SỐ 311
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG TAM GIỚI
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Đàm Vô Sấm,  người xứ Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương xá. Núi này cao lớn, sừng sững, mọi vật ở đây đều phát triển tốt tươi, trên mặt đất mọc lên đủ các loại hoa. Các loài Khẩn-na-la, Càn-thátbà thường đến dạo chơi ở đây, lại có các chúng sinh như Trời, Rồng, Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-giá cũng ở trong núi này. Lại có nhiều loài khác như sư tử, cọp, beo, voi, ngựa, kỳ lân, gấu, nai, trâu, dê, khỉ, vượn đều ở trong núi này.

Lại có rất nhiều loại chim như chim khổng tước, oanh vũ, chim sáo, chim cộng mạng, chim yểng, chim câu, vịt trời, chim oang ương, ngỗng trời, nhạn đen, gà núi, chim trĩ, chim tu hú, chim bồ câu, chim diều hâu, chim tước, giá sa. Các loại chim như vậy đều ở núi này.

Những chúng sinh ở đây do thần lực của Đức Phật, nên đều không bị tham dục, sân, si làm não loạn, không ăn nuốt nhau, mà còn thương yêu nhau như tình mẹ con.

Trong núi chúa này, rừng cây cối tươi tốt, cành nhánh lớn nhỏ đều nguyên vẹn, có rất nhiều cây mọc đứng xen nhau như: cây Thiên-mộc, cây Tất-lợi-xoa, cây Mã-nhĩ, cây Tất-bát-la, cây Phượcthúc-ca, cây Ha-lê-lặc, cây Ha-ma-lặc, cây Tỳ-hê-lặc, cây Đa-la, cây Ca-ni-ca, cây Am-bà-la, cây Diêm-phù, cây Mộc trảo, Bồ đào, Đào-hạnh, Lê-nại, Bà-long-già, cây Hồ đào, An thạch, Lưu trấn, Đầu-già, cây Ni-câu-la, cây Tòng bá, Dự-chương-ba-nại, cây Huân lục, Chiên-đàn, Trầm thủy, Tô hợp. Các loại cây như vậy đều có đủ cả.

Ở trong núi chúa này, các loài hoa mọc dưới nước hoặc ở trên khô đều có đủ như hoa A-đề-mục-đa, hoa Chiêm-bà, hoa Ba-tra-la, hoa-Bà-sư, hoa Tu-mạn, hoa Tu-càn-đà, hoa Do-đề-ca, hoa Ca-nị-ca, hoa Ngưu tô bách diệp mạn-thù-sa. Như vậy, các loài hoa mọc khắp trên mặt đất, sáng đẹp cả núi chúa.

Lại có các loài hoa mọc dưới nước như hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng và màu xen tạp đều có đủ.

Trong núi chúa này, vào nửa đêm, thường có mây lớn bao trùm. Trời, Rồng làm mây biến thành mưa phùn có hương thơm và tám vị. Trong khoảnh khắc, cơn mưa này thấm ướt khắp cả núi Kỳxà-quật. Vào cuối đêm, trời sáng không có mây mù, gió nhẹ, mát mẻ sảng khoái thân tâm.

Trong núi chúa này, tất cả chúng sinh và các loài cây cỏ đều sung túc, tươi tắn, sáng đẹp, cũng như hoa tươi dùng nước tưới lên, làm cho màu sắc tươi sáng của hoa tăng lên gấp bội.

Trong núi chúa Kỳ-xà-quật có các loại cỏ rất mềm mại, màu hồ thủy xanh, trắng, vừa đẹp vừa thơm, đều xoay hướng phải và các màu sắc xen tạp khác rất đẹp giống như cổ chim Khổng tước, hương thơm như bông Bà-sư-la, khi sờ có cảm giác mịn như áo Ca-lăng-già, đất ở đây mịn màng, khi đặt chân xuống, đất lấp bốn ngón chân, khi rút chân lên đất trở lại như cũ.

Trong núi chúa này có nhiều ao nước chảy, nước đầy ao luôn trong xanh mát mẻ, sen mọc đầy hồ đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, lớn như bánh xe. Khi ngắt hoa, hương thơm phảng phất cả một do-tuần. Trên đỉnh núi chúa xuất hiện một tòa sen lớn tuyệt đẹp, làm bằng báu vô hàng phục, lưu ly xanh biếc làm cọng, vàng Diêmphù-đàn làm lá, Kiên hắc chiên-đàn làm đài, Mã não bảo vương dùng làm tua. Hoa lớn rộng như biển. Có trăm ức vua A-tu-la thường đến giữ gìn, trăm ức lưới báu chúa đủ màu sắc che phủ ở trên, trăm ức Long vương rưới nước mưa thơm, trăm ức chúa Kim sí điểu ngậm các dải tơ lụa màu, trăm ức chúa Khẩn-na-la vui vẻ chiêm ngưỡng, trăm ức chúa Ma-hầu-la đứng nhìn ngắm, trăm ức chúa Ca-lầu-la ca vịnh tán thán, trăm ức vua cõi trời rưới bột thơm và y phục, hương hoa, cờ, phướn, lọng báu; trăm ức Phạm vương ở hư không chắp tay đứng hầu, trăm ức Thiên chúng Tịnh cư chắp tay kính lễ, trăm ức vua Chuyển luân cùng bảy báu theo hầu đều đến núi này; trăm ức Hải vương từ biển lớn đến để được kính lễ. Ở đây, lại có trăm ức hạt châu báu chúa soi sáng, có trăm ức vật báu chúa Tịnh ma-ni treo xen kẽ, trăm ức vật báu chúa Biến duyệt làm đèn hoa, trăm ức vật báu chúa Quang minh đức soi sáng, trăm ức màu sắc xen tạp của báu chúa Ma-ni chiếu sáng, trang trí bằng vật báu chúa Diêm-phù tràng, trăm ức vật báu chúa Kim cang sư tử không hư hoại để trang nghiêm, trăm ức màu sắc hỗn hợp không thể nghĩ bàn của các báu chúa phát sinh các màu sắc hỗn hợp, trang nghiêm bằng trăm ức vật báu chúa như ý phát ra ánh sáng không cùng tận.

Hoa sen lớn này là do căn lành của Đức Như Lai xuất hiện ở đời mà có, là do ý chí của Bồ-tát muốn hộ trì mà biến hiện khắp nơi, là từ nơi pháp như huyễn mà sinh nghiệp lành, từ sự trang nghiêm của Pháp nhãn vô tránh, từ pháp như huyễn mộng mà sinh, từ chỗ không hành hóa mà hiện khởi, từ nơi đạo không ngăn ngại mà đến, đầy khắp cả mười pháp giới, là cảnh giới công đức của Phật mà có. Nếu tán thán công đức kia trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, cũng không bao giờ cùng tận.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bước lên đài sen ngồi kiết già, cùng với đại chúng Tỳ-kheo tám ngàn vị, tên các vị ấy là A-nhã Kiềutrần-như, Đại đức Yết-thi-ba-xà, Đại đức Bà-tân, Đại đức Ma-hanam, Đại đức Ưu-đà-da, Đại đức Da-xa, Đại đức Phú-na, Đại đức Vô Cấu, Đại đức Kiều-phạm-ba-đề, Đại đức Thiện Tý, Đại đức Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ma-ha Ca-diếp, Đại đức Ca-chiên-diên, Đại đức Xá-lợi-phất, Đại đức Đại Mục-kiền-liên, Đại đức A-na-luật, Tu-bồ-đề, Ly-bà-đa, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Ưu-bà-ly, La-hầu-la, Nan-đà, Đại đức A-nan v.v… đều là các bậc Thượng thủ, tất cả đều vững chắc, thấy rõ tánh như thật và quán sát tánh chân thật, vượt qua biển pháp tánh và các cõi, thực hành hạnh rộng lớn như hư không của Như Lai, những trói buộc vĩnh viễn đoạn trừ, phá sào huyệt của lưới nghi, tin vào biển trí của Phật vượt qua bờ kia, làm người bạn không cần thỉnh vì lợi ích cho thế gian, muốn bảo hộ tất cả chúng sinh, không xả bỏ tâm Từ đối với tất cả chúng sinh, rất khéo diễn thuyết tất cả hạnh nguyện của Đức Phật; giữ gìn Phật pháp, thề nguyện hộ trì Phật pháp, phát triển hoàn hảo hạt giống Phật, để hướng đến Nhất thiết trí.

