KINH ĐẠI THỌ KHẨN-NA-LA VƯƠNG SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN 4
Bấy giờ, tất cả đại chúng đạt được điều chưa từng có, chắp tay lễ Phật, nói lời như vầy:
–Thật ít có, bạch Thế Tôn! Chỉ có Như Lai mới có thể khéo hộ niệm các Đại Bồ-tát! Ngài dùng sức thần thông mà hộ trì họ.
Phật dạy:
–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời các ông nói, Như lai hộ niệm các vị Bồ-tát. Vì sao? Vì hộ niệm các vị Bồ-tát tức là hộ niệm tất cả chúng sinh. Này các vị Chánh sĩ! Nếu Phật Như lai hộ các vị Bồ-tát là đồng thời hộ trì tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì chính Bồ-tát vì tất cả chúng sinh mà phát tâm đại trang nghiêm. Họ đã phát tâm đại trang nghiêm rồi, khiến cho vô lượng chúng sinh lìa khỏi sinh, chết, đói khổ, cứu vớt chúng sinh thoát ra, an trí vào chánh đạo. Này các Chánh sĩ! Vậy nên, sau khi ta Niết-bàn, các ông phải hộ trì các vị Bồ-tát. Nếu hộ trì Bồ-tát thì các ông nên biết là đã hộ trì các chung sinh rồi. Nếu Bồ-tát bố thí y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc trị bệnh tức là bố thí cho tất cả chúng sinh. Nếu đem đồ ưa thích bố thí cho Bồ-tát thì đồng thời thí cho tất cả chúng sinh rồi. Vì sao? Vì từng hơi thở ra, hít vào của từng vị Bồ-tát này thường vì tất cả chúng sinh vậy.
Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, chư Thiên cõi Sắc, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già… và các đại chúng nghe lời Đức Phật đã nói, thâm tâm họ tùy hỷ. Họ dùng hoa đẹp, trân bảo, chuỗi ngọc, các thứ bột thơm tung lên cúng dường Đức Như Lai.
Lúc ấy, vua Đại thọ Khẩn-na-la có ý nghĩ như vầy: “Lúc này, Đức Như Lai và các vị Bồ-tát, chúng đại Thanh văn sắp sửa trở về.
Ta dùng thần lực, tư đây làm tạo một xe báu lớn để cho Phật, đại chúng Bồ-tát, Thanh văn đi. Ta và quyến thuộc sẽ cùng kéo xe. Đó mới là cúng dường Như Lai đầy đủ.”
Nghĩ điều đó xong, bấy giờ, nhà vua liền dùng châu báu cõi trời làm ra một cái xe báu, cao năm do-tuần, ngang dọc bằng nhau, cũng năm do-tuần, xen lẫn giữa các vật báu là vô lượng cây báu dùng để trang nghiêm. Ở trên xe này làm một tòa ngồi sư tử cho Đức Phật Như lai, tôn trí trang nghiêm. Tòa cao bảy nhẫn, trải vô lượng vải báu của trời. Ngoài ra, trên đó cũng thiết lập tòa ngồi cho tất cả Bồ-tát và các vị Thanh văn. Ngay cả các vị Thiên tử, Đế Thích, Phạm vượng, Hộ thế, Càn-thát-bà,… tất cả những người đến nghe pháp đều có tòa ngồi ở trong xe đó. Tạo ra xe báu lớn và bày các tòa ngồi xong, bấy giờ, vua Đại thọ Khẩn-na-la chắp tay bạch Phật:
–Xin nguyện Thế Tôn và các đại chúng thương xót con hãy ngồi lên xe báu.
Lúc ấy, Thế Tôn và các Bồ-tát, đại chúng Thanh văn, tất cả chúng khác đều lên tòa ngồi bày trong xe báu.
Bấy giờ, vua Khẩn-na-la dùng thần lực của Phật và thần lực của mình đem chiếc xe báu ấy đặt vào bàn tay phải, bay lên hư không cao bảy cây Đa-la, rồi tám tám ngàn người con của vua Khẩnna-la và vô lượng Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đều dùng vòng vàng móc vào xe báu kéo lướt trên không mà đi. Tám muốn bốn ngàn Khẩn-na-la trồi lên tám muôn bốn ngàn âm nhạc đi trước dẫn đường, dùng kệ tụng khen ngợi Phật:
Đầy đủ tám muôn và bốn ngàn
Là thân Khẩn-na-la hiện tại
Dùng nhạc hòa lời ca thanh diệu
Ca ngợi thật công đức Như Lai.
Tướng đẹp tối thắng có uy đức
Sắc đẹp tối thắng mọi người yêu
Thường trụ thanh tịnh, công đức thật
Thế Tôn có công đức lớn này
Ở trên hư không, hầu hai bên
Không thể thấy đỉnh Đức Như Lai
Giống như núi lớn vững chẳng động
Có thân như vậy, đức đáng ưa,
Tự tại trên không, tùy chỗ đến
Đạo sư có thần lực lớn này
Giống như hư không, tịnh vô cấu
Kết sử Thế Tôn đoạn hết rồi.
A-tu-la cùng chúng Dạ-xoa
Đế Thích, Phạm vương và Tịnh cư
Nhật, nguyệt, tinh tú, ngọc, ánh lửa
Những tướng tốt sáng đều lu mờ.
Năng lực trí tuệ như biển cả
Khởi phát tâm hành của chúng sinh
Ba minh chiếu sáng khắp ba cõi
Cúi đầu đảnh lễ Đức Thế Tôn.
Hàng phục bốn ma, các kết sử
Nói bốn Thánh đế, đạo Niết-bàn
Sức bốn Thần túc, không sợ hãi
Bước đi thù thắng của Như Lai.
