KINH ĐẠI THỌ KHẨN-NA-LA VƯƠNG SỞ VẤN

Hán dịch: Đời Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm ưa thích của các con vua Đại thọ Khẩn-na-la rồi, liền bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la, phóng hào quang rất sáng. Ánh hào quang này soi khắp tam thiên đại thiên thế giới này. Nhạc cụ của chư Thiên cõi Dục, nhạc cụ của Càn-thátbà của Khẩn-na-la chẳng tấu mà tự kêu lên, phát ra những âm thanh vi diệu. Trong núi chúa Hương sơn, các cây cối cũng đều phát ra âm thanh vi diệu. Lúc ấy ở trên thân Thế Tôn, nơi các lỗ chân lông đều phóng ra vô lượng vạn ức hào quang sáng. Mỗi một ánh sáng đều có hoa sen. Trong mỗi hoa sen có một Bồ-tát. Mỗi Bồ-tát tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng ngồi trên đài hoa.

Bấy giờ, Thế Tôn dùng thần lực khiến các nhạc cụ diễn ra kệ trí tuệ, hỏi các điều nghi hoặc để cho các Bồ-tát ở trong đài hoa dùng từng kệ một đáp lại các câu hỏi ấy:

Làm sao để phát khởi
Tâm Vô thượng Bồ-đề
Tâm này chẳng thể quên
Mới đến Bồ-đề giác?
Chí chuyên tâm thành đạt
Vì các chúng sinh nên
Khởi đại Bi trang nghiêm
Tâm Bồ-đề luôn nhớ!

Ý chí kia thế nào?
Hạnh kia sẽ ra sao?
Tâm đại Bi đã nói
Sao gọi đó sinh khởi?
Ý chí không luống dối
Đã tu hành không dối
Trụ Niết-bàn chúng sinh
Đại Bi kia như vậy!

Sao gọi hành bố thí?
Thí rồi tâm rỗng lặng
Cũng chẳng mong báo đền
Hồi hướng đạo Bồ-đề.
Bố thí, bỏ tất cả
Đã thí không tiếc gì
Hướng về đạo Bồ-đề
Chẳng mong cầu quả báo!

Sao gọi trụ trì giới?
Chẳng sinh khinh mạng giới
Cứu người, hủy giới cấm
Đại thừa không gì hơn
Giới là tâm Bồ-đề
Rỗng không, chẳng kiêu mạn
Mà khởi lòng đại Bi
Cứu người, hủy cấm giới!

Sao gọi nhẫn chúng sinh?
Trách móc và mắng nhiếc
Tâm chẳng nên sân hận
Mà tăng thêm hoan hỷ.
Vì chúng sinh, thuốc thang
Trị liệu các bệnh hoạn
Khi nghe lời ác xong
Mà chẳng khởi sân hận.

Sao gọi hành tinh tấn
Sao gọi tu tập hạnh
Sao tâm không mỏi mệt
Khi tu hạnh Bồ-đề?
Tinh tấn hộ chúng sinh
Hộ pháp siêng tinh tấn
Thiện căn đều đầy đủ
Tâm kia không mệt mỏi

Làm sao tu chánh niệm?
Dũng kiện hành tinh tấn
Tu thiền định thế nào?
Tâm không có tán loạn
Không chạy theo tưởng niệm
Tuệ không có hư dối
Dùng phương tiện hành thiền
Tâm kia không rối loạn.

Sao gọi được trí tuệ?
Thấy ngay thẳng là sao?
Quyết định là thế nào?
Sao gọi phân biệt pháp?
Tu học trí tuệ tăng
Học tập tâm ngay thẳng
Quyết định hành pháp thí
Theo nghĩa mà tu trì.

Sao gọi kia cầu học?
Hiểu rộng phải làm sao?
Nghe, nói phải thế nào?
Điều gì đại nhân bỏ?
Cung kính cầu thầy học
Tập gần người hiểu rộng
Nói chẳng vì tài lợi
Đại nhân bỏ như thế!

Sao gọi là hành Từ?
Hành đại Bi thế nào?
Hỷ, Xả là thành tựu
Sao gọi trụ phạm đạo?
Bình đẳng ban lòng Từ
Đại Bi không mệt mỏi
Tùy hỷ gọi là hỷ
Phạm đạo đến được ngay!

Thấy Phật thế nào đây?
Thấy rồi lòng tin tưởng
Nghe pháp rồi thì sao?
Trừ sạch nghi thế nào?
Tu hành nghĩ đến Phật
Được gặp Đấng Đạo Sư
Lòng tin được đầy đủ
Nghe pháp rồi hết nghi!
Sao gọi phước trang nghiêm?
Sao gọi trí trang nghiêm?
Như định cùng với tuệ
Chúng trang nghiêm thế nào?
Trang nghiêm phước không chán
Học vấn trang nghiêm trí!
Tâm định gọi là định
Biết pháp gọi là trí!

Kia hành xứ chỗ nào?
Ở, dừng tướng ra sao?
Những gì kia hành xứ?
Vì sao để tu hành?
Hành xứ chỗ pháp không
Xả chính là bờ kia
Nếu hành, trụ Tứ thiền
Tu hành thoát chúng sinh.

Sao gọi là ma nghiệp?
Phật chánh nghiệp ra sao?
Tạo tác những nghiệp nào
Thì được Bồ-đề hộ?
Hạ thừa là nghiệp ma
Đại thừa là thắng đạo
Tất cả ác lìa bỏ
Thì được Bồ-đề hộ!

Gần bạn lành ra sao
Cùng bạn ác thế nào
Sao gọi xóa bình đẳng
Xa lìa nơi tà kiến?
Tán thán đạo Bồ-đề
Thân cận với người đó
Thì tịnh tâm Bồ-đề
Lìa bỏ ác tri thức.
Các hành nghiệp đã hết
Theo chánh kiến tu hành
Lìa bỏ tà tương ưng
Thì chánh kiến chẳng mất!

Làm sao hộ chánh pháp
Và giáo hóa chúng sinh?
Phương tiện gì tu hành
Để thành đạo Bồ-đề?
Tinh tấn hộ chánh pháp
Phương tiện hóa chúng sinh
Lìa bỏ dòng nhị biên
Thì đắc đạo Bồ-đề!

Tác nghiệp trí thế nào
Thế nào nghiệp vừa ý
Vì sao mau thọ giáo
Thường cung kính thuận theo?
Không tranh là nghiệp trí
Không khởi lên tranh cãi
Miệng nói khéo dịu dàng
Cung kính nhiễu bên phải!