Lại có tám ngàn vị Bồ-tát lớn như Bồ-tát Phổ Hiền, Văn-thùsư-lợi v.v… là những Bậc Thượng thủ. Bồ-tát Vô Thượng Trí, Bồ-tát Vô Thượng Bảo Trí, Bồ-tát Vô Ngại Trí, Bồ-tát Hoa Thượng Trí, Bồ-tát Nhật Thượng Trí, Bồ-tát Nguyệt Thượng Trí, Bồ-tát Vô Cấu Thượng Trí, Bồ-tát Kim Cang Trí, Bồ-tát Viễn Trần Trí, Bồ-tát Biến Thuyết Trí, Bồ-tát Quang Tràng, Bồ-tát Sơn Tràng, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Vô Ngại Tràng, Bồ-tát Hoa Tràng, Bồ-tát Tịnh Tràng, Bồ-tát Nhật Tràng, Bồ-tát Dục Lạc Tràng, Bồ-tát Ly Cấu Tràng, Bồ-tát Biến Duyệt Tràng, Bồ-tát Địa Oai Đức, Bồ-tát Bảo Oai Đức, Bồ-tát Đại Oai Đức, Bồ-tát Kim Cang Trí Oai Đức, Bồ-tát Vô Cấu Oai Đức, Bồ-tát Nhật Oai Đức, Bồ-tát Nguyệt Oai Đức, Bồ-tát Sơn Oai Đức, Bồ-tát Trí Chiếu Oai Đức, Bồ-tát Biến Oai Đức, Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Tịnh Đức Tạng, Bồ-tát Pháp Hải Tạng, Bồ-tát Biến Duyệt Tạng, Bồ-tát Thuyền Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Nhật Nhãn, Bồ-tát Tịnh Nhãn, Bồ-tát Vô Cấu Nhãn, Bồ-tát Vô Ngại Nhãn, Bồ-tát Biến Kiến Nhãn, Bồ-tát Thiện Lợi Trí Nhãn, Bồ-tát Kim Cang Nhãn, Bồ-tát Bảo Nhãn, Bồ-tát Hư Không Nhãn, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Thiên Quan, Bồ-tát Chiếu Pháp Giới Chí Quan, Bồ-tát Đạo Tràng Châu Quan, Bồ-tát Diệt Chư Phương Quan, Bồ-tát Nhất Thiết Phật Hiện Tại Tạng Quan, Bồ-tát Siêu Nhất Thiết Thế Gian Quan, Bồtát Biến Duyệt Nhất Thiết Quan, Bồ-tát Vô Hủy Quan, Bồ-tát Phú Nhất Thiết Như Lai Sư Tử Tòa Quan, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Pháp Giới Hư Không Quan, Bồ-tát Long Chủ Kế, Bồ-tát Phạm Chủ Kế, Bồ-tát Ly Nhất Thiết, Phật Pháp Mang Kế, Bồ-tát Đạo Tràng Kế, Bồ-tát Xuất Nhất Thiết Nguyện Hải Âm Châu Kế, Bồ-tát Phóng Nhất Thiết Như Lai Quan Tràng Châu Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Hư Không Vô Hoại Ngữ Bảo Kế, Bồ-tát Chư Phật Thần Thông Biến Chiếu Tràng Bảo Châu Võng Phú Kế, Bồ-tát Xuất Nhất Thiết Như Lai Pháp Luận Thanh Kế, Bồ-tát Xuất Nhất Thiết Tam Thế Danh Thanh Kế, Bồ-tát Đại Quang, Bồ-tát Tịnh Quang, Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Ly Cấu Quang, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Pháp Quang, Bồ-tát Tịch Quang, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Thần Thông Quang, Bồ-tát Thiên Quang, Bồ-tát Đức Tướng, Bồ-tát Trí Tướng, Bồ-tát Pháp Tướng, Bồ-tát Vô Hoại Tướng, Bồ-tát Quang Tướng, Bồ-tát Hoa Tướng, Bồ-tát Châu Tướng, Bồ-tát Phật Tướng, Bồ-tát Phạm Tướng, Bồ-tát Biến Siêu Tướng, Bồ-tát Phạm Âm, Bồ-tát Hải Âm, Bồ-tát Địa Âm, Bồ-tát Thế Âm, Bồ-tát Thạch Sơn Âm, Bồ-tát Biến Pháp Giới Âm, Bồ-tát Xuất Nhất Thiết Pháp Hải Lôi Âm, Bồ-tát Tồi Nhất Thiết Ma Tràng Âm, Bồ-tát Xuất Đại Bi Đạo Lôi Âm, Bồ-tát Diệt Nhất Thiết Thế Khổ Não Âm, Bồ-tát Pháp Dũng, Bồ-tát Tăng Dũng, Bồ-tát Trí Dũng, Bồ-tát Đức Sơn Dũng, Bồ-tát Đức Tăng Dũng, Bồ-tát Danh Xưng Dũng, Bồ-tát Phổ Chiếu Dũng, Bồ-tát Đại Từ Dũng, Bồ-tát Trí Chiếu Dũng, Bồ-tát Như Lai Chủng Tánh Dũng, Bồ-tát Quang Đức, Bồ-tát Thắng Đức, Bồ-tát Pháp Dũng Đức, Bồ-tát Biến Quang Đức, Bồ-tát Pháp Đức, Bồ-tát Nguyệt Đức, Bồ-tát Hư Không Đức, Bồ-tát Bảo Đức, Bồ-tát Tướng Đức, Bồ-tát Trí Đức, Bồ-tát La Vương Đức, Bồ-tát Pháp Chủ Vương Đức, Bồ-tát Thế Chủ Vương, Bồ-tát Phạm Chủ Vương, Bồtát Thạch Sơn Chủ Vương, Bồ-tát Chúng Chủ Vương, Bồ-tát Thiên Chủ Vương, Bồ-tát Tịch Chủ Vương, Bồ-tát Bất Động Chủ Vương, Bồ-tát Hóa Chủ Vương, Bồ-tát Bồ-đề Thắng Chủ Vương, Bồ-tát Tịch Thanh, Bồ-tát Vô Ngại Thanh, Bồ-tát Địa Thanh, Bồ-tát Đại Hải Thanh, Bồ-tát Lôi Thanh, Bồ-tát Chiếu Pháp Thanh, Bồ-tát Hư Không Thanh, Bồ-tát Nhất Thiết Thanh, Bồ-tát Thiện Nhãn Lôi Thanh, Bồ-tát Phát Bản Nguyện Thanh, Bồ-tát Diệt Nhất Thiết Ma Tràng Giác, Bồ-tát Trí Sơn Giác, Bồ-tát Hư Không Giác, Bồ-tát Vô Ngại Giác, Bồ-tát Ngụ Âm Giác, Bồ-tát Chiếu Tam Thế Giác, Bồtát Bảo Giác, Bồ-tát Vô Úy Giác, Bồ-tát Biến Chiếu Giác, Bồ-tát Pháp Giới Nhãn Chiếu Giác v.v… tám ngàn vị Đại Bồ-tát như vậy đều đầy đủ hạnh nguyện Phổ Hiền, việc tu hành không còn trở ngại, hiện vô lượng thân hình đến cùng khắp các cõi Phật, mắt được thanh tịnh, thấy không cùng tận, đều có khả năng hiện bày tất cả thần thông của Phật, gieo rất nhiều nhân duyên với chúng sinh. Bất cứ đâu có Như Lai thành Phật, các vị đều đi đến trợ giáo không bao giờ mỏi mệt. Trí sáng của chư vị soi khắp tất cả biển pháp, trong vô lượng ức kiếp tán thán công đức ấy cũng không thể cùng tận. Chư vị thích nói pháp thanh tịnh như hư không, trí tuệ tu hành không còn nương gá, tùy chúng sinh ưa thích mà vì họ xuất hiện không có chướng ngại, hiểu rõ vốn không có chúng sinh và cũng không có các cảnh giới về ngã… Tuệ của chư vị rộng như hư không, như lưới trí sáng ngời, soi sáng khắp tất cả pháp giới, tâm hoàn toàn vắng lặng không bao giờ rối loạn; tất cả Đà-la-ni và cảnh giới Trí chủng, các Tam-muội, Vô úy, đều đạt đến không ngại; nương ở pháp giới có trăm ức tai mắt, tu hành tất cả pháp, không còn sợ hãi, quán sát để vào biển không trí cùng tận, Thiền ba-la-mật-đa đến bờ bên kia, lại được Bát-nhã ba-la-mật-đa, Thần thông ba-la-mậtđa, vượt qua các Tam-muội ba-la-mật-đa ở thế gian khéo được tự tại.

Lại có năm trăm Tỳ-kheo-ni là Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-bađề, Tỳ-kheo-ni An Ổn, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa, Tỳ-kheo-ni Cực Khổ Cù-đàm-di, mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la v.v… là bậc Thượng thủ của năm trăm Tỳ-kheo-ni.

Lại có năm trăm Ưu-bà-tắc là Ưu-bà-tắc Thiện Oai Đức, Ưubà-tắc Thiên Oai Đức, Ưu-bà-tắc Tuệ Quang, Ưu-bà-tắc Danh Xưng Oai Đức, Ưu-bà-tắc Quá Danh Xưng Oai Đức, Ưu-bà-tắc Thiện Chí, Ưu-bà-tắc Nguyệt Đức, Ưu-bà-tắc Nguyệt Hoan Hỷ, Ưu-bà-tắc Đại Hoan Hỷ, Ưu-bà-tắc La-hầu-bạt-đà, Ưu-bà-tắc Đại Hiền v.v… là hàng Thượng thủ của năm trăm Ưu-bà-tắc.

Lại có năm trăm Ưu-bà-di: Ưu-bà-di Đại Quang, Ưu-bà-di Thiện Quang, Ưu-bà-di Thiện Thân, Ưu-bà-di Khả Lạc Thân, Ưu-bàdi Hiền, Ưu-bà-di Hiền Đức, Ưu-bà-di Nguyệt Quang, Ưu-bà-di Tướng Quang, Ưu-bà-di Đức Quang, Ưu-bà-di Thiện Nhãn v.v… là hàng Thượng thủ của năm trăm Ưu-bà-di. Và các vị Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… cung kính đi nhiễu quanh Đức Thế Tôn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn diễn nói pháp tên là Tam giới. Đức Thế Tôn phân biệt diễn nói về cảnh giới của tất cả chư Phật Như Lai là pháp tu hành của Bồ-tát, soi khắp cả pháp giới, sáng soi tất cả đạo tràng, pháp giới, thể nhập vào sự thanh tịnh trang nghiêm khắp tất cả pháp giới, phá diệt tất cả ngoại đạo v.v… hàng phục ma oán, làm an vui khắp cảnh giới của tất cả chúng sinh, có thể biết được tất cả tâm mê hoặc của chúng sinh, tùy theo tâm lý chúng sinh mà diễn nói, khéo soi rõ chuyển hóa căn tánh chúng sinh mà chỉ bày cho họ.