Tuần tự tiến tới không lay động
Trụ Tam-muội, thường tập điều tâm
Nói điều vi diệu vui thế gian
Cũng chẳng nương tựa lời nói đó,
Nói năng êm dịu lời dịu dàng
Nghe xa đến Vô lượng cõi Phật
Nếu có chúng sinh nghe tiếng này
Tất cả an lạc sinh hoan hỷ.
Nước các biển trong ba ngàn cõi
Chứa hết trong một lỗ ở chân lông
Mà không hại chúng sinh dưới nước
Ngài không tổn giảm sức thần thông.
Núi non của ba ngàn thế giới
Đặt gọn vào một lỗ chân lông
Mang đến vô luợng ngàn ức cõi
Nhưng không tổn giảm thân lực Ngài.
Lại ở vô lượng trăm ngàn kiếp
Điều phục thí, chịu khổ không lường
Khéo tu học giới, hộ các căn
Nhẫn nhục, tinh tấn, thiền, tuệ lực,
Cúng dường vô lượng ức Thế Tôn
Hộ trì pháp chư Phật này nói
Tâm Ngài chẳng phát sinh nhàm chán
Đại Từ, đại Bi lợi ích đời,
Ở trong vô vi chẳng thấp hèn
Ở trong hữu vi chẳng kiêu ngạo
Giống như đại địa chẳng ngã nghiêng
Trụ trong thế pháp như sen nở.
Quan sát kỹ lưỡng các pháp không
Đều không tướng, như trăng đáy nước
Như huyễn, như hóa, như bọt nước
Như mộng, như chớp, như lửa hừng.
Thật tánh không ngã, không có nhân
Rất tịnh, không nhiễu, không chủ nhân
Giống như hư không, sạch không bẩn
Tất cả các vật tánh thật chân,
Tất cả các nhân cùng với duyên
Lưu chuyển tạo pháp không có chủ
Hiểu điều này, rõ đạo Bồ-đề
Vậy nên danh hiệu Ngài là Phật.
Các chúng sinh này được lợi lớn
Nếu gặp Đạo sư và hỏi pháp
Người ấy chẳng sợ rơi đường ác
Người này thường được đến đường lành.
Chúng con nay được cúng Thượng Nhân
Tất cả đều cúng ta cũng cúng
Rồi đem hồi hướng tâm Bồ-đề
Nguyện khiến tất cả như Nhân Tôn.
Giả sử hư không có thể lượng
Sợi lông có thể tát cạn biển
Mặt trời, trăng, sao rời hư không
Công đức của Phật không thể hết!
Bấy giờ, Thế Tôn an tọa trên xe báu, lướt hư không mà đi, phóng ra ánh hào quang vàng. Ánh hào quang này chiếu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Lúc trong núi Kỳ-xà-quật ở thành Vương xá, hào quang chiếu soi thêm sáng thì ở thành Vương xá, vua A-xà-thế cùng phu nhân quyến thuộc, binh chúng, cac Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Cư sĩ thấy điềm sáng này rồi cùng mang hương hoa, bột thơm, hương xoa, cờ, phướn, lọng báu và các nhạc cụ, ra khỏi thành Vương xá để nghênh đón Như Lai. Ra khỏi thành rồi, tiến thẳng đến núi Kỳ-xà-quật. Từ xa, họ đã nghe tiếng âm nhạc hòa lời ca vi diệu của Khẩn-na-la vang khắp trong núi Kỳxà-quật.
Bấy giờ, vua Đại thọ Khẩn-na-la dùng thần lực của Đức Phật, từ hư không hạ xuống, đem xe bằng báu lớn an trí trong núi Kỳ-xàquật.
Lúc ấy, Thế Tôn từ xe báu bước xuống, đến ngồi vào tòa ngồi đã bày sẵn tại chỗ ở của mình. Các vị Bồ-tát, chúng đại Thanh văn cùng xuống xe, làm lễ dưới chân Như Lai, rồi lần lượt ngồi vào chỗ ngồi của mình.
Bấy giờ, vua A-xà-thế và phu nhân, thể nữ, bà con nội ngoại, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Cư sĩ… đều mang vật phẩm cúng dường của mình cúng dường Như Lai. Rồi quỳ xuống, chắp tay, thăm hỏi Phật:
–Bạch Thế Tôn! Ngài không mệt mỏi ư? Ngài đi đường có yên ổn, tốt lành không?
Thăm hỏi xong, họ lùi về ngồi một bên. Lúc ấy, Bồ-tát Thiên Quan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vua Đại thọ Khẩn-na-la và chúng Khẩn-na-la kéo xe Như Lai vượt hư không đến đây thì được bao nhiêu phước đức?
Phật dạy:
–Này Thiện nam! Vua Đại thọ Khẩn-na-la này và các quyến thuộc phát đạo tâm ấy, từ nay về sau sẽ đạt được Ngũ thông mãi cho đến khi thành Phật. Từ cõi Phật này cho đến cõi Phật khác luôn được gặp Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng. Đời đời sinh ra thường biết đời trước của mình, đạt được biện tài khéo léo, âm thanh cực hay, cũng chẳng lìa bỏ sự giáo hóa chúng sinh, đời đời luôn luôn siêng năng hộ trì chánh pháp, siêng năng giáo hóa chúng sinh.
Bấy giờ, vua A-xà-thế nói với vua Đại thọ Khẩn-na-la:
–Này vua Khẩn-na-la! Bệ hạ đã đạt được lợi ích lớn. Như Lai hôm nay khen ngợi công đức của bệ hạ.
Này vua Khẩn-na-la! Công đức của bệ hạ, ta cũng mong có được chút ít.
