mật nghiêm hơn sạch
Chỗ các Thánh nương tựa
Bậc quán hạnh đầy đủ
Nên nương tựa Mật nghiêm
Hãy quán sát thế gian
Cả những nơi cao thấy
Trong mộng thấy sắc đẹp
Thạch nữ bỗng sinh con
Cũng như thành Kiền-thát
Vòng lửa, tóc giữa trời.
Như các thứ hình giả
Người, ngựa, cây, hoa, trái
Do ảo thuật biến hóa
Tất cả đều chẳng thật
Như điện chớp mây trôi
Đều giả, chẳng phải thật
Như thợ làm ra bình
Do phân biệt mà thành.
Chủ nhân, nên lắng nghe!
Các hữu tình thế gian
Tập chí luôn che tâm
Sinh đủ thứ hý luận
Mạt-na và ý thức
Và thức khác liên tục
Năm pháp và ba tánh
Với hai thứ vô ngã
Mãi cùng nhau tương ưng
Như gió thổi vào nước
Chuyển khởi các sóng thức
Sóng từng đợt không dừng
Lại-da cũng như vậy!
Các tập khí vô thủy
Giống như mặt nước ấy
Gió cảnh mà động vào
Khởi lên các sóng thức
Không lúc nào dứt sạch
Tám thứ tâm luân chuyển
Tuy không có thể tánh
Mà tùy duyên liền khởi
Hoặc có khi sinh chậm
Thủ cảnh cũng như vậy
Mau, chậm, có sai biệt
Tâm chuyển nơi nhà cửa
Nhật nguyệt và tinh tú
Cây, nhành, lá, hoa, quả
Núi rừng với chúng quân
Ở những chỗ như vậy
Đều hay sinh mau chậm
Phần nhiều hay hiện mau
Hoặc chậm khởi, sai biệt
Hoặc khi ở trong mộng
Thấy cảnh xưa đã gặp
Và tưởng niệm mới sinh
Cho đến lúc già chết.
Toán số với các vật
Suy tầm nghĩa các câu
Quán nơi nào văn hay
Thọ việc ăn uống ngon
Với cảnh giới như vậy
Dần dần sẽ hiểu rõ
Hoặc có lúc sinh mau
Mà hay giữ lại được
Tâm tánh vốn thanh tịnh
Nghĩ bàn không thể được
Là diệu tạng Như Lai
Như vàng ở trong quặng
Ý sinh từ tạng thức
Sáu thức khác cũng vậy
Thức sáu loại, phần nhiều
Sai biệt nơi ba cõi
Lại-da với năng huân
Và các tâm pháp khác
Các chủng tử nhiễm tịnh
Đồng trụ mà không nhiễm
Chủng tánh Phật cũng vậy.
Định, chẳng định, thường định
Như nước biển luôn vậy
Sóng, triều làm chuyển dời
A-lại-da cũng vậy
Tùy các Địa sai biệt
Tu có thấp, vừa, cao
Bỏ nhiễm là sáng tỏ
Kim Cang Tạng lại nói:
Như Bồ-tát Thật Kiến
Bậc thấy nghe giác ngộ
Tự tánh tuệ như thật
Mười phương các cõi nước
Các vua, dân trong hội
Ngươi đã nghe ta nói
Tùy theo đó rộng nói
Nếu ai nghe pháp xong
Tịnh gần A-lại-da
Hoặc làm vua loài người
Hoặc chuyển luân thiên hạ.
Hoặc lại làm Đế Thích
Đâu-suất, Tô-diệm-ma
Cho đến cung Hóa lạc
Tự tại chủ cõi Dục
Hoặc sinh ở cõi Sắc
Hay sinh trời Vô sắc
Trong hữu tình vô tưởng
Tĩnh lự thọ an lạc
Chứng chân mà không trụ
Giống như Sư tử rống.
Với các định tự tại
Nhờ tương ưng pháp vui
Một lòng cầu Mật nghiêm
Không dính mắc ba cõi
Đã đến được Mật nghiêm
Dần dần được giác ngộ
Nương chuyển được an lạc
Luôn an trụ vắng lặng
Vô lượng các Phật tử
Vây quanh để trang nghiêm.
Là Pháp vương tự tại
Tối thượng ở trong chúng
Chẳng như ngoại đạo nói
Hoại diệt là Niết-bàn
Hoặc đồng với hữu vi
Có, không lại tạo lỗi
Mười nghiệp cao, vừa, thấp
Ba thừa mới sinh ra
Tối thượng sinh Mật nghiêm
Từng Địa được thăng tiến
Được trí tuệ giải thoát
Thân Như Lai vi diệu.
Vì sao nói Niết-bàn
Đó là pháp hoại diệt
Nếu Niết-bàn hoại diệt
Hữu tình có kết thúc
Nếu hữu tình kết thúc
Cũng phải có khởi đầu
Phải có pháp chẳng sinh
Ban đầu tạo hữu tình
Không có phi hữu tình
Mà sinh cõi hữu tình
Cõi hữu tình đã tận
Phật không pháp sở tri
Tức là không năng giác
Cũng chẳng có Niết-bàn!
Người vọng chấp giải thoát
Mà nói về giải thoát
Như củi hết, lửa tắt!
Cũng như thân cây chuối
Họ nói tánh giải thoát
Là hoại có thành không.
Với diệu lạc giải thoát
Xa lìa không thể chứng
Biến xứ và tĩnh lự
Định vô sắc, vô tưởng
Nghịch thuận mà vào ra
Lực, thông đều tự tại
Với họ không lui lại
Cũng không mãi chìm đắm
Thấu đạt nơi pháp tướng
Khéo léo được các Địa
Nếu trang nghiêm như vậy
Sẽ đến cõi Mật nghiêm.
Nếu nói tánh giải thoát
Hoại có để thành không
Người ấy trụ các hữu
Rốt ráo không ra khỏi
Đã hoại ba hòa hợp
Nhân và bốn thứ duyên
Nhãn sắc duyên trong ngoài
Hòa hợp mới sinh thức
Pháp thế gian trong ngoài
Giúp nhau mới cùng sinh
Các thứ nghĩa như vậy
Tất cả đều trái ngược
Nếu biết chỉ thức hiện
Lìa nơi tâm có được
Phân biệt không hiện tiền
Cũng không trụ tánh ấy
Bấy giờ, lìa sở duyên
Tâm lặng yên chánh thọ
Vất bỏ sự thế gian
Thấy sở thủ, năng thủ
Lìa nương chuyển thô trọng
Trí tuệ chẳng nghĩ bàn
Thân mười loại ý thành
Trang nghiêm các tướng đẹp
Làm vị chủ ba cõi
Mới sinh nơi Mật nghiêm.
Sắc, tâm và tâm sở
Đã tương ưng vô vi
Với trong ngoài thế gian
Quán kỹ không sai khác
Các người trí như vậy
Đi vào nước Mật nghiêm
Danh tướng và phân biệt
Chánh trí và như như
Tam-ma-địa, Mâu-ni
Thể tánh đều bình đẳng
Phải nên đến Mật nghiêm
Cõi được Phật khen ngợi
Nếu hoại ba hòa hợp
Cùng với bốn thứ duyên
Không kiên cố tự tông
Đồng các vọng phân biệt
Kẻ tập ác phân biệt
Năm thứ luận của họ
Thí dụ không thành lập
Các nghĩa đều chống trái
Năm luận đều thành lỗi.
Mắt hoặc loạn giác trí
Chấp dụ và tợ dụ
Điên đảo, không điên đảo.
Chấp hư vọng như vậy
Tất cả hủy hoại này
Xa lìa nơi tự tông
Nương vào tông pháp người
Các kiến lúc ban đầu
Đều trừ hoại diệt sinh.
Đại vương phải nên biết
Hữu tình ở ba cõi
Như bánh xe quay lăn
Không thể có khởi đầu
Như Lai dùng bình đẳng nguyện
Cứu độ các hữu tình
Như trăng rằm chiếu sáng
Không chỗ nào không có
Tùy loại nghiệp trước kia
Ứng cơ mà thuyết pháp
Nếu hủy hoại Niết-bàn
Với Phật đâu ích lợi!
Có ba loại tăng thượng
Giải thoát cũng như vậy
Bốn Đế và Thần túc
Niệm xứ vô ngại giả
Bốn duyên, vô sắc trụ
Căn lực và Thần thông
Giác chi và các Địa
Pháp hữu vi, vô vi
Cho đến các Thánh nhân
Đều nương thức, mà có
Trí khổ pháp nhẫn pháp
Trí khổ loại nhẫn loại
Bốn tập trí cũng vậy
Diệt đạo cũng như thế
Như vậy mười sáu loại
Đó gọi là Hiện quán
Số người học có mười
Thức tám, bảy ngược lại
Mỗi nhà một lần lại
Một phen mà diệt độ
Trung bát và sinh bát
Hữu hành và vô hành
Thượng lưu là nơi nơi
Sau đó Bát-niết-bàn
Như vậy tất cả loại
Phẩm vị của các trí
Người tu hành quán hạnh
Cao, vừa, thấp không đồng
Bồ-tát tu tăng thượng
Công đức rất thù thắng
Mười một và mười hai
Cùng với mười sáu thứ
Các người tu định này
Lại diệt dần nơi tâm
Chấm dứt, chẳng phải tâm
Cũng chẳng cùng tâm trụ
Tâm vị lai chưa đến
Chưa đến nên chẳng có
Tâm duyên không hòa hợp
Chẳng sinh đây, sinh kia
Thiền thứ bốn, vô tâm
Có nhân không thể hại
Có nhân là có thức
Ý thức và năm thứ
Vọng tưởng không hay biết
Lưu chuyển như sóng dồn
Định ấy quan Lại-da
Lìa phân biệt năng sở
Vi diệu không sở hữu
Chuyển y mà không hoại
Trụ cõi Phật Mật Nghiêm
Hiện rõ như mặt trăng
Các bậc Trí Mật nghiêm
Thường chung sống với Phật
Mãi rong chơi cảnh định
Một vị không sai biệt
Cảnh quán hạnh khó nghĩ
Đã sinh ra định lực
Vua nên thường tu tập
Tương ưng định vi diệu
Dục giới có sáu trời
Phạm ma có mười hai
Vô sắc và Vô tưởng
Trong tất cả các Địa
Nếu sinh cõi Mật nghiêm
Làm Thiên chủ các cõi
Muốn cầu cõi Mật nghiêm
Nên tu mười thứ trí
Pháp trí và loại trí
Trí thế tục tha tâm
Trí Khổ, Tập, Diệt, Đạo
Trí tận, trí vô sinh
Chủ nhân chỗ ngươi sinh
Xả thân tộc Đát-la
Nguyệt vương và Cam Giá
Chủng tánh đều bình đẳng
Tuy ở trong các tộc
Họ ngươi rất thù thắng
Nên cầu cõi Mật nghiêm
Đừng hoài nghi thối tâm
Như dê bị dắt đi
Lo sợ mà bước tới!
Mạt-na ở trong thân
Giống nai giả đang đứng
Cũng như ảnh cây giả
Lau sậy trong dòng nước
Như vua dạo ngự uyển
Để vận động thân thể!
Ý cùng với ý thức
Tâm cùng với tâm pháp
Pháp ấy không tự tánh
Như mây tụ chẳng thật
Hết thảy thứ tạng thức
Bị tập khí ngăn che
Như hạt ngọc Ma-ni
Tùy duyên hiện đủ màu
Tuy trong thân hữu tình
Như ngỗng chúa, không nhơ
Quyết định là chủng tánh
Cũng là đại Niết-bàn
Danh theo tướng mà sinh
Tương do nhân duyên khởi
Bởi có các hình tướng
Nên khởi các phân biệt
Phân biệt do hai nhân
Tâm tập khí tướng ngoài
Thức Mạt-na thức bảy
Nên biết cũng như vậy
Các căn duyên hội ý
Pháp sinh ra năm thức
Cùng tâm sở tương ưng
Trong thân như cung điện
Chánh trí luôn quán sát
Tất cả cả các thế gian
Từ nhân duyên như vậy
Mà sinh các quả đó
Chân như chẳng khác nó
Các pháp hỗ tương sinh
Tâm cùng lý tương ưng
Quán thấy rất rõ ràng
Đó chính là các pháp
Tánh viên thành rốt ráo
Cũng là vọng chấp thôi
Tất cả pháp không sinh
Tánh các pháp thường không
Chẳng không, cũng chẳng có
Như huyễn và như mộng
Như thành Càn-thát-bà
Bóng nắng và xe lông
Khói mây và các vật
Tất cả các hình tướng
Danh cứu và văn thân
Dính mắc sinh như vậy
Thành ra tánh Biến kế
Căn, cảnh, ý hòa hợp
Huân tập thành hạt giống
Với tâm không có khác
Các thức do đó sinh
Nhờ sức nương với nhau
Gọi là Y tha khởi
Khéo chứng trí tự giác
Hiện trú nơi pháp lạc
Đó gọi là viên thành
Là cảnh giới của Thánh
Phật và các đệ tử
Chứng được gọi Thánh nhân
Nếu ai chứng pháp này
Liền thấy được thực tế
Bảo rằng: “Sinh đã tận
Phạm hạnh cũng đã lập
Việc làm đã thành tựu
Không còn tái sinh nữa.”
Giải thoát tất cả khổ
Đoạn diệt sự lay động
Cháy sạch sự huân tập
Kiếp tận vẫn không dời
Hai vô ngã: Sinh, pháp
Chiếu kiến thảy đều không
Tích tập từ vô thủy
Tất cả các hý luận
Vô biên các lỗi lầm
Tất cả đã đoạn trừ
Thí như cục sắt nóng
Hết nóng, sắt như cũ
Như vậy, người giải thoát
Hết mê, được mát mẻ
Nhập vào cõi vô lậu
Cõi Mật nghiêm vi diệu
Cõi ấy rất mầu nhiệm
Không có nơi nào bằng
Chỉ Phật với Bồ-tát
Thanh tịnh được ở đó
Trước mắt Tam-ma-địa
Lấy đó làm món ăn
Muốn sinh về cảnh đó
Khéo tập Thắng Du-già
Vì các người có duyên
Rộng khai thị phân biệt
Danh vốn từ tướng sinh
Tướng lại từ duyên khởi
Từ tướng sinh phân biệt
Không đủ tánh viên thành
Căn cảnh bình y đẳng
Pháp giả cùng hòa hợp
Từ đó sinh phân biệt
Hiểu rõ thấy sai khác
Hoặc động hoặc chẳng động
Tất cả các thế gian
Đều do si ám sinh
Ngu tối cho là thể
Ngắn, dài với các sắc
Âm thanh và hương giới
Ngọt, đắng, cứng và trơn
Ý thức cùng sở duyên
Chỗ của các tốt xấu
Pháp hữu vi, vô vi
Cho đến với Niết-bàn
Đó là cảnh của trí
Chuyển đổi trong từng niệm
Đều do thức sinh ra
Mạt-na duyên tạng thức
Như nam châm hút sắt
Như rắn có hai đầu
Nó đều có nghiệp riêng
Ý nhiễm cũng như vậy
Ôm giữ A-lại-da
Hay làm sự nghiệp ngã
Tăng trưởng nơi ngã sở
Cùng ý thức câu khởi
Làm nhân mà chuyển lui
Sinh noãn xúc nơi thân
Vận động tạo các nghiệp
Ẩm thực và y phục
Tùy vật mà thọ dụng
Bay nhảy hoặc ca múa
Các thứ để vui chơi
Giữ thân các hữu tình
Đều do sức của ý
Như vòng lửa trên đầu
Thành của Càn-thát-bà
Không rõ, chỉ tự tâm
Vọng khởi các phân biệt
Thân tướng: Khí thế gian
Như sức động cây đu
Không lực, không kiên cố
Phân biệt cũng như vậy.
Phân biệt không chỗ nương
Chỉ làm theo tự cảnh
Ví như ảnh trong gương
Chủng thức động mới thấy
Kẻ ngu mê hoặc nó
Chẳng phải người trí sáng
Nhân chủ phải nên biết
Cả ba đều thức hiện
Nơi đó nếu xa lìa
Tức đúng là thành thật
Trì tấn các Bồ-tát
Và Thánh Mục-kiền-liên
Theo tiếng và quán khắp
Trăm ngàn vạn ức cõi
Đủ các báu trang sức
Tráng lệ không đâu bằng
Với cảnh vi diệu ấy
Mật nghiêm rất thù thắng
Cõi Cực lạc, Diệu hỷ
Câu-đê cõi phương dưới
Tất cả các Thế Tôn
Đều khen cõi như vậy
Rằng không có đầu, cuối
Oai đức tự nhiên hóa
Thuở xưa Phật ở đó
Vượt ra khỏi ba cõi
Không chấp thọ giàu vui
Tự vô vi vắng lặng
Lợi mình và lợi người
Công nghiệp đều thành mãn
Không ở trong Dục giới
Thành Phật, làm Phật sự
Cần đến cõi Mật nghiêm
Chứng ngộ Vô thượng giác
Câu-đê các Thế Tôn
Trong muốn làm Phật sự
Trước ở trong nước này
Hóa làm vô lượng ức
Thường tương ưng chánh định.
Thần thông và du hý
Biến khắp các cõi nước
Như trăng sáng nơi nơi
Tùy các loại chúng sinh
Mong cầu mà hóa độ
Hàng Hoa nghiêm, Thập địa…
Cây lớn và Thần thông
Thắng-man và các kinh
Đều từ kinh này ra
Như vậy kinh Mật Nghiêm
Vượt trên tất cả kinh
Chủ nhân và các vua
Phải hết lòng cung kính
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc
Các cõi trời Vô tưởng
Như Lai đều không ở
Chỉ trụ cõi Mật nghiêm
Các cung điện cõi này
Như son để trang sức.
Tất cả các Như Lai
Bậc Diệu tướng tịnh trí
Phật và các Bồ-tát
Thường sống ở trong đó
Thế Tôn mãi trụ thiền
Vắng lặng tối vô thượng
Tự nương định khó nghĩ
Hiện ra các sắc đẹp
Sắc tướng không có biên
Không ai có thể thấy
Nước Cực lạc trang nghiêm,
Thế Tôn Vô Lượng Thọ
Các hành giả tu quán
Sắc tướng đều như vậy.
Hoặc thấy được Đức Phật
Sáng ngời các sắc đẹp
Chiêm-bặc, thư hoàng sắc
Vàng ròng ánh mặt trăng
Khổng tước, cổ như sen
Tụ của Tương Tư Tử
Chớp hồng, sắc san hô
Hoặc hiện thân yếu ốm
Hoặc mặc áo sô ma
Hoặc ngủ trong nhà tranh
Hoặc ở trên hoa sen
Giống như ngàn mặt trời
Hoặc thấy các Bồ-tát
Buối tóc như rồng cuốn
Báu Kim cang đế thanh
Trang nghiêm làm mão quý
Hoặc thấy vẻ cờ tròn
Các tướng ngư, thương, khư
Hoặc thấy sắc sáng đẹp
Như cầu vòng trên trời
Hoặc lấy núi Tu-di
Đặt trong lòng bày tay
Hoặc lấy nước biển cả
Đổ trong lỗ tai trâu
Hoặc hiện làm vị vua
Đội mão, đứng lan can
Các phụ tá cung kính
Cùng bàn việc trị dân
Hoặc tại Mật nghiêm tràng
Người tu định vắng lặng
Nói về cảnh tự chứng
Pháp sở tri của Phật
Hoặc nói được chuyển y
Tâm tuệ đều giải thoát
Tự tại Tam-ma-địa
Thân vô ngại như huyễn
Hoặc hiện cảnh vô nhiễm
Đoạn các dính mắc nghiệp
Lấy trí đốt “củi kiến”
Không thọ nơi các hữu
Ví như tim dầu hết
Đèn tắt là Niết-bàn
Hoặc hiện tu các Độ
Thí vô giá đại hội
Trì giới và khổ hạnh
Đủ các thức nghi tắc
Cõi Cực lạc trang nghiêm
Người không sinh bào thai
Thân sắc vàng vi diệu
Ánh sáng tịnh, tròn đầy
Cảnh giới những vị ấy
Đều đầy đủ Du-già
Nếu so với Mật nghiêm
Trăm phần không bằng một
Người trong cõi Cực lạc
Tự nhiên tùy niệm thực
Bậc Mâu-ni tự tại
Định là vị cam lộ
Đủ các rừng cây báu
Vui chơi nghỉ dưới đó
Cát vàng trải mặt đất
Hiện rõ cõi tuyệt đẹp
Sen báu thật sạch đẹp
Nở trên nước công đức
Cảnh tuyệt đẹp như vậy
Không thể ví dụ được
Đều do hoa sen sinh
Cung kính Vô Lượng Thọ
Khéo tu Tam-ma-địa
Ưa thích công đức Phật
Người chuyên tâm hồi hướng
Đều sinh về nước ấy
Các tướng tốt trang nghiêm
Như gương sáng không bụi
Kim Cang Tạng nói xong
Tự hiện nơi thân hình
Hoặc như một lóng tay
Hoặc như một hạt cải
Hoặc nhỏ như sợi tóc
Chỉ bằng một phần trăm
Hoặc hiện thân Thiện Thệ
Thanh văn và Duyên giác
Các sắc và các loại
Cho đến đủ thứ hình
Tùy theo điều họ nói
Mà tuyên thuyết các pháp
Hoặc nói về Bồ-tát
Nhập các Địa đã biết
Năm pháp, ba tự tánh
Tám thức, hai vô ngã
Đạt được định như huyễn
Tùy ý thân được thành
Các Thần thông tự tại
Mười Lực, bốn Vô úy
Trụ nơi không thoái chuyển
Được sở y thanh tịnh
Nhập vào trong Phật địa
Uẩn, giới của vô lậu
Mãi xa lìa biến đổi
Lặng yên mà thường trụ
Hoặc nói về Bồ-tát
Khéo đẹp mà lại vui
Như mộng, trăng dưới nước,
Bậc hành đạo Du-già
Được định Thủ-lăng-nghiêm,
Mười thứ thân như huyễn
Trọn mười Vô tận nguyện
Chứng thành Đẳng chánh giác
Ngồi tòa hoa sen đẹp
Tướng tốt thật trang nghiêm
Vô lượng các Phật tử
Cung kính mà vây quanh
Hoặc nói các Bồ-tát
Nguyện lực hiện các hình
Dạo khắp cả mười phương
Phụng sự hằng sa Phật
Các vị Bồ-tát này
Thân thể đều vi diệu
Ra vào luôn tự tại
Không trụ trong hữu, vô
Ví như Trời, Thần, Tiên
Và các Kiền-đạt-phược
Trụ trên núi Diệu cao
Hoặc ở trong hư không
Các hữu tình trên đất
Đối diện mà không thấy
Các Bồ-tát như vậy
Hiện hình cũng như thế
Người không tu quán hạnh
Thì không thể thấy được
Hoặc nói các Bồ-tát
Được Tĩnh lự thù thắng
Hiện thọ sinh mọi chỗ
Hiện nhập cõi vô dư
Hoặc nói các Bồ-tát
Có thể dùng định lực
Tự tại chuyển sở y
Không trụ chân thật tế
Vô lượng cõi hữu tình
Tùy sai biệt hiện thân
Thân tuy có sai khác
Mà tâm vẫn bình đẳng
Giống như nước trên đất
Cũng như với trời, trăng
Hoặc nói các Bồ-tát
Thường dùng tâm đại Bi
Xót thương các hữu tình
Xoay tròn trong sinh tử
Lang thang bị cùng khốn
Vì bệnh tham, khổ đốt
Thấp hèn và tàn tật
An ủi khỏi sầu lo
Như con ong trên thuyền
Phiêu lưu trong biển cả
Ngược dòng mà qua lại
Phút chốc mấy vạn dặm
Nói cho pháp phi ngã
Sinh tử, nhanh, vô thường
Khiến họ biết hoại diệt
Chẳng dừng trong sát-na.
Hoặc nói về chư Phật
Cùng với các Bồ-tát
Thấy rõ các hữu tình
Say trong biển khát ái
Khổ, phân biệt, bức bách
Ở trong pháp Vô tướng
Vọng chấp đủ thứ tướng
Chấp trước Năng sở thủ
Tâm luôn bị trói buộc
Không thể được giải thoát
Chìm trong biển sinh tử
Phiêu lưu không dừng nghĩ
Nghèo hèn và cô đơn
Không chỗ nào nương tựa
Ví như trong biển cả
Nhện, sâu, khó tránh lưới
Chư Phật và Bồ-tát
Như người ở trên thuyền
Thương các loại hữu tình
Cứu thoát nạn sinh tử
Tùy theo loại chúng sinh
Mà hiện thân sai biệt
Thuyết thí, giới các môn
Vô số các thắng hạnh.