Khi ấy Đại đức Ma-ha Ca-diếp, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, trịch áo bày vai bên phải, gối phải sát đất, chắp tay hướng về phía Đức Phật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng sinh mong cầu pháp Phật, Lực, Vô sở úy, những người như vậy, nên tu tập pháp gì? Nên dùng pháp gì để hộ trì chúng sinh ấy? Nên dùng pháp gì để họ không bị thoái chuyển nơi Chánh đạo vô thượng?

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Lành thay, lành thay! Này Ca-diếp! Ông nay thưa hỏi như thế vì mong được nhiều an lạc, an ổn cho thế gian và làm lợi ích cho trời, người mới hỏi Phật những việc như vậy.

Này Ca-diếp! Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ phân biệt giải nói cho các ông.

Tôn giả Ca-diếp và tất cả đại chúng nhận lời chỉ dạy, lắng nghe.

Đức Phật bảo:

–Này Ca-diếp! Nếu có chúng sinh mong cầu trí tuệ của Phật, lực Vô úy của Phật thì những chúng sinh ấy đối với tất cả pháp, nên không có sở đắc, không chỗ nương gá mà phát sinh các căn lành.

Này Ca-diếp! Nếu Bồ-tát khi cầu đạo chánh chân, nếu còn chấp tướng, hoặc đối với Phật pháp mà sinh khởi chấp trước tướng hữu vi, hoặc đối với Phật pháp mà sinh khởi tướng vô vi, hoặc đối với Phật pháp mà sinh vọng tưởng, tự cho là có tướng, ta hiểu biết Phật pháp, trong những tướng này chấp chặt không xả bỏ, nên nói người này không thể hướng đến đạo Vô thượng.

Vì sao vậy? Người ở trong Phật pháp mà ham muốn hy vọng là còn chấp ngã, nếu dụng tâm như vậy mà tu thì sự chấp ngã không thể nào diệt trừ, nếu không đoạn trừ thời có hy vọng, đã có hy vọng, lại hy vọng ở trong giáo pháp là có hại, nếu bị hại liền khởi tâm giong ruổi, nếu tâm giong ruổi thì có lưu chuyển, nếu tâm lưu chuyển thời có quán xuyến, nếu hay quán xuyến thời có vọng tưởng, nếu đã có vọng tưởng thời có phân biệt, nếu có phân biệt lại càng tăng thêm vọng tưởng, nếu tăng vọng tưởng thời có suy nghĩ hiểu biết, nếu suy nghĩ hiểu biết là có chấp chặt, nếu đã chấp thời sẽ chạy theo duyên, nếu theo duyên cảnh sẽ có mê hoặc, nếu đã mê hoặc thời sẽ bị mất.

Thế nào là bị mất?

–Nghĩa là người mất an ổn.

Thế nào là an ổn?

–Là tâm không phân biệt.

Nếu khởi tâm phân biệt thời nó thường khởi, nếu nó thường khởi thì có đối nghịch trở ngại, nếu đã đối nghịch trở ngại thời có chỗ trú, nếu đã có chỗ trú thời có sự tương tục, nếu tâm tương tục thời có chống trái, nếu đã chống trái thời càng tăng thêm sự chống trái, nếu thêm chống trái thời có sự hư dối lỗi lầm, nếu tâm hư dối lỗi lầm thời có cuồng loạn, nếu đã cuồng loạn thời có hư dối, nếu đã hư dối thời có buồn phiền, nếu tâm buồn phiền thời có hối hận, nếu đã hối hận thời có tổn hại, chấp chặt theo pháp thiện và bất thiện. Thật ra không có một pháp nào cố định đáng để chấp trước, chỉ do tâm tưởng chuyển biến và bị tư tưởng ràng buộc. Như vậy gọi là tư tưởng trói cột. Tham không có nhất định, sân không có nhất định và si cũng không có nhất định. Nếu khởi tâm vọng tưởng phân biệt thì không thể đạt đến Chánh đạo Vô thượng.

Này Ca-diếp! Như vậy gọi là tham ái.

Thế nào gọi là ái?

Không có pháp nào nhất định gọi là ái, không có pháp đáng ưa, cũng không có chỗ đáng tham ái, chỉ do tâm chấp trước hoặc không chấp trước về ái, nếu chấp trước là có ngã, có chấp trước chúng sinh, có chấp trước về tịnh và bất tịnh.

Này Ca-diếp! Tất cả pháp vốn không, lại vọng tưởng cho là vật, nếu không vật, tưởng là vật, như dùng tâm Bồ-đề làm vật, nếu đem Bồ-đề làm vật là tưởng về ngã, nếu có tưởng về ngã tượng thì không thể gọi là tâm Bồ-đề.

Vì sao vậy? Vì cái tên ấy là do ta tưởng tượng, tuy có cái để tưởng nhưng tưởng là không có thực, tưởng không có thực nên gọi là “Ngã tưởng”. Vì vậy, nói tưởng về ngã là nói mơ hồ không chân thật. Nhưng nếu chúng sinh có thật, thời tâm Bồ-đề cũng có thật.

Thế nào là Bồ-đề? Nghĩa là người thấy được các pháp đều như huyễn.

Thế nào là như huyễn? Nghĩa là không vọng tưởng cho là có ngã, tưởng có thọ mạng, tưởng có chúng sinh. Người nào trong tâm, còn có tưởng hiểu rõ như thế, thì người ấy bị vướng mắc vào tưởng và chẳng phải tưởng. Nếu vướng vào tưởng và chẳng phải tưởng là kẻ cuồng say. Nếu đã cuồng say thời bị tất cả khổ theo đuổi. Nếu bị tất cả khổ theo đuổi, thì Như Lai gọi đó là kẻ rồ dại.

Thế nào gọi là siểm? Là người suy nghĩ vọng tưởng cuồng loạn, nếu có suy nghĩ vọng tưởng thời sẽ chấp ngã và ngã sở, người có ngã và ngã sở thời ưa nói năng. Nếu có nói năng gì thời Đức Như Lai gọi là không nói năng, kẻ kia bị ngôn ngữ, nói năng nắm giữ. Vì vậy nên nói tất cả các pháp từ suy nghĩ mà có, tức là chấp có thật ngã.

Này Ca-diếp! Cũng như trong hư không có những đám mây tụ lại, những đám mây ấy không từ Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới mà đến. Như thật mà nói, Như Lai cũng không đến từ phương nào trong mười phương. Nếu hiểu được như vậy mới diễn thuyết như thật tùy hiểu nghĩa mà diễn nói, tương ứng với sự thật mà nói. Như vậy, nói mây nhóm không phải là nhóm, mới là mây nhóm.

Vì đâu gọi là mây tụ hội? Vì như trong mây có những màu xen tạp, các màu sắc ấy, chỉ từ hư vọng khởi lên, màu sắc đó không thể định là do mây hay sa mù, mà thấy từ mây mù sinh, tuy thấy mây mù mà không thể có tư tưởng nhất định từ đâu có, vì quán sát đến chỗ rốt ráo là không thật có mây mù.

Này Ca-diếp! Cũng như có người nói với người khác: “Chúng ta cùng nhau đi đến chỗ bóng cây để ngồi.” Có người trí tuệ nói: “Tôi không đi”.

Người ấy đáp rằng: “Tôi không nói “Ngã” mà chỉ nói có bóng cây.”

Người trí nói: “Ngươi nói bóng cây, nếu phân tích thì chẳng phải có bóng cây.”

Này Ca-diếp! Ông xét xem người này với một ít ngôn ngữ mà còn không bị trói buộc như vậy.

Này Ca-diếp! Ông hiểu được pháp tánh của Như Lai mà giảng nói, lời đó là tiếng rống của sư tử ở trong đại chúng.

Này Ca-diếp! Như Lai còn muốn đối với pháp bất thiện mà thực hành pháp thiện. Nếu chúng sinh ở đời có tưởng về ngã thì đối với Như Lai là đệ nhất nghĩa.

Vì sao vậy? Vì Như Lai hiểu rõ tưởng ngã như vậy thời chẳng phải là tưởng. Ngoài ra, vì hàng Tiểu thừa, phàm phu không biết Như Lai tùy cơ nghi nói pháp nên họ cùng tranh chấp với Như Lai. Vì vậy, ta nói: “Thế gian cùng với ta tranh chấp, ta không cùng với thế gian tranh chấp.”

Thế nào gọi là thế gian?

–Thế gian cũng gọi là chúng sinh.

Thế nào lại gọi là chúng sinh trong thế gian?

–Như Lai rõ biết thế gian là như như vì vậy gọi là “chúng sinh thế gian.” Các phàm phu… khi sinh là biết có sinh có diệt nên cùng nhau tàn hại, nên họ nói rằng: “Muốn được ra khỏi cõi đời.” Vì sao vậy?