Khi đó, vua Đại thọ Khẩn-na-la nói với vua A-xà-thế:
–Đại vương biết cho, công đức của tôi có, tôi xin cho bệ hạ và các chúng sinh hết. Vì sao vậy? Này Đại vương! Các việc công đức Bồ-tát có đều đem cho tất cả chúng sinh.
Vì sao vậy? Thưa Đại vương! vì pháp của Bồ-tát không có keo kiệt, công đức của họ có đều đem ban cho chúng sinh mà tâm họ vui vẻ không buồn, không phiền não. Đại vương nên biết! Bồ-tát đem công đức này hồi hướng về Nhất thiết trí cũng vì nuôi dưỡng tất cả chúng sinh. Vì sao vậy?
Thưa Đại vương! Vì Bồ-tát hộ niệm các chúng sinh vậy. Bồ-tát tu hành hạnh Bồ-đề là làm chỗ dựa cho chúng sinh.
Này Đại vương! Hôm nay, Đại vương cũng có được lợi ích, được Đức Phật Thế tôn, Văn-thù-sư-lợi… làm Thiện tri thức, được gần gũi chư vị để nghe kinh, thính pháp, chẳng bị các vô minh, hắc ám ngăn che, tội nghịch, tâm nghi, phiền não trừ diệt hết, được ánh sáng pháp rộng lớn, được Pháp nhãn vậy, không có phiền não, Đại vương yên ổn mà trụ. Vậy nên, này Đại vương! Phải tự khắc phục, gắng sức trở thành pháp khí. Nếu nghe được pháp, thậm chí chỉ một câu mà chẳng quên mất thì gọi là hộ trì chánh pháp.
Bấy giờ, Bồ-tát Thiên Quan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thành tựu được bao nhiêu pháp mới có thể là pháp khí?
Khi ấy, Phật bảo Bồ-tát Thiên Quan:
–Này Thiện nam! Pháp khí của Bồ-tát có ba mươi hai.
Những gì là ba mươi hai?
- Phật đã hộ trì là pháp khí Bồ-đề tâm.
- Chuyên tâm ngay thẳng là pháp khí vô vi.
- Thêm ý chí lớn là pháp khí căn lành.
- Tu hành theo đạo là pháp khí cội gốc Bồ-đề.
- Nhớ nghĩ chân chánh là pháp khí đa văn.
- Tuệ là pháp khí ra khỏi các đường.
- Tấn là pháp khí chứa nhóm nghĩa.
- Thí là pháp khí giàu có.
- Giới là pháp khí nguyện.
- Nhẫn là pháp khí ba mươi hai tướng trượng phu.
- Tinh tấn là pháp khí của tất cả Phật pháp.
- Thiền là pháp khí luyện tâm.
- Tuệ là pháp khí vượt chướng ngại.
- Đại Từ là pháp khí bình đẳng chúng sinh.
- Đại Bi là pháp khí cứu độ bần cùng.
- Đại Hỷ là pháp khí ưa thích Phật pháp.
- Đại Xả là pháp khí xa lìa ái, sân.
- Thiện tri thức là pháp khí các thiện căn.
- Tu tập đa văn là pháp khí Bát-nhã ba-la-mật.
- Xuất gia là pháp khí của sự lìa bỏ ràng buộc, chướng ngại.
- A-luyện-nhã xứ là pháp khí ít sự việc, không não loạn.
- Ưa nơi ở tịch tĩnh là pháp khí của các thiền định thần thông.
- Bốn nhiếp pháp là pháp khí độ chúng sinh.
- Hộ trì các pháp là pháp khí chiếu ánh sáng.
- Đà-la-ni là pháp khí nghe được tất cả các pháp chưa nghe.
- Biện tài là pháp khí đoạn trừ tất cả nghi hoặc.
- Niệm Phật là pháp khí được gặp chư Phật.
- Không có tâm não hại là pháp khí hộ trì tất cả căn lành.
- Pháp không là phap khí đoạn trừ ngã kiến.
- Nhân duyên là pháp khí bỏ châu báu.
- Vô sinh pháp nhẫn là pháp khí xả các chướng ngại được thọ ký.
- Duyên địa bất thoái là pháp khí vô úy.
Này Thiện nam! Đó là ba mươi hai pháp khí của Bồ-tát.
Khi Phật nói pháp này, mười ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề cùng bạch Phật rằng:
–Bạch Thế Tôn! Nguyện cho chúng sinh được pháp khí này, cũng nguyện cho chúng con thành tựu được pháp khí này, như Phật đã nói!
Bấy giờ, Thế Tôn bảo vua Đại thọ Khẩn-na-la:
–Này Thiện nam! Ông hãy trở về chỗ ở, các quyến thuộc của ông có thể lo lắng!
Vua Khẩn-na-la bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát có lo lắng thì đó không gọi là Bồtát. Bởi vì sao? Vì có thể nhẫn chịu sự lo lắng mới là Bồ-tát.
Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát lo lắng? Sao gọi là Bồ-tát không có lo lắng?
Phật bảo vua Khẩn-na-la:
–Ông nên biết, Bồ-tát có bốn pháp thì có lo lắng.
Những gì là bốn pháp?
- Nghe có vô lượng vô biên chúng sinh thì tâm sinh kinh sợ.
- Nghe chịu vô lượng vô biên sinh tử thì tâm sinh kinh sợ.
- Nghe Phật Như lai có vô lượng trí tuệ thì tâm sinh kinh sợ.
- Nghe chứa nhóm vô lượng phước đức, trang nghiêm đầy đủ tướng tốt thì tâm sinh kinh sợ.