Đạo thì tướng ra sao
Thế nào là phi đạo
Làm sao được an trú
Không suy nghĩ trụ đạo?
Lục độ là chánh đạo
Hạ thừa là phi đạo.
Học phương tiện trí xong
Khiến chúng sinh trụ đạo!

Làm sao được giàu có
Làm sao được lợi lớn
Kho báu ở chỗ nào
Sao cho chúng sinh đủ?
“Thất tài” là giàu có
Tịch tĩnh là lợi lớn
Đà-la ni – kho báu
Biện thuyết khiến sung mãn.

Cha mẹ vốn là ai
Những gì là thân tộc
Tùy tùng tướng ra sao
Người nghiêm sức trí tuệ?
Mẹ “tuệ” vượt bờ kia
Trợ đạo là thân tộc
Thiện, căn là tùy tùng
Người trang nghiêm bằng trí.

Hiểu pháp vô ngã xong
Lòng Từ lan khắp cõi!
Vô ngã và lòng Từ
Nghĩa này là thế nào?
Lẽ không nếu biết rõ
Thì tự rõ vô ngã
Chính tâm từ tối thượng
Đời nay biết là không.

Vị lai không trở lại
Các hành tánh như vậy
Nghiệp báo cũng thế thôi
Làm sao có sinh sôi?
Đệ nhất nghĩa không thế
Cũng không có người đi
Và đạo đế của đời
Nói nghiệp và nghiệp báo.

Nếu Không cùng Vô tướng
Và Vô nguyện giải thoát.
Một tướng đồng Vô tướng.
Làm sao mà đạo sinh?
Không tức là Vô tướng
Vô tướng nên đắc tướng
Một tướng, một nghĩa đồng
Nên nói cửa giải thoát.

Sao gọi là quán Không?
Sao gọi quán chúng sinh?
Không cùng với chúng sinh
Làm sao mà được sinh?
Trí tuệ quán Không đó
Phương tiện quán chúng sinh
Dùng đại Bi giáo hóa
Đưa về đến Niết-bàn.

Không sinh, không có khởi
Tất cả pháp như vậy
Các hạnh sinh ra sao?
Nghĩa này phải nên hiểu
Vô diet và vô sinh
Trí này đã thông đạt
Từ thệ nguyện phát sinh
Phương tiện này tạo thành!

Làm sao được thọ ký?
Bất thoái chuyển thế nào?
Duyên của Nhẫn ra sao?
Làm sao được quyết định?
Thọ ký – trụ bình đẳng
Pháp giới – bất thoái chuyển
Vô sinh là nhân duyên
Biết pháp được quyết định.

Đạo tràng ở chỗ nào?
Bồ-đề tướng ra sao?
Ai gọi là Như Lai?
Phật được sáng thế nào?
Hư không là đạo tràng
Bồ-đề tướng hư không
Thân tâm chẳng nương cậy
Như như gọi Như Lai!

Bấy giờ, các con của vua Đại thọ Khẩn-na-la nghe Phật nói pháp như vậy rồi, liền đạt được pháp Nhẫn nhu thuận, mỗi người đều dùng chuỗi ngọc mình đang mang dâng lên Như Lai mà bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nhờ được gặp Phật ra đời, hôm nay chúng con mới nghe được pháp thậm thâm này. Thật là ít có, chỉ có Thế Tôn mới khiến cho trong tiếng âm nhạc nói lên lời kệ hỏi điều nghi để cho tượng Bồ-tát đáp lại lơi hỏi đó, có thể đoạn dứt các nghi hoặc của tất cả đại chúng, chúng con nghe rồi đạt được ánh sáng pháp rộng lớn.

Bạch Thế Tôn! Nắm giữ điều này là ai?

Phật đáp:

–Này các Hiền sĩ! Các ông nên biết, tất cả đều do thần lực của Như Lai! Oai lực Phật như vậy thật không thể nghĩ bàn.

Lúc ấy, con của vua Đại thọ Khẩn-na-la bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện cho tất cả các chúng sinh đều được thần lực như vậy.

Bấy giờ phu nhân, thể nữ của vua Đại thọ Khẩn-na-la, gồm tám vạn bốn ngàn người, mỗi người đều cầm trên tay xâu trân châu, đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đều tung chuỗi ngọc lên cúng dường Đức Phật. Trong khi đang tung lên, nhờ thần lực của Phật những chuỗi ngọc ấy ở trong hư không hóa thành tám muôn bốn ngàn cái đài lớn bằng trân châu. Bốn trụ ở bốn phương được trang trí đẹp đẽ. Trong các đài bau đều có giường, tòa ngồi, các chuỗi ngọc báu, hàng trăm ngàn y trời. Trên các tòa ngồi này đều có các Như Lai ngồi kiết già tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Lúc ấy tám muôn bốn ngàn phu nhân, thể nữ của vua Đại thọ Khẩn-na-la thấy thần lực của Phật thì rất vui mừng, thấy được điều chưa từng thấy, tất cả đều phát tâm nơi đạo Vô thượng Bồ-đề, đạt được không thoái chuyển, phát tâm rồi, vô cùng vui mừng, cùng nhau dùng kệ ca ngâm, khen ngợi Như Lai:

Nên cúng dường Đấng Tối Vô Thượng
Lợi ích kia không thể nghĩ bàn,
Khéo học lợi ích pháp điều phục
Chúng con đảnh lễ Đấng Thắng Nhân!
Lìa tham sân si, và dua nịnh
Tập tiếng vô úy, lìa não phiền
Từ kho báu lớn khai thị pháp
Cúi đầu lạy Đấng Ly Dục Tôn!
Ngũ nhãn thanh tịnh không nhơ uế
Khéo hay hàng phục các oán thù
Như hoa sen, chẳng nhiễm ba cõi
Được đến bờ kia, con lạy Ngài!
Ban cho thế gian mắt tuệ sáng
Làm mờ ánh sáng, mặt trời, trăng
Ra đời dòng giống Chuyển luân vương
Cầm giữ luân tướng con tán thán!
Tâm thường chẳng đắm nhiễm các sắc
Đạo Sư nương tựa cứu giúp cho
Không ai sánh bằng, huống hơn sao
Diệu âm diễn thuyết con đảnh lễ!
Với lợi, không lợi đều không nhiễm
Tất cả thế pháp đều biết cả
Giải thoát cho kẻ rơi lưới ái
Đạo sư Thế Tôn, con kính lễ!
Trụ thiền định thường điều phục tâm
Trụ mười Lực, đốt cháy kết sử
Giảng đạo pháp, chẳng ban thức ăn
Con lạy Đấng Vô Thượng phước điền!
Nói điều vi diệu, đủ tướng tốt
Đạo trái xả bỏ và lìa xa
Tiếng nói êm dịu như tiếng sấm
Cúi lễ Đấng vượt ra ba cõi!
Đấng Nhân Tôn đã lìa phiền não
Dùng thần thông dạo vô lượng cõi
Làm thuyền vững chắc cứu thế gian
Con cúi đầu kính lễ Như Lai!
Thế Tôn diễn nói tín và tấn
Độ thoát thế gian các kết nghi
Thanh văn có được hạnh lục thông
Cúi đầu khen Đấng lìa sáu đường!
Con cúi lạy Đấng sắc núi vàng
Lạy Đấng các căn điều phục định
Con nay lễ Đấng mặt trăng rằm
Lễ Đấng đức độ vượt loài người!
Diệt hết “kết sử” của chúng sinh
Vượt thoát bốn dòng sông khó qua
Hôm nay chúng con quy y Ngài
Con lễ Đấng Điều Căn Thế Tôn!
Thuở trước Ngài vốn đại bố thí
Cho kẻ cầu xin lòng hoan hỷ
Vật quý ưa thích đem cho người
Con lễ Đấng Thiện Thệ kiện thí!
Thấy chúng sinh si, mạn, mê say
Khéo biết điều này, nhân đã tạo
Đạo Thánh tối thắng không gì trên
Ngài khéo dẫn đường an nơi đó.
Bản tánh “ấm” giới thường rỗng lặng
Các “kết” không thật, chỉ hư ngụy
Thầy trừ cho đời những hối, nghi
Lời nói Thế Tôn, con khen ngợi!
Thường trụ thật pháp, các Tam-muội
Đối pháp tự tại đến bờ kia
Trí tuệ điều ngự tối vô thượng
Con cúi lạy Đấng Đại Thương Chủ!
Lìa khỏi huyễn hoặc các dối lừa
Đại lực hàng phục các quân ma
Sáng suốt, rành đường trên loài người
Giống như gió lớn, không ngại, vướng.
Đáy nước cạn dòng đến bờ kia
Kho báu của Ngài không cùng tận
Như Lai nhiều như cát sông Hằng
Ngài vốn thuở trước thường cúng dường.
Được ở trong đời không lay động
Lìa ái vượt nạn đến bờ kia Thân cận chư
Phật trụ chỗ thiện Nên kính lễ
Đấng vượt loài người!
Bỏ nỗi sợ sinh, già, bệnh, chết
Nhớ lại ngàn ức đời kiếp trước
Lưới ái rất lớn, rất đáng sợ
Mặt trời tuệ sáng, chiếu cỏ khô.
Đạo sư Độc giác ngộ các pháp
Tay chân có vân tướng cát tường
Cỏ cát tường mềm mại hiến dâng
Cát tường Thế Tôn, con đảnh lễ!
Tự tại vượt khỏi Đà-la-ni
Thường dùng pháp thí, không tài thí
Đấng Nhân tôn đánh trống pháp lớn
Con kính lễ Pháp Vương Thế Tôn!
Sinh ra từ dòng vua họ Thích
Các căn tĩnh lặng, tâm cũng tịch
Đạo Sư ba cõi thường tịch diệt
Đấng tâm tịch tĩnh, con ngợi khen!
Ma vương mang kiếm sắc bén đến
Cùng các chúng ma dưới gốc cây
Mà một sợi lông Ngài chẳng động
Cúi khen Đấng bất động như núi!
Đấng Nhân Tôn đến bờ tinh tấn
Vì chúng sinh kham nhẫn khổ đau
Chẳng còn thọ sinh, hết tử sinh
Thế Tôn thuyết nhẫn, con ngợi khen!
Được thế lực lớn, không nghiêng đổ
Khéo trụ vô úy, xứ, phi xứ
Đưa các chúng sinh trụ Bồ-đề
Thế Tôn thiện trụ, con kính lễ!
Biết các cõi không gì bền chắc
Đi xuất gia, lìa bỏ bà con
Biết ba cõi không ai trên được
Trí đến bờ kia, con ngợi khen!
Chúng sinh khổ não không ai cứu
Đem pháp Tam bảo cho đầy đủ
Đưa họ đến cõi không tai nạn
Con lạy Đấng Thế Tôn cứu đời!
Biết các căn, Ngài tu trí lực
Phá tan ác ma, quân ma ác
Âm thanh đã nói, rất nhiệm mầu
Khéo tu các căn, con tán thán!
Nghe chánh pháp, dục là căn bản
Lại đem dục này muốn Bồ-đề
Bình đẳng che đều chẳng thân sơ…
Che chở cho đời, con khen ngợi!
Đấng Thiện Thệ giác ngộ pháp rồi
Tự chuyển Pháp luân Vô thượng thánh
Biết các hành, tướng giống như mộng
Khiến cho chúng sinh hiểu chân thật.

Bấy giờ, các phu nhân, thể nữ của vua Đại thọ Khẩn-na-la dùng kệ tán thán rồi, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều phát tâm đạo Vô thượng, chẳng bao giờ dùng thân nữ này để thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Lành thay, bạch Thế Tôn! Nguyện xin Ngài vì chúng con thuyết pháp phù hợp, khiến cho chúng con chuyển thân nữ được thành thân nam, mau chóng thành đạo Vô thượng chánh chân.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các phu nhân, thể nữ của vua Khẩn-na-la:

–Các vị hãy lắng nghe, thành tâm suy nghĩ! Ta sẽ diễn thuyết về sự chuyển xả thân nữ thành thân nam, mau chóng đắc đạo Vô thượng chánh chân.

Họ đồng thanh đáp rằng:

–Hay thay, kính bạch Thế Tôn! Chúng con xin vâng lời lắng nghe!

Phật dạy:

–Này các vị! Thành tựu được một pháp hạnh thì bỏ được thân nữ được thân nam, mau chóng thành đạo Vô thượng chánh chân. Thế nào là một pháp hạnh?

Đó là tâm Bồ-đề, tâm Nhất thiết trí đồng là một tâm. Tâm tối thắng tất cả ba cõi, không quên trang nghiêm tất cả căn lành.

Này các vị! Đó là một pháp, nếu người nữ thành tựu thì chuyển xả được thân nữ thành thân nam, mau chóng thành đạo Vô thượng chánh chân.

Những gì là hai pháp?

Đó là:

  1. Gần gũi Phật chẳng phụng sự các trời thần khác.
  2. Xa lìa tà kiến.

Đó là hai pháp chuyển xả thân nữ, cho đến mau chóng thành đạo Vô thượng chánh chân.