KINH ĐẠI THỪA MẬT NGHIÊM

QUYỂN TRUNG

Phẩm 2: NHẬP MẬT NGHIÊM SINH THÂN VI DIỆU (Phần 2)

Bấy giờ, trong đại hội, có Đại Bồ-tát Phổ Hiền Chứng Sắc Đại Oai Đức, cùng với các chúng Đại Bồ-tát như Đại Bồ-tát Trì Thế, Đại Bồ-tát Trì Tấn, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi, Đại Bồ-tát Thần Thông Vương, Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế, Đại Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, Đại Bồ-tát Kim Cang Tề, Đại Bồ-tát Đại Thọ Khẩn-na-la Thọ Vương, Đại Bồ-tát Hư Không Tạng… cho đến vô lượng chư Thiên ở tại Đại bảo tạng điện Ma-ni.

Lại còn có các chúng Du-kỳ ở trong cõi Mật nghiêm, cùng các vị ở vô lượng câu-đê cõi Phật, đến để nghe pháp. Được nghe công đức sâu dày của Mật nghiêm, tất cả liền đối với pháp rất cung kính, nhất định sẽ được chuyển y, mãi ở trong cõi nước ấy, không còn sinh ở chỗ khác nữa; tất cả đều đem lòng Từ bi thương xót tất cả hữu tình trong đời vị lai, tung rải lòng Từ bình đẳng để làm lợi ích cho tất cả. Họ cùng nhau chiêm ngưỡng Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, một lòng, đồng thanh dùng kệ hỏi:

Tôn giả đủ biện tài
Xin ngài hãy chỉ bày
Các sắc tượng thế gian
Là do ai làm ra?
Như người thợ làm bình
Nhồi bùn mà nặn ra
Ví như người chơi nhạc
Kích động thành ra tiếng
Thí như một vật thể
Có ba thứ tự tánh
Đã, đang và sẽ thành
Đều ở một vật thể
Vì sao đủ loại sắc?
Một vật được tạo ra
Do Đâu-suất làm ra
Hay là trời Dạ-ma
Hay Tha hóa tự tại
Đại Thọ Khẩn-na-la
Hay là trời Thiện kiến
Là trời Sắc cứu cánh
Phạm vương Loa Kế làm
Hay trời Vô sắc làm
Tất cả Thiên chủ làm
Hay tự nhiên mà làm
Tay biến hóa mà có
Hay do chư Phật tạo?
Trong các thế giới khác
Phật tử đã tạo ra?
Những người tạo các sắc
Do hoặc, loạn tạo ra
Các hoặc loạn đã khởi
Như nai thấy sóng nắng
Ví như chỗ cái bình
Đức là chỗ nương tựa
Tất cả các thế gian
Người hay trụ nơi đó
Cái phi đức, thuộc đức
Phi đức, nương nơi đức
Nên dần dần hòa hợp
Các đức được tập thành
Sắc chỉ từ hoặc, loạn
Là cũng có trụ sao?
Là Phạm vương tạo ra
Hay Na-la-diên tạo?
Hùng mãnh và thắng luận
Hay số luận tự làm?
Thắng tánh đã làm ra
Tự tại tự nhiên sao?
Khi vô minh đã sinh
Nghiệp ái tạo ra chăng?
Thiên tiên và thế định
Đều ôm lòng nghi hoặc
Trước đã không có thật
Giống như ở trong mộng
Cũng như nóng phát lửa
Và thành Càn-thát-bà
Vô thủy vọng phân biệt
Tùy theo đó liên tục
Khởi ra năng hay sở
Như rắn có hai đầu
Cũng như tử thi đi
Người gỗ máy chuyển động
Trong không thấy tóc rũ
Và vòng lửa xoay quanh.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, bảo Đại Bồ-tát Phổ Hiền Chúng Sắc Đại Oai Đức và đại chúng, bằng bài kệ:
Các sắc tượng thế gian
Không sinh từ tác giả
Chẳng phải Kiếp-tỳ-la
Hay Nhân-đà-la làm.
Cũng chẳng do cúng tế
Chẳng phải Vi-đà giáo
Chúng do nhiều nhân duyên
Tu hành thường không trụ
Cũng lại chẳng không, có
Hãy giữ nhân thế gian
Là trượng phu thứ tám
Gọi đó là tạng thức
Do đó, thành các sắc
Như các hình xoay chuyển
Như dầu do mè làm
Trong muối có vị mặn
Như vô thường sắc khắp
Trượng phu biết cũng vậy.
Như hương trong trầm, xạ,
Và ánh sáng trời trăng
Xa lìa năng, sở tác
Cùng với hữu, vô tông
Cũng xa lìa một, khác
Tất cả lỗi ngoại đạo
Người trí chẳng tìm cầu
Phân biệt không thể được
Người định tâm giải thoát
Sở chứng của tự giác
Nếu lìa A-lại-da
Liền không có thức khác
Giống như sóng trên biển
Với biển sóng không khác
Biển yên đâu thấy sóng
Cũng không thể nói một
Ví như người tu định
Nội định, tâm thanh tịnh
Người thần thông tự tại
Có các thứ thông tuệ
Người quán hạnh hay thấy
Người khác chẳng biết được
Thức lưu chuyển như vậy
Nương tạng thức mà trụ.
Phật và các đệ tử
Nhờ định, thường quán thấy
Tạng thức giữ thế gian
Như lấy chỉ xâu ngọc
Như bánh hợp với xe
Bị gió nghiệp chuyển động.
Thợ gốm dùng bánh xe
Theo ý thành đồ dùng.
Tạng thức cùng các cõi
Cộng sức thành tất cả
Các thế gian trong ngoài
Cung cấp đều cùng khắp
Giống như các ngôi sao
Phơi bày trên hư không
Do sức gió chủ trì
Vận hành không dừng nghĩ
Như dấu chim trên trời
Không bao giờ thấy được
Nếu lìa khỏi hư không
Chim không thể bay được.
Tạng thức cũng như vậy
Không lìa thân ta, người
Như biển nổi sóng cả
Hư không chứa vạn vật
Thức trượng phu cũng vậy
Uẩn tạng các tập khí
Ví như trăng trong nước
Cùng với các hoa sen
Không thể trộn trong nước
Nhưng lại không dính nước.
Tạng thức cũng như vậy
Tạp khí không thể nhiễm
Như mắt có đồng tử
Riêng mắt không tự thấy
Lại-da ở trong thân
Nhiếp chứa các hạt giống.
Giữ các thọ, noãn, thức
Như mây che thế gian
Nghiệp dụng không hề dừng
Hữu tình không thể thấy
Thân do các sắc thành
Lại hay tạo các sắc
Như thợ gốm tự động
Dùng bùn nặn các vật
Thế gian vọng phân biệt
Thấy con trâu… có sừng
Không rõ sừng chẳng có
Nên nói thỏ không sừng
Phân tích đến rất nhỏ
Tìm sừng, không chỗ có.
Cố đợi cho có pháp
Mới khởi sự không thấy
Pháp có vốn tự không
Không thấy, đâu cần đợi.
Pháp hoặc có, hoặc không
Nhân dần dần hỗ tương
Trong hai pháp có, không
Không nên khởi phân biệt
Nếu lìa khỏi sở giác
Năng giác liền không sinh
Ví như xoay vòng lửa
Che lấp Càn thành giả
Đều do ít sở kiến
Mà sinh các giác này.
Nếu lìa khỏi sở nhân
Giác ấy, liền không có
Danh, tướng trói buộc nhau
Tập khí không ngằn mé
Tất cả các phân biệt
Câu khởi cùng với ý
Nên hữu tình lưu chuyển
Không chứng được viên thành
Tích tập từ vô thủy
Đắm chìm trong cảnh vọng
Vì huân tập hý luận
Sinh ra đủ thứ tâm
Năng thủ và sở thủ
Tự tánh tâm hữu tình
Bình, y phục, các tướng
Thật thấy không thể nghe
Tất cả chỉ có giác
Nghĩa sở giác đều không
Tánh năng giác, sở giác
Tự nhiên chuyển như vậy
Kẻ ngu không đoạn trừ
Tạp khí, tâm mê hoặc
Lại-da và bảy thức
Có lúc lại sinh vội
Giống như biển nổi sóng
Do gió tác động vào
Sóng từng đợt lên xuống
Không bao giờ chấm dứt.
Sóng thức cũng như vậy
Gió kích động cảnh giới
Vô số các phân biệt
Tự ôm giữ bên trong.
Như đất không phân biệt
Vạn vật nhờ đó sinh
Tạng thức cũng như vật
Chỗ các cảnh nương tựa
Như người dùng tay mình
Lại đánh vào thân mình.
Cũng như voi lấy vòi
Hút nước tắm thân nó
Lại như các đứa bé
Dùng miệng ngậm tay mình
Đó là thức phân biệt
Lại tự duyên hiện cảnh
Cảnh giới của tâm này
Biến khắp cả ba cõi
Người tu quán hạnh lâu
Có thể khéo thông đạt
Trong ngoài các thế gian
Tất cả chỉ tâm hiện.
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Nói diệu pháp này xong
Đứng lặng yên một chỗ
Suy nghĩ về pháp giới
Định vi diệu phổ biến
Nhập vào các cảnh Phật
Thấy vô lượng Phật tử
Đang tụ tại Mật nghiêm
Liền ra khỏi thiền định
Phóng ánh sáng chiếu khắp
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc
Cùng cung trời Vô tưởng
Trong ánh sáng như vậy
Lại hiện các cõi Phật
Đều thấy vô lượng Phật
Tướng tốt đẹp, đoan nghiêm
Đủ các sắc vi diệu
Từ thân Phật phóng ra
Tùy theo sự ái lạc
Lợi ích cho thế gian
Khiến các Phật tử ấy
Khen ngợi tên Mật nghiêm
Vui mừng ngắm nhìn nhau
Lại nói lời như vầy:
Mật nghiêm đẹp không dơ
Có thể trừ các tội
Chỗ hành giả quán thắng
Cõi ấy rất diệu kỳ
Chúng tôi nghe tên gọi
Trong lòng rất vui sướng.
Họ từ chỗ đang ở
Đều đi đến Mật nghiêm.
Phạm Loa Kế, sắc tận
Cùng với trời Tịnh cư
Hâm mộ cõi Mật nghiêm
Chỗ Phật tử sinh đến
Đồng tâm tụ hội lại
Đều thưa với Phạm vương:
Chúng tôi làm thế nào
Được đến cõi Mật nghiêm
Nếu thiên vương đến đó
Chúng tôi sẽ đi theo.
Bấy giờ, Phạm Loa Kế
Nghe các chúng trời nói
Liền đi đến vói họ
Nữa đường quên đường đi!
Phạm vương trước giác ngộ
Dùng kệ quán sát kỹ
Cảnh thắng quán hạnh ấy
Hạnh nào mới đến được?
Kẻ dục, sắc, tự tại
Thì không thể đến được
Chẳng phải không, thức xứ
Chẳng phải phi phi tưởng
Chẳng phải các ngoại đạo
Tà định… mà đến được
Khéo léo làm cách nào
Đến được cõi Mật nghiêm?
Hoặc nhờ Thiên trung thiên
Sức oai thần gia hộ
Mới khiến được tới nơi
Tại hội cung Mật nghiêm.
Phạm Loa Kế phát tiếng
Mọi người đều vâng theo
Thấy Phật đầy hư không
Với oai quang rực sáng
Bảo Phạm vương ấy rằng:
Ngươi về cung điện mình
Cõi Mật nghiêm Như Lai
Là cảnh của quán hạnh
Phi tưởng còn khó lên
Cõi Sắc làm sao đến?
Phạm vương từ chỗ Phật
Nghe bảo vậy xong
Liền trở về nước mình
Tìm đến cung Phạm thiên
Lúc các trời Tịnh cư
Đang cùng nhau bàn luận:
Phạm Thiên vương Loa Kế
Oai thần, không đến được
Nên biết cõi Mật nghiêm
Cao tột khó nghĩ bàn
Chẳng phải định như huyễn
Ai đến được cõi đó.
Chúng trời trong hội ấy
Nghe tiếng khen công đức
Sinh tâm rất lạ kỳ
Bèn thưa Kim Cang Tạng:
Chúng tôi đều muốn nghe
Mong ngài nói pháp sâu.
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Liền bảo đại chúng rằng:
Như Lai đã thuyết pháp
Ai diễn đạt cho hết
Thánh trí của tự giác
Cảnh giới không nghĩ bàn
Trừ người quán hạnh sâu
Còn làm sao chỉ bày.
Lúc Trì Tấn, Dạ-ma
Và Phật tử tự tại
Khác miệng đồng thanh thưa:
Mong ngài sớm tuyên thuyết
Thần thông và Mạn-thù
Từ Thị, vua Khẩn-na
Cùng người tu định khác
Thảy đều thỉnh như vậy
Các trời, tiên Trì Minh
Trong không tấu các nhạc
Đồng tâm mà khuyến thỉnh:
Xin xót thương tuyên thuyết.
Khuyến thỉnh như vậy xong
Đều ngồi nơi tòa đẹp
Phạm vương nương sức Phật
Lại trở vào trong hội
Và thưa Kim Cang Tạng
Xin hỏi lời như vầy:
Nay các đại chúng này
Trang nghiêm chưa từng có
Chính là Tôn giả tử
Thông tuệ không ai bằng
Nên đối với Tôn giả
Khát ngưỡng mong cầu pháp
Nay con vẫn chưa biết
Mới hỏi vì sao những
Kiều Lạp và Thắng Đạo
Với Đản Sinh, Luân vương
Chính là Thiếu niên Mã
Chính là Cổ tiên truyện,
Con của dòng Cam Giá
Quốc vương Thiên cung trì
Trong Dục, Sắc, Vô sắc
Pháp của các trời, người
Đó là hạnh Bồ-tát
Độc giác và Thanh văn
Cho đến Tu-la minh
Các luận về tịnh tượng
Mong ngài những việc ấy
Thứ lớp mà diễn nói
Chúng con và trời, người
Một lòng thích lắng nghe.
Bấy giờ, Giải Thoát Nguyệt
Trì Thế, Hư Không Tạng
Đại Thế, Quán Tự Tại
Tổng Trì Tự Tại vương
Bảo Kế và Thiên Quan
Kim Cang Thủ Tịch Tuệ
Cùng Đại sĩ Bảo Thủ
Và các Tối thắng tử
Đều từ câu-đê cõi
Đến ngồi cung Liên hoa
Đồng thỉnh Kim Cang Tạng:
Cúi xin Đại Tuệ nói
Quá khứ và vị lai
Trí Mâu-ni thanh tịnh
Nhân giả, được gần Phật
Tâm sáng tỏ không nghi
Chúng này đều thích nghe
Mong Tôn giả diễn nói
Định Vương Kim Cang Tạng
Bảo khắp đại chúng rằng:
Như Lai đã thuyết pháp
Ta không thể nói hết
Chỉ trừ Phật, Bồ-tát
Được oai thần gia hộ
Ta nay chí tâm lạy
Cung kính lễ tự tại
Điện Mâu-ni bảo tạng
Phật và các đệ tử
Tâm kính tin, ta nói:
Trí Như Lai thanh tịnh
Khiến gieo hạt giống Phật
Các ngươi hãy lắng nghe.
Đây chẳng phải vương luận
Và luật lệ luân vương
Mà là cõi Mật nghiêm:
Chủng tánh của Như Lai
Cảnh giới Bậc Chánh Định
Việc thù thắng chư Phật
Trí Như Lai vi diệu
Lìa năng giác, sở giác
Nên chẳng phải sức ta
Diễn được pháp mầu này
Phải nhờ oai thần Phật
Theo Phật mà thỉnh thọ
Trí này rất vi diệu
Là hoa Tam-ma-địa
Phật ở trong Mật nghiêm
Chánh thọ mà khai diễn
Xa lìa mọi nói năng
Và với tất cả kiến
Hoặc có hay hoặc không…
Bốn chủng biên như vậy
Gọi là tối thanh tịnh
Diệu lý của Trung đạo
Các thiền định Mật nghiêm
Có thể quán sát được
Lìa chấp mà chuyển y
Mau vào cõi Như Lai.
Khi các chúng Phật tử
Theo ngài nghe lời ấy
Đầu, mặt, hai chân lạy
Cung kính mà thưa rằng:
Chúng con ưa thích pháp
Như người khát muốn uống
Như con ong nhớ mật
Bậc Du-già tự tại
Cúi mong ngài giảng nói
Làm cho chúng Bồ-tát
Được tự tại với định
Trí tuệ, đại oai đức
Và các vua Sát-lợi
Bậc Quán hạnh hiểu sâu
Đều muốn nghe Như Lai
Nói pháp môn sâu xa
Lại muốn nghe tôn giả
Lợi thật, phạm vi diệu
Đẹp lòng Đức Như Lai
Tiếng sâu xa khéo léo
Diễn nói nghĩa thù thắng
Khiến tất cả được rõ.
Kim Cang Tạng bảo rằng:
Như Lai đã nói nghĩa
Chân thật rất hiếm có
Lìa tướng khó thấy được
Như hư không không vật
Thấy hình là hiếm có
Như Lai đã thuyết nghĩa
Hiếm có cũng như vậy.
Dấu chim, gió trong không
Không thể thấy hình dạng
Mâu-ni nói diệu lý
Khó thấy cũng như vậy
Việc thí dụ thế gian
Bậc Trí hay hiểu rõ
Chư Phật đã tuyên thuyết
Ví dụ không thể biết
Nay những đều ta thấy
Như mộng và Càn thành…
Kẻ quán hạnh hội này
Đầy đủ đại trí tuệ
Thông đạt nghĩa chân thật
Không đều gì không biết
Tại sao vì người ấy
Nói cảnh Phật khó nghĩ
Nhưng nay đã khai diễn
Nhờ sức oai thần Phật
Tất cả vì tối thắng
Hãy chí tâm lắng nghe
Như Lai nói lời đẹp
Câu nghĩa đều tương ưng
Vượt qua cảnh giới tâm
Xa lìa mọi ví dụ
Ví như ong hút hoa
Trước lấy các tinh túy
Với những con đến sau
Chỉ hút thứ còn lại
Thắng Mâu-ni cũng vậy
Trước được vị pháp hay
Ta hưởng thứ còn lại
Nay vì chúng tuyên thuyết
Cảnh giới Thiên trung thiên
Người trí sáng thêm vui
Chẳng phải ý so lường
Lấy voi làm biểu tượng
Cũng như hình sắc người
Tướng tốt trang nghiêm thân
Hiện ở cung thắng diệu
Nón báu để trang sức
Ánh sáng tròn, bánh xe
Tất cả đều thành tựu
Chiếu sáng nơi cung điện
Trừ ngoại đạo ngạo khinh
Chư Phật trong bốn mùa
Mãi sống nơi Mật nghiêm
Với tất cả mọi nơi
Hiện sinh và Niết-bàn
Thuần thiện ít tổn giảm
Ác sinh và loạn, bẩn
Tùy ý chúng ưa thích
Lợi ích các hữu tình
Nghiệp dụng, không phút dừng.
Thường trụ cõi Mật nghiêm
Đó là nơi thanh tịnh
Cung Du-kỳ an lạc
Ít khi có cấu bẩn
Hiện rõ tướng Như Lai
Ví như trăng tròn sáng
Ảnh chiếu các dòng nước
Phật dùng tất cả thân
Tùy nghi mà ứng hóa
Cảnh tịnh trí Như Lai
Người quán hạnh đều thấy
Hoặc hiện Đại tự tại
Hoặc hiện Na-la-diên
Hoặc hiện Ca-tỳ-la
Trụ trên không thuyết pháp
Hoặc hiện ra Vi-đà
Thường hành và diệu hỷ
Đồng thiên và Thi-khí
La-hộ-đô Mâu-lô
Hoặc hiện Khẩn-na-la
Cam giá, hoặc mặt trời
Cùng với các quốc vương
Tất cả đều chiêm ngưỡng
Hoặc là đại Y vương
Hiện ra trong mọi người
Kim cang và các báu
Đồng sắt các khoáng sản
Minh châu và chì thiếc
Ngọc hồng và pha lê
Tùy theo các hữu tình
Ưa thích và hiện rõ.
Do sức gia trì Phật
Khiến họ được an lạc
Thiên nữ và long nữ
Và Càn-thát-bà nữ
Nữ tự tại cõi Dục
Không thể động tâm họ
Vượt hơn cảnh giới dục
Và hơn sắc, Sắc giới
Không xứ và thức xứ
Và vô sở hữu xứ
Phi tưởng, phi phi tưởng
Với họ, không mê hoặc
Các bậc Định vô tưởng
Chưa lìa, hoặc trói buộc
Chẳng an, chẳng thanh tịnh
Lưu chuyển nơi các hữu
Đã sinh ra có thân
Không bằng cõi Mật nghiêm
Cõi Mật nghiêm vi diệu
Phước thanh tịnh, trang nghiêm
Người giải thoát tri kiến
Là chỗ nương tối thắng
Đủ mười thứ tự tại
Sáu thông, Tam-ma-địa
Đều do ý thành thân
Như Phật hiện nơi đó
Tu hành về Thập địa
Đàn… các Ba-la-mật
Tất cả tướng tốt đẹp
Thường trang điểm thân thể
Xa lìa sự phân biệt
Cũng luôn luôn biết rõ
Cũng không ngã, ý, căn
Tuệ căn thường vui sướng
Các công đức của thí…
Tịnh nghiệp đều tròn đầy
Được nương tựa nơi Phật
Cõi thanh tịnh Mật nghiêm
Cõi ấy rất vi diệu
Không nhờ mặt trời, trăng
Phật và các Bồ-tát
Sáng thanh tịnh mãi chiếu
Các Thánh trong Mật nghiêm
Ánh sáng hơn mặt trời
Không có ngày hay đêm
Cũng không bị già chết
Cung Mật nghiêm thù thắng
Được chư Thiên hâm mộ
Bậc Du-già tối thắng
Siêng tu từng cấp bậc
Biết rõ tất cả pháp
Đều lấy tâm làm tánh
Giỏi nói A-lại-da
Ba tánh, pháp vô ngã
Thân họ thành thanh tịnh
Được sinh nước Mật nghiêm.