Này vua Khẩn-na-la! Bồ-tát thành tựu bốn pháp ấy thì sinh lo lắng.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên biết, Bồ-tát thành tựu được bốn pháp tâm không lo lắng.
Những gì là bốn pháp?
- Nghe có vô lượng vô biên chúng sinh thì ta quyết sẽ an trí họ ở đạo Niết-bàn mà không lo lắng.
- Nghe vô lượng sinh tử mà chẳng kinh sợ, quyết tu các căn lành, tâm không lo lắng.
- Nghe Phật Như lai có vô lượng trí rồi, ta quyết thành tựu mỹ mãn đại trí như thế mà không lo lắng.
- Nghe tập hợp vô lượng phước đức trang nghiêm, thành tựu mỹ man tướng hảo mà không lo lắng.
Đó là bốn pháp.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên biết, Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp có lo lắng.
Những gì là bốn pháp?
- Lúc nào cũng muốn chứng được thừa Thanh văn.
- Lúc nào cũng muốn chứng được thừa Duyên giác.
- Khi chánh pháp sắp diệt thì buông bỏ chẳng hộ trì.
- Chẳng khuyên cho người khác an trụ Bồ-đề.
Đó là bốn pháp.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên biết, Bồ-tát lại có bốn pháp không có lo lắng.
Những gì là bốn pháp?
- Có gặp khổ bức thiết chẳng bỏ tâm Bồ-đề.
- Chẳng sinh tâm Thanh văn, Duyên giác.
- Thà bỏ thân mạng chẳng bỏ chánh pháp.
- Khuyên người phát tâm Bồ-đề cho dù vượt qua trăm ngàn do-tuần.
Đó là bốn pháp.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên biết, Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp thì có lo lắng.
Những gì là bốn?
- Thấy người đến xin sinh lòng sân hận, trách mắng.
- Tự bằng lòng nằm yên.
- Chẳng tu tập, học rộng hiểu nhiều.
- Nếu nghe pháp rồi chẳng vì mọi người thuyết pháp lại. Đó là bốn pháp.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên phải biết, Bồ-tát lại có bốn pháp không có lo lắng.
Những gì là bốn?
- Thấy người đến xin rồi phát sinh tư tưởng Thiện tri thức, không có tâm làm tổn hại.
- Chẳng ưa tự an lạc, thường muốn mọi người cùng vui.
- Tu tập đa văn không nhàm chán, không cho là đủ.
- Đã nghe được pháp thì ở trong đại chúng vì người thuyết giảng lại, chẳng mong lợi dưỡng.
Đó là bốn pháp.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên biết, Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp thì có lo lắng.
Những gì là bốn?
- Chẳng chứa nhóm đạo Ba-la-mật.
- Chẳng tu Nhiếp pháp.
- Chẳng siêng năng giáo hóa chúng sinh, có chút ít công đức tự cho là đủ.
- Chẳng tu vô lượng công đức của Bồ-tát.
Đó là bốn pháp.
Này vua Khẩn-na-la! Ông nên biết, Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp thì không có lo lắng.
Những gì là bốn?
- Thường siêng năng tinh tấn tu các pháp Ba-la-mật như lửa cháy trên đầu.
- Thường siêng năng tinh tấn tập hợp bốn Nhiếp pháp.
- Thường siêng năng tu đầy đủ các công đức.
- Chứa nhóm vô lượng công đức của Bồ-tát.
Đó là bốn pháp.
Bấy giờ, Thế Tôn nói bốn pháp này rồi, sai vua Đại Thọ Khẩn-
na-la bảo với vua A-xà-thế:
–Này Đại vương! Hôm nay, Đại vương có nghe Phật thuyết giảng pháp bốn câu không lo lắng như vậy của Bồ-tát chăng?
Vua A-xà-thế liền bạch Phật rằng:
–Bạch Thế Tôn! Con đã nghe!
Phật nói:
–Này Đại vương! Vậy nên, nếu các vị Bồ-tát tu hành Bồ-đề thì chẳng nên lo lắng.
Vua A-xà-thế bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề?
Lúc ấy, vì muốn thành tựu mỹ mãn cho Khẩn-na-la, Càn-thátbà, Ma-hầu-la-già… nên Thế Tôn khiến cho trong các tiếng nhạc phát ra pháp âm, lại muốn đáp lại việc vua A-xà-thế hỏi về vấn đề Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề mà nói kệ tụng để hiển bày nghĩa ấy:
Nếu muốn tu hành hạnh lợi ích
Nghe được pháp rồi làm đúng theo
Tu hạnh Bồ-đề, hạnh tối thắng
Tu hành hạnh đó không lo lắng.
Tu hạnh an lạc vì chúng sinh
Hành Từ bình đẳng trong chúng sinh
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Các loại hạnh kia nhiều vô ngần.
Vì chúng sinh tu hạnh kiên cố
Người tu hành ý chí thanh tịnh
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia chẳng rơi xuống đường ác.