Vì những người này quá mê muội, nên chấp trước thế gian, nếu chấp trước thế gian liền có lòng tham, nếu đã tham thì cũng có sân, nếu có sân thì cũng có si, nếu có si thời có tranh chấp, nếu có tranh chấp là có chống trái.

Họ sẽ cùng ai chống trái?

Họ chống trái với Như Lai và Thanh văn Tăng. Nếu chống trái thì tăng thêm tham; nếu họ có tham thì càng tăng thêm chống trái; nếu người mâu thuẫn chống trái thì ưa chấp chặt vào những gì đang có; nếu chấp chặt vào cái đang có thì họ sẽ mong cầu có được nhiều hơn; nếu mong cầu nhiều thì không biết đủ; nếu không biết đủ thì ham thật nhiều, nếu ham nhiều thời có nhiều tham dục; nếu nhiều tham dục thì sẽ thường ở trong cõi Dục, Sắc và cõi Vô sắc; nếu ở trong ba cõi tức có tham trước; nếu có tham trước thì không thể đi ngược dòng; nếu không thể đi ngược dòng thì thường bị sinh tử; nếu đã sinh tử thì không đến được Niết-bàn; nếu không đến được Niếtbàn thì sẽ đến chỗ tối tăm; nếu đến chỗ tối tăm nghĩa là đến địa ngục vậy.

Này Ca-diếp! Tu hành mà không đến chỗ tốt đẹp là không tu, nếu không tu hành không chân chánh thì dễ sân giận, nếu có sân giận thì không suy cầu, nếu không suy cầu thì không biết ngã tưởng, nếu không biết ngã tưởng thì đồng một hợp thể, đồng một vật, nghĩa là có ngã và ngã sở.

Thế nào gọi là ngã?

Chấp trước không chân thật khởi các thứ vọng tưởng, tạo tác các nghiệp. Nếu khởi vọng tưởng, tạo tác (ác nghiệp) thì hay chấp trước có ngã.

Thế nào là ngã sở?

Do không có trí cho nên chấp trước mới có ngã sở, nhưng thân này, do các vật hòa hợp lại gọi là thân, là chỗ nhóm họp của các quả báo, như do tâm sân giận, khinh khi người khác, do sân giận nên sinh tâm ngã mạn, như gom góp thóc lúa đem về giữ gìn, như vậy gọi là ngã sở. Nếu có ngã sở thì có cuồng loạn mê hoặc, nếu có cuồng hoặc thì liền có ngu si, nếu đã có ngu si liền có phỉ báng, nếu có phỉ báng thì sẽ có sân giận, đã có sân giận liền có tham chấp thiêu đốt, kẻ bị thiêu đốt là do tư tưởng tham thiêu đốt, như là tư tưởng về nam, nữ, tư tưởng thọ mạng, đều chấp ngã, nên gọi là ngã sở. Có ngã sở sẽ có kẻ mắng nhiếc ngã sở ấy, mắng ngã sở như nói: “Người là phàm phu, là chỗ nương dựa, là đường đi của phàm phu”, cho nên gọi là ngã sở.

Này Ca-diếp! Nếu không nghe được pháp này, mà biết về Bồđề, biết hạnh của Bồ-tát, đây chỉ mới biết về hạnh.

Này Ca-diếp! Hạnh Bồ-tát này đều không thật có hạnh, gọi là Bồ-tát hạnh.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tu hành viên mãn, quyết định thanh tịnh hay thanh tịnh rốt ráo? Không có điều đó.

Các vị tinh tấn nói pháp nghĩa rộng lớn, các pháp này như gom dồn hư không, không thể nắm bắt được, pháp của vị này nói ra, rất ứng hợp với Đại pháp, tất cả đều được tương ưng, liền được công đức không còn nương ở chỗ xấu ác, thật có đức hạnh mà chẳng chấp có đức hạnh, mới có thể trì pháp, như vậy mà thọ trì không chấp trước việc thọ trì pháp.

Vì sao vậy?

Vì pháp của Như Lai nói cao tột bậc, là pháp cao quý nhất của Bậc Ứng Cúng, nếu có chúng sinh hỏi đạo thì ta sẽ dùng pháp thù thắng này để giải đáp.

Thế nào gọi là Thắng pháp?

Nghĩa là hiểu biết tất cả các pháp đều từ không do tưởng mà có.

Này Ca-diếp! Bồ-tát hiểu được như vậy là trì giới thanh tịnh, tâm không còn khởi niệm xấu ác không tạo chướng ngại, không phỉ báng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, không thân cận Bạch y thế gian, không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác, nói thêu dệt, không tham sân, không tà kiến. Không tự mình não hại và không não hại người, không thân cận dục và cũng không tham dục, không chê bai, không đùa giỡn, không tự làm cũng không sai bảo người khác làm, không đến nhà điếm, nhà quả phụ, nhà có gái trẻ, không gần kẻ bắt chim, đánh cá, thợ săn, không gần kẻ hàng thịt Chiên-đà-la, không gần vợ của người tham dục rượu chè, cho đến cũng không cùng nắm tay, cạnh tranh hơn thua, tránh những hạng người trên như tránh chó dữ, khi tránh xa họ mà không sinh một tâm niệm ác nào, an trụ vào tâm Từ.

Bồ-tát cần xả bỏ hai mươi việc là những gì?

  1. Hãy xả bỏ không cùng người nữ giỡn chơi và nói lời thô tục.
  2. Không cùng họ luận bàn tranh cãi, để phải bỏ việc cúng dường cha mẹ, việc cúng dường Phật, Pháp, Tăng.
  3. Nếu người nữ số lượng ít, không đủ hai mươi người thì không nói pháp, trừ khi có người nam tham dự.
  4. Nếu các Tỳ-kheo-ni tập hợp thuyết pháp thì không nên đến chỗ ấy.
  5. Không nên tới lui thăm hỏi Tỳ-kheo-ni.
  6. Không viết thư tín cho người nữ, qua lại, cũng không viết dùm họ.
  7. Người thân tộc thỉnh mời riêng, không nên nhận lời.
  8. Trong tâm không hề có ý muốn ở trước người nữ, cũng không nên cùng đi trên đường với họ.
  9. Nếu Tỳ-kheo-ni đùa giỡn đi sau, không nên đáp lại.
  10. Trong mọi hoàn cảnh không nên nhận y của Tỳ-kheo-ni cúng, trừ trong bốn chúng đệ tử khi diễn nói pháp, có người phát tâm cúng dường y pháp, phải tưởng tâm như đất vậy, sau đó mới thọ nhận và cũng không nhận trước mặt họ.
  11. Trong tất cả mọi thời, nếu có Tỳ-kheo-ni khuyến khích hướng dẫn người bố thí y thì không nên nhận.
  12. Trong tất cả mọi lúc, dù đang khổ vì bệnh, nếu nhờ ni khuyến khích, có đồ ăn thì cũng không nên ăn, huống gì không bệnh.
  13. Trong tất cả mọi thời, nếu có quả phụ mời ăn cơm, nếu chúng Tăng không đủ thì không nhận.
  14. Trong tất cả mọi thời, không nên vào chùa Tỳ-kheo-ni.
  15. Trong tất cả mọi thời, không thỉnh gọi Tỳ-kheo-ni, thỉnh gọi hoặc chắp tay ngước đầu, buông bỏ hoặc xoay lưng đi.
  16. Nếu khi nói pháp, có Tỳ-kheo-ni đến lễ dưới chân, nên chí tâm chắp tay, không nên thấy lạ mà nhìn ngắm, không cử động chân.
  17. Chẳng phải vì thân khỏe mạnh mà gọi là trượng phu, nếu tâm vững vàng chánh niệm một chỗ thì gọi là đại trượng phu.
  18. Đối với tất cả vật không sinh tâm ưa mến.
  19. Trong mọi thời điểm, không bao giờ sân hận.
  20. Thường nên chuyên niệm về Nhất thiết trí. Khi được nghe pháp này rồi cần nên tu học để tăng trưởng.

Này Ca-diếp! Các thiện nam, tín nữ hướng về Bồ-tát thừa, nghe pháp này mà không thể tu học, người này sẽ không đạt được Chánh đạo Vô thượng.

Vì sao vậy?

Này Ca-diếp! Vì do tu học mới đạt được đạo Vô thượng. Chẳng phải không tu học mà đạt được đạo Vô thượng.

Này Ca-diếp! Nếu không tu học mà đạt được đạo Vô thượng thì thỏ, ngựa, mèo cũng được thành đạo Vô thượng.

Vì sao vậy?

Vì ai không tu hành chánh hạnh, sẽ không chứng đắc đạo Vô thượng Bồ-đề.

Này Ca-diếp! Nếu người do âm thanh mà đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bèn nói rằng: “Ta sẽ làm Phật, ta sẽ làm Phật, mà người ấy thành Phật, thì vô biên chúng sinh cũng thành Phật.”

Này Ca-diếp! Chúng sinh đối với hạnh tu khó, chỉ trong một ngày một đêm, họ còn không chuyên chú được, huống gì là một kiếp cho đến ngàn kiếp. Cho nên Như Lai vì việc độ sinh mà xuất hiện ở đời, rất là hiếm có.

Này Ca-diếp! Tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, nếu trong một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, vạn ức kiếp, đều đồng thanh xướng: “Tất cả chúng sinh ngươi sẽ làm Phật, ngươi sẽ làm Phật.” Những người nói như vậy không biếng nhác thường nói: “Ngươi sẽ làm Phật, ngươi sẽ làm Phật”, miệng nói không dừng, nhưng nếu không khiến cho người kia phát tâm Bồ-đề, mà được thành Phật, thì không có việc như vậy.