 

Phẩm 3: SINH THAI TẠNG

Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Lại bảo Loa Kế Phạm:
Thiên chủ nên biết rằng
Tất cả thân hữu tình
Lấy chính vật làm tánh
Tướng hữu vi biến động
Đủ năng tạo, sở tạo
Tinh huyết cùng hòa hợp
Tăng trưởng sự bất tịnh
Làm vô lượng các nghiệp
Thường ngăn che, trói buộc
Như cây độc sinh ra
Gai gốc rất sầm uất
Tham, sân, các phiền não
Cứ như thế tăng trưởng
Chín tháng hay mười tháng
Thời gian đã đầy đủ
Từ thai tạng sinh ra
Lộn ngược thọ các khổ
Thiên chủ nên biết rằng
Các loại hữu tình này
Đều do nghiệp lực sinh
Nghiệp xua đuổi, vận động
Hoặc sinh trong loài người,
Hoặc sinh vào bàng sinh
Phi thiên và La-sát
Rồng và các loài quỷ
Hoặc dòng họ Trì Minh
Thân cõi Thiên thù thắng
Hoặc ở trong Du-kỳ
Thoái mất Tam-ma-địa
Trong luân vương quý tộc
Được sinh vào trong đó.
Như vậy, khi đã sinh
Các căn liền tăng trưởng
Tùy nhiều đời thân cận
Lại tạo ra các nghiệp
Bởi do nghiệp lực này
Xoay tròn trong các nẻo
Nếu những người có trí
Nghe pháp được giác ngộ
Lìa văn tự phân biệt
Nhập ba cửa giải thoát
Được chứng lý chân thật
Rất thù thắng, thanh tịnh
Và thanh tịnh tột cùng
Liền sinh cõi Mật nghiêm
Hay đến câu-đê cõi
Tùy nghi mà ứng hiện
Thiên chủ sinh như vậy
Mãi thoát các nẻo hiểm
Đó gọi là trượng phu
Cũng gọi là bậc Trí
Cũng gọi Thiên trung thiên,
Chúng Phật tử vây quanh
Thiên chủ, phải nên biết
Thân thi tạng giả tạo
Chẳng từ tự tánh sinh
Chúng từ nghiệp si ái
Bởi do tướng mà có
Hiểu rõ, diệt trừ hết
Cũng lìa sự phân biệt
Cả đối với văn tự
Hay quán sát như vậy
Liền đến Mật nghiêm tràng
Nếu những người tu tịnh
Trụ định, phan duyên cảnh
Liền bị tiếng và sắc
Mê hoặc sinh dính mắc
Không thể được kiến cố
Cũng gọi tâm loạn động
Bởi tà định ấy trói
Lưu chuyển sinh ba cõi
Nếu có thắng Du-kỳ
Khéo trụ Tam-ma-địa
Xa lìa năng, sở thủ
Lặng yên tâm không sinh
Gọi là tu chân thật
Hành giả quán vô tướng
Muốn sinh cõi Mật nghiêm
Thường nên quán như vậy.

 