Lại nữa, này các vị! Nữ nhân thành tựu được ba pháp thì chuyển xả thân nữ thành thân nam.

Những gì là ba?

Đó là:

  1. Thân giới.
  2. Khẩu giới.
  3. Ý giới.

Đó là ba pháp.

Lại nữa, này các vị! Người thành tựu bốn pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam. Những gì là bốn pháp?

Đó là:

  1. Không có tâm dối trá mà hành bố thí.
  2. Chẳng dùng sự dối trá mà tu trì giới.
  3. Đem ý cung kính mà hướng về Thánh hiền.
  4. Nghe nhận chánh pháp.

Đó là bốn pháp.

Lại nữa, này các vị! Người nữ thành tựu năm pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam. Những gì là năm pháp?

Đó là:

  1. Ưa thích pháp.
  2. Ham muốn pháp.
  3. Thường nghe pháp.
  4. Đã nghe pháp rồi thì Chánh niệm quan sát.
  5. Chán ghét thân nữ thường ưa được thành thân nam. Đó là năm pháp.

Lại nữa, này các vị! Người nữ thành tựu sáu pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam. Những gì là sáu?

Đó là:

  1. Tâm nhanh chóng.
  2. Tâm nhu nhuyến.
  3. Tâm chất trực không lừa dối.
  4. Tâm chất trực không huyễn hoặc.
  5. Tâm chất trực không giả dối.
  6. Tâm chánh trực.

Đó là sáu pháp.

Lại nữa, này các vị! Thành tựu bảy pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam. Những gì là bảy pháp?

Đó là:

  1. Niệm Phật muốn thành Phật.
  2. Thường niệm Chánh pháp muốn được Phật pháp.
  3. Thường niệm Tăng muốn mình làm Tăng.
  4. Thường niệm giới thề nguyền thanh tịnh.
  5. Thường niệm xả, bỏ các phiền não.
  6. Thường niệm Thiên sáng tỏ tâm Bồ-đề.
  7. Quán các chúng sinh với tâm hoan hỷ vậy.

Đó là bảy pháp.

Lại nữa, này các vị! Nữ thành tựu tám pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam. Những gì là tám pháp?

  1. Chẳng tham ăn.
  2. Chẳng tham tiệc tùng.
  3. Chẳng tham trượng phu.
  4. Chẳng tham hương bột, hương xoa.
  5. Chẳng tham dạo chơi vườn rừng.
  6. Chẳng tham đùa giỡn, chẳng tham tiếng ca và các âm nhạc.
  7. Chẳng tham múa giỡn.
  8. Chẳng tham kết giao hội hè.

Đó là tám pháp.

Lại nữa, này các vị! Nữ thành tựu chín pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam. Những gì là chín pháp?

  1. Chẳng nói có ngã.
  2. Chẳng nói có chúng sinh.
  3. Chẳng nói có thọ mạng.
  4. Chẳng nói có nhân, trượng phu.
  5. Chẳng nói đoạn kiến.
  6. Chẳng nói thường kiến.
  7. Chẳng chấp vào hữu kiến.
  8. Chẳng chấp vào vô kiến.
  9. Hiểu rõ pháp nhân duyên.

Đó là chín pháp.

Lại nữa, này các người! Nữ thành tựu mười pháp thì chuyển thân nữ thành thân nam, mau chóng thành Vô thượng Bồ-đề. Những gì là mười pháp?

  1. Đối với chúng sinh tu hành tâm Từ.
  2. Đối với của cải người khác chẳng sinh lòng tham ái.
  3. Chẳng nghĩ đến người đàn ông khác.
  4. Trọn đời chẳng nói dối.
  5. Chẳng nói hai lưỡi.
  6. Chẳng nói lời thô ác.
  7. Chẳng nói lời không có nghĩa lý.
  8. Chẳng khởi vô minh.
  9. Chẳng sân hận.
  10. Có cái nhìn chính trực nương vào nghiệp báo.

Này các vị! Đó là mười pháp, nếu người nữ thành tựu thì chuyển thân nữ thành thân nam, mau chóng đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Này các vị! Lại người nữ nên quan sát pháp thâm diệu: Quán sắc như bọt nước không say đắm sắc. Quán thọ như bong bóng, ở trong vui không sinh tham trước, ở trong khổ chẳng lìa bỏ, ở trong chẳng vui, chẳng khổ chẳng sinh si kết.

Quán tưởng như ánh lửa, trong đó chẳng khởi lên tưởng nam tưởng nữ.

Quán hành như tàu chuối, rõ biết các hành không có bền vững chân thật. Quán như vậy rồi chẳng trụ ở các pháp, chẳng khởi tưởng chấp trước.

Quán thức như huyễn, rõ biết tâm thức như người huyễn đi đến. Biết như vậy rồi, đối với các pháp không nhiễm trước. Quán biết thân này là sự hòa hợp của bốn đại: Đất, lửa, nước, gió. Các đại đã giả hợp làm thân giống như cỏ cây, tường vách, sành sỏi. Thân này như bóng, không ngã, không chúng sinh, không mạng, không nhân, không có trượng phu. Nương vào nghiệp đã tạo tác mà tự luân chuyển. Các cõi vọng tưởng giống như hư không tụ lại. Quán như thật về mắt thì chỉ là thịt, khi bị hủy thì tánh của mắt là không tịch. Quán kỹ như thế về tai, mũi, lưỡi, thân, ý thì tánh chúng đều không tịch. Hiểu thân như bóng trong gương, hiểu biết lời nói giống như tiếng vang. Quán tâm như huyễn. Như vậy, này các vị! Người nữ quan sát các pháp như thế thì mau chóng chuyển thân nữ thành thân nam, mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ-đề.

Khi đó, các phu nhân, thể nữ của vua Đại thọ Khẩn-na-la nghe Phật nói pháp chuyển thân nữ này, họ nghe pháp môn này rồi rất vui mừng, được nghe điều chưa từng có, đều đảnh lễ dưới chân Đức Phật, chí tâm không xao lãng.

Khi đó, biết ý nghĩa trong tâm các phu nhân, thể nữ của vua Khẩn-na-la, Thế Tôn liền mỉm cười.

Theo pháp thường, khi Phật mỉm cười thì hàng trăm ngàn hào quang xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía… từ miệng Ngài phát ra, chiếu soi khắp vô lượng, vô biên thế giới trên đến trời Phạm thế, che lấp ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trở lại trước Phật. Rồi nhiễu Phật ba vòng, theo trên đỉnh đầu mà vào.