Tu theo bố thí, hạnh buông xả
Làm theo hạnh bỏ hết tất cả.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Người kia không có hạnh lẫn tiếc
Tu theo tịnh giới, hạnh tịch tĩnh
Thân, miệng thanh tịnh, không hạnh nhơ.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Người ấy không hề hủy phạm hạnh
Theo hạnh nhẫn nhục, hạnh lợi ích
Lìa khỏi hạnh lỗi lầm, sân hận.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không sân hận độc hại
Tu theo hạnh tinh tấn, lực trụ
Hạnh không nhàm chán trong sinh tử.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia trọn không có biếng nhác
Tu theo hạnh thiền định Tam-muội
Thân tâm tĩnh lặng, không náo loạn.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia trọn không có rối loạn
Tu theo hạnh trí tuệ Bo-đề
Tất cả pháp hạnh cũng như thế.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia trọn không có vô trí
Tu theo hạnh Từ, tâm lợi ích
Đối với chúng sinh hạnh thắng
Bi. Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia trọn không có hại người
Tu theo hạnh Không, hạnh tịch tĩnh
Vô tướng, Vô nguyện, hạnh thanh tịnh.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia trọn không có ước nguyện
Tu theo hạnh chân, hạnh thật đế
Đầy đủ các hạnh nhất thiết trí.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia trọn không có chướng ngại
Tu theo hạnh tín, hạnh hoan hỷ
Khéo niệm, tư duy hạnh không loạn.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không hề có bất tín
Tu tập hạnh thiền định giải thoát
Thì đạt được diệu hạnh Ngũ thông.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không có gì ngăn ngại
Tu hành hạnh Phật và hạnh pháp
Cung cấp Tăng bảo, hạnh thanh tịnh.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia thù thắng, thật tối thượng
Tu theo hạnh pháp và hạnh không
Hạnh giáo hóa tất cả chúng sinh.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không có nơi trụ, dừng
Tu theo hạnh Nhân, hạnh quả báo
Hạnh đoạn dứt tất cả hữu biên.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không thể bị nhiễm trước
Tu theo hạnh thanh tịnh, vô cấu
Hạnh giải thoát hết các kết sử.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không thể có phiền não
Tu theo hạnh an ổn giải thoát
Hạnh vô úy thí các chúng sinh.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia có đủ tất cả nguyện
Tu theo hạnh tháng và hạnh ngày
Như hạnh hoa sen không nhiễm ô.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Đó là bậc người, trời kính lễ
Tu hạnh Đế Thích, hạnh Phạm vương
Là diệu hạnh của pháp thanh tịnh.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh đó khiến ma quân kinh sợ
Tu theo hạnh thắng, hạnh tối thượng
Hạnh đoạn trừ tham dục, sân hận.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không hề có sân si
Tu theo hạnh ngoại đạo cấm giới
Diệu hạnh của Tuệ nhãn thanh tịnh
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không có chút vọng tưởng
Tu theo hạnh điều phục tịch tĩnh
Hạnh không có danh, sắc, loạn cuồng
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Đó là bậc người, trời kính lễ
Tu theo hạnh dễ, hạnh ích lợi
Hạnh thắng diệu trừ đạo sai trái
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Người kia thường có hạnh trí tuệ
Tu hạnh cầu tấn, hạnh mạnh mẽ
Hay dũng mãnh, ma quân sợ hãi.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Người đó biết rõ chốn đạo tràng
Tu hạnh không ngăn, hạnh hiển bày
Đạt được diệu hạnh Đà-la-ni.
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia chẳng mất đi quả báo
Tu tập hạnh chánh, hạnh tịch tĩnh
Hạnh thường xuất gia ở mọi lúc
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia tu đúng như lời nói
Tu theo hạnh thắng, hạnh Trưởng giả
Làm theo thế gian không thắng hạnh.
Tu theo hạnh phương tiện tương ưng
Bỏ đi hạnh thiền lạc vi diệu
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không hề có phiền não.
Tu theo hạnh đời, hạnh lìa đời
Hạnh Dục giới, Sắc giới, Vô sắc
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Hạnh kia không có điều sợ hãi.
Tu hạnh biến khắp, hạnh tất cả
Đầy đủ diệu hạnh, các căn lành
Tu hành hạnh Bồ-đề tối thắng
Bậc Trí kia giống như hư không.
Khi Phật nói về pháp hạnh của Bồ-tát, năm trăm Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh, vua A-xà-thế và quyến thuộc, Bà-la-môn, cư sĩ trong thành Vương xá và tám ngàn chúng sinh trong số quyến thuộc của Khẩn-na-la đã phát tam vô thượng Bồ-đề, cùng bạch Phật rằng:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ nương theo các hạnh của Bồ-tát tu hành Bồ-đề như đã nói trên mà tu hành đúng như lời đã nói.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với vua Đại thọ Khẩn-na-la:
–Hôm nay, ông hãy trở về chỗ ở của mình!
Lúc ấy, vua Đại thọ Khẩn-na-la và phu nhân cùng các con cái, tất cả quyến thuộc… đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng, sám hối Thế Tôn, tấu các âm nhạc, trời mưa xuống nhiều hoa, phóng ra ánh sáng lớn, đất đai chấn động. Quyến thuộc và vua Đại thọ Khẩn-na-la, ngay lúc ấy, liền quay trở về trong núi Hương sơn. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vua Đại thọ Khẩn-na-la này mới có thể cúng dường Đức Phật chân thật, cúng dường pháp chân thật như thế.
Phật dạy:
–Này Kiều-thi-ca! Không chỉ một mình ông gọi là chân thật mà các Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế đại vương, Thanh văn, Duyên giác khắp trong tam thiên đại thiên thế giới đều cho là vua Đại thọ Khẩn-na-la này chân thật thù thắng. Vì sao vậy?
Này Thiên chủ! Bồ-tát phát tâm rồi thì hơn tất cả Thanh văn, Duyên giac.
Này Kiều-thi-ca! Không ai có thể hơn Bồ-tát được chỉ trừ Như lai. Vì sao vậy?
Từ nơi Bồ-tát sinh ra Như lai, từ nơi Như Lai sinh ra tất cả Thanh văn, Duyên giác!
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân nghe được điều Như Lai đã nói này liền rơi lệ nói như vầy:
–Ta nay vĩnh viễn bị lìa khỏi Đại thừa!