Phẩm 4: CẢNH GIỚI TỰ (GIÁC) TÁC

Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Lại bảo Loa Kế Phạm:
Thiên chủ nên biết rằng
Tám loạn, chín loạn tâm
Thường bị vô minh trói
Hay sinh các thế gian
Đều tâm hiện, tâm pháp
Bởi do chúng lưu chuyển
Các thức cùng các căn
Bị vô minh biến khác
Tâm vốn tịnh, không động
Thế gian và căn cảnh
Đều theo mười hai chi
Năng sinh và sở sinh
Từng sát-na hoại diệt
Phạm thế đến phi tưởng
Cũng từ nơi nhân duyên
Chỉ có Thiên Trung Thiên
Mới lìa tác, sở tác
Hữu tình và vô tình
Pháp động và bất động
Đều giống như cái bình…
Tánh nó là hoại diệt
Thiên chủ nên biết rằng
Các thức rất vi tế
Lưu chuyển rất nhanh chóng
Là cảnh giới của Phật
Chư tiên và ngoại đạo
Giả xưng là Mâu-ni
Dùng lời trói buộc nhau
Nên tham đủ thứ sắc
Với thức sinh diệt này
Thảy đều không thể biết
Giả sử một ngàn năm
Suy nghĩ bốn phệ-đà
Hành thí được Phạm thiên
Cũng bị rơi rớt lại
Hoặc khổ hạnh bốn tháng
Cúng tế được quả báo
Tu các loại đàn tràng
Thờ lửa để cầu phước
Hoặc tu Tam thú pháp
Giết dê để khẩn cầu
Được quả, cũng rơi rớt
Sao Phạm vương không ngộ?
Quả ba đức lệ thuộc
Không chắc như thân chuối
Chỉ nhờ trí giải thoát
Được sinh cõi Mật nghiêm
Thiền định chứng cảnh ấy
Mới có thể đến đó
Cho nên, Đại Phạm thiên
Phải nên khéo tu tập
Người trong cõi Mật nghiêm.
Không quyến thuộc, sinh tử
Các thức của hữu tình
Không dứt cũng không mất.
Không dính mắc các nghiệp.
Không huân tập nhiễm ô
Như sen không dính nước
Hư không, không dính bụi
Trời, trăng không mây che
Bậc Du-già cũng vậy
Mau tu quán hạnh này
Được Như Lai thu giữ
Tắm trong dòng tịnh giới
Uống bằng nước trí tuệ
Do trí tu tịnh giới
Giải thoát được sinh tử.
Thiên chủ nên biết rằng
Uẩn, xứ, giới hữu tình
Các pháp được hợp thành
Thảy đều không chỗ có
Nhãn và sắc… làm duyên
Nên mới sinh ra thức.
Như lửa do củi đốt
Thức khởi sinh cũng thế
Do vọng tâm, cảnh chuyển
Như nam châm hút sắt
Như Càn thành, sóng nắng
Ngu khát thấy như thật
Trong không vật chẳng tạo
Chỉ tùy tâm biến hiện
Lại như người càn thành
Qua lại đều không thật
Thân chúng sinh cũng thế
Tiến, dừng, đều không thật
Cũng như trong mộng, thấy
Thức rồi, chẳng có gì
Vọng thấy uẩn và pháp
Ngộ rồi, vốn lặng yên
Bốn đại, như vi trần
Lìa tâm, chẳng có gì
Vật sở hữu thế gian
Cho chẳng phải bốn đại
Giống như gió tật duyên
Làm hiện thấy các cảnh
Xác chết đứng, không động
Pháp thế gian cũng thế.
Này hỡi các Phật tử!
Phải nên khéo quán sát
Động, thực vật thế gian
Giống như đống bọt nước
Bình, áo… vọng tưởng
Không thật, như quán nắng
Các thọ về khổ, vui…
Khác nào bong bóng nước
Các hành như cây chuối
Bên trong không chắc thật
Thức này như việc ảo
Giả tạo vốn chẳng thật
Ở trong ba cõi ấy
Pháp động và bất động
Đều giống như cảnh mộng
Do tâm mê hiện ra
Cũng như việc ảo thuật
Và thành Càn-thát-bà
Chỉ lừa dối kẻ ngu
Từ đầu vốn không thật
Phật tử hiểu pháp này
Sẽ được tâm vô úy
Lửa tuệ đốt các nạn
Liền sinh cõi Mật nghiêm
Thế gian đều vô tướng
Tướng là chỗ trói buộc
Vô tướng mới tốt lành
Tướng là cảnh giới tâm
Cảnh giới tâm, không thật
Cảnh giới tuệ mới thật
Xa lìa hết các tướng
Là việc làm Từ bi
Vô tướng trùm tất cả
Ba cõi đều thanh tịnh
Sắc, thanh… và các tướng
Gọi là pháp ba cõi
Tất cả các căn cảnh
Nhân trói buộc hữu tình
Nhờ tuệ được giải thoát
Mới an vui và tự tại.
Khi Bồ-tát Bảo Kế
Ngồi trên tòa tuyệt đẹp
Hướng về Kim Cang Tạng
Mà nói lời như vầy:
Cùng khắp câu-đê cõi
Tôn giả là đứng đầu
Thành tựu trí tối diệu
Hiểu rõ pháp sở tri
Với vô lượng Tất-đàn
Đều được thấy rõ cả.
Nay lại chúng tu hành
Thanh tịnh các nghi ngờ
Quán sát thân hữu tình
Gốc khởi đầu tất cả
Dùng diệu âm diễn thuyết
Cùng kiếp không thể hết
Hãy nên vì chúng hội
Nói xa lìa thuận, nghịch
Các nhân giống, chẳng giống.
Và dùng pháp chân thật
Khiến các người trí này
Tâm tịnh không còn nghi
Xả bỏ nhân các uẩn
Không lâu được giải thoát
Nhân uẩn pháp, chẳng pháp
Sinh thân này, thân sau
Kẻ trí sẽ thoát khổ
Kẻ ái bị buộc chặt
Tâm hữu tình đã khởi
Do sắc lại vì minh
Tác ý… và các duyên
Chạy tán loạn các cảnh
Nhanh chóng như điện chớp
Khó có thể biết được
Vô minh và nghiệp ái
Do đó bị vẩn đục
Các pháp, ý dẫn đầu
Ý nhanh chóng, thù thắng
Pháp cùng ý tương ưng
Đều lấy ý làm tánh
Ví như ngọc Ma-ni
Hiện rõ các sắc thái
Các diệu nghĩa cũng vậy
Sao Phật tử không nói
Như các sắc Ma-ni
Tùy màu mà hiển hiện
Nhân giả, trong Du-già
Sáng rực cũng như vậy
Tượng Như Lai đầy đủ
Thường ở cung tự tại
Chúng Phật tử vây quanh
Tùy nghi mà nói pháp
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Bậc tự tại với pháp
Lại bảo đại chúng rằng:
Cõi Mật nghiêm vi diệu
Là vắng lặng bậc nhất
Cũng là Đại Niết-bàn
Pháp giới tịnh giải thoát
Cũng là Đại Niết-bàn
Pháp giới tịnh giải thoát
Cũng là cảnh diệu trí
Lại dùng đại thần thông
Của bậc tu quán hạnh
Nương tựa tốt cõi này
Không dứt cũng không mất.
Thường trụ không thay đổi
Nước không thể trôi được
Gió không thể lay động
Thể tánh chẳng như bình…
Tuy đã thành vẫn hoại
Nhân chẳng giống, không giống,
Hai thứ đã thành lập
Lập tông và các phần
Đều là pháp bất định
Dùng tông và lại dùng nhân
Mới dính mắc sai biệt
Cõi Mật nghiêm vi diệu
Thể là thức chuyển y
Vượt khỏi tâm phân biệt
Chẳng vọng tình cảnh giới
Cõi Mật nghiêm Như Lai
Không đầu cũng không cuối
Tự tánh chẳng vi trần
Chẳng phải do lạc dục
Chẳng đại tự tánh làm
Chẳng nghiệp ái vô minh
Chỉ do vô công dụng
Trí vi diệu sinh ra
Thoát dục, sắc, vô sắc
Vượt lưới tối vô tưởng
Cõi Mật nghiêm vi diệu
Là A-nhã Tất-đàn
Chẳng phải các nhân minh
Cảnh giới của sở lượng
Chẳng do nơi thắng tánh
Tự tại cùng thanh luận
Và Phệ-đà… các tông
Mới có thể mở bày
Cho đến vị tư lương
Trí tuệ không thể hiểu
Chỉ có Đức Như Lai
Và cảnh trí mười Địa
Nhân giả! Nay lắng nghe!
Kẻ ngu mê thế gian
Là nghiệp và chẳng nghiệp
Nay ta nói nghĩa này
Khiến kẻ tu thắng định
Đạt được sự an vui
Tất cả vật trong ngoài
Chỉ tự tâm mới thấy
Tâm hữu tình hai tánh
Năng thủ và sở thủ
Tâm thể có hai cửa
Tức tâm thấy các vật
Phàm phu tánh mê hoặc
Tự mình không hiểu hết
Như bình hiện sắc tướng
Vô thể, chỉ tự tâm
Định yếu và các tiên
Mê loạn nơi nghĩa này
Bỏ nơi lý chân thật
Mà theo đường phân biệt.
Tâm này có hai tánh
Như ảnh trăng trong gương
Như người bị nhặm mắt
Vọng thấy có hoa đốm
Cũng không chuỗi ngọc báu
Chỉ do mắt bị nhặm
Cho nên mới thấy vậy
Kẻ dính mắc hư vọng
Không hiểu, luôn chấp thủ
Rộng hiện các trang sức
Những tướng Phạm, các thứ…
Tất cả các hữu tình
Với bình và y phục…
Tất cả việc trong ngoài
Thảy đều từ tâm khởi
Diệu định Mật nghiêm này
Ngoài tâm, không hề có
Nếu những người tu hành
Sinh những nới phước địa
Hoặc sánh dục tự tại
Hoặc ở trời Sắc giới
Cho đến cung Vô tưởng
Cõi trời Sắc cứu cánh
Không thức, không chỗ có
Phi tưởng phi phi tưởng
Vô số các cung điện
Dần dần trừ tham dục
Không lâu, được sinh đến
Cùng quán hạnh Mật nghiêm
Chúng Phật tử vây quanh
Tự tại mà vui chơi
Ngươi nên tu định này
Mà sao đắm quyến thuộc
Quyến thuộc thường trói buộc
Nguyên nhân sinh tử chuyển
Nam, nữ, ý hoặc, loạn
Tinh huyết cùng hòa hợp
Như trùng sinh bùn hôi
Trong sinh cũng vậy đó.
Chín tháng hoặc mười tháng
Thân thể lớn dần lên
Đến khi ra khỏi thai
Ví như trùng chuyển động.
Từ đó ngày càng lớn
Phải chánh tâm hiểu rõ
Ta xem các hữu tình
Sự sinh đều như vậy
Cha mẹ không tính đếm
Vợ con cũng như thế
Ở trong các thế gian
Không nơi nào không có
Ví như người Thạch nữ
Mộng bỗng thấy sinh con
Sinh rồi liền vui mừng
Tìm con chẳng thấy đâu
Buồn thương thật não nùng
Bỗng nhiên tỉnh giấc mộng
Không thấy có con mình.
Từ lúc sinh đến hết.
Lại mộng dạo sông núi
Thành ấp và hoa viên
Tất cả các cảnh giới
Cùng thế gian thọ dụng
Mình người, cùng thấy nhau
Chạy, nhảy, đi qua, lại
Vận chuyển và co duỗi
Cảnh giới thật vô lượng
Tùy theo lúc thức, ngủ
Tất cả đều chẳng có
Như người nhiều ham muốn
Mộng thấy có người nữ
Nhan sắc thật tuyệt vời
Y phục, rất quý lạ
Nên tự ý hoan lạc
Thức dậy chẳng có gì!
Tất cả các thế gian
Nên biết cũng như thế!
Ngôi vua, nhiều kẻ hầu
Cha mẹ và họ tộc
Chỉ lừa dối kẻ ngu
Thể tánh đều chẳng thật
Nguời với Tam-ma-địa
Vì sao không siêng tu
Vô lượng các Thanh văn
Độc giác và Bồ-tát
Sống dưới cây, trong núi
Chỗ tu thiền yên tịnh
Biển sữa Ma-la-đa
Tần-đà, Bà-lợi-sư
Ma-hê, Nhân-đà-la
Kê-la và núi tuyết
Hoặc ở Viên sinh thọ
Hoặc tại Kiều-vi-na
Hay giữa núi Tu-di
Nghỉ tại cây Như ý
Kiếm-ma-la hiểm trở
Tĩnh tọa ở trong đó
Hoặc ăn quả Chiêm-bộ
Và uống vị cam lộ
Đầy đủ các thần thông
Mà thường tu quán này
Đời quá khứ, vị lai
Ngồi trên đài Liên hoa
Kiết già trụ đẳng dẫn
Thường quán sát như vậy
Nhờ khéo nhiếp các căn
Tất cả cảnh không tan
Như móc câu giữ voi
Trụ định cũng như vậy
Thế gian hay xuất thế
Tất cả các định khác
Định Phật sạch, không nhơ
Tham ái đều trừ bỏ
Định vô sắc biến ái
Trong các thiền vô tưởng
Thấy hình trời, trăng đó
Hoa sen và vực thẳm
Như các màu hư không
Định ấy chẳng rốt ráo
Trừ bỏ tướng như vậy
Được sạch, không phân biệt
Sẽ thấy câu-đê cõi
Chư Phật trụ định tâm
Đồng lúc, cũng duỗi tay
Lấy nước rưới đầu họ
Liền nhập vào Phật địa
Hiện ra các sắc hình
Đã được các thứ thân
Sẽ đủ Nhat thiết trí
Lực, thông và tự tại
Chánh định, Đà-la-ni
Những công đức như vậy
Tất cả đều thành tựu
Phân tích với các sắc
Cho đến quán rất nhỏ.
Tự tánh không chỗ có
Ví như sừng con thỏ
Không phân, không phân biệt
Uẩn, hữu uẩn cũng vậy
Đều là ảo thuật làm
Tất cả đều như vậy
Trong đó không nghiệp quả
Cũng không người tác nghiệp
Không thể tạo thế gian
Giả sử có thể tạo
Có thể tạo với tạo
Sao gọi người năng tác!
Lời đó thành lỗi lầm
Nói tạo ấy thanh tịnh
Ngã ấy thànnh các cảnh
Địa Luân nương thủy luân
Và hữu tình thế gian
Theo thứ lớp an cho
Các nẻo đều sai biệt
Đây kia cùng qua lại
Với các căn khởi sự
Mới giữ lấy các cảnh
Việc ấy chẳng do ngã
Đều là do phân biệt
Thay nhau mà đổi khác
Đồng với sữa, lạc, tô
Như vậy sinh, trụ diệt
Kế nghiệp và phi nghiệp
Người định thường quán vậy,
Như Càn thành và mộng
Hý luận từ vô thủy
Huân tập nơi hữu tình
Vô số các lỗi lầm
Mới sinh nghiệp phân biệt
Các căn giống như huyễn
Cảnh giới khác nào mộng
Nghiệp năng tác, sở tác
Người định hay xa lìa
Kẻ ác giác yếu hèn
Mê hoặc sinh vọng chấp
Phân biệt với năng tác
Tất cả các thế gian
Hoặc là ngọc Ma-ni
Vàng bạc các khoáng sản
Sắc chim, thú, sai khác
Bị vật nhọn đâm thẳng
Việc ấy không giống nhau
Nên biết không ai làm
Tướng thế gian sai khác
Đều từ phân biệt sinh
Chẳng thắng tánh vi trần
Tự nhiên, không nguyên do
Kẻ ác giác vọng chấp
Không biết thể tánh nó
Là nghiệp hay phi nghiệp
Khởi phân biệt như vậy
Như chất độc trong sữa
Tùy tương ưng biến chuyển
Phân biệt tất cả xứ
Các pháp cũng như vậy
Tánh ấy cũng không sinh
Tánh ấy cũng không diệt
Kẻ mê không thể hiểu
Các thứ phân biệt khác
Thế gian chỉ tích tập
Người định mới quán được
Các ngươi hãy siêng tu
Không nghĩ nghiệp, phi nghiệp
Cùng hữu tình qua lại
Như trời trăng xoay vần
Trên không, không chỗ nương
Tùy gió mà vận chuyển
Tánh nghiệp rất sâu kín
Thấy được cõi Mật nghiêm
Tu các thắng quán hạnh
Không bị nó chi phối
Như ngọn lửa bốc cao
Khoảnh khắc thành tro khói
Lửa trí đốt củi nghiệp
Nên biết cũng như thế
Lại như đèn trời tối
Huân tu từ vô thủy
Đèn trí Mâu-ni thắp
Sát-na liền diệt sạch.

 

Phẩm 5: BIỆN QUÁN HẠNH

Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Lại bảo đại chúng rằng:
Các nhân giả lắng nghe
Ví như chỗ vắng vẻ
Muốn tạo dựng phòng ốc
Người thợ lo vật liệu
Sau đó mới thành được.
Xem kỹ trong các vật
Từng vật không thành nhà
Cũng như các ngón tay
Hợp lại thành bàn tay
Bỏ ngón tay tìm kiếm
Thể nắm tay đâu có.
Quân sư và xe cộ
Thành ấp cùng vườn rừng
Mây vật và núi sông
Bình, áo với các tướng
Đều là giả hòa hợp
Bậc trí hiểu như mộng
Như vậy thân nhà cửa
Các giới đã tạo thành
Uẩn chứa như núi cao
Nguy hiểm như nhà mục
Không sinh, cũng không diệt
Chẳng mình chẳng phải người
Như thành Càn-thát-bà
Như mây và như ảnh
Cũng lại như quáng nắng
Giống như xem tranh vẽ
Tướng tự hư vọng hiện
Tánh tịnh lìa có, không
Như người mù lại què
Tướng giả mà đi được
Tự tánh không thể giữ
Thân phàm ngu cũng vậy
Phân tích đến cực vi
Tên rỗng, vật không thật
Vi trần không nắm bắt
Các pháp cũng như vậy
Bậc Tịnh tuệ Du-già
Khi suy nghĩ như vậy
Liền đối với sắc, thanh…
Xa lìa sự nhớ hiểu
Chấm dứt tất cả ý
Quả nhiên được giải thoát
Không luyến ái các hữu
Luôn ưa thích đẳng trì
Dầu cho các tiên trời
Hay người đẹp lộng lẫy
Có đến cúng dường ta
Xem như mộng, không nhiễm
Thân tuy đứng tại đây
Ngoại đạo không thể thấy
Trì Minh và Phạm thiên
Cũng không thấy đỉnh ta
Sẽ sinh cung Ma-ni
Tự tại mà vui chơi
Cùng các Đà-la-ni
Lìa Dục thường hoan lạc
Đây là pháp quán hạnh
Cảnh giới của Tát-đỏa
Nhân giả, sớm tu tập
Với phát tâm dũng mãnh
Sẽ sinh cung Quang minh
Lợi ích cả ba cõi
Đoạn trừ phần tham dục
Và lìa sân, nhuế, si
Hãy đến Đại mật nghiêm
Nơi vắng lặng thù thắng
Cảnh giới ấy không chết
Không có thức hoạt động
Xa lìa với các tướng
Chẳng phân biệt chỗ được
Đây là xứ vi diệu
Tương ưng pháp Du-già
Cho nên tu quán hạnh
Mong cầu đến cõi đó
Đã thắng được tham sân
Không ta, cũng không người
Người nên tu thắng định
Chớ sinh ra ba độc
Hoặc chấp vào cảnh giới
Liền sinh ra hai giác
Giống như cô gái đẹp
Mang những vòng hoa tươi
Kẻ nhiều dục thấy rồi
Say đắm trong tưởng nhớ
Cái biết nhiễm mê hoặc
Chuyên nghĩ việc đó thôi
Lúc đi đứng hay ngồi
Ăn uống và ngủ nghỉ
Dung nhan cô gái ấy
Luôn hiện trong tâm tưởng
Những ác tuệ như vậy
Do cảnh giả dối sinh
Chìm trong cảnh bùn lầy
Cho nên đừng tham đắm
Hoặc như các thế gian
Tuệ, tà phân biệt dối
Với trâu và dê núi
Thiết bà và hươu nai
Vì thấy chúng có sừng
Ôm giữ đó là thật
Nên đối với hổ, thỏ…
Lại hiểu là không sừng
Nếu không thấy sừng trâu
Đâu chấp thỏ không sừng!
Thế gian cũng như vậy
Vọng thấy có chỗ được
Sao thấy thể chẳng thật
Liền nói pháp định không
Vì chưa bỏ phân biệt
Nên tà giác luôn sinh
Nhân giả xem xét kỹ
Tâm hành các cảnh giới
Đều như vọng sở đắc
Có sừng hay không sừng
Nếu như người tu hành
Phải nên quán như vậy
Từ đó được ý vui
Hoặc làm Chuyển luân vương
Trên không mà qua lại
Có đủ đại oai lực
Hoặc sinh điện nhật nguyệt
Và các cung tinh tú
Bốn vua trời Đao-lợi
Diêm-ma và Đâu-suất
Hóa lạc và Tha hóa
Trong bảo điện Ma-ni
Các thân phạm sắc giới
Và cõi trời Thập phạm
Không phiền và Không nhiệt
Thiện kiến và Thiện hiện
Cung A-ca-ni-tra
Tự tại mà vui chơi
Không thức, vô sở hữu
Phi tưởng, phi phi tưởng
Tại đó, trừ dần dục
Cho đến các cõi Phật
Thường vui định vi diệu
Cảnh giới của giải thoát
Ví như thân bình vỡ
Mới có những mãnh sành
Tánh hoại, hiện sát-na
Với thường, thấy vô thường
Hạt giống sinh ra mầm
Mầm sinh loại rồi mất
Lại như người thợ gốm
Lấy bùn tạo ra bình
Nếu bùn là Xa-ma (chỉ)
Bình cũng như sắc nó
Hoặc lúc thợ gốm ấy
Dùng bùn đủ loại sắc
Đến khi nung đã thành
Mỗi cái tùy sắc bùn
Tên, tre thành cửa sổ
Từ sừng thành bầu đựng
Ruồi nhơ và mật thối
Thảy đều sinh ra trùng
Nên biết quả thế gian
Giống nhân, không giống nhân
Do nhân đã biến hoại
Nên mới sinh ra quả
Nơi làm thành cát bụi
Thể tánh không biến hoại
Do kẻ ngu ở đời
Sinh giả dối phân biệt
Tạo ra ta trong ta
Không có gì hơn ta
Với ý, ngã cũng không
Nhân tích tập cũng không
Cùng nhân gần nhất sinh
Chẳng cần có duyên thức
Cảnh giới của bậc Trí
Sức khéo léo sinh ra
Nhổ sạch gai phiền não
Hàng phục ma, quyến thuộc
Tham ái thế gian hết
Như mật hay trị bệnh
Chư tiên do lòng tham
Lưu chuyển sinh các nẻo
Do huân tập lâu dài
Ví như rắn phùng mang
Lửa phiền não thiêu đốt
Lưu chuyển đường ác hiểm
Lìa tham liền giải thoát
Phải siêng tu quán hạnh.