Này Ca-diếp! Vào đời mạt pháp, khi Như Lai diệt độ và sau khi các ngươi cũng đã vào Niết-bàn, chư Thiên không ủng hộ, khi ấy tuy có người nghe ta nói pháp, phát tâm Bồ-đề, có các Tỳ-kheo phát tâm Bồ-đề, thì họ trụ vào hai mươi pháp. Hai mươi pháp ấy là gì?

Họ sẽ thân gần Tỳ-kheo-ni, ăn đồ ăn bất tịnh, đắm trước món ăn, nhận đồ ăn do ni khuyến hóa.

Này Ca-diếp! Cũng như ngày nay, các Tỳ-kheo đa văn ở chỗ nhàn tịnh hoặc ở trong chúng hội khiến khích tu tập giáo pháp.

Như vậy, này Ca-diếp! Đến thời ấy các Tỳ-kheo ở gần xóm làng hoặc ở chỗ nhàn tịnh, cùng với Tỳ-kheo-ni học hỏi Phật pháp, nhưng họ sẽ sinh tâm tham ái, không có tâm học Phật pháp, còn các Tỳ-kheo-ni cũng nhiều tham dục, ít học tập Phật pháp.

Này Ca-diếp! Ông thấy những người như vậy chỉ mang tiếng là ở trong đạo giác ngộ, nhưng họ sẽ đọa vào đường ác rất đáng sợ.

Này Ca-diếp! Ông thấy họ khi ấy lạm dụng Phật pháp để cùng nhau thân cận, khi họ gần nhau thì sẽ bị lửa tham dục thiêu đốt và sẽ nói với nhau những lời nói không trong sạch, khi thân cận họ cũng xem như là đệ tử, lúc đầu cũng như phép thầy trò, cũng lễ kính, nhưng sau đó thì lần lần thay đổi, nếu đã có thay đổi thì chỉ còn hình thức danh từ, mà chỉ danh từ thì trong chỗ riêng tư sống như vợ chồng cùng đường vào ra, có người thấy hỏi là ai, thì bảo đó là người bà con thân thuộc, gọi là chị em nên thường gặp mặt nhau, do thường gặp mặt nhau nên dễ rơi vào chỗ sai lầm, cùng sinh tâm tham ái và hiện tướng tham dục, vì cùng nói năng nên dễ phạm vào hạnh bất tịnh, tập phép của Diêm chúa, sẽ mất đạo quả Bồ-đề, sinh Thiên và vào Niết-bàn, xa lìa Như Lai, xa pháp của Phật, cũng không ích lợi gì cho chúng Tăng. Người này ở đâu cũng sinh tham dục, sân hận, phiền não và tổn hại, xa hạnh nghiệp Bồ-tát và bốn phạm hạnh thanh tịnh. Người này không giống như các vị Bồ-tát khác siêng tu bốn phạm hạnh, mà trái lại người này chỉ siêng tham dục, sân hận… mà thôi.

Này Ca-diếp! Đến thời ấy chỗ ở của người ác này là chỗ ở của giặc, là chỗ ở có đấu tranh.

Này Ca-diếp! Đến lúc các cấm chế của Phật đều bị hủy hoại, người nghe các kinh này liền khinh thường phỉ báng. Nhưng điều căn bản của người tu là phải trì giới, phải thực hành bố thí, sinh hoan hỷ, phát tâm Bồ-đề, sau khi nghe kinh này mà lại phỉ báng sao?

Này Ca-diếp! Đến lúc đó có những hiện tượng như: có người nghe kinh này mà sinh tâm phỉ báng; nếu có Tỳ-kheo tu tịnh giới duy trì chánh pháp, như vậy mà biết như kinh đã nói, thì phải từ bỏ những hạng người như vậy, vì họ không có tâm mến mộ Phật pháp.

Lại nữa, này Ca-diếp! Đến khi ấy những hạng người này tự xướng: “Ta thực hành đạo Bồ-tát, nên tâm cuồng loạn, buông lung”, đã bị cuồng loạn phóng dật cho nên tự xưng: “Ta là đại A-la-hán, ta là Duyên giác.” Kẻ ấy không thể sửa trị, không thể trở lại an trụ, mà chỉ có hướng đến cõi ác.

Lại nữa, này Ca-diếp! Thời ấy không có người tạo thiện nghiệp nên có nhiều người chê bai đạo Giác ngộ.

Này Ca-diếp! Đến thời ấy người tu hành tướng thô tháo.

Lại nữa, này Ca-diếp! Thời ấy, may lắm mới gặp một người tu hành tương tợ Ba-la-mật-đa, là vì đời sau này, người ta đa số hình tướng thô lậu.

Lại nữa, này Ca-diếp! Đến thời ấy có kinh nói đến pháp chân thật, những kinh điển như vậy họ đều phỉ báng, nếu họ được thấy thì liền vứt bỏ cho là học thuyết tà kiến.

Này Ca-diếp! Bấy giờ mọi người đều ngu si, không biết đây là sự ngăn cấm của kinh mà lại phá giới.

Này Ca-diếp! Đến thời ấy họ đều là giặc ác tự mình không thấy Phật pháp, không nghĩ đến đạo giác ngộ, yên lặng suy nghĩ trong sự ngu si tối tăm, nên họ phỉ báng cho là không có con đường giác ngộ.

Lại nữa, này Ca-diếp! Đến thời ấy chư Tăng không hòa hợp, lời nói việc làm đều thô tháo.

Lại nữa, này Ca-diếp! Đến thời đó, chúng sinh phần nhiều không biết tri ân, chỉ hăng hái làm điều ác, làm được điều ác gì họ thường ưa rêu rao, như là xưng niệm danh hiệu Phật, đi đến cúng dường.

Lại nữa, này Ca-diếp! Đến thời đó họ ưa chê trách giới giải thoát, không giữ gìn khẩu nghiệp, do không giữ gìn khẩu nghiệp, nên họ cũng không giữ oai nghi, vì vậy đời sống không thanh tịnh, do đời sống không thanh tịnh mà diễn nói Phật pháp, nên giáo pháp của ta khi ấy, lần lần sẽ bị mai một suy tàn.

*********

Như vậy, lần lần đến lúc Phật pháp suy tàn, ở đời có nhiều người nữ, bỏ bê chồng con đi vào chùa; khi đã vào chùa, Tăng thuyết pháp cho một người nữ, mà cho là chỉ bày pháp giải thoát.

Này Ca-diếp! Ta thấy thời ấy, những việc làm như thế hoàn toàn phi pháp, do vậy mở cửa cho năm trăm điều phi pháp và năm trăm phiền não lọt vào, người không tu hành vào thời ấy, đều do không biết đến giới luật, như kẻ tại gia không khác.

Này Ca-diếp! Đến thời ấy, việc tu hành giữ gìn giới luật thật là đen tối. Nếu có người biết mong cầu tiến tu đạo quả Bồ-đề, không nên thân cận với Tỳ-kheo-ni, không ở lại chỗ họ đang ở, phải bỏ đi không nên thân cận và cũng chớ nên tiếp xúc thân cận, xả bỏ lợi dưỡng ở đời, nương vào hạnh khất thực, bỏ việc ham mê sắc đẹp, chỉ nhận áo vải thô xấu, xa lìa lầu gác, giường nằm, đồ dùng quá xa xỉ, nương vào chỗ núi rừng thanh vắng, nơi hang đá làm chùa, tịnh thất, không nên ham dùng thuốc và phương tiện chữa bệnh loại quý hiếm, chỉ dùng thuốc dễ kiếm, phát khởi tư tưởng thân ái đối với các chúng sinh, luôn tu hạnh Từ tâm, nên nhẫn nại trước những lời nhục mạ, đánh đập của người khác, nên xa lìa tất cả bà con thân tộc quen biết, tự vui với sự nghiệp tu hành, không nên sống giống như người tại gia, mà thường giảng nói giới giải thoát để tùy thuận tu hành.

Này Ca-diếp! Nếu người tu hành trái với giới giải thoát, thì họ sẽ trái với Lực, Vô sở úy… của Đức Như Lai, là trái với chư Phật, Bồtát trong ba đời. Nếu nói đến tội báo này, hoặc trong tam thiên đại thiên thế giới, có tất cả chúng sinh đều đọa vào địa ngục, những chúng sinh này chịu thống khổ, so với khổ này trăm phần không bằng một, ngàn phần, trăm ngàn phần, trăm ngàn ức phần, cho đến dùng toán số để thí dụ cũng không thể biết được. Nếu muốn xa lìa những tội khổ này, nên phải xa lìa người si ác ấy hàng trăm ngàn dotuần, mới vừa nghe tiếng còn nên lánh xa, huống gì vừa nghe vừa thấy họ mà không xa lánh sao?

Người tu nên thân cận một pháp.

Thế nào là một pháp?

Tất cả các pháp vốn không thật có, nếu đối với các pháp ấy mà nhẫn được thì tất cả không còn có tác dụng gì, mà cũng cần phải xa lìa người ác không nên thân cận.

Lại nên thân cận hai pháp.

Thế nào là hai pháp?

Tất cả các pháp vốn không thật có, mong tu tập các pháp mà không có tâm vướng mắc với sự tu tập.

Thế nào là tu tập?