Bấy giờ Đại đức A-nan liền đứng dậy, sửa lại y phục, trật áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng Phật mà nói kệ:

Con hỏi niềm vui diện kiến Ngài
Con hỏi uy đức lạ của Ngài
Con hỏi điều hay đoạn các nghi
Vì duyên cớ gì Ngài cười vậy?
Con hỏi Đấng Tịnh tối thâm diệu
Con hỏi điều lợi ích thế gian
Con hỏi Đấng Nhân Thiên tối thượng
Vì nghĩ thương ai hiện tướng cười?
Con hỏi Đấng ưa thí, điều phục
Con hỏi Đấng trì giới thanh tịnh
Hỏi Đấng ưa nhẫn, đắc nhẫn rồi
Vì lợi ích gì thị hiện cười?
Con hỏi Đấng trụ lực tinh tấn
Hỏi Đấng trụ thiền, đủ thần thông
Hỏi Đấng trí tuệ ngang hư không
Sao hiện cười, thưa đấng Vô đẳng?
Hỏi Đấng Thiện Thệ đại Bi tâm
Hỏi Đấng đại Bi thương thế gian
Hỏi Đấng đại Hỷ và đại Xả
Nhân duyên gì Ngài thị hiện cười?
Con hỏi Đấng qua bờ ba cấu
Hỏi Đấng vô cấu tịnh ba nhãn
Hỏi Đấng thường lạc, ba giải thoát
Ngài cười hẳn phải có nguyên nhân?
Con hỏi Đấng hàng phục kẻ khác
Hỏi Đấng hay nói pháp Cam lồ
Hỏi Đấng hay che tối các ma
Ngài cười, nguyện xin nói lý do?
Con hỏi Đấng giữ gìn mười Lực
Hỏi Đấng thân như sắc núi vàng
Hỏi Đấng đến được đỉnh công đức
Vì ích lợi gì mà ngài cười?

Bấy giờ, Phật bảo Đại đức A-nan:

–Ông hôm nay có thấy các vị phu nhân của vua Đại thọ Khẩnna-la chăng? Hôm nay, ở chỗ ta, họ đã gieo trồng thiện căn, chí thành pháp tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn chuyển thân nữ thành thân nam. Họ đang đảnh lễ dưới chân ta.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Con đã thấy, thưa Đức Thế Tôn!

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Các phu nhân, thể nữ của vua Khẩn-na-la đem lòng chí thành này gieo trồng các thiện căn, đến hết thân mạng này họ xả bỏ thân nữ được thành thân nam, sinh lên cõi trời Đâu-suất cùng Bồ-tát Dilặc hộ trì ta vô lượng, vo số kiếp, đã tập hợp đạo pháp Vô thượng Chánh chân.

Khi Bồ-tát Di-lặc thành Phật họ lại sẽ cúng dường. Cứ như vậy, họ lần lượt cúng dường hàng ngàn Đức Phật trong kiếp hiền, dần dần họ đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Khi vua Đại thọ Khẩn-na-la này được thành Phật, những người nữ này sẽ sinh vào cõi của Đức Phật ấy. Đức Phật Như lai kia sẽ thọ ký cho họ.

Bấy giờ, vua Đại thọ Khẩn-na-la bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Hôm nay Thế tôn đã vì chúng con mà làm

Phật sự lớn, trừ sạch đường ác, an trụ đường lành, thị hiện đạo Bồđề, trụ ở kho báu trí tuệ lớn, thành tựu tất cả căn lành xuất thế, thuyết giảng giúp thành tựu bạn Ba-la-mật, thị hiện phương tiện kheo, khuyên phát tâm Bồ-đề, nghe pháp đầy đủ, được chỉ dạy lợi lạc, yêu thích pháp thậm thâm, tất cả chúng con đều được an trụ ở địa vị không thoái chuyển.

Bạch Thế Tôn! Chúng con nay sẽ làm điều tri ân, chẳng phải không tri ân.

Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con nếu dùng cả máu, thịt, tủy, não còn không thể báo ân được huống là các thứ trân bảo khác!”

Bấy giờ, trong chúng hội có vị Bồ-tát khác dấy lên ý niệm như vầy: “Vua Đại thọ Khẩn-na-la này còn bao lâu nữa sẽ được chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề? Được thành Phật rồi hiệu là gì? Cõi nước của Đức Phật ấy trang nghiêm ra sao? Các chúng Bồ-tát lấy gì trang nghiêm? Vật thọ dụng của họ tướng loại thế nào?”

Lúc ấy, Thế Tôn biết được ý niệm trong tâm của vị Bồ-tát này. Ngài liền mỉm cười, vô lượng trăm ngàn ánh hào quang đủ mọi màu sắc từ miệng Ngài phát ra, chiếu khắp thế giới của chư Phật trong mười phương nhiều như số cát sông Hằng, chấm dứt tất cả khổ não của chúng sinh, hào quang chiếu khắp chư Thiên, thế gian rồi trở lại nhiễu quanh Đức Phật đủ một ngàn vòng rồi theo đỉnh đầu mà vào.

Bấy giờ Tôn giả A-nan liền đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu về bên phải bảy vòng, ở trước Như Lai, chắp tay mà nói kệ:

Lạy Đấng Thiện Thệ chưa từng thấy
Mỉm cười sự tướng là như vậy
Soi khắp vô lượng ức thế giới
Khắp mười phương như cát sông Hằng.
Ánh sáng Đế Thích và vua Phạm
Hộ Thế, Nhật, Nguyệt, ngọc, lửa, sao
Ánh sáng Nhân tôn làm lu mờ
Nhân gì Ngài cười, nguyện xin nói?
Diệt trừ ba ác, các khổ não
Chúng sinh lìa kết được vui mừng
Người, trời được vui mà nhiều nữa
Thanh tịnh chúng sinh vì sao cười?
Ai vì người, trời trụ Đại thừa?
Ai sẽ chứng đắc, chuyển pháp luân?
Ai đạt được Bồ-đề vô thượng?
Dũng kiện phóng ánh sáng tịnh diệu
Xin Pháp Vương đoạn nghi cho con
Và cho người, trời hết nghi hoặc!
Đại chúng hoan hỷ, nguyện muốn biết
Vì ai Ngài hiện tướng mỉm cười?

Bấy giờ Tôn giả A-nan dùng kệ hỏi Phật rồi, đi nhiễu bên phải ba vòng, trở về chỗ ngồi của mình.

Lúc ấy, Thế Tôn giống như con rồng lớn, quay nhìn mười phương rồi bảo Tôn giả A-nan:

–Này A-nan! Nay ông có thấy vua Đại thọ Khẩn-na-la này cúng dường rất nhiều Đức Như Lai chăng?