 

Phẩm 6: HƯỚNG VÀO A-LẠI-DA

Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Lại bảo các đại chúng:
Các nhân giả phải biết
Xưa, ta nhờ Phật lực
Gia trì, được diệu định
Thấy rõ câu-đê cõi
Tu hành định thế gian
Chư Phật cùng Phật tử
Trụ ở nơi thanh tịnh
Trong đó chỉ Mật nghiêm
Là an vui đệ nhất
Chư Phật ngồi hoa sen
Như cung điện tuyệt diệu
Ta liền từ định dậy
Hết lòng mà chiêm ngưỡng
Tự thấy nước Mật nghiêm
Chúng Phật tử vây quanh
Lại thấy tạng giải thoát
Trụ ở trong cung ấy
Thân lượng như lóng tay
Sắc tướng thật sáng rạng
Như trăng rằm trên không
Như hoa A-hằng-tư
Tâm ta liền suy nghĩ
Việc khó nghĩ là gì?
Liền thấy ngay thân mình
Chính ở tại trong bụng
Ở trong đó thấy hết
Tất cả các thế gian
Liên hoa tạng Phật tử
Nhờ thần lực của Phật
Cũng đều thấy như vậy
Vui vẻ không nghĩ bàn
Thiên Trung Thiên tạo ra
Liền thâu oai thần lực
Đại chúng đều như vậy
Tốt hiếm có khó nghĩ.
Du-kỳ đủ thứ sắc
Là cảnh giới của Phật
Các nhân giả nên biết!
Xưa Phật là Bồ-tát
Từ nơi địa Hoan hỷ
Đạt đến địa Ly cấu
Phát quang và Diệm tuệ
Nan thắng và Hiện tiền
Viễn hành với Bất động
Thiện tuệ, Pháp vân địa
Đạt được Đà-la-ni
Sinh các nghĩa vô tận
Các định Thủ-lăng-nghiêm
Và dùng ý thành thân
Tế tánh và khinh tánh
Đại tánh và ý lạc
Tôn quý và dục thọ…
Được tám tự tại ấy
Như, ứng liền hiển hiện
Vui chơi nơi Mật nghiêm
Gọi là Diệu quang minh
Công đức đều thành tựu
Trở lại được thanh tịnh
Hiện thành Đẳng chánh giác
Hóa thành Phật, Bồ-tát
Vô số sắc tượng đẹp
Tự nhiên biến khắp cả
Mà chuyển xe diệu pháp
Mau khiến các chúng sinh
Dùng trí đoạn các hoặc
Lợi lạc khắp các nẻo
Lại ở trong Mật nghiêm
Hoặc có các Đại sĩ
Thấy Phật hiện sắc thân
Tướng trang nghiêm tốt đẹp
Tự nhiên phát ánh sáng
Rực rỡ như đống lửa
Ở tại cung Liên hoa
Cùng các người quán hạnh
Vui chơi định an lạc
Tam-ma-địa tự tại
Là nơi rất thù thắng
Hoặc thấy nơi đại thọ
Thân vua Khẩn-na-la
Hiện ra trăm ngàn ức
Vô số các biến hóa
Ánh sáng rực như trăng
Chiếu khắp các cõi nước
Hoặc thấy trời Đâu-suất
Vô lượng các Phật tử
Thân như sắc đế thanh
Tướng công đức trang nghiêm
Đầu đội mũ Ma-ni
Ngồi cung điện tuyệt đẹp
Ánh sáng chiếu cùng khắp
Thông đạt Nhất thiết trí
Hoặc thấy đức Phổ Hiền
Có đủ oai lực lớn
Đạt đại Nhất thiết trí
Bốn Vô ngại, Biện tài
Thân tướng hiện ánh sáng
Tối thắng không ai bằng
Ở cung điện Mãn nguyệt
Của biển định Mật Nghiêm
Hiển hiện các sắc tướng
Hiền thánh đều khen ngợi
Vô lượng chúng, các trời
Cùng với Càn-thát-bà…
Minh tiên và quốc vương
Các quyến thuộc vây quanh
Hoặc thấy Tối thắng tử
Cùng các quán hạnh sư
Vắng lặng mà thiền định
Uy nghiêm nơi giấc ngủ
Xa lìa sự chậm chạp
Phụng hành lời Phật dạy
Cần khổ mà sạch nhẹ
Như ngoại đạo hiển bày
Lục dục và Phạm thiên
Hữu đảnh đến Thiệm-bộ
Trong đó mà hóa hiện
Có nhiều thứ ánh sáng
Bậc Thần thông điều ngự
Nổi rõ lên rực rỡ
Hoặc thấy Bậc Đạo Sư
Nhập thai hiện Đản sinh
Xuất gia tu thiền định
Cho đến Bát-niết-bàn
Trí Phật không nghĩ bàn
Tất cả đều trọn thành
Được tự tại vô úy
Người, trời đều nương về
Nhân giả nên biết rằng
Thể tánh của chư Phật
Trí tuệ không ai bằng
Chỉ Phật mới biết được
Như Thích-ca đã chứng
Thắng sư tử, loài người
Các ngươi sẽ đạt được
Hãy tin, chớ hoài nghi
Tin chính là Phật thể
Chắc chắn được giải thoát
Hoặc làm chúa cõi trời
Và các vị Tiểu vương
Cho đến sinh Phạm cung
Mà làm Chuyển luân vương
Lại sánh Tạng liên hoa
Ở trong hội Phật ấy
Do liên hoa hóa sinh
Được sức lớn tinh tấn
Do đó hàng phục ma
Muốn nhân đó huân tập
Ý chí không khiếp nhược
Chứng thành pháp Nhất đạo
Kế thừa các việc Phật
Làm vua các cõi nước
Nếu muốn được làm Phật
Phải sạch Phật tánh đạo
Chủng tánh đã tịnh rồi
Chư Phật liền thọ ký
Du-già được giác ngộ
Không lâu sẽ thành Phật
Tất cả bậc tu hành
Đều nương tựa vào đó
Ví như mặt đất này
Là chỗ mọi vật nương
Như với bậc Diệu hạnh
Có thể trị các bệnh
Bậc Giác ngộ cũng vậy
Hay trừ bệnh giả dối
Được tâm vô phân biệt
Hiểu rõ, không lay động
Cảnh giới của trong ngoài
Rõ đạt đều do thức
Hãy xa lìa nơi ngã
Cũng lìa cả ngã sở
Không năng hại, sở hại
Đối với cả vật hại
Tất cả đều như vậy
Cảnh giới của ý thức
Đều nương A-lại-da
Phân biệt dối như vậy
Như ngọc cùng mặt trời
Tương cảm sinh ra lửa
Lửa này chẳng từ ngọc
Cũng chẳng từ mặt trời
Tâm ý thức cũng vậy
Căn, cảnh, ý hòa hợp
Hay sinh ra các tâm
Như biển nổi các sóng.
Tánh này chẳng giả tạo
Cũng chẳng phải ảo mộng
Chẳng giống các loại ấy
Do mê hoặc nắm giữ
Chẳng giống như lông rùa
Cũng chẳng giống sừng thỏ
Lại như sấm và chớp
Chấn động sinh ra lửa
Lửa này chẳng do nước
Chỉ có vì sấm chớp
Ý, không từ định biết
Lửa này theo nơi sinh
Như lửa theo nước sinh
Tạo ra các đồ gốm
Dục và các tâm pháp
Với tâm mà cộng sinh
Tánh hòa hợp không định
Nên biết phải như vậy
Tâm cảnh không nghĩ bàn
Bị Mật nghiêm thấy biết
Tàng thức của hữu tình
Câu sinh từ vô thủy
Như Niết-bàn hư không
Tánh trạch diệt vô vi
Xa lìa khỏi ba cõi
Thanh tịnh thường tròn đầy
Như trăng có tròn khuyết
Hiện rõ các cõi nước
Xoay vần thể là một
Tánh nó không tăng giảm
Kẻ ngu bị phân biệt
Thấy trăng có đầy vơi
Qua lại khắp bốn châu
Kỳ thật không tròn khuyết
Tạng thức vốn như vậy
Hiện khắp cõi hữu tình
Thể tánh không tăng giảm
Tròn sạch thường chiếu sáng
Kẻ ngu vọng phân biệt
Đối với thức Lại-da
Cho là có tăng giảm
Phải nên biết như vậy.
Nếu đối với thức này
Mà chân chánh biết rõ
Liền đạt được vô lậu
Chuyển y, sự sai biệt
Đó là pháp sai biệt
Đạt được, rất là khó
Tạng thức cũng như vậy
Cùng bảy thức đồng chuyển
Vì tương ưng huân tập
Thể tánh vốn không nhiễm
Giống như cây trên sông
Theo nước mà trôi nổi
Song cây cùng với nước
Thể tướng đều sai khác
Tạng thức cũng như vậy
Các thức tập khí đủ
Tánh luôn luôn thanh tịnh
Không bị nó tạo nghiệp
Thanh tịnh và tạp nhiễm
Đều nương A-lại-da
Bậc Thánh vui tại pháp
Cảnh giới của định tâm
Người, trời và các nẻo
Tất cả các cõi Phật
Đó là pháp tịnh nhiễm
Như Lai tạng là nhân
Do giác ngộ thành Phật
Là chủng tánh các thừa
Tất cả các chúng sinh
Có đủ các oai lực
Các công đức tự tại
Các tốt đẹp thù thắng
Cho đến nơi hiểm ác
Thượng, trung, hạ sai khác
Lại-da mãi ở trong
Luôn làm chỗ nương tựa
Đều do các hữu tình
Quả, từ vô thủy đến
Do các nghiệp tập khí
Làm cho tự tăng trưởng
Cũng lại từ tăng trưởng
Với bảy thức còn lại
Do vậy kẻ ngu si
Chấp cho là nội ngã
Năng tác, ngã sở y
Luân hồi nơi sinh tử
Ý thức ở trong thân
Nhanh chóng như gió chuyển
Bị gió nghiệp chuyển động
Lan khắp nơi các căn
Thường cùng đủ bảy thức
Lưu chuyển như cơn sóng
Vi trần và thắng tánh
Tự tại và thời, phương
Đều là tịnh Lại-da
Ở trong vọng phân biệt
Lại-da do nghiệp lực
Và lấy ái làm nhân
Thành tựu các thế gian
Có vô số phẩm loại
Kẻ ngu mãi không rõ
Chấp là có kẻ làm
Thể tướng của thức này
Vi tế rất khó biết
Chưa thấy được chân thật
Tâm mê không thể hiểu
Thường với căn, cảnh, ý
Mà sinh đắm nơi ái
Kim Cang Tạng nói:
Các Phật tử không sợ
Thể Lại-da là vậy
Vì sao không thấy nghe
Chỗ nương tựa các thân
Tánh tịnh luôn không nhiễm
Đầy đủ ba mươi hai
Tướng Phật và Luân vương
Biến khắp trong ba cõi
Hiện ra đủ thứ sắc
Giống như trăng tròn sáng
Các ngôi sao vây quanh
Tạng thức cùng các thức
Trụ thân cũng như vậy
Như các trời cõi Dục
Có Thiên nữ vây quanh
Rực sáng cung điện báu
Tạng thức cũng như vậy
Như các thần sông, biển
Tự tại ở trong nước
Tạng thức ở thế gian
Nên biết, cũng như vậy.
Như rồng nương nước trời
Như trăm sông đổ biển
Như cây vua nương đất
Hiện tâm cũng như vậy
Mặt trời ở cung điện
Xoay quang núi Diệu cao
Chư Thiên đều kính lễ
Phật địa, tâm cũng vậy.
Mười thứ trong các Địa
Tu hành tất cả hạnh
Ở trong thân Bồ-tát
Hiện rõ nơi pháp lớn
Lợi ích và an vui
Như Lai luôn khen ngợi
Từng địa vị thanh tịnh
Nên gọi là Phật tử
Ở trong thân Bồ-tát
Đó chính là Bồ-tát
Phật và các Bồ-tát
Đều gọi là Lại-da
Phật và Tối thắng tử
Đã và đang thọ ký
A-lại-da rộng lớn
Sẽ thành Đẳng chánh giác
Chính thể Lại-da này
Bậc Mật nghiêm hay thấy
Nhờ Du-kỳ tối thắng
Nên tương ưng diệu định
Chư Phật và Duyên giác
Thanh văn và ngoại đạo
Người chứng lý vô úy
Quán sát nhờ thức này
Vô số các thức cảnh
Đều từ tâm biến ra
Bình, áo và các vật
Tánh như vậy, đều không
Đều nương A-lại-da
Cái thấy đều mê hoặc
Nghĩa là dùng huân tập
Dối sinh năng, sở thủ
Thể chẳng, như ảo thuật
Chẳng quáng nắng, lông tròn
Chẳng sinh, chẳng không sinh
Không tánh, không xa lìa
Có, không, đều không tánh
Dài ngắn cũng như vậy.
Kẻ trí quán việc giả
Thảy đều do ảo thuật
Chưa từng có một vật
Đồng khởi lên với huyễn
Hữu tình đã phân biệt
Như huyễn mà vẫn thấy
Tướng quáng nắng, lông tròn
Cả hai không thể có
Lìa một, không có hai
Không đời trước, đời này
Đều do thức biến khác
Không giả, không giả tên
Các tánh không nắm bắt
Là giả, giả làm ra
Kẻ thế gian mê hoặc
Tâm đó không tự tại
Dối nói có thể giả
Giả thành đủ các vật
Chuyển động và qua lại
Tuy có nhưng không thật
Như sắp gặp nam châm
Bị hút nên di chuyển
Tạng thức cũng như vậy
Tùy theo loại phân biệt
Tất cả các thế gian
Không nơi nào không có
Mặt trời, ngọc Ma-ni
Không suy nghĩ, phân biệt
Thức này biến khắp cõi
Thấy nó là lưu chuyển
Không chết cũng không sống
Pháp vốn chẳng lưu chuyển
Như mộng thấy sinh tử
Giác ngộ liền giải thoát
Đó chính là chư Phật
Giáo lý bậc tối thắng
Suy nghĩ tất cả pháp
Như cân, như gương sáng
Chiếu rõ như đèn sáng
Thử nghiệm như vàng đá
Chánh đạo như tướng tiêu
Xa lìa sự mất đứt
Bậc tu tập thắng định
Đều nhờ nhân thanh tịnh
Khiến lìa các tạp nhiễm
Chuyển y mà hiện rõ.

 

Phẩm 7: CẢNH GIỚI NGÃ, THỨC

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, xem khắp mười phương, rồi từ hạt ngọc trên búi tóc, phóng ra luồn ánh sáng lớn, chiếu các thế giới và cung trời Tha hóa tự tại, cùng với các chúng Phật tử ở trong cõi Mật nghiêm xong liền bảo Bồ-tát Nhất Thiết Phật Pháp Như Thật Kiến:

–Này Nhân chủ! Trong núi Tuyết sơn có một con ác thú tên là Năng hại. Nó có trăm ngàn lối biến hóa để lừa bắt các thú. Khi nào thích ăn, nó liền giết để ăn thịt. Nếu gặp những con thú mạnh, có tên là Năng, nó liền cất tiếng gọi: “Này con!” rồi giết mà ăn thịt. Hoặc lúc thấy những con thú có sừng, nó liền hiện ra thú có sừng giống hệt đến gần để làm thân, khiến cho con vật ấy không sợ, rồi lừa giết để ăn thịt. Nếu thấy trâu, dê… vô số các thú nó liền hiện hình giống như chúng rồi tự ý mà giết hại.

Này Nhân chủ! Con Năng hại ấy, hiện ra các thứ thân hình, để giết hại các loại thú. Tất cả ngoại đạo cũng như vậy. Đối với A-lạida, sinh ra các ngã kiến, dính mắc vào ngã tướng, giống như ác thú biến ra vô số hình. Cũng như có rất nhiều kẻ tự tạo đủ loại chấp ngã mà mỗi mỗi đều sai khác, cho đến rất là nhỏ, giống như vi trần.

Này Nhân chủ! Việc chấp ngã này, nương vào đâu mà trụ? Không trụ nơi khác, mà chỉ trụ nơi thức tự tại? Những người chấp ngã nói rằng, ngã cùng với ý, căn, cảnh hòa hợp để có thức sinh ra, ngã vốn không có, như hoa và áo mà hợp lại, liền có mùi thơm; nếu khi chưa hòa hợp, thì áo vốn không có mùi thơm. Cho nên biết rằng: Chỉ có thức tâm và tâm pháp. Nếu lìa thức tâm, tâm sở pháp; liền không có ngã. Như trái cây để trong hủ, như đèn chiếu trong bình, như cỏ Ythi-ca-văn-xà. Nếu muốn có được, chỉ nhờ nhân duyên sinh tâm, tâm pháp; nhưng trong đó, không có ngã, cũng không có sinh, một tướng vi diệu xưa nay vắng lặng. Đó là cảnh giới tự chứng, mà bậc thắng quán hạnh giác ngộ. Như con ác thú kia, đã giết hại và làm thương tổn nhiều sinh vật. Các ngoại đạo cũng giống như vậy, ở thế gian họ nuôi dưỡng, làm tăng truởng ác kiến, không biết đến pháp trí, lại cưỡng ép phân biệt, cho là có, là không, hoặc một, hoặc nhiều lần làm luận về ngã hay ngã sở.

Vì sao? Vì do không giác ngộ tánh duy thức vậy, chỉ khát khao nghĩ đến tuệ đang qua lại, chạy nhảy, sống chết, lưu chuyển; lại xa lìa chư Phật, Bồ-tát, bạn lành, chống đối lại với giải thoát, chánh tuệ dao động, không thể tu giữ tám chi Thánh đạo; đối với ba thừa, cho đến Nhất thừa, hoàn toàn không thể chứng đắc. Do khởi lên sự dính mắc, nên không thấy được Thánh đế, đối với danh từ Mật nghiêm, còn không thể nghe được, huống chi nơi đó, mà có thể đến được.

Này Nhân chủ! Các bậc có định sâu dày đối với thức này, đều trừ sạch ngã kiến. Vậy ngươi và các Đại Bồ-tát, cũng nên làm như vậy. Tự mình đã không siêng tu, lại còn nói cho người khác nghe nữa, khiến cho họ mau nhập vào cõi Mật nghiêm của Phật.