Như cái gọi là tu tập cũng không thể nắm bắt được, ngay trong cái không thể nắm bắt được ấy cũng không nên sinh tâm. Như lìa tà kiến, xả bỏ ba cõi, cũng nên như vậy mà thực hành hạnh Bồ-tát, xa lìa các hình tướng, phát tâm thực hành hạnh Bồ-tát, khi thực hành hạnh Bồ-tát nên xả bỏ như trên đã nói, có tâm xả bỏ như vậy là đã gặp Phật Di-lặc, xa lìa sợ hãi, mà nói:

Vui thay được an lạc! Vui thay đã lìa bè bạn ma! Vui thay xa lìa đường ác!

Này Ca-diếp! Nếu đã được nghe kinh này, mà tâm không sợ hãi là tự biết chính mình có khả năng duy trì Phật pháp. Như Lai cũng biết người này có khả năng duy trì Pháp tạng.

Này Ca-diếp! Cũng như vị trưởng giả có nhiều tiền tài của báu, con của trưởng giả thấy những vật dụng tiền tài khởi tư tưởng là của cha mình, do lúc đầu thấy một ít vật cho là của mình, sau cũng đem những vật ấy tùy chỗ đến ở khác nhau mà cất giữ.

Như vậy, này Ca-diếp! Thời ấy có Tỳ-kheo nghe những kinh điển như thế này liền nghĩ rằng: “Đây là Phạm âm vi diệu do Đức Như Lai diễn nói.” Lại cũng có Tỳ-kheo nghe pháp này sinh tâm phỉ báng. Tỳ-kheo trì pháp nên nói rằng: “Đây là lời chư Phật giảng dạy rất là chân thật, chỉ có một ít kẻ bạc nhược, mà họ ở đâu thì cũng có những ý niệm xấu ác được cất giữ.”

Này Ca-diếp! Pháp của ta vào thời mạt, người hộ pháp rất là ít có, ta đem những vị này ủy thác, phó chúc cho Đức Di-lặc để làm bạn bè, những vị này nên tu hành pháp xả rộng lớn.

Thiện nam nào nghe kinh này mà như pháp tu hành, thì vị ấy sẽ ở chỗ Đức Di-lặc, gặp hội thuyết pháp đầu tiên, tu hành phạm hạnh, những chúng sinh chánh kiến sẽ làm bức thành trì bảo hộ chánh pháp.

Này Ca-diếp! Ta không thấy có, dù chỉ một người, không gặp được ta xuất hiện ở đời. Sau năm trăm năm khi pháp sắp diệt, họ nghe kinh pháp này mà không phỉ báng, lại thọ trì đọc tụng, sẽ không có việc như vậy. Nếu đã thấy ta, thân cận cung kính, sau năm trăm năm đến thời mạt pháp, nếu được nghe kinh này, họ mới có thể thọ trì đọc tụng. Những người như vậy không đợi ta nhắc nhở, mà tự tâm của họ đã có Nhất thiết trí, vừa nghĩ đến ta, liền có hoan hỷ, nói như thế này: “Lạ thay, lạ thay! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, dạy giáo pháp và giữ gìn hộ niệm cho ta.”

Vì vậy, này Ca-diếp! Nên học pháp này, nếu người tu học pháp này, có mong cầu, điều gì đều được thành tựu không khó.

Khi ấy, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như con ngày nay sẽ vĩnh viễn không còn sợ mất đạo Vô thượng chánh chân.

Bạch Thế Tôn! Nếu con đầy đủ Nhất thiết trí, mới thật là hoan hỷ; nếu con được đạo Vô thượng, sẽ có sắc thân hiếm có.

Đức Phật bảo:

–Này Ca-diếp! Ta không dạy gì cho ông, ta chỉ nhân nơi tánh chất của ông mà nói những lời ấy, khiến cho ông hết nghi hoặc để mau thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.

Lại nữa, này Ca-diếp! Chúng sinh nào mong cầu giáo pháp và tu tập theo giáo pháp thành tựu, thì những người này lần lần sẽ đạt được đạo quả Vô thượng, đoạn trừ tất cả trói buộc ngăn che, nên ta nói pháp cho họ.

Này Ca-diếp! Bồ-tát nên thành tựu bốn pháp.

Những gì là bốn?

Một là, Bồ-tát nên hết lòng tinh tấn.

Thế nào là tinh tấn?

Tinh tấn nghĩa là tâm không mong cầu nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Hai là, tu tập pháp vô lậu.

Thế nào là pháp vô lậu?

Không thật có địa đại, nên không nói địa đại, không thật có thủy, hỏa, phong, đại nên không nói có thủy, hỏa, phong đại.

Ba là, tất cả nói năng đều không thật có.

Bốn là, vì vậy Bồ-tát chỉ dùng ngôn ngữ để đạt đến bên kia bờ giác ngộ.

Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như có người hỏi: Như Lai cũng dùng ngôn ngữ nói pháp, pháp ấy cũng không thật sao?

Bạch Thế Tôn! Có người hỏi như vậy, phải trả lời thế nào? Nay con muốn được nghe từ nơi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Giác.

Đức Phật bảo:

–Này Ca-diếp! Đời sau sẽ có các Tỳ-kheo xấu ác, không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, sân giận mãnh liệt, khẩu nghiệp lỗ mãng, họ sẽ không thọ trì đọc tụng những kinh điển này.

Vì sao vậy?

Vì họ chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên các kinh pháp nói những việc như vậy là không hợp, vì ở thế gian sẽ có các Tỳ-kheo chấp thủ năm uẩn này rất nặng. Khi ấy, Tỳ-kheo trụ vào đó, như ở trong nhà mình, không còn suy cứu tìm cầu về Đệ nhất nghĩa.

Này Ca-diếp! Cũng như người mù bẩm sinh, trang sức một vòng hoa đẹp bằng vàng, thì họ cũng không thể tự biết.

Này Ca-diếp! Các Tỳ-kheo sau này cũng như vậy, khi nghe các kinh điển này còn không thể thọ trì bằng văn tự, huống là suy cứu tìm hiểu về Đệ nhất nghĩa.

Này Ca-diếp! Như có người nam hay nữ gặp đấng Trượng phu,

bị gạn hỏi quở trách, sau đó, nếu lại nghe tên của đấng Trượng phu kia thì họ sẽ kinh khiếp sợ hãi.

Như vậy, này Ca-diếp! Đến đời sau này, có các Tỳ-kheo nghe kinh này nói: “Tham lam việc ăn mặc thật là lỗi lầm”, biết mình có lỗi nên kinh khiếp sợ hãi.

Này Ca-diếp! Cũng như có con khỉ lớn bị trói cột bằng dây, mà con khỉ này mắt không muốn thấy sự trói cột đó.

Như vậy, này Ca-diếp! Các Tỳ-kheo đời sau cũng vậy, nghe những loại kinh như vầy, mắt không ưa thấy họ sẽ quay lưng bỏ đi.

Này Ca-diếp! Cũng như con chó rượt đuổi con chồn, con chồn liền chạy đến chỗ hang ổ hầm sâu nơi gò mả.

Như vậy, này Ca-diếp! Đời sau, có Tỳ-kheo khi nghe kinh này, thái độ cũng như con chồn bỏ chạy. “Con chồn bỏ chạy”, nghĩa là phạm cấm giới, nên nghe những loại kinh này, liền sinh tâm phỉ báng.

Này Ca-diếp! Như con chồn chạy đến gò mả.

Như vậy, này Ca-diếp! Đời sau, có Tỳ-kheo nghe kinh này liền chạy về nhà, là chạy theo sắc dục, chạy đến chỗ người nữ, chạy đến nơi có đấu tranh, theo học nghề thuốc, theo nghề bói toán, nương vào những việc trên, là tạo điều kiện để phạm giới cấm. Ta nói những việc ấy là dụ như con chồn chạy đến ẩn nấp trong hang nơi gò mả.

Này Ca-diếp! Như con chồn chạy đến hang ổ.

Như vậy, này Ca-diếp! Bấy giờ, các Tỳ-kheo không tu, khi thân hoại mạng chung, sẽ bị đọa địa ngục.

Ta nói những việc ấy là chạy đến hang ổ.

Này Ca-diếp! Những con chồn thì chạy đến hầm sâu, sau này, các vị Tỳ-kheo không tu cũng như vậy, thân hoại mạng chung sẽ bị đọa vào địa ngục.

Này Ca-diếp! Ta nói những việc ấy là hướng đến hầm sâu.

Này Ca-diếp! Họ giống như loài chồn, các Tỳ-kheo này không thể suy cứu, tìm cầu, giải thích nghĩa lý trong những kinh này, mà chỉ biết phỉ báng nêu điều xấu ác, nhất định khi chết họ sẽ phải đọa vào đường ác.

Này Ca-diếp! Nếu có Tỳ-kheo nói rằng: “Pháp ông nói đều không chân thật, lời nói của Như Lai mà cho là chân thật, thì không có trí chân thật.”

Có vị Tỳ-kheo nói:

–Nay Đại đức chấp việc gì?, là chấp vào vấn đề tất cả các pháp không, hay là chấp về ngôn thuyết?

Đáp rằng:

–Tôi chấp về ngôn thuyết.

Hỏi:

–Như vậy ông là Phật? Vì sao vậy? Vì ông cũng dùng ngôn thuyết để nói.

Đáp:

–Tôi chấp vấn đề pháp không.

Hỏi:

–Việc này nên hiểu rõ ràng.

Vì sao vậy? Không thể phân biệt nữa, gọi là “không”.