Lúc ấy Thiên tử Cù-di thưa với Thích Đề-hoàn Nhân:
–Thưa Thiên chủ phụ vương! Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả các hạnh, tất cả các pháp không có chướng ngại, từ vọng tưởng khởi lên, không thể phát sinh tâm đạo Vô thượng chánh chân, không thể thương xót tất cả chúng sinh, không thể tu theo tâm đại Từ. Nay Thiên chủ phụ vương lại nói gì? Đã vào chánh vị đốt cháy chủng tử thì ở Đại thừa này mãi mãi chẳng phải pháp khí kia.
Khi Thiên tử Cù-di nói lời này, năm trăm Thiên tử trong ba mươi ba tầng trời đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân.
Bấy giờ, Thiên tử Cù-di bạch Phật:
–Bạch Thế Ton! Hiện con muốn gần gũi với hạnh của Bồ-tát. Trăm ngàn ức kiếp tu hạnh khổ khó làm, Phật từ khi tu cho đến khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng được Vô sinh pháp nhẫn, con nguyện xin Đức Phật nói ra chút ít, chúng con nghe rồi sẽ nương theo lời dạy tu hành và sẽ đạt được pháp đó.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiên tử Cù-di:
–Không có Bồ-tát nào không gieo trồng thiện căn mà được vô sinh nhẫn. Bồ-tát gieo trồng vô lượng căn lành thì sau đó mới đạt được Vô sinh pháp nhẫn.
Này Thiên tử Cù-di! Bồ-tát thành tựu bốn pháp này thì đạt được vô sinh pháp nhẫn. Những gì là bốn?
- Chư Phật bình đẳng.
- Các pháp bình đẳng.
- Thế giới bình đẳng.
- Chúng sinh bình đẳng.
Này Cù-di! Đó là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì được Vô
sinh pháp nhẫn. Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp. Những gì là bốn?
- Quen thích bốn không.
- Quen thích đại Bi, ba môn giải thoát.
- Quen thích phương tiện, sáu pháp Ba-la-mật.
- Quen thích Thiền định và năm Thần thông.
Đó là bốn pháp. Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp. Những gì là bốn?
Đó là:
- Biết tánh “ấm” tức là Bồ-đề.
- Biết tánh của các giới tập trung ở Bồ-đề, tin tính của Bồ-đề tức là tánh của các giới.
- Biết tánh của các “nhập” tập trung vào Bồ-đề, dùng tánh của Bồ-đề quán đến các “nhập”; tất cả các pháp tập trung vào Bồđề,
- Tánh của Bồ-đề tức là tính của các pháp, quyết định không có nghi ngơ.
Đó là bốn pháp. Bồ-tát lại thành tựu bốn pháp. Những gì là bốn?
- Biết tất cả các pháp trụ ở thật tế chẳng lay động.
- Biết tất cả các pháp trụ ở trong chân như.
- Tin các pháp trong ba đời tánh chẳng hoại.
- Quán cac pháp bình đẳng như tính hư không.
Này Cù-di! Đó là những bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì được vô sinh pháp nhẫn.
Khi Phật nói pháp này, năm trăm Bồ-tát chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn. Thiên tử Cù-di đạt được Thuận nhẫn.
Bấy giờ, Thế Tôn muốn đem kinh pháp này ấn chứng nên bảo Đại đức A-nan:
–Này A-nan! Ông hãy thọ trì kinh này! Kinh này tên là “Đại thọ Khẩn-na-la vương nhập tác nhất thiết pháp môn hạnh.” Đại đức A-nan bạch:
–Bạch Thế Tôn! Con đã thọ trì pháp chưa từng có vậy. Bạch
Thế Tôn! Kinh này rất thậm thâm vi diệu. Nghĩa kia quyết định, lời văn trang nghiêm.
Bạch Thế Tôn! Không có kinh nào khác có thể hơn được kinh này. Nay ở trong kinh này không gì mà chẳng khai thị.
Bạch Thế Tôn! Ở trước mắt con dù được pháp quang minh cũng không bằng được kinh này. Con nay tự hiểu ở trong kinh này đạt được trăm ngàn vạn ức công đức.
Bạch Thế Tôn! Con nay dùng trí tuệ có hạng lượng vào ngôi vị Thanh văn để nghe kinh ấy mà còn được ánh sáng pháp lớn lao như vậy, huống là Đại Bồ-tát thành tựu vô lượng biển cả pháp khí, dùng vô úy đại trí tu tập các pháp, vì các chúng sinh làm hạnh không mời, dùng vô lượng đại trí nghe pháp như thế thì được bao nhiêu pháp môn?
Phật dạy:
–Này A-nan! Giả sử tất cả ánh sáng mặt trăng mặt trời tam thiên đại thiên thế giới này so với ánh sáng pháp của các Bồ-tát đạt được thì chỉ cần ánh sáng của một lỗ chân lông thôi, đủ có thể làm lu mờ ánh sáng của các mặt trời, mặt trăng đó.
Này A-nan! Nếu tất cả lỗ chân lông của Phật Như Lai đều phóng ra ánh sáng thì các ánh sáng này đều có trí tuệ vậy.
Này A-nan! Như Lai có ánh sáng trí tuệ này. Như Lai dùng ánh sáng trí tuệ này có thể biết tất cả tâm hạnh của chúng sinh. Nếu có chúng sinh nghe được kinh này, đều sẽ được ánh sáng trí rộng lớn này chiếu soi. Nếu có ai biên chép, thọ trì đọc tụng thông suốt, rồi ở trong đại chúng vì người diễn nói rộng rãi, chính niệm suy nghĩ, theo đúng lời dạy mà tu hành thì người này nhất định chẳng lìa khỏi tâm Bồ-đề, giáo hóa chúng sinh, đại Bi trang nghiêm, mặc áo giáp đại Từ, hàng phục các ma.