 

Phẩm 8: A-LẠI-DA CHÍNH LÀ MẬT NGHIÊM

Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Làm rõ tạng thức này
Chính là nghĩa Mật nghiêm
Bèn bảo Như Thật Kiến:
Như nam châm hút sắt
Thường hay tự chuyển động
Như định tánh xe uẩn
Chuyển động do tập khí
Cỏ, cây, đất và tre..
Nhờ dây buộc thành nhà
Hòa hợp nên thấy được
Thân uẩn cũng như vậy
Khởi thi, nam châm, sắt
Chuyển động như hữu tình!
Tất cả đều như vậy
Đó là uẩn vô ngã.
Khi Bồ-tát Bảo Thủ
Thưa với vua Chúng Sắc:
Nay vua nên thưa hỏi
Bậc định Kim Cang Tạng.
Tất cả các thế gian
Với các thức có được
Không hiểu lìa nơi giác
Xa lìa lời nói đúng
Tương ưng, không tương ưng
Danh tự của hai thứ
Mà thế gian sở hữu
Tự tánh làm sao trụ?
Các Phật tử hội này
Chuyên lòng, đều muốn nghe
Vua Chúng Sắc tối thắng
Liền theo nghĩa mà hỏi
Danh tương và cảnh giới…
Tất cả pháp thế gian
Đều chỉ là phân biệt
Hay là lìa phân biệt?
Đã lập danh như vậy
Danh ấy nương đâu trụ?
Kim Cang Tạng nghe xong.
Liền bảo vua Chúng Sắc:
Tất cả chỉ có danh
Cũng do tưởng lập ra
Từ năng thuyên đã khác
Nên sở thuyên không có
Bốn uẩn chỉ tên gọi
Cho nên nói là danh
Như tên Ma-nạp-bà
Có tên không có thể.
Chư Phật và Phật tử
Nói danh chỉ tại tướng
Lìa tướng mà có danh
Không thể có phân biệt
Cho nên nương nơi tướng
Phân biệt có các danh
Như chưa biết sừng thỏ
Giả danh không thể được
Với tướng vốn không có
Kẻ ngu vọng phân biệt,
Thế gian cũng như vậy
Lìa tướng, không có tên
Bình, áo và xe cộ
Do tên gọi, phân biệt
Sắc tướng tuy nói được
Thể tánh vốn không có
Các sắc pháp thế gian
Ngoài tướng, chẳng có gì
Chỉ dựa tướng đặt tên
Tên ấy cũng không thật
Vua nên xem thế pháp
Lìa danh vốn không có
Bởi dùng tâm phân biệt
Mới sinh ra dính mắc
Nếu lìa sự phân biệt
Dính mắc liền không sinh
Không sinh là chuyển y
Chứng được pháp vô tận.
Cho nên, này Đại vương!
Thường phải nên quán tưởng
Chỉ là tâm phân biệt
Lìa nó liền có không
Hình tướng thể tăng trưởng
Tan mất chất và thân
Các tên gọi như vậy
Đều là tưởng của sắc
Danh tướng và phân biệt
Thể tánh vốn không khác
Tùy theo cách thế tục
Mà đặt tên khác nhau
Nếu xa lìa danh tự
Mà cầu nơi vật thể
Quá khứ và vị lai
Thảy đều không thể được
Do các thứ chuyển biến
Không có pháp sở tri
Sở tri chỉ là danh
Thế gian đều như vậy
Gọi là pháp phân biệt
Pháp không xứng với danh
Tánh các pháp như vậy
Không trụ nơi phân biệt
Vì pháp chỉ có danh
Nên tướng không thật thể
Tướng không, danh cũng không
Nơi nào có phân biệt?
Nếu được không phân biệt
Thân tâm mãi vắng lặng.
Như lửa đốt củi xong
Cuối cùng chẳng còn cháy
Ví như người gánh vác
Gọi là kẻ gánh vác
Tùy theo gánh vật gì
Tướng người gánh sai khác
Danh như vật được gánh
Phân biệt danh: Người gánh.
Vì danh có rất nhiều
Phân biệt không giống nhau
Như thấy thú là người
Thấy người cho là thú
Phân biệt người và thú
Đó chỉ ở tên gọi
Trong các đại hòa hợp
Phân biệt cho là sắc
Nếu lìa khỏi các đại
Thể hoàn toàn không có
Như đức nương nơi bình
Bình nương danh cũng vậy
Bỏ danh mà lấy bình
Bình hoàn toàn không có
Bình không trụ thể bình
Danh nào trụ nơi danh!
Hợp hai sinh phân biệt
Lượng danh cũng chẳng có
Trụ nơi định như vậy
Tâm đó không lay động
Ví như vàng và đá
Tướng xưa nay không nước
Nếu hòa hợp với lửa
Liền có nước lưu động
Tạng thức cũng như vậy
Thể chẳng lưu chuyển pháp
Cùng các thức tương ưng
Nên cùng pháp lưu chuyển.
Như sắc do nam châm
Bị hút nên di chuyển
Cả hai không hề nghĩ
Như thế sẽ hiểu nhau
Lại-da cùng bảy thức
Nên biết, cũng như vậy
Tập khí trói bắt đi
Không người, mà như có
Đầy khắp thân hữu tình
Đến các nơi hiểm trở
Như sắc gặp nam châm
Hút nhau không tự biết.
Hoặc xa lìa hiểm trở
Được an trụ các Địa
Sức thần thông tự tại
Như huyễn Thủ-lăng-nghiêm
Cho đến Đà-la-ni
Thứ gì cũng thành tựu
Khen thật công đức Phật
Rồi lễ Phật cúng dường
Hoặc hiện vô lượng thân
Một thân vô lượng tay
Vai đầu miệng và lưỡi
Đều trở thành vô lượng
Đi đến mười phương cõi
Cúng dường các Như Lai
Mưa hoa và y phục
Mũ đội và chuỗi ngọc
Các thứ báu trang nghiêm
Chứa cao như Tu-di..
Cúng dường Tát-bà-nhã (Nhất thiết trí)
Phật và các Phật tử
Hoặc làm cung điện quý
Như mây đủ các màu
Hóa hiện các Thiên nữ
Vui chơi ở trong đó
Ca nhạc đủ tiếng hay
Cúng dường các Đức Phật
Hoặc cùng Phật, Bồ-tát
Sự vui thường đủ cùng
Tất cả các ma oán
Tự tại mà hàng phục
Được trí Thánh tự giác
Dùng chánh định trang nghiêm
Đã chuyển với sở y
Liền thấy pháp vô ngã
Năm pháp, ba tự tánh
Cùng với tám loại thức
Có thể thành các minh
Trụ định, luôn cúng dường
Hoặc hiện thân to lớn
Hoặc hiện như hạt bụi
Vô số các sắc thân
Cúng dướng các Đức Phật
Hoặc thân vào các cõi
Vào trong cõi hạt cải
Biển lớn dấu chân trâu
Dấu trâu hoặc là biển
Các hữu tình trong đó
Không bị sự bức não
Bình đẳng bày vật dụng
Như đất và nhật, nguyệt
Như nước và gió lửa
Như cõi quý nhạc hay
Rộng làm các lợi ích
Nuôi lớn các hữu tình
Các pháp không sinh diệt
Không đoạn, cũng không thường
Không một, cũng không khác
Không đến, cũng không đi
Dối đặt đủ thứ tên
Đó là tánh Biến kế.
Các pháp giống như huyễn
Như mộng và Càn thành
Quáng nắng, trăng trong nước
Vòng lửa với điện chớp
Trong đó vọng sở thủ
Đó là tánh Biến kế.
Đủ thứ tên nêu ra
Để gọi đủ thứ pháp
Với nó không thể được
Đó là tánh Biến kế.
Tất cả pháp thế gian
Không lìa nơi danh sắc
Nếu lìa nơi năng thuyên
Sở thuyên, không thể có
Tánh Biến kế như vậy
Ta nói là thế gian
Nhãn với sắc làm duyên
Ba nhân hòa hợp, khởi
Tiếng theo dùi trống phát
Mộng từ đất mọc ra
Cung điện và bình áo
Đâu chẳng nhờ duyên khởi
Hữu tình và các pháp
Đều do tánh nương người
Nếu pháp là vô lậu
Nghĩa ấy không thể bỏ.
Cảnh Thánh trí tự giác
Đó là tánh chân thật
Tướng các pháp sai biệt
Nói nó là tự tánh
Nếu lìa tự tánh môn
Các pháp không rõ ràng
Như các vật hòa hợp
Hiện làm hình ảo thuật
Các sắc tuy không đồng
Tánh đều không quyết định
Việc đời đều như vậy
Tất cả đều chẳng thật
Do vọng tình sở chấp
Biến kế nào có gì!
Ví như ngọc Ma-ni
Theo sắc mà tượng hiện
Thế gian cũng như vậy
Chỉ tùy phân biệt có
Thể dụng không nơi trụ
Đó là tánh Biến kế
Như hành Càn-thát-bà
Chẳng thành mà thấy giống
Cũng chẳng phải không nhân
Mà hay thấy như vậy.
Các thứ vật thế gian
Nên biết, cũng như vậy
Nhật nguyệt các cung điện
Các núi và Bảo sơn
Tướng khói mây chạm nhau
Chưa từng có tạp loạn
Không cộng, không ta, người
Thể tánh đều chẳng có
Chỉ là sở phân biệt
Tự tánh của biến kế
Các vật chẳng nhân sinh
Cũng chẳng không có nhân
Hoặc có, hoặc chẳng có
Đều do tình nắm giữ
Danh nương tiếng mà có
Cả hai, phân biệt sinh
Chánh trí và Như như
Xa lìa nơi phân biệt
Tâm như tiếng hiện rõ
Tướng là chỗ ý nương
Ý cùng năm tâm sinh
Giống như sóng trên biển
Tập khí, không có đầu
Cảnh giới cũng như vậy
Tâm do tập khí sinh
Cảnh khiến tâm hoặc loạn
Nương tựa A-lại-da
Tất cả các chủng tử
Tâm hiện như cảnh giới
Nên nói là thế gian
Bảy thức, A-lại-da
Dần dần hỗ tương sinh
Tám loại thức như vậy
Không thường, cũng không đoạn
Tất cả các thế gian
Tựa như có sắp đặt
Các chúng sinh có chấp
Ngã, ba thứ hòa hợp
Phát sinh đủ thứ thức
Biết rõ nơi các cảnh
Hoặc có lời dối trá
Hoặc tạo nghiệp làm nhân
Được sinh nơi Phạm thiên
Trong ngoài các thế gian
Thế gian chẳng tác giả
Tạo nghiệp và vi trần
Chỉ là A-lại-da
Biến hiện tựa như cảnh.
Tạng thức chẳng duyên tạo
Tạng cũng chẳng tạo duyên
Các thức tuy lưu chuyển
Không có ba hòa hợp
Thể Lại-da thường trú
Cùng câu hữu các thức
Như bánh xe thủy tinh
Cũng như sao với trăng
Từ đó sinh tập khí
Tự tăng trưởng đổi mới
Lại tăng trưởng thêm ra
Thức khác cũng như vậy
Sinh tử chuyển như thế
Người ngộ, tâm không chuyển
Giống như lửa đốt cây
Dần dần mà chuyển dời
Cây này đã cháy xong
Lại cháy qua cây khác
Nương tựa A-lại-da
Tâm vô lậu cũng vậy
Trừ dần các hữu lậu
Chấm dứt pháp luân hồi.
Đó là hiện pháp lạc
Thành tựu Tam-ma-địa
Các Thánh từ đó sinh
Cõi này đến cõi khác
Ví như vàng rất đẹp
Tai mắt không thể thấy
Bậc trí khéo đào luyện
Mới trở thành vàng ròng
Tạng thức cũng như vậy
Bị tập khí đeo bám
Tam-ma-địa trừ sạch
Giác ngộ, thường thấy rõ.
Như dầu, sữa chưa trộn
Không thể có đề hồ
Cho nên các bậc Trí
Dầu sữa làm đề hồ.
Tạng thức cũng như vậy
Bị các thức bám che
Các bậc Định Mật nghiêm
Siêng quán mới đạt được
Mật nghiêm rất là sáng
Là diệu trí đặc thù
Phật tử siêng tu tập
Sinh vào trong cõi này
Cõi Sắc, cõi Vô sắc
Không thức, Phi phi tưởng
Với họ thường siêng tu
Mới sinh đến cõi đó
Các Phật tử trong ấy
Chói sáng như trời, trăng
Tu hành được chánh định
Diễn thuyết đạo tương ưng
Chư Phật, cùng quán đảnh
Truyền cho ngôi vị đó
Pháp Như Lai đã chứng
Hễ thấy liền chuyển y
Ở đạo tràng Mật nghiêm
Ứng vật mà biến hóa
Tùy người ưa thích pháp
Trụ trên không diễn nói.
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Lại bảo đại chúng rằng
Lại-da từ vô thủy
Do hý luận huân tập
Bị các nghiệp trói buộc
Luân chuyển đến vô cùng
Cũng giống như biển cả
Gió làm nổi sóng lên
Mãi mãi sinh và diệt
Không đoạn cũng không thường
Do không ngộ tự tâm
Tùy thức hiện cảnh giới
Nếu hiểu rõ tự tâm
Như lửa đốt hết củi
Thông đạt với vô lậu
Mới gọi là Thánh nhân
Tạng thức biến các cảnh
Bao trùm cả thế gian
Ý chấp ngã, ngã sở
So nghĩ luôn lưu chuyển
Các loại thức sai khác
Chúng đều rõ tự cảnh
Tích tập nghiệp làm tâm
Rộng, chứa, nhóm, gọi ý
Hiểu rõ ràng gọi thức
Năm thức giữ lấy cảnh
Như mắt nhặm thấy hoa
Tùy thấy mà mê hoặc
Tựa như sắc trong tâm
Chẳng sắc, cho là sắc
Ví như ngọc Ma-ni
Ánh nhật, nguyệt chiếu sáng
Tùy đó mà ứng hiện
Hiển lộ ra từng loại
A-lại-da cũng vậy
Tạng thanh tịnh Như Lai
Hòa hợp nơi tập khí
Biến hiện khắp thế gian
Cùng vô lậu tương ưng
Mưa các pháp công đức
Ví như sữa biến khác
Thành dầu hay nước dầu
Tạng thức cũng như vậy
Biến tựa như các sắc
Như mắt nhặm thấy hoa
Hữu tình cũng như vậy
Tập khí ác lâu ngày
Trong mắt trụ tạng thức
Đối với các phi sắc
Thấy nó là các sắc
Giống như với quáng nắng!
Xa lìa sự có không
A-lại-da lại hiện
Nhân giả nương nhãn sắc
Sinh thức tựa như sắc
Như huyễn ở trong mắt
Biến động giống hơi nắng
Sắc đề là tạng thức
Cùng sắc, tập, tương ưng
Thể biến tựa phi hữu
Kẻ ngu phân biệt dối
Nên mê say buông thả
Ngồi, nằm hay điên chạy
Bỗng khởi các sự nghiệp
Đều là Lại-da thức
Giống như mặt trời nóng
Ánh sáng chiếu mặt đất
Bốc hơi như dòng nước
Thú khát nước chạy đến
Lại-da cũng như vậy.
Thể tánh chẳng phải sắc
Như in tuồng sắc hiện
Ác giác vọng sinh chấp
Như nam châm hút sắc
Bị di chuyển rất mau
Tuy là không tình thức
Tựa như tình thức động
Thức Lại-da như vậy.
Bị sinh tử thu nhiếp
Qua lại nơi các nẻo
Chẳng ngã, tựa như ngã
Như vật trôi trong biển
Không nghĩ trôi theo dòng
Lại-da không phân biệt
Nương thân mà vận động
Như hai voi đánh nhau
Bị thương vẫn không lùi
Lại-da cũng như vậy.
Dứt nhiễm, không lay chuyển
Ví như hoa sen sạch
Khỏi bùn liền sạch trong
Người trời đều thọ dụng
Ai cũng đều quý kính
A-lại-da cũng vậy
Ra khỏi bùn tập khí
Chuyển y được thanh tịnh
Phật Bồ-tát tôn trọng
Ví như ngọc thù thắng
Kẻ quê mùa xem thường
Nếu làm tua mũ miện
Là vật vua đội đầu
Như vậy thức Lại-da
Là Phật tánh thanh tịnh
Phàm phu mãi tạp nhiễm
Quả Phật luôn giữ gìn
Như ngọc đẹp trong nước
Áo rêu quấn chung quanh
Lại-da nơi sinh tử
Tập khí che không hiện
Với thức Lại-da này
Có hai thủ cùng sinh
Như rắn có hai đầu
Tùy thích, chúng cùng bò
Lại-da cũng như vậy
Cùng đủ các sắc tướng
Tất cả các thế gian
Ôm giữ, cho là sắc
Kẻ ác giác mê hoặc
Cho là ngã, ngã sở
Hoặc có, hoặc không có
Tự tại tạo thế gian
Lại-da, tuy biến hiện
Thể tánh thường sâu xa
Đối với người không biết
Tất không thể hiểu rõ
Ví như nhà ảo thuật
Giả làm đủ thứ thú
Hoặc đi hay hoặc chạy
Giống thật chẳng phải thật
A-lại-da cũng vậy
Thế gian là giả tạo
Tất cả các hữu tình
Thể tánh không chân thật
Phàm phu không thể hiểu
Vọng sinh mà ôm giữ
Khởi thắng tánh vi trần
Có, không khác, phân biệt
Cùng đối với Phạm thiên
Và trượng phu… các kiến
Phân biệt đều là ý
Phân biệt ở thế gian
Cái thấy phân biệt này
Xưa nay vốn không thật
Như chất trong tranh vẽ
Như màu sắc cầu vòng
Cùng với vật trong mây
Mắt nhặm thấy hoa đốm
Dáng ngưới nữ soi gương
Như mộng thấy các màu
Như tiếng vang đế cung
Bóng cây và Càn thành
Lúc nóng thấy quáng nắng
Hình trăng sáng trong ao
Suy tính được như vậy
Với Lại-da vọng thủ!
Khi quán sát như thế
Hiểu rõ chỉ tạng thức
Liền đạt tướng thế gian
Làm chỗ nương các pháp
Là các kiến phân biệt
Đều chuyển diệt tức thì
Lại-da với ý này
Các pháp nương tập khí
Thường bị sự phân biệt
Nên tâm bị khuấy nhiễu
Nếu lìa sự phân biệt
Liền thành đạo vô lậu
Mãi luôn không biến đổi
Giống như là hư không
Nếu với tất cả Lại-da
Đạt được Tam-ma-địa
Liền sinh pháp vô lậu
Định Như ý giải thoát
Cùng với bốn Vô úy
Mười Lực và khéo léo
Tự tại với thần thông
Các công đức như vậy
Khởi mười nguyện rốt ráo
Ý thành thân vi diệu
Vĩnh viễn chuyên sở y
Thức giới luôn an trụ
Thể tánh đồng hư không
Không mất cũng không hết
Như Lai đều thấy rõ
Thế gian không tăng giảm
Hữu tình cũng không sinh
Niết-bàn cũng chẳng diệt
Cõi này và cõi khác
Đồng với một pháp tánh
Chư Phật hiện ở đời
Hay không hiện ở đời
Pháp tánh vốn luôn trụ
Không thường cũng không đoạn
Lại nếu người giải thoát
Mà cõi hữu tình diệt
Tức phá hoại Như Lai!
Trí tánh của hết thảy
Cảnh chư Phật ba đời
Không được sự bình đẳng
Lại nếu Bát-niết-bàn
Mà cõi hữu tình diệt
Thì ai lìa sự khổ!
Được hữu dư, vô dư
Hàng phục ma, tà kiến
Lẽ nào đều nói dối?
Cho nên phải biết rằng
Các bậc Thắng quán hạnh
Nếu chứng được giải thoát
Thân họ sẽ luôn trụ
Mãi lìa các thủ uẩn
Diệt trừ các tập khí
Ví như lấy sắc nóng
Bỏ vào trong nước lạnh
Sức nóng tuy đã hết
Thể của sắc không hoại
Các Nhân giả! Nên biết
A-lại-da như biển
Thường vì sự hý luận
Như gió mạnh kích động
Năm pháp, ba tự tánh
Liên tục thành sóng thức
Cái có ở cảnh giới
Tướng nó như lay động
Ở trong chỗ vô nghĩa
Giống nghĩa, không thật thể
Nếu biết tất đều không
Chuyển y mãi không hết
Như trăng nơi Mật nghiêm
Ảnh hiện khắp mười phương
Nên biết thức Lại-da
Hành ở rừng rậm uẩn
Mạt-na dẫn đường trước
Ý thức phải quyết định
Sắc với tất cả cảnh
Cùng với thân năm thức
Và căn cảnh hòa hợp
Hiểu cảnh giới đang vậy
Sở thủ của tự cảnh
Đều là A-lại-da
Tạng thức và thọ noãn
Cùng tánh, xúc hòa hợp
Mạt-na nương thức này
Thức lại trụ nơi ý
Năm chủng thức còn lại
Cùng trụ căn của mình
Tâm ý và các thức
Mà an trụ nơi uẩn
Bị nghiệp tập trói buộc
Lưu chuyển vô cùng tận
Như vậy tất cả nghiệp
Đều do nơi tham ái
Do vì nghiệp, thọ thân
Lại dùng thân tạo nghiệp
Khi xả thân này rồi
Lại thọ lấy thân khác
Vì nương nhân trước sau
Chậm chạp đi như đỉa
Tâm và các tâm sở
Liên tục sinh các nẻo
Lại tích tập dần dần
Ở rừng rậm các uẩn
Thọ noãn cùng với thức
Nếu xả bỏ nơi thân
Thân chắc không hay biết
Giống như cây trong đá
Tạng thức chính là tâm
Chấp ngã gọi là ý
Hay giữ các cảnh giới
Cho nên nói là thức
Gom chọn nghiệp là tâm
Ý gom chọn cùng khắp
Ý thức hiểu cùng khắp
Năm thức đang phân biệt
Tâm lại giữ nơi thân
Mạt-na cho các nẻo
Ý thức hiểu cùng khắp
Năm thức duyên tự cảnh
Lấp tạng thức làm chân
Từ đó sinh thức khác
Ý, sở duyên ý thức
Lưu chuyển không gián đoạn
Năm thức lại chờ đợi
Tăng thượng duyên để sinh
Đồng sự, tự căn sự
Đó chính là tăng thượng
Thân này như thây đứng
Như trời nóng thấy bóng
Tùy hành, nhân duyên chuyển
Chẳng giả, cũng chẳng thật
Nó bị thọ dẫn dắt
Tánh không, không có ngã
Ý và các thứ chuyển
Cùng với tâm cộng sinh
Năm thức lại nương tựa
Ý thức làn nhân khởi
Như vậy tất cả lúc
Đại địa đều cùng chuyển
Lại-da bị ái dục
Huân tập, nên tăng trưởng
Đã tự tăng trưởng rồi
Lại tăng thêm thức khác
Mãi mãi không đứt lìa
Giống như cái giếng tròn
Bởi vì có các thức
Nên sinh khởi các nẻo
Ở trong các nẻo này