Ông nói là “không”, tức đã có nói năng.

Lại nữa, ông nói về vấn đề “không”? Ngã là không, sở hữu của bản ngã cũng không, chúng sinh cũng không, cho nên gọi là “không”?

Lại hỏi:

–Này Tỳ-kheo! Ý ông nghĩ thế nào? Ông có vui với ý nghĩa “Tất cả pháp đều không” chăng?

Đáp:

–Tôi không vui với vấn đề tất cả pháp đều không.

Lại hỏi:

–Đại đức! Lâu quá nên quên mất pháp của Sa-môn Thích tử sao?

Vì sao? Vì đúng là Đức Thế Tôn nói: “Tất cả các pháp đều là không, không có thật ngã, chúng sinh, thọ mạng, cũng không thật có người nữa.” Đáp:

–Nay tôi vui thích với ý nghĩa “Tất cả các pháp đều không” ấy.

Hỏi:

–Đại đức còn vui với tất cả các pháp đều không, huống là Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Giác.

Này Đại đức! Ý ông nghĩ thế nào? Mắt là Như Lai chăng? Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là Như Lai chăng?

Đáp:

–Mắt là Như Lai. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là Như Lai.

Hỏi:

–Ở đây nên hiểu rõ, nếu đúng như vậy, thì Đại đức cũng là Như Lai?

Đáp:

–Như vậy mắt chỉ là ngôn ngữ, không phải Như Lai. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là ngôn ngữ, không phải Như Lai.

Hỏi:

–Ở đây nên phân tích, nếu mắt chẳng phải Như Lai. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là ngôn ngữ chẳng phải là Như Lai thì Đại đức trước đây nói: Như Lai chỉ là ngôn thuyết, nay vì sao lại nói chẳng phải?

Đáp:

–Mắt chẳng phải là Như Lai, chẳng phải lìa mắt là Như Lai, cho đến ý chẳng phải Như Lai, không lìa ý là Như Lai.

Hỏi:

–Như Lai nói mười hai nhập là chúng sinh, ở đây nên phân biệt.

Này Đại đức! Mắt với sắc là Như Lai chăng? Cho đến ý với pháp là Như Lai chăng?

Đáp:

–Mắt với sắc là Như Lai, cho đến ý với pháp là Như Lai.

Hỏi:

–Như ông nói, thì tất cả chúng sinh đều là Như Lai, tất cả đất bằng, tất cả núi non, cây rừng thảo mộc đều là Như Lai sao?

Đáp:

–Mắt chẳng phải là Như Lai cho đến ý chẳng phải Như Lai.

Hỏi:

–Nếu như vậy, thì Như Lai thuyết pháp là pháp hay chẳng phải pháp?

Đáp:

–Sắc chẳng phải Như Lai, cho đến pháp chẳng phải Như Lai.

Hỏi:

–Này Đại đức, pháp chẳng phải là Như Lai chăng?

Đáp:

–Pháp chẳng phải là Như Lai.

Hỏi:

–Nếu như vậy, có các chúng sinh nói không có cha mẹ, không Sa-môn, Bà-la-môn, chủng tánh không thuần thục, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tham, sân, tà kiến, như ông đã nói đều là Như Lai chăng?

Đáp:

–Chẳng phải bất thiện gọi là Như Lai.

Hỏi:

–Nếu vậy, như ông nói: Pháp chẳng phải Như Lai, phi pháp chẳng phải Như Lai. Nếu pháp và phi pháp chẳng phải Như Lai thì không thể nói như lời Đại đức nói: Không có nói năng gọi là Như Lai.

Này Ca-diếp! Phải nên thường điều phục các người ác như vậy.

Này Ca-diếp! Ta không thấy Trời, Người, Ma, Phạm trong thế gian, có thể cùng vấn đề như vậy mà không đúng như pháp giảng nói và cùng luận bàn, chỉ trừ người sân si không kham nhẫn, người không có nhân duyên, chê bai pháp không, họ mới từ bỏ mà đi.

Vì vậy nên, Ca-diếp! Các ông nên giữ gìn kinh này.

Này Ca-diếp! Đời sau này, người giữ gìn pháp này, sẽ có ba tên gọi, thế nào là ba?

Đó là người nói về đoạn diệt.

Đó là người nói không vật chất.

Đó là người nói không ấm tụ, nên họ không cung kính.

Này Ca-diếp! Đến thời ấy, những kinh điển này sẽ bị phỉ báng.

Này Ca-diếp! Ông quán sát, đến thời ấy họ không cung kính Phật, không cung kính Pháp, không cung kính Tăng. Nếu đã không cung kính Phật, Pháp, Tăng, thì làm gì có Tăng mà gọi là được an trụ, mà chỉ còn nương trên sự nói năng và tên gọi thôi.

Tuy có xướng tên của Phật để nói với mọi người, mà không thể thấy biết thế nào là Phật; tuy miệng nói pháp mà không thể biết Đức Như Lai Thế Tôn vì sao nói pháp; tuy nói đến bốn hướng, bốn quả chứng của vị Tăng Thanh văn theo Phật Thế Tôn nhưng chỉ biết tên gọi mà không biết được thật đức của tên gọi ấy. Họ bị các thứ y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc thang trị bệnh, vì các duyên bên ngoài chi phối nên sinh tâm hủy báng pháp.

Bồ-tát đối với kinh pháp này nên siêng năng tinh tấn tu tập, nếu ít ưa muốn các kinh này, thì cần siêng năng thọ trì đọc tụng.

Vì sao vậy? Vì người này đời sau sẽ là thành trì hộ pháp. Vì rằng, trong chín mươi mốt kiếp sau không ai diễn nói pháp không này.

Này Ca-diếp! Ta nhớ một ngàn kiếp về đời quá khứ, khi ấy có Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Tịch Diệt, sống lâu bốn vạn tám ngàn năm, hộ trì hàng Bồ-tát, làm lợi ích thế gian. Lại có Đức Phật Ly Cấu sống lâu hai mươi mốt kiếp, tu hành đạo Bồ-tát, sau đó mới thành tựu đạo Vô thượng.

Này Ca-diếp! Ông quán sát các Đức Như Lai thực hành biết bao nhiêu hạnh nguyện khó làm để nhiếp hóa các chúng sinh.

Này Ca-diếp! Đến lúc kiếp trược đã hết, không nên trách mắng họ.

Vì sao vậy? Này Ca-diếp! Đến lúc kiếp trược đã hết, nếu có một người có thể tin pháp này, thì rất là ít có. Đến thời ấy, người giữ gìn pháp này, sẽ không bị dao, gậy, ngói đá làm hại, cũng rất là ít có.

Vì sao vậy? Này Ca-diếp! Pháp này là pháp rất tốt của đấng Trượng phu. Nghĩa là pháp nói tất cả các hạnh là chẳng phải hạnh. Nếu người có những chấp trước về ngã kiến, chúng sinh kiến, mạn kiến, nhân kiến, mà không cởi mở thông suốt được và người dựa vào kiến chấp ấy, nghĩa là kiến chấp về giới, về Phật, về Pháp, về Tăng, kiến chấp về Niết-bàn, nếu có người sinh khởi kiến chấp về Niếtbàn, thì Như Lai liền biết kẻ đó là tà kiến.

Vì sao vậy? Này Ca-diếp! Như Lai không có Niết-bàn, cũng không chứng đắc Niết-bàn.

Này Ca-diếp! Người nào chấp có Niết-bàn, chứng đắc Niếtbàn, Như Lai nói họ là người tà kiến, nếu đã có tà kiến thì gọi là người không có trí, không có trí nên bị hại, là người phàm phu ngu muội. Người phàm phu ngu muội được sinh lên cõi trời cũng còn rất khó, huống nữa là được đạo quả Bồ-đề của Phật.

Này Ca-diếp! Trong đời sau, sẽ có Tỳ-kheo tuổi hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, tám mươi cho đến một trăm tuổi, già cả không có trí, trang nghiêm bằng y phục, cạo tóc hủy hình. Người già mà ngu si không có oai đức, sinh khởi các nghiệp tà, đến khi lâm chung, lại tạo các điều ác, hủy phạm giới pháp, do ba việc tạo thêm gian trá.

Những gì là ba?

  1. Thị hiện oai nghi.
  2. Thị hiện trì giới.
  3. Giả người hành thiện.

Họ dùng cử chỉ và hiện tướng đúng như pháp này, để nêu rõ các đức của mình, nhưng lại rơi vào việc lường láo, không thật, do tâm đang si mê hối hận mà nhận lấy cái chết, nên khi thân hoại mạng chung liền bị đọa vào địa ngục.

Vì vậy, này Ca-diếp! Ta nay tự nói: Ta là tri thức chân chánh của các ngươi, ta giáo hóa các ngươi vì muốn lợi ích cho các ngươi, thương xót các ngươi, không để cho đời sau phải chịu khổ não.

Này Ca-diếp! Ta thật không chấp nhận cho chúng sinh có nhiều kiến chấp mà được xuất gia. Người chấp chặt ngã kiến, chúng sinh kiến, mạng kiến, nhân kiến mà được xuất gia thì ta thật không chấp nhận, người gắng gượng xuất gia trong pháp của ta, ăn dùng của tín thí, mà không có công đức trì giới chân thật.