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Con đã thấy, thưa Thế Tôn!

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Vua Đại thọ Khẩn-na-la này trải qua sáu mươi tám trăm ngàn ức kiếp nữa rồi sẽ thành Phật, hiệu là Công Đức Vương Quang Minh Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, The Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước của Ngài tên là Vô cấu nguyệt, kiếp tên là Hữu bảo.

Này A-nan! Đất đai của thế giới Vô cấu nguyệt này bằng phẳng như bàn tay. Đất bằng lưu ly trắng giống như màu sắc của mặt trăng, rất sạch không cấu bẩn, không có các gai góc, sành sỏi, cát đá, có đài báu đẹp trụ trong hư không.

Khi các Bồ-tát đi kinh hành trên đất thì hai bên hiện ra hình tượng Như Lai Công Đức Vương Quang Minh. Các Bồ-tát này thấy tượng Như Lai liền có ý nghĩ như vậy: “Tất cả các pháp đều như tượng!” Nếu có chúng sinh, đối với pháp có điều nghi hoặc liền hỏi tượng Phật. Hỏi tượng Phật rồi thì có thể thọ trì, được Vô sinh nhẫn. Tất cả chúng sinh đều nương nơi đài báu ở hư không mà an trụ. Cõi Đức Phật kia không có danh từ người nữ. Chúng sinh coi ấy đều hóa sinh cả. Ở trong cõi nước này không có danh từ ẩm thực, mọi người ăn thuần bằng pháp hỷ. Trong cõi nước đó không có các thừa khác, chỉ thuần một Đại thừa mà thôi. Tất cả chúng sinh ở đây quyết định theo Đại thừa. Các chúng sinh đó không hủy cấm giới và oai nghi cùng phá chánh kiến. Tất cả chúng sinh quyết định theo Phật pháp. Nước kia không có ma và Thiên ma, ngoại đạo Ni-càn cùng các đạo khác… chúng sinh ở đó không chấp trước các “kiến” thậm chí chẳng chấp trước ở thiện kiến. Tất cả chúng sinh đều thực hành hạnh sâu xa, đã được ấn không ấn chứng. Chúng sinh người, trời trong cõi ấy không khác nhau. Vật chất mà họ thọ dụng đều đồng đẳng. Tuổi thọ Đức Như Lai Công Đức Vương Minh Quang là mười trung kiếp. Nhiều lợi ích, nhiều an lạc cho trời, người. Số Bồ-tát quyến thuộc của Ngài nhiều vô lượng đều ở địa vị không thoái chuyển.

Khi Đức Như Lai Công Đức Vương Quang Minh này sắp vào Niết-bàn, liền thọ ký cho Bồ-tát Thượng Tinh Tấn:

–Bồ-tát Thượng Tinh Tấn này tiếp theo sẽ được làm Phật, hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai… Phật Thế Tôn.

Ở trong kiếp này, Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo không đứt đoạn. Vậy nên, kiếp này tên là Hữu bảo.

Bấy giờ, vua Đại thọ Khẩn-na-la đích thân được nghe thọ ký rất đỗi vui mừng, được điều chưa từng có. Ông dùng thần lực thiện căn của Đại Bồ-tát muốn cho đại chúng phát tâm hoan hỷ tăng thêm thiện căn nên bay lên hư không cao bảy cây đa-la, nương thần lực Phật và tài về ngôn từ của mình nói kệ:

Thật tánh bao trùm tất cả pháp
Tánh ấy như “không” không bợn nhơ
Biết đạo nhiệm mầu như vậy rồi
Đó là trưởng tử tất cả Phật.
Như điều nhìn thấy ở trong mộng
Không thật, thấy được đều hư vọng
Đã rõ các pháp là như mộng
Đối với các pháp không lo chán.
Giống như huyễn hóa đã hiện ra
Binh chúng: voi, ngựa, bộ và xe…
Trong đệ nhất nghĩa không có thật
“Ấm” này như huyễn không thật bền.
Thể tánh của sắc như bọt nước
Các thọ như bọt nước hiện lên
Tưởng kia giống như lúc lửa hừng
Các hành không thật như bẹ chuối.
Tâm, ý, thức cùng với ba cõi
Như Lai nói: như huyễn hóa ra
Biết ấm tánh không không thật có
Ở trong các hành không nhàm chán.
Bốn đại, các giới như pháp giới
Các nhập như làng xóm rỗng không
Biết rõ các pháp như vậy xong
Giữ Pháp tạng không của chư Phật.
Bố thí tài, khéo tự điều phục
Tự điều phục bằng tịnh giới không
Tánh nhẫn thường tận – không có tướng
Tinh tấn thắng diệu thường tịch diệt
Tánh thiền tịch tĩnh không hý luận
Trí cũng không tịch không hý luận.
Nếu có thể nhập pháp như trên
Đó gọi là vượt đến bờ kia.
Lòng Từ vô ngã, vô chúng sinh
Đại Bi thanh tịnh như hư không,
Đại Hỷ, đại Xả đều rỗng lặng
Đó là phạm đạo, đạo tối thắng.
Là bốn Nhiếp pháp là tối thắng
Đức Phật nói: bao trùm khắp cả
Được pháp nhiếp này, mãi giải thoát
Đến được bờ kia của nhiếp pháp.
Chúng sinh vô ngã, vô chúng sinh
Chẳng được trượng phu và thọ mạng
Sáu căn thường tự tướng tịch tĩnh
Biết như vậy, gọi là Bồ-tát!
Không có Bồ-tát, không chúng sinh
Cũng lại chẳng sinh, không ngã mạn
Lìa hai, vô trước, không hý luận
Gọi là Vô trước, thật Bồ-tát!
Các pháp không thật như mây nổi
Không có người đi, không kẻ đến
Thể kia thường trụ tánh pháp giới
Thiện Thệ Như Như thông đạt hết.
Các pháp chẳng có, cũng chẳng không
Vì nhân duyên nên các pháp có
Như chớp vừa lóe liền tắt ngay
Tâm kia thường ưa quán như thế.
Tâm hành không sắc, chẳng nắm giữ
Thế gian như thế chẳng thể nắm
Nếu biết tâm tánh vốn thanh tịnh
Không có kết sử, các tối tăm.
Nói thân như cây, như tường vách
Si không có chủ như đá sành
Đã biết như vậy về bản tánh
Lại chẳng khởi tâm dựa vào thân
Miệng nói thanh tịnh như gió thổi,
Như tiếng vang vọng trong hang núi
Biết các âm thanh cũng như vậy
Với các âm thanh dục chẳng say.
Trụ tại hư không chẳng rơi rớt
Hư không không trụ cũng không xứ
Biết các pháp như hư không rồi
Chúng sinh trụ “chân như” như thế.
Hư không vốn không cháy, không sinh
Ngàn vạn ức kiếp mà chẳng cháy
Hiểu ra các pháp như hư không
Đến trăm ngàn cõi không thiêu cháy
Tu-di, Thiết vi và các núi
Thành lớn, thôn ấp và cỏ cây
Biết rõ chúng như hư không rồi
Thần thông đến xa ngàn ức cõi.
Địa đại, thủy, hỏa và phong đại
Bốn đại cũng giống như hư không
Biết những thứ này đều bình đẳng
Dũng kiện nương không, đến ưc cõi.
Ba cõi đã có các tiếng nói
Thắng diệu tăng thêm thượng, hạ, trung
Trăm ngàn ức kiếp nói không lường
Chẳng thấy bản tánh, biết tồn tại.
Thù thắng không có tướng sai khác
Tuy biết mà tâm không thể hiểu
Tâm ý cùng nhau vào tịch diệt
Các Như Lai đồng với các pháp
Tu căn lành hàng ngàn vạn kiếp
Vốn khi làm Bồ-tát tu hành
Biết Bồ-đề đồng với các pháp
Nên được thọ ký, đại danh xưng.
Các cảnh giới pháp, tánh sạch trong
Cảnh giới Như lai không thể lường
Biết được bình đẳng như vậy xong
Giữ đức thế thì được thọ ký.
Con nay không có các ấm, cái
Sắc, thọ, tư tưởng cùng với hành
Hiểu biết Bồ-đề được thọ ký
Chẳng nhẫn thọ ký ấm, giới, nhập.
Chứng đắc nhẫn kia vốn tịch tĩnh
Nhẫn và cho, không hai, bình đẳng
Vô lượng này là vô sinh nhẫn
Như vậy thì được thọ ký ngay.
Không thể cùng tận với vô tận
Hỏi hết, không khởi lên các pháp
Thông đạt nhẫn rồi được thọ ký
Không cú, nhập cú, không hình tướng.
Thật không có số, không hai bên
Không có làm khác, phải làm thật
Như vậy được thọ ký của Phật
Tính con nay bình đẳng với pháp
Tính mình vô ngã, đồng tánh không
Tính Bồ-đề giống như hư không
Nếu như thế, liền được thọ ký
Chính là tà hạnh, chẳng chánh chân.
Nếu đem tâm ý mà tu hành
Trong pháp bình đẳng hành thắng hạnh
Thì đều cùng trụ dưới đất thôi
Con nay trụ ở trên không này
Biết người dưới đất không đồng nhau
Chẳng chấp ba cõi, thêm tăng trí
Vậy nên được thọ ký Vô thượng!