Này A-nan! Ông nên biết, người như vậy là quyết định hướng về đạo tràng.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nhờ thần lực của Đức Phật nên hôm nay con đã thọ trì được kinh pháp này.
Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, rồi ở trong đại chúng vì người thuyết giảng rộng rãi thì được bao nhiêu công đức?
Phật dạy:
–Này A-nan! Nếu có Bồ-tát, thiện nam, thiện nữ mỗi buổi sáng đem bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới bố thí cho Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và các vị Duyên giác cho đến các Đức Phật nữa. Và cứ như thế, buổi trưa, buổi chiều, đầu đêm, giữa khuya, cuối đêm, Bồ-tát bố thí như trên, đến trọn một ngàn năm.
–Này A-nan! Ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ, này có công đức nhiều lắm chang?
Tôn giả A-nan đáp:
–Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Rất nhiều, thưa Đấng Thiện Thệ!
Bạch Thế Tôn! Nếu trong một ngày mà đã được công đức nhiều vô lượng vô biên huống là hàng ngàn năm.
Phật dạy:
–Này A-nan! Ta nay xướng lên khiến cho thiện nam, thiện nữ này vì chứng Bồ-đề, vì giáo hóa chúng sinh, vì chuyển bánh xe pháp mà thọ trì kinh này, lại đọc tụng, biên chép rồi ở trong đại chúng thuyết giảng, phước đó đã là thù thắng vi diệu, huống lại có thể nương theo lời dạy mà tu hành.
Này A-nan! Đối với kinh này, nếu có người thọ trì, thậm chí một bài kệ bốn câu thôi, ở trong đại chúng vì người thuyết giảng thì phước kia đã là thù thắng. Vì sao? Vì bố thí như vậy gọi là pháp thí, sự bố thí cao nhất trong việc bố thí. Thí như vậy tức là pháp thí. Đó là sự xả bỏ thù thắng, gọi là xả bỏ đối với pháp. Đó tên là “Thượng thọ” nghĩa là thọ nhận được pháp. Đó tên là “Thượng trì” nghĩa là gìn giữ pháp. Vì sao vậy?
Này A-nan! Bố thí pháp rồi có thể diệt hết kết sử, của báu cho rồi thêm lớn phiền não! Vậy nên, Bồ-tát vì diệt kết sử phải làm pháp thí. Chư Phật đã ấn khả. Như vậy, bố thí pháp thì có thể thu giữ tất cả công đức.
Này A-nan! Bồ-tát bố thí pháp thì có ba mươi hai công đức tiếng khen.
Những gì là ba mươi hai công đức?
- Có sự nhớ nghĩ chân chánh.
- Có được trí tuệ.
- Có được tinh tấn.
- Có xa lìa xan tham kết sử.
- Có ít dâm dục.
- Có ít sân hận.
- Có ít ngu si.
- Hàng phục các kết sử của mình, của người.
- Được nhiều người ái kính, chư Thiên khen ngợi, các Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… thường theo hộ trì.
- Chẳng luống thọ dụng sự cúng dường của người.
- Y phục, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc men… chẳng cầu mà được.
- Danh tiếng vang xa, các ác quỷ… trong mười phương thế giới không thể phá hoại.
- Các Đức Phật Thế Tôn đã khen ngợi.
- Hộ trì chánh pháp, giữ gìn pháp tạng của Phật.
- Không rơi vào trong các đường ác.
- Sinh vào người, trời chẳng lấy làm khó.
- Luôn được gặp Phật.
- Chẳng lìa nghe Pháp.
- Chẳng lìa cúng dường Tăng.
- Biết được túc mạng.
- Sinh vào cõi Phật thanh tịnh.
- Sinh ra đời các căn đầy đủ.
- Thân được ba mươi hai tướng trang nghiêm.
- Làm thượng chủ.
- Gieo trồng căn bản chủng tử Đà-la-ni.
- Tạo nhân “vô đoạn biện trí”.
- Được quyến thuộc là người trí tuệ.
- Tập hợp các nhân đại trí.
- Mau chóng chứng đắc pháp.
- Chẳng khởi lòng nhớ nghĩ bất chính.
- Lìa bỏ tất cả tài thí của thế gian.
- Được biện tài đại pháp tạng vô tận.
Này A-nan! Bồ-tát thí pháp thì có ba mươi hai công đức tiếng khen.
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ thọ trì kinh này. Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai và Niết-bàn có “pháp khí chúng sinh” thì con sẽ khiến cho họ được nghe kinh này, khiến họ tin hiểu, con sẽ hộ vệ họ. Vì sao vậy?
Bạch Thế Tôn! Vì chúng con muốn được công đức như trên.
Lúa ấy, Thế Tôn khen Thích Đề-hoàn Nhân:
–Hay thay, hay thay! Này Thiên chủ! Ông nay mới có thể siêng năng hộ trì pháp, gầm tiếng gầm sư tử.
Này Thiên chủ! Nay ông dùng cái thiện căn hộ trì pháp này để tồn tại theo pháp của ta thì chúng A-tu-la đều sẽ hàng phục, chư Thiên được lợi ích. Vì sao vậy?
Này Kiều-thi-ca! Được thấy pháp vô úy như vậy, nên gọi là đối với các pháp không chỗ nhiễm trước.
Này Thiên chủ! Các điều sợ hãi đều do chấp trước ở ngã kiến vậy.
Này Thiên chủ! Nếu không vướng mắc chính là hộ trì chánh pháp.