Này Ca-diếp! Con người thà chịu nhịn ăn uống trong sáu ngày, không nên chấp trước ngã kiến, chúng sinh kiến, mạng kiến, nhân kiến cho đến chấp trước Niết-bàn kiến, mà thọ nhận đồ ăn của tín thí. Đối với việc này, Bồ-tát phải siêng năng tinh tấn, không chấp trước ngã kiến cho đến Niết-bàn kiến.

Này Ca-diếp! Những kinh điển này ta giao phó cho các vị Thiện trượng phu.

Vì sao vậy? Vì việc làm của những vị này cũng như ta, những vị này là bạn bè của ta.

Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Các chúng sinh khổ não
Đều không ai cứu giúp
Chỉ trừ vị Đạo sư
Bậc không còn hý luận.
Các chúng sinh khổ não
Theo con đường tối tăm
Tham muốn luôn lớn dần
Do đó đọa đường ác,
Không hướng dẫn, bất lợi
Nương ở chỗ nguy hiểm
Đi vào đường bất chánh
Không bao giờ an ổn.
Như người mang của báu
Ham lợi vào đường hiểm
Gặp phải bọn giặc cướp
Bị chúng cướp sạch cả,
Mất của trở về không
Mất lợi thêm khổ não
Theo người khác vay nợ
Do đó càng thêm khổ.
Chúng sinh cũng như vậy
Tạo nghiệp rồi chưa trả
Vốn có tạo nghiệp lành
Trở lại dùng của ấy,
Nương nơi kẻ cướp đoạt
Phàm phu nhiễm tà kiến
Chấp chặt nơi ngã kiến
Mạng kiến và nhân kiến.
Tỳ-kheo nói pháp không
Lại chấp ngã, nhân kiến
Do đó sinh phỉ báng
Mau chóng đọa đường ác,
Càng thêm sự sân giận
Lại cùng nhau khinh chê
Phỉ báng nói không thật
Người này không hổ thẹn,
Thân, miệng tạo việc ác
Ý nghiệp rất gian dối
Chấp chặt các tà kiến
Rơi vào chỗ xấu ác,
Đã tạo các nghiệp ác
Mau chóng đến chỗ ác
Phải chịu nhiều khổ não
Không ai cứu giúp được.
Đời sau này sẽ có
Người quá nhiều sân giận
Làm khổ vị Tỳ-kheo
Hướng đến đạo Bồ-đề,
Đối với các kinh này
Không thích lại hủy bỏ
Chẳng có lòng tin kính
Với pháp Thích sư tử,
Lại cùng nhau tranh tụng
Liền giận dữ cạnh tranh
Ưa chê bai lẫn nhau
Tiếng ác vang khắp nơi,
Tạo các thứ phỉ báng
Họ càng thêm hổ thẹn
Bạn ác tăng thế lực
Người nhu hòa kém yếu
Biết chánh pháp suy yếu
Thế lực pháp ác tăng
Tỳ-kheo nên ẩn tu
Người thương con là ta
Phải đến phương trời nào
Được ở chỗ an ổn
Rời xa các người ác
Không Từ bi với họ.
Đối kinh này của ta
Phải thường nên suy nghĩ
Đạo sư đã giảng nói
Tự lấy đây làm vui,
Ta nên đến nơi này
Là chỗ Phật khen ngợi
Đến khi pháp hủy hoại
Người nhu hòa khó gặp.
Hoặc có người nói rằng
Nên xa lìa chỗ này
Tìm đến Đại Tiên nhân
Sẽ được đạo Vô thượng.
Lại có người nói rằng
Lành thay! Nói lời này
Đức Đạo Sư có dạy
Nên đi lễ các tháp,
Thà đến những chỗ này
Chiêm ngưỡng cây Bồ-đề
Không như người ganh ghét
Sân giận cạnh tranh nhau.
Tỳ-kheo này nên đi
Ta nói cũng cần đến
Được thấy các chỗ ấy
Gọi là trú xứ Phật.
Nơi kinh hành, chỗ ngồi
Phiến đá hoặc khoảng không
Cùng đến chỗ ngồi này
Gặp nhau đều rơi lệ.
Đây chỗ Đấng Đại Tiên
Nơi kinh hành thọ dụng
Phật đã từng ở đây
Nay không còn trông thấy,
Đấng Tiên nhân cao tột
Đã nói pháp Vô thượng
Chúng con không còn thấy
Pháp hữu vi vô thường,
Người và các phi nhân
Trời, rồng đều đến đây
Khéo nói khiến hoan hỷ
Chúng con nay không thấy.
Đã đến trú xứ này
Dưới gốc cây Bồ-đề
Được đến chỗ này rồi
Chánh niệm khéo suy nghĩ,
Khi ấy, Đức Đạo Sư
Được giác ngộ cao tột
Các Ma vương sợ hãi
Hoảng hốt như chồn con,
Đây vốn là đạo tràng
Đức Như Lai an tọa
Phật quá khứ, vị lai
Cũng an tọa chỗ này.
Đây là Đấng Dũng Kiện
Chư Thiên đều cung kính
Ngồi kiết già bảy ngày
Quán sát cây thọ vương,
Đã nhận người cúng dường
Đến vườn Nai nói pháp
Chuyển pháp luân cao tột
Thanh văn và Phạm thế.
Tỳ-kheo đến chỗ kia
Mắt lệ tuôn trào mãi
Đấng Dũng Kiện đến đây
Điều phục năm anh em,
Năm người vừa thấy Phật
Liền sinh tâm không vui
Cùng nhau bàn tính trước
Ngài đến không dậy chào.
Là Thế Tôn đại Bi
Với họ khởi lòng thương
Vì năm Tỳ-kheo nói
Chuyển vận pháp cam lộ,
Lễ nơi chuyển pháp luân
Lại tiếp tục rơi lệ Lần đến chỗ
Niết-bàn Nơi Đức Phật nhập diệt.
Thời ấy Đức Đạo Sư
Làm lợi ích chúng sinh
Bỏ thân mạng cuối cùng
Ngài diệt độ ở đây.
Quý thay! Phật Thế Tôn
Đấng Năng Nhân Sư tử
Nay chỉ nghe hồng danh
Mà không thấy thân hình
Là Tiên nhân Vô thượng
Thiện hiền, thân sau cùng
Đại trí biết là vậy
Đây là thân rốt sau,
Hoặc du hành mạng chung
Tịch diệt ở trú xứ
Hành hóa rồi mạng chung
Sẽ sinh đến cõi lành.
Sau này đến thời mạt
Phật pháp được lan rộng
Mới nên vào Niết-bàn
Những người giữ tịnh giới,
Hoặc Tỳ-kheo phá giới
Đều cũng được cúng dường
Ăn mặc thọ dụng nhiều
Mau rơi vào đường ác,
Các Tỳ-kheo xem xét
Như có những sai lầm
Người trí liền chấm dứt
Nhanh chóng được sinh Thiên.
Họ là đèn chiếu sáng
Người thương xót thế gian
Bồ-tát trí tuệ lớn
Lòng từ lợi chúng sinh,
Nên nương người tri thức
Tâm hoan hỷ phấn khởi
Ta sẽ được thành Phật
Cũng gặp Đức Di-lặc
Sẽ cúng dường Thế Tôn
Được ở trước đại chúng
Đức Phật thọ ký cho
Như trong lòng suy nghĩ.
Có được năng lực lớn
Ta giảng nghĩa như thật
Tuy không được thấy Phật
Mà như được đối diện
Ta nên tự an ủi
Rồi sẽ được như ý
Đã có phần giác ngộ
Hãy đảnh lễ chư Phật!
Nếu có những người nữ
Hướng giác ngộ cao tột
Ta cũng an ủi họ Như
Chư Phật Thế Tôn.
Xả thân người nữ rồi
Mau chuyển thành thân nam
Được gặp Đức Di-lặc
Liền cung kính cúng dường,
Tất cả những mong cầu
Thảy đều như ý muốn
Theo học hỏi người trí
Đầy đủ lực kiên trì,
Mong muốn và vững chắc
Trì giới, ham nghe nhiều
Liền được Đức Di-lặc
Thân hành thọ ký riêng.
Được lợi ích như thế
Sinh niềm tin hiền thiện
Tin vững lại phát tâm
Nhiếp hóa các chúng sinh,
Không có ai mong cầu
Mà không được toại ý
Có trí tuệ tinh tấn
Được giác ngộ không khó.
Không có tâm quanh co
Luôn thực tập lòng Từ
Thường nương chỗ nhàn tịnh
Gọi là hạnh giác ngộ,
Nếu bỏ việc như vậy
Chỉ nói đến giác ngộ
Đây là loại giặc tham
Tất cả nên xa lìa.
Nếu vì ham ăn uống
Và các việc lợi dưỡng
Dối chấp là chánh pháp
Cùng nhau ưa luận bàn,
Đời sống không trong sạch
Dùng si để sinh sống
Bị điều xấu làm hại
Phải vướng vào đường ác.
Là pháp môn một vị
Chỉ mượn tên Tỳ-kheo
Hay hủy báng chánh pháp
Và giới luật giải thoát.
Nếu có người trì giới
Ta nói pháp cấm giới
Tỳ-kheo giả hủy báng
Họ không đến cõi lành,
Người, trời trong thế gian
Đều lánh xa, lìa bỏ
Bậc trí ở trong đời
Lại càng xa người này.
Nếu thân không nghiệp ác
Khẩu nghiệp cũng hiền thiện
Ý nghiệp liền thanh tịnh
Mau chóng đến Niết-bàn.

Này Ca-diếp! Sau khi Như Lai diệt độ, đến thời