Bấy giờ, vua Đại thọ Khẩn-na-la từ hư không nói kệ này xong thì hạ xuống, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay hướng về Ngài, bạch:

–Kính bạch Thế Tôn! Ngài đã vì con làm Phật sự, thọ ký cho con đầy đủ đạo Vô thượng.

Bạch Thế Tôn! Con ở đời quá khứ đã tu các hạnh là vì bất không. Con vì chẳng dối trá nên đã tu các hạnh!

Bấy giờ, trong đại chúng có các vị Đại Bồ-tát có ý niệm như vầy:

–Vua Đại thọ Khẩn-na-la này đã gieo trồng căn lanh đầu tiên ở

chỗ Đức Phật nào? Đức Phật Như lai kia hiệu là gì?

Khi ấy Bồ-tát Thiên Quan biết ý niệm trong lòng các vị Bồ-tát nên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vua Đại thọ Khẩn-na-la này lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề, gieo trồng thiện căn ở chỗ Đức Phật nào? Đức Phật Thế Tôn kia hiệu là gì?

Lúc ấy Phật bảo Bồ-tát Thiên Quan:

–Này Thiện nam! Thuở quá khứ xa xưa, cách đây vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, lúc đó có Phật hiệu là Bảo Tụ Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác… Phật Thế Tôn, cõi Phật này tên là Tịnh trang nghiêm, kiếp tên là Tịnh khiết. Đức Bảo Tụ Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác này có chúng Bồ-tát gồm sáu mươi ức vị. Tất cả chư vị ấy đều có vô lượng tinh tấn, đắc Đà-la-ni, không lay chuyển nơi đạo Vô thượng chánh chân. Phật ấy có tuổi thọ sáu mươi ức tuổi. Những vật dụng trong cõi nước kia hoàn toàn do lưu ly tạo thành. Đồ ăn thức uống ở đó thật phong phú như trên cõi trời Đâusuất. Cõi nước đó không có các thừa khác, chỉ thuần một Đại thừa thôi.

Bấy giờ, có vị Chuyển luân đại vương tên là Ni-mẫn-đà-la, tự tại trong bốn cõi, có đầy đủ bốn vạn phu nhân một ngàn người con, tất cả đều dũng kiện, đẹp đẽ, có thể khuất phục được nhiều người khác.

Khi ấy, vua Ni-mẫn-đà-la thỉnh Đức Như Lai Bảo Tụ và chúng tăng

Bồ-tát để cúng các vật cần dùng đủ một ức năm như: y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc thang, tất cả đồ ưa thích. Nhà vua đã tạo nên sự cúng dường vô lượng như vậy. Cúng dường Đức Như Lai xong, đức vua ấy thành tựu căn lành này. Bốn vạn phu nhân cùng với một ngàn người con, thêm tám muôn bốn ngàn chúng sinh đồng phát tâm nơi đạo Vô thượng chánh chân. Phát tâm đạo rồi, lại dùng những đồ ưa thích thường cúng dường Đức Như Lai Bảo Tụ đủ một ức năm. Sau đó, nhà vua bỏ ngôi vua trao cho thái tử tên là Tịnh Giới, tự bỏ ngôi vị quốc vương, thể nhập trong pháp của Đức Phật kia, cạo bỏ râu tóc, đem tâm tín thành xuất gia. Rồi cứ như vậy, một ngàn người con trai lần lượt nhường ngôi cho nhau, từng người một đều đi xuất gia, chỉ trừ vị vương tử nhỏ nhất tên là Giác Bi. Ông lên làm vua dùng chánh pháp trị nước, chẳng dùng binh lính, vũ khí, khéo léo, tự tại thống lãnh đất nước.

Này Thiện nam! Bấy giờ, vua Ni-mẫn-đà-la và các con xuất gia rồi, Đức Như Lai Bảo Tụ lúc đầu, nửa chừng và sau cùng, đã nói pháp cho họ có thể thọ trì.