Bấy giờ, chủ thế giới Ta-bà, vua Đại phạm thiên bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con cũng xả vô lượng Thiền lạc để đi đến thành ấp, xóm làng, quận huyện mà lưu thông pháp này. Con cũng sẽ đến chỗ những người nghe pháp kia, khiến cho người nói pháp có được sức nhớ nghĩ kiên cố. Vì sao? Vì từ trong pháp này sinh ra vô lượng Thanh văn, Duyên giác, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế.
Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con chính là Thanh văn của Phật, sẽ hộ trì kiên cố đối với kinh pháp này khiến được trụ thế lâu dài. Các quyến thuộc của con nếu có người không tin pháp này của Phật thì con điều phục khiến ho phải tin, ở trong pháp của Phật thêm siêng năng tinh tấn gần gũi yêu thích.
Bạch Thế Tôn! Nếu có Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tula, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… mà có kẻ ác tâm, nếu muốn hàng phục thì phải tụng chú này. Đó là:
- Đa la ti.
- Y ti.
- Y na ti.
- Bà la ti.
- Hô lâu.
- Ma ha hô lâu.
- Hô lâu hô lâu.
- Y bà tri.
- Tỳ bà tri.
- Ba ly xa đà ni Kỳ na nê.
- Ba ca xa nê.
- Hi trì hi trì.
- Sinh tỳ trì.
- A xa.
- Đa xa.
- Ma la y để nê già hầu.
- Tát bà pha pha đề na.
- Tát bà di lợi xa pha đả khư đa na.
- A na ưu Đa-la tát bà phục đa na Phật đà bạt ni đa.
- Bốn Đại Thiên vương đã được nghe câu chú.
- Nhờ sức thần chú này mà các mong cầu ham muốn ngắn ngủi đều có thể hàng phục được hết.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Thiên Quan:
–Này các Thiện trượng phu! Ta nay đem pháp Vô thượng Bồ-
đề khó được, đã tập hợp trong vô lượng ngàn vạn a-tăng-kỳ kiếp này phó chúc cho các ông, khiến cho pháp được trụ thế lâu dài, không đoạn diệt giữa chừng!
Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Thiên Quan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn, chúng con sẽ lưu bố rộng rãi kinh pháp này, chúng con sẽ làm cho kinh pháp này đến tay các Bồ-tát có gieo trồng thiện căn sâu dày và cả các chúng sinh nữa; khiến được tự tại, hàng phục kiêu mạn, có thể thọ trì, tin hiểu kinh này. Sau khi Phật Niết-bàn, nếu có người được nghe kinh pháp này mà thọ trì, đọc tụng, biên chép, thuyết giảng thì phải biết là đều nhờ thần lực của Bồ-tát Di-lặc, của Bồ-tát Thiên Quan hộ trì.
Bấy giờ, Ma vương Ba-tuần đi đến trong pháp hội bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu Ngài vì mọi người nói các pháp của Thanh văn thì điều đó con chẳng sợ gì! Hôm nay, Thế Tôn diễn thuyết pháp Bồ-tát như vậy thì Bồ-tát in theo dấu ấn Như lai hộ trì tất cả chúng sinh về đường giải thoát. Ngài nói pháp như vậy chẳng khác nào hôm nay con bị trúng mũi tên lo buồn. Con nay tự biết phương tiện của con là sinh lão, nên nguyện xin Phật Thế tôn nắm lấy tay con, không diễn thuyết kinh pháp có sức công đức rất lớn như thế nữa, chớ khiến cho chúng con lại bị trúng mũi tên lo buồn!
Phật bảo Ba-tuần:
–Ngươi chớ sầu khổ! Phần nhiều chúng sinh ở tại cảnh giới của ngươi chẳng tin kinh này, có ít chúng sinh có thể tin nhận mà thôi.
Này Ba-tuần! Ông nên biết, giống như từ đại địa nhón lấy ít đất, sự tin pháp thậm thâm của chúng sinh cũng rất ít như vậy. Số người chẳng tin kinh này cũng nhiều như đại địa còn lại.
Này Ba-tuần! Ông nên vui mừng mới phải.
Này Ba-tuần! Hơn nữa, cõi chúng sinh nhiều vô lượng vô biên.
Khi Phật nói pháp này, vô lượng chúng sinh trụ nơi tâm đạo Vô thượng chánh chân, chín vạn hai ngàn Bồ-tát được vô sinh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn chúng sinh xa lìa trần cấu, đắc pháp Nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ-kheo hết các lậu hoặc, tâm được giải thoát.
Khi ấy, tam thiên đại thiên thế giới chấn động; ánh sáng lớn soi khắp, trời rưới mưa hoa, trăm ngàn nhạc cụ không tấu mà kêu, trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Thiên rất vui mừng, cùng ca ngợi:
–Chúng con nay ở trong cõi Diêm-phù-đề được gặp lại bánh xe pháp chuyển. Bạch Thế Tôn! Thuở trước ở tại nước Ba-la-nại, Ngài đã chuyển bánh xe pháp, làm lợi ích cho chúng sinh, nay lại thuyết giảng kinh này càng thêm lợi ích chúng sinh, thật là thù thắng! Trong số chúng sinh ấy có kẻ thọ trì kinh này thì người đó không bao lâu sẽ chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Thiên Quan, Đại đức A-nan… bạch Phật:
–Bạch Thế Ton! Kinh này tên là gì? Thọ trì thế nào?
Phật dạy:
–Này các thiện nam tử! Kinh này tên là Đại thọ Khẩn-na-la sở vấn, còn có tên là Tuyên thuyết bất tư nghị pháp phẩm. Cứ y như thế mà thọ trì.
Phật nói kinh này rồi, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Thiên Quan, Đại đức A-nan… Tất cả đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… nghe Phật nói đều rất vui mừng.