Các thức lại tăng trưởng
Thức cùng pháp thế gian
Lại hỗ tương làm nhân
Giống như nước sông chảy
Trước sau không gián đoạn
Như mầm và hạt giống
Liên tục mà chuyển sinh
Đều có tướng sai biệt
Rõ ràng mà hiện ra
Hành thức cũng như vậy.
Cả ba đã hòa hợp
Rồi lại hòa hợp nữa
Tướng sai biệt mới sinh
Cứ vậy mà lưu chuyển
Luôn không bị dứt lìa
Tất cả pháp trong ngoài
Đều do vậy mà khởi
Ngu không biết do tâm
Các ngươi siêng quán sát.
Lúc đó vua Chúng Sắc
Lại hướng Kim Cang Tạng
Mà thưa lời như vầy:
Kim Cang Tạng Vô Úy
Khéo nhập vào Mật nghiêm
Hay diễn tất cả pháp
Phật và các Phật tử
Chánh định mà tư duy
Kỳ lạ không gì bằng
Hiện rõ nơi pháp tướng
Kim Cang Tạng Vô Úy
Đã thấy mới tuyên thuyết
Ngài ở cung Ma-ni
Ngồi tòa sư tử đẹp
Tối thắng tử vây quanh
Trụ trong định Mật nghiêm
Mong vì các Phật tử
Nói thắng pháp Du-già
Đây là Nguyệt Tràng Phật
Nơi giảng khai cho chúng
Chúng ấy đang đến đây
Mong diễn nói không mỏi
Như Lai Nguyệt Tràng ấy
Cũng hiện nhiều thần biến
Ở cung điện Dục giới
Và ở trong Sắc giới
Có Phật tử vây quanh
Chư Thiên đều hộ vệ
Đã nói về thắng lý
Pháp Mật nghiêm vô úy.
Các bậc Du-già ấy
Nghe nói như vậy xong
Được Thánh trí tự giác
Cảnh giới của nội chứng
Sợ hãi Ni-dạ-ma
Và cái vui chánh vị
Không trụ nơi thật tế
Trong định giúp quán sát
Mà đều nghĩ như vậy
Ai đã chứng thật tướng
Bậc đứng đầu quán hạnh
Mong được thấy người này
Chúng này đều một lòng.
Rồi lại suy nghĩ rằng:
Thế nào là định đúng
Sao gọi là định sai
Vả lại định cái gì?
Và lại dùng pháp gì?
Làm định phải chờ duyên?
Này tất cả Phật tử:
Lại định cái gì ư!
Dùng sức Tam-ma-địa
Thấy trong cõi Mật nghiêm
Tối thắng tử thanh tịnh
Vua của chúng Bồ-tát
Trên đầu đội nón báu
Đủ ba hai tướng tốt
Và vẻ đẹp dáng hình
Để dùng mà nghiêm sức
Các chúng Phật tử ấy
Thảy đều từ định khởi
Đeo ngọc báu vi diệu
Từ vô lượng cõi Phật
Mà đến với cõi này
Đều cùng đem một lòng
Chiêm ngưỡng Kim Cang Tạng:
Bậc Đại lực Du-già
Chúng ấy đều suy nghĩ:
Cầu cho được pháp lạc
Kim Cang Tạng thấy xong
Nhìn khắp cả bốn phương
Phát tiếng nói hòa nhã
Mỉm cười mà bảo rằng
Này hỡi các Phật tử,
Hãy một lòng lắng nghe!
Cảnh giới định Du-kỳ (Già)
Sâu xa không nghĩ bàn
Cái biết chẳng phân biệt
Định và duyên cũng vậy
Xa lìa ham muốn xấu
Càng các thứ tán động
Cầm tứ và hỷ lạc
Vắng lặng nhập Sơ thiền
Theo thứ lớp như vậy
Bốn, tám cho đến mười
Các ngoại đạo chấp ngã
Thường tu tập định này
Thanh văn, Bích-chi-phật
Cũng đều làm như vậy
Họ đều biết thế gian
Tự tướng của các Pháp
Uẩn xứ như tụ rỗng
Tất cả đều vô ngã
Không nghĩ, không tác động
Chỉ ba hòa hợp sinh
Như máy móc, thây đứng
Vốn không thể tạo ra
Ngoại đạo tu định này
Khởi thấy ở tánh không
Người này mê pháp tướng
Hủy hoại tất cả pháp
Nếu tu định Phật diệu
Khéo biết uẩn vô ngã
Liền phát thắng phước tụ
Diệt trừ các ác kiến
Tất cả đều do tâm
Không năng tướng, sở tướng
Không giới, cũng không uẩn
Tất cả đều không tướng
Phân tích đến vi trần
Thảy đều không chỗ trụ
Kẻ ngu phân biệt dối
Những tánh của địa, thủy
Không biết tánh của nó
Ôm giữ tướng như vậy
Sắc đẹp và sắc xấu
Tợ sắc, đều như vậy
Như cầu vòng trên không
Mây, ráng, các màu sắc
Suy nghĩ như xương vụn
Đầy khắp cả thế gian
Và quán tưởng biến xứ
Xem xét khắp các đại
Thân có sắc, không sắc
Người định luôn nghĩ kỹ
Nếu duyên vào một tâm
Nói ngay duyên thanh tịnh
Nhưng lúc bị phân biệt
Chính nó thành sở duyên
Chẳng định, chẳng người định
Cứ dối cho là định
Người định, ở trong định
Biết đời đều tạng thức
Pháp và các pháp tướng
Tất cả đều bỏ đi
Đạt được thắng định này
Khéo nói về các định
Phá các người tu định
Trí vọng, pháp sở tri
Nếu người có tuệ kém
Ôm lấy pháp và ngã
Tự cho là thức đế
Khéo léo nói các pháp
Dính mắc các pháp tướng
Hại mình và hại người
Không năng tướng, sở tướng
Vọng sinh, kiến sai biệt
Nước lạnh trừ nóng bức
Đắng chua, mặn và lạt
Vị cay trừ khí lạnh
Mặn hay trừ bệnh phong
Đờm vàng rất đáng sợ
Đồng sinh bệnh sốt rét
Hoặc là chỉ do phong
Hoặc cả ba hòa hợp
Bệnh có nhiều sai biệt
Cổ tiên chế nhiều cách
Thạch mật… gồm sáu phần
Đường các và các vị
Hay trị thân hữu tình
Các thứ bệnh sốt rét
Nếu pháp có tự tánh
Cùng với các thứ tướng
Thuốc không thể trừ bệnh
Người bệnh không thể lành
Vì sao đời đều thấy
Uống thuốc bệnh tiêu trừ
Người định hiểu thế gian
Chỉ là A-lại-da
Biến khác mà liên tục
Thí như các thú giả
Không năng tướng, sở tướng
Không uẩn và uẩn giả
Đức cũng không chi phần
Vậy mà có chi phần
Thế gian không năng tác
Cũng không có sở tác
Thế gian không chứa bụi
Không phương xứ để đến
Ban đầu không chút bụi
Dần dần như ngón tay
Cho đến ba ngón tay
Vật thật hòa hợp, chuyển
Mạt-na đều sai biệt
Nghĩa như vậy đều không
Chẳng thắng tánh tạo chế
Diệt phi thời năng sinh
Cũng chẳng tánh ái lạc
Tới ba pháp sở tác
Cũng chẳng không có nhân
Tự nhiên mà được có
Do nghiệp tập khí này
Khuấy loạn nơi nội tâm
Nương tâm và nhãn căn
Đủ thứ vọng phân biệt!
Ý cùng với ý thức
A-lại-da hữu tình
Hiện khắp nơi thế gian
Như huyễn sư tạo vật
Nếu hay nhập duy thức
Tức là chứng chuyển y
Nếu nói về không tánh
Là biết tướng duy thức
Cái bình vốn không cảnh
Thể tướng do tâm tạo
Chẳng bình hiện tựa bình
Cho nên nói là không
Các cảnh sắc thế gian
Và cung điện chư Thiên
Biến khác nên thấy được
Đều là A-lại-da
Có được thân hữu tình
Từ đầu đến tay chân
Sinh liền hoặc dần dần
Đều là A-lại-da
Tập khí ô nhiễm tâm
Phàm phu không hiểu rõ
Tánh đó chẳng phải có
Cũng lại chẳng phải không
Như người dùng các vật
Đập phá cái bình vậy.
Vật thể nếu là không
Thì đập phá không thể
Ngã như núi Diệu cao
Cái thấy không ngăn ngại
Kiêu mạn mà chấp không
Lỗi ác này hơn núi
Tự xứ phải tương ưng
Phi xứ không nên nói
Nếu nói với phi xứ
Cam lộ liền bị độc
Tất cả các hữu tình
Sinh ra các thứ kiến
Vì muốn đoạn các kiến
Cho nên nói lý không
Nghe không, chấp là thật
Không thể đoạn các kiến
Kiến này không thể trừ
Như mắt nhặm đã lành
Ví như lửa đốt cây
Cây hết lửa không còn
Thấy cây đã cháy xong
Lửa rồi cùng phải diệt
Khi các kiến đã diệt
Sinh ra lửa trí tuệ
Thiêu hết củi phiền não
Tất cả đều thanh tịnh
Mâu-ni do trí này
Mật nghiêm được giải thoát
Không thấy sừng của thỏ
Xúc hoại nơi núi lớn
Thạch nữ không có con
Cầm mũi tên bắn vật
Chưa nghe muốn chiến đấu
Lại dùng cung sừng thỏ!
Huống gì con Thạch nữ
Mà tạo được nhà cửa.
Tất cả pháp tánh không
Thường đồng thể với pháp
Khi mới vào thai tạng
Sắc sinh liền hoại diệt
Lìa không, không có sắc
Lìa sắc, không có không
Như trăng và ánh sáng
Trước sau mãi không khác
Các pháp cũng như vậy
Không tánh cùng là một
Dần dần không sai biệt
Việc làm đều thành tựu
Thân này như tử thi
Xưa nay không tự tánh
Dây tham ái trói buộc
Bị cảnh giới dẫn đi
Nói lý vi diệu không
Để thanh tịnh các kiến
Người có trí tuệ ấy
Cần phải một lòng học
Ví như công huyễn sư
Dùng các sức chú thuật
Cây cả và các vật
Tùy ý tạo đủ thứ
Nương vào căn và ái
Sắc sáng và tác ý
Phát sinh ra thức sáng
Ánh lửa ảo, không thật
Thức này chẳng nơi đến
Cũng chẳng về phương nào
Tánh các thức là vậy
Đắm bất biến hữu vô
Như hoa đốm, sừng thỏ
Và con của Thạch nữ
Xưa nay không có thể
Giả tạo ra tên gọi
Sư tử, cọp và gấu
Ngựa lừa và lạc đà
Rùa trạch và đồi mồi
Tất cả đều không sừng
Vì sao không phân biệt
Chỉ nói thỏ không sừng!
Người đàm luận tối thắng
Vì sao không thành lập
Nhờ trí tuệ hiện rõ
Họ khỏi phân biệt sai
Bọn ngoại đạo mê hoặc
Như người câm điếc
Họ không trí siêu độ
Cũng không pháp nội chứng
Chỉ theo người ngữ chuyển
Dùng phân biệt làm gì?
Nếu vọng khởi phân biệt
Không sinh nơi Mật nghiêm
Người định được đẳng chí
Nên sinh về nước này
Ví như cung điện trời
Trời, trăng và các sao
Xoay quang núi Diệu cao
Đều do sức gió chuyển
Bảy thức cũng như vậy
Nương vào A-lại-da
Bị tập khí nắm giữ
Nơi nơi luôn lưu chuyển
Ví như nương đại địa
Các cây cỏ được sinh
Kể cả các hữu tình
Cho đến các châu báu
A-lại-da là vậy
Là chỗ nương các thức
Ví như chim Khổng tước
Lông có nhiều màu sắc
Trống mái cùng ái lạc
Hót múa cùng vui chơi
A-lại-da là vậy
Chủng tử và các pháp
Qua lại nương nhau trụ
Người định hay quán thấy
Ví như trăm sông chảy
Ngày đêm về biển cả
Các dòng nước chảy mãi
Biển cũng không phân biệt
A-lại-da là vậy
Sâu xa không bến bờ.
Tập khí của các thức
Ngày đêm thường trở về
Như đất có báu vật
Vô số sắc tướng đẹp
Các hữu tình thọ dụng
Tùy phước mà chiêu cảm
A-lại-da là vậy
Cùng với các phân biệt
Tăng trưởng sự sinh tử
Chuyển y thành Chánh giác
Khéo tu hạnh thanh tịnh
Vượt qua khỏi mười Địa
Nhập vào trong Phật địa
Mười Lực đều tròn đầy
Chánh trụ nơi thật tế
Mãi mãi không hoại diệt
Biến hóa hiện các thứ
Như đất không phân biệt
Mùa Xuân các hoa tươi
Người, chim đều vui thích
Nắm giữ thức cũng vậy
Người định, nhiều mê chấp
Như vậy các Phật tử
Không tuệ, lìa chân thật
Với nghĩa không khéo biết.
Lời dối, sinh quyết định
Lời phi pháp, ly gián
Mê hoặc dối hữu tình
Trụ các pháp dị biệt
Rồi cá biệt, nói năng.
Ví như nhà ảo thuật.
Khéo dùng các chú thuật
Hiện đủ các thứ hoa
Bông trái thật không có
Phật, Bồ-tát là vậy
Trí phương tiện khéo léo
Trụ riêng biệt thế gian
Riêng biệt mà biến hiện
Thuyết các thứ giáo môn
Khuyên dạy vô cùng tận
Quyết định pháp chân thật
Trong Mật nghiêm hiện rõ
Sáu cõi và mười tám
Mười hai xứ trượng phu
Bị dây ý trói buộc
Nên hữu tình lưu chuyển
Tám thức, các giới xứ
Cùng khởi mà hòa hợp
Do nơi ý trói chuyển,
Thân trước rồi thân sau
Trượng phu này lưu chuyển
Theo nhân đời, hiện ra
Với tất cả thân này
Sinh mãi không dứt sạch
Sáu cõi và trượng phu
Cùng với mười hai xứ
Ý hành, mười tám giới
Nói đó là tự tại
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Nói về các giới xứ
Và nghĩa trượng phu xong.
Cung thanh tịnh Tha hóa
Bảo Tạng điện Ma-ni
Các Phật tử không sợ
Thảy đều cúi đầu lạy
Phật Bồ-tát phương khác
Đến ở trong hội này
Thảy đều cùng nhau nói
Lời khen ngợi: Lành thay!
Lại có các Bồ-tát
Chư Thiên và Thiên nữ
Đều từ tòa đứng dậy
Chắp tay lòng cung kính
Và cùng nhau chiêm ngưỡng
Mới nói lời như vầy:
Bậc đứng đầu trong định
Khéo vì các Bồ-tát
Nói tốt nghĩa trượng phu
Lìa lý luận ngoại đạo
Tối thắng tử tuyên thị
Trượng phu sạch sáu giới
Chỉ là các giới hợp
Theo nhân mà lưu chuyển
Ví như các chim bay
Hiện dấu chân trong không.
Lại như lìa khỏi cây
Mà lửa được bốc cháy
Thấy dấu chim không trung
Lìa cây mà có lửa?
Ta và các thế gian
Chưa từng thấy việc này
Chim bay nhờ cánh đập
Không trung không dấu chân
Nhân giả nói trượng phu
Cũng giống dấu chân chim
Vì sao với các hữu
Có được nghĩa luân hồi
Mà nói giới, trượng phu
Thường lưu chuyển sinh tử
Thọ các quả khổ vui?
Nghiệp đã làm không mất
Như nông dân cày ruộng
Bỏ công không hề mất
Quả này đã thành thục
Có thể sinh quả sau
Thân ấy ở trong thân
Mà tu các hạnh thiện
Chỗ đời truớc đời sau
Luôn thọ vui trời, người
Luôn tu hành phước đức
Chuẩn bị để thành Phật
Giải thoát và các Độ
Thành được vô thượng giác
Quả sinh trời Tự tại
Quán hành thấy chân ngã
Nếu bỏ đường trượng phu
Tất cả đều chẳng có
Với nghiệp, nghiệp quả báo
Đã làm không hư mất
Dưới đến ngục A-tỳ
Trên đến các cõi trời
Là con đường trượng phu
Lưu chuyển nơi sinh tử
Trong ngoài các thế gian
Giống hiện mầm sinh quả
Pháp này cũng như vậy
Kia từ nơi đây sinh
Nếu lìa đường trượng phu
Mà có sự luân hồi
Như nói con Thạch nữ
Oai nghi có tới lui
Sừng thỏ có vuốt nhọn
Từ cát ép ra dầu.
Trong hội các Bồ-tát
Chư Thiên và Thiên nữ
Nói lời như vậy xong
Cúng dường Bậc Ứng Cúng
Là ngài Kim Cang Tạng
Và các chúng Bồ-tát
Việc cúng dường đã xong
Đồng thưa lời như vầy
Bậc đầy đủ pháp nhãn
Nhân, dụ đều rõ ràng
Bẻ gãy các dị luận
Lỗi các tông, ngoại đạo
Đã hàng phục họ xong
Liền hiện ra tông mình
Thật là đại dũng mãnh
Xin ngài sớm khai diễn
Chúng con đều thích nghe
Bậc Đại Tuệ tuyên thuyết
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Thấy chư Thiên thưa hỏi
Liền bảo lời như vầy:
Này hỡi các Thiên nhân
Nên một lòng lắng nghe
Pháp này sâu, khó nghĩ
Phân biệt, không thể hiểu
Lý Du-già thanh tịnh
Nhân, dụ đã mở bày
Ta hiện nơi Mật nghiêm
Nay nói cho các ngươi
Mật nghiêm rất vi diệu
Chỗ thiền định thù thắng
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Khi nói lời ấy xong
Lại bảo với Đại thọ
Vua Khẩn-na-la rằng:
Đại thọ Khẩn-na vương
Ngươi hãy nên quán sát
Vì sao các pháp tánh
Tánh không, không có được
Thấy tương ưng như vậy
Với định không mê hoặc
Như ăn hạt lúa chín
Liền biết những hạt khác
Các pháp cũng như vậy
Biết một, biết tất cả
Ví như khi khuấy sữa
Lấy ngón tay để nếm
Như vậy các pháp tánh
Lấy một, quán tất cả
Pháp tánh chẳng phải có
Lại cũng chẳng phải không
Tạng thức đã biến hiện
Tạng lấy không làm tướng.
Đại thọ Khẩn-na vương
Tức thời liền hỏi rằng:
Vì sao trong tâm lượng
Mà có giới trượng phu?
Vì sao sinh các cõi
Kiên thấp cập noãn động?
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Khi nghe lời ấy rồi
Mới bảo như thế này:
Lành thay! Đại thọ vương
Hỏi những lời sâu sắc
Khiến cho người tu định
Được đến chỗ chân thật
Nay ta sẽ nơi cho
Cầm sư nên lắng nghe
Xưa người hóa ta người
Cùng đủ các quyến thuộc
Trống nhạc từ hư không
Đi vào cung điện báo
Các bạn trời như vậy
Đều cùng đến Phật hội
Hòa tấu đờn báu đẹp
Âm thanh rất hòa nhã
Thanh văn ở trong hội
Cùng nói với nhau rằng:
Ta thích thấy Thọ vương
Chúng Khẩn-na vui chơi
Nơi cung điện đang ở
Trang nghiêm toàn ngọc báu
Ngươi tấu đàn lưu ly
Làm mọi người đều thích
Ca-diếp, chúng Thanh văn
Bất giác đứng dậy múa
Do âm nhạc hòa diệu
Không thể giữ được tâm.
Thì Bồ-tát Thiên Quan
Bảo với ngài Ca-diếp:
Các ông đã lìa dục
Vì sao lại nhảy múa?
Bấy giờ, Đại Ca-diếp
Bạch Thiên Quan Đại sĩ
Phật tử có lực lớn
Ví như gió Tỳ-lam
Trí Thanh văn không định
Như hắc sơn lay động
Tùy lìa mê phân biệt
Vẫn nhiễn bùn tập khí
Phần chứng nơi thật tế
Chưa đoạn trừ các tập
Nếu bỏ các thô trọng
Sẽ được chứng Bồ-đề
Ngài, với cảnh vi tế
Khéo đủ các luận, tuệ
Đế Thích tỏ thế gian
Với pháp này, thông đạt
Và Khẩn-na-la luận
Lý Như Lai thanh tịnh
Giỏi về tướng các Địa
Hiểu rõ mà quyết định
Đoan nghiêm trong bảo điện
Cùng quyến thuộc vây quanh
Chói sáng đẹp tịnh nghiêm
Giống như trăng ngày rằm
Quán hạnh được tự tại
Giữa chúng hay hỏi đáp
Hỏi tôi giới trượng phu
Vì sao Từ tâm khởi
Ông và các Phật tử
Đều nên lắng lòng nghe
Như trong các giới ấy
Tâm là gọi là trượng phu
Các giới nhân đây sinh
Đó là nghĩa tôi nói
Tươi mát sinh ra nước
Nóng nhiều sinh ra lửa
Lay động các tác nghiệp
Nhân đó sinh ra gió
Từ ngằn mé của sắc
Có hư không và đất
Thức và các cảnh giới
Tập khí hay sinh thân
Nhãn cùng với các sắc
Tướng trạng đều không đồng
Nó không cửa, tạo cửa
Các hữu, mãi liên tục
Thì bảo tạng Ma-ni
Cung điện của tự tại
Đại Bồ-tát Trì Tấn
Cùng các Tối thắng tử
Đều từ tòa đứng dậy
Cúi đầu mà đảnh lễ
Họ đều cầm hương thơm
Cúng dường Kim Cang Tạng
Phủ lên thành lưới báu
Đồng thanh khen ngợi Phật:
Thánh giả, khéo an trụ
Bồ-tát, địa pháp vân
Ngộ nhập cảnh Như Lai
Ứng hiện thật khó lường
Hãy vì các Đại sĩ
Mở bày thấy biết Phật.
Lúc vua Khẩn-na-la
Cùng với các thể nữ
Cúng dường rồi tán thán
Vô úy Kim Cang Tạng
Cung điện báu Ma-ni
Đạo tràng rất nghiêm tịnh
Vì chúng con giảng nói
Pháp Như Lai vi diệu.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, Đại Bồ-tát Từ Thị, Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi Pháp vương tử, Đại Bồ-tát Thần Thông Vương, Đại Bồ-tát Bảo Kế, Đại Bồ-tát Thiên Quan, Đại Bồ-tát Tổng Trì Vương, Đại Bồ-tát Nhất Thiết Trí Nghĩa Thành Tựu… những Đại Bồ-tát như vậy và vô lượng những vị tu thắng định khác đều là Phật tử, oai đức tự tại, quyết định không sợ, khéo léo mở bày tâm quán hạnh; tất cả đều từ tòa đứng dậy, cùng giúp nhau quán sát, hỏi Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng bằng bài kệ:

Ngài Kim Cang Tự Tại
Hay chỉ bày pháp nhãn
Được chư Phật gia hộ
Bồ-tát đều ngưỡng kính
Khéo đạt nơi địa tướng
Khéo léo mà tạo dựng
Chúng Phật tử sức lớn
Đều đồng tâm khuyên mời
Nguyện Định vương xót thương
Hiện rõ nơi Mật nghiêm
Phật và các đệ tử
Việc sâu xa kỳ lạ
Pháp này rất thanh tịnh
Xa lìa nơi lời nói
Phật, Bồ-tát biến hóa
Xưa chưa từng mở bày
Đã hành trí tự giác
Thấy cõi chân vô lậu
Hiện pháp lạc vi diệu
Thanh tịnh không gì bằng
Đầy đủ Tam-ma-địa
Vô lượng Đà-la-ni
Các giải thoát tự tại
Bảy loại ý thành thân
Sắc thanh tịnh thù thắng
Chiếu sáng cả pháp giới
Thiện Thệ! Không nghĩ bàn
Cõi trang nghiêm cũng vậy
Phật và các Bồ-tát
Thân lượng như cực vi
Đến như đầu sợi lông
Bằng phần trăm của nó
Cõi Mật nghiêm đẹp lạ
Nghiêm thắng trong các cõi
Như vậy bậc Quán hạnh
Đều sinh ở trong đó
Đó là do nhân gì
Xin Phật tử tuyên thuyết?
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Bồ-tát Ma-ha-tát
Thân như sư tử chúa
Đủ hai ba tướng tốt
Các vẻ đẹp trang nghiêm
Sắp muốn rộng mở bày
Quán sát đại hội ấy
Giống như vua Sư tử
Biết chúng thích lắng nghe
Mật chỉ, cổ tiên Phật
Nay ta nói Pháp nhãn
Lìa xa năng, sở giác
Kim Cang Tạng liền nói
Âm thanh Phạm thanh tịnh
Tiếng Ca-lăng-tần-già
Tiếng tướng lưỡi rộng dài
Hay khéo không thô bạo
Tiếng thế gian xưng tụng
Tiếng tóm lược vui lòng
Tiếng giống như chuông ngân
Tiếng cao vút trong sáng
Tiếng như Càn-đà-la
Tiếng hùng dũng, thật thẳng
Kế Thi-ca ai thinh
Tiếng tương ưng ca vịnh
Tiếng mau và tiếng chậm
Tiếng hòa sướng sâu xa…
Đầy đủ các loại tiếng
Cùng tương ưng các đức
Nghe xong liền lìa chấp
Tâm không có mệt mỏi
Tất cả đều hân hoan
Thảy đều thông đạt hết
Tất cả tướng âm thanh
Tự nhiên mà ứng khắp
Không làm, không tốn công
Kim Cang Tạng Bồ-tát
Miệng chưa từng nói gì
Tất cả âm thanh đó
Chỉ do sức bản nguyện
Từ mày tráng và đỉnh
Chót mũi, vai và gối
Giống như sự biến hóa
Tự nhiên xuất tiếng hay
Vì khắp các đại chúng
Mở bày về pháp nhãn
Kim Cang Tạng dũng mãnh
Ở nơi cung Tự tại
Tối thắng tử vây quanh
Thanh tịnh mà nghiêm khiết
Như ngỗng chúa trong ao
Cả bầy ngỗng hầu hạ
Kim Cang Tạng đại định
Ngồi ở tòa Sư tử
Ánh sáng chiếu đến khắp
Tất cả người tu hành
Giống như trăng trên trời
Chiếu sáng các ngôi sao
Như trăng và ánh sáng
Vốn không có sai biệt
Oai đức Kim Cang Tạng
Cùng Phật giống như vậy.
Bấy giờ, Như Thật Kiến
Bậc Bồ-tát đại lực
Tối thắng trong tu hành
Ở nơi đạo Du-già
Liền từ tòa đứng dậy
Quán sát, bảo đại chúng
Lạ thay! Pháp Đại thừa
Cảnh Như Lai vi diệu
Tất cả Phật trong nước
Phật tử nên đảnh lễ
Pháp Vô tư ly cấu
Chư Phật đã quán sát
Rất cao đẹp, hiếm có
Lý Đại thừa thanh tịnh
Cảnh giới chẳng xấu ác
Đạo tốt của chuyển y.
Tám thứ thức sai khác
Ba tự tánh không đồng
Năm pháp, hai vô ngã
Thảy đều được mở bày
Năm loại tập sở duyên
Sinh các vọng phân biệt
Thấy pháp cao đẹp này
Trong sáng như vàng ròng
Người đạt được chân tánh
An trụ dòng giống Phật
Tánh Như Lai cao đẹp
Lìa Thanh văn ngoại đạo
Mật nghiêm cõi đẹp nhất
Người chứng mới đến được
Tôn giả Kim Cang Tạng
Đã chứng Đẳng trì gì?
Nói về pháp nhãn tịnh
Là cảnh Đẳng trì gì?
Vô lượng các Bồ-tát
Lại lạy Kim Cang Tạng
Bậc Đại trí Kim cang
Mong mở bày cho con
Trụ Tam-ma-địa gì?
Có thể nói pháp này
Với các Phật tử đây
Tất cả đều thích nghe
Bấy giờ, Kim Cang Tạng
Ở cung điện Tự tại
Quán sát trong đại hội
Trong tâm ngài nghĩ rằng:
Pháp này khó nghĩ bàn
Cảnh mười Lực thật đẹp
Nhờ tuệ mà thọ trì
Ai có thể lãnh thọ
Và thấy để thọ trì
Đều là con chư Phật
Tức thời liền bảo rằng:
Các ông nên lắng nghe!
Nay ta sẽ nói cho
Đạo đẹp của chuyển y
Ta vì các Phật tử
Chúng Tha hóa tự tại
Nhờ được Tam-ma-địa
Là oai đức Đại thừa
Trụ ở trong định này
Diễn pháp nhãn thanh tịnh.
Cũng thấy ức trần cõi
Bao nhiêu Đức Thiện Thệ
Nhiều Đức Na-dữu-đa
Ở trước mà khen ngợi
Lành thay! Lời Ngài dạy
Đó là đạo Du-già
Chúng con đều thực hành
Tam-ma-địa như vậy
Nhờ đó được tự tại
Thanh tịnh thành Chánh giác
Tất cả Phật, mười phương
Đều từ định này sinh
Nên biết rất thù thắng
Chẳng tư lương mà hiểu
Nếu có các Bồ-tát
Được ở trong định này
Liền trụ không nghĩ bàn
Cánh giới của chư Phật
Chứng được cảnh tự trí
Thấy Phật Tam-ma-địa
Biến hóa trăm ngàn ức
Cho đến như vi trần
Cảnh Thánh trí, tự giác
Chư Phật đã an lập
Pháp này không các tướng
Xa lìa nơi sắc thinh
Danh từ tướng sinh ra
Tướng từ nhân duyên khởi
Cả hai, sinh phân biệt
Tánh các pháp như như
Nơi đó, quan sát khéo
Gọi là bậc Chánh trí
Nói là tánh Biến kế
Tướng nương người khác khởi
Xa lìa nơi danh tướng
Gọi là Đệ nhất nghĩa
Tạng thức trụ ở thân
Tùy nơi mà lưu chuyển
Tập khí như quả núi
Bị ý nhiễm trói buộc
Mạt-na có hai cửa
Ý, thức đồng thời khởi
Năm cảnh hiện tiền chuyển
Các thức thân hòa hợp
Giống như có ngã nhân
Đang trụ ở trong thân
Tạng thức như dòng nước
Bị, gió cảnh giới thổi
Các sóng thức nổi lên
Liên tục mãi không dứt
Phật và các Phật tử
Hay biết pháp vô ngã
Đã được thành Như Lai
Lại tuyên thuyết người khác
Phân tích nơi các uẩn
Thấy người không ngã tánh
Không biết pháp vô ngã
Nên nói là Thanh văn
Chỗ Bồ-tát tu hành
Khéo đạt hai vô ngã.
Quán xong, liền xả bỏ
Không trụ nơi thật tế
Nếu trụ nơi thật tế
Liền bỏ tâm đại Bi
Công nghiệp đều không thành
Làm sao thành Chánh giác
Trí hiếm có khó nghĩ
Lợi khắp các hữu tình
Như sen ra khỏi bùn
Sắc tướng đều trong sạch
Chư Thiên và Thánh nhân
Thấy vậy sinh yêu kính.
Phật Bồ-tát là vậy
Ra khỏi bùn sinh tử
Thành Phật, thể trong sáng
Được chư Thiên kính ngưỡng
Lúc mới thành Bồ-tát
Hoặc làm chuyển luân vương
Hoặc vua Càn-thát-bà
Hoặc vua A-tu-la…
Tỏ ngộ pháp Đại thừa
Được thân hình như vậy
Dần dần mà tu hành
Nhất định được thành Phật
Cho nên, các Phật tử
Phải một lòng tu học
Bao nhiêu pháp tạp nhiễm
Cùng với pháp thanh tịnh
Mãi ở trong sinh tử
Đều do Lại-da chuyển
Nhân này mạnh vô cùng
Bậc chứng thật tuyên thị
Chẳng phải cùng năng tác
Tương tự như tự tại
Thế Tôn nói thức này
Để trừ các tập khí
Tỏ đạt sự thanh tịnh
Lại-da không thể được.
Nếu Lại-da mà được
Thanh tịnh ấy chẳng thường
Như Lai tạng thanh tịnh
Cũng gọi trí vô cấu
Thường trụ không đầu cuối
Lìa câu từ, lời nói
Phật nói tạng Như Lai
Chỉ vì A-lại-da
Tuệ ác không thể biết
Tạng tức thức Lại-da
Tạng thanh tịnh, Như Lai
A-lại-da thế gian.
Như vàng cùng với nhẫn
Cuối cùng không sai biệt
Ví như thợ làm vàng
Dùng vàng tốt sạch đẹp
Làm các đồ trang sức
Để trang điểm nơi tay
Hình tướng có sai khác
Đều nói là chiếc nhẫn
Thánh nhân hiện pháp lạc
Chứng cảnh tự giác trí
Công đức càng thêm lớn
Tự chứng không thể nói
Người hiện pháp các định
Hiểu rõ cảnh duy tâm
Đạt được Địa thứ bảy
Thảy đều được chuyển diệt
Sở duyên của tâm thức
Tất cả cảnh giới ngoài
Thấy các thứ sai biệt
Không cảnh chỉ có tâm
Bình, áo đều là giả
Tất cả đều chẳng có
Tâm biến in tuồng hiện
Có năng thủ, sở thủ
Ví như trăng với sao
Nương Tu-di vận hành.
Các thức cũng như vậy
Luôn lương Lại-da chuyển
Lại-da tức Mật nghiêm
Vốn thể tốt thanh tịnh
Không tâm cũng không giác
Sáng trong như vàng ròng.
Không thể phân biệt đặng
Tánh lìa sự phân biệt
Thật thể là viên thành
Bậc Du-già sẽ thấy
Ý thức duyên nơi cảnh
Trói buộc kẻ ngu si
Thánh kiến đều thanh tịnh
Giống như là quáng nắng…

Khi Đức Thế Tôn nói kinh này, Kim Cang Tạng và vô lượng Đại Bồ-tát… và vô số chúng nhiều như vi trần, từ các phương khác đến hội này, nghe Đức Phật thuyết xong, tất cả đều rất vui mừng tin tưởng, thọ nhận mà phụng hành.