Này Thiện nam! Ý ông thế nào? Đó là ai khác ư? Ông chớ có nghi ngờ vậy! Vua Chuyển luân Ni-mẫn-đà-la kia nay là vua Đại Thọ Khẩn-na-la này. Các con của vua ấy, nay đều tu hành đạo Bồtát.

Này Thiện nam! Vua Đại Thọ Khẩn-na-la này, ở trong pháp của Đức Như Lai Bảo Tụ kia phát tâm Bồ-đề vô thượng đầu tiên. Từ đó về sau, nhà vua luôn được gặp Phật, nghe pháp cúng dường chúng tăng, giáo hóa chúng sinh, mà chẳng mau chóng nhận lấy đạo Vô thượng chánh chân. Ta nay thọ ký cho ông ấy đạo Vô thượng này. Ông ấy sẽ được làm Phật hiệu là Như Lai Công Đức Vương Quang Minh.

Bồ-tát Thiên Quan bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Chưa từng có vậy! Trí tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn mới có thể biết được điều xa xưa như vậy.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Thiện nam! Đúng như ông đã nói. Như Lai thấy biết vô lượng vô biên. Vì sao vậy?

Này Thiện nam! Vô lượng tất cả chúng sinh đời quá khứ, Như Lai đều có thể biết hết tâm của họ. Biết như vậy khắp mười phương; biết như vậy ở mọi chỗ; biết như vậy về mọi tạo tác của họ; hoặc nghiệp thiện, hoặc nghiệp bất thiện, hoặc nghiệp vô ký, biết như vậy về tất cả sự biến chuyển trong tâm của họ, Như Lai đều biết hết! Nếu hiện tại tâm khởi lên, hoặc tâm thiện, hoặc tâm bất thiện, hoặc vô ký, khởi như vậy ở mười phương, khởi như vậy ở mọi chỗ, khởi những tạo tác như vậy thì Như Lai đều biết. Sự thấy biết của Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác như thế không có ngăn ngại. Nếu đời vị lai, tất cả chúng sinh sẽ khởi tâm thì Như Lai đều biết.

Khi Phật nói về trí vô ngại của Như Lai này, ba vạn hai ngàn chúng sinh vốn chưa phát tâm, lần đầu tiên ân cần, trân trọng phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, lần thỉnh Phật và đại chúng Bồ-tát, Thanh văn để cúng dường bay hôm của vua Đại Thọ Khẩn-na-la đã xong. Nhà vua lại đem các vật dụng cần thiết ưa thích và cung điện, vườn rừng, quảng trường, đất đai, dâng cúng hết, rồi nói như vầy:

Nguyện xin Phật Thế Tôn rủ lòng thương xót chúng con, thỉnh thoảng xin Ngài đến đây với chúng con. Nếu được vậy thì sẽ rất an lạc, sẽ rất lợi ích cho các Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già.

Bấy giờ, con trai của vua Đại Thọ Khẩn-na-la tên là Vô Cấu Nhãn đem lưới ngọc báu dâng lên Như Lai rồi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Khẩn-na-la chúng con đắm say hương hoa, đắm say ca múa, đắm say lạc thú, nguyện xin Thế Tôn vì chúng con thuyết giảng pháp môn tu hành khiến cho chúng con rời bỏ sự cuồng say, tu tập pháp Bồ-đề trợ đạo.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Vô Cấu Nhãn, con vua Đại Thọ Khẩnna-la rằng:

–Này Hiền sĩ! Từ đây về sau, ta sẽ giúp ông khiến cho các nhạc cụ phát ra âm thanh sáu mươi bốn pháp trợ Bồ-đề vi dieu.

Những gì là sáu mươi bốn pháp?

Đó là:

  1. Phát ra tiếng bố thí
  2. Tiếng trì giới.
  3. Tiếng nhẫn nhục.
  4. Tiếng tinh tấn.
  5. Tiếng thiền định.
  6. Tiếng trí tuệ.
  7. Tiếng Từ.
  8. Tiếng Bi.
  9. Tiếng Hỷ.
  10. Tiếng Xả.
  11. Tiếng bốn Nhiếp pháp.
  12. Tiếng không quên tâm Bồ-đề vô thượng.
  13. Tiếng chẳng nhàm chán sinh tử.
  14. Tiếng tập hợp căn lành.
  15. Tiếng Phật.
  16. Tiếng Pháp.
  17. Tiếng Tỳ-kheo tăng.
  18. Tiếng Niệm xứ.
  19. Tiếng Chánh đoạn.
  20. Tiếng Thần túc.
  21. Tiếng Căn.
  22. Tiếng Lực.
  23. Tiếng giác.
  24. Tiếng đạo.
  25. Tiếng định.
  26. Tiếng tuệ.
  27. Tiếng vô thường.
  28. Tiếng khổ.
  29. Tiếng vô ngã.
  30. Tiếng tịch.
  31. Tiếng vô hành.
  32. Tiếng tịnh.
  33. Tiếng vô sinh.
  34. Tiếng vô khởi.
  35. Tiếng như.
  36. Tiếng pháp tánh.
  37. Tiếng thật tế.
  38. Tiếng vô ngã.
  39. Tiếng vô chúng sinh.
  40. Tiếng vô mạng.
  41. Tiếng vô trượng phu.
  42. Tiếng vô nhân.
  43. Tiếng vô lai.
  44. Tiếng vô khứ.
  45. Tiếng vô xứ.
  46. Tiếng vô trụ.
  47. Tiếng không.
  48. Tiếng vô tướng.
  49. Tiếng vô nguyện.
  50. Tiếng ly.
  51. Tiếng diệt.
  52. Tiếng vô sở hữu.
  53. Tiếng nhân duyên.
  54. Tiếng vô vật.
  55. Tiếng vô tụ.
  56. Tiếng vô y.
  57. Tiếng hộ chánh pháp.
  58. Tiếng hàng ma.
  59. Tiếng thiện phương tiện.
  60. Tiếng giáo hóa chúng sinh.
  61. Tiếng như huyễn, như hóa, như chớp, như trăng đáy nước, như mộng, như âm hưởng,
  62. Tiếng pháp giới chẳng hoại.
  63. Tiếng như thuyết, như tác.
  64. Tiếng tập hợp các thiện căn mà chẳng quên mất, không phóng dật.

Như vậy, này Hiền sĩ! Ta sẽ khiến cho các nhạc cụ của các ông phát ra tiếng sáu mươi bốn pháp hộ trợ đạo Bồ-đề như vậy, nó sẽ khiến cho các ông đạt được pháp không buông lung, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Trang 1 2 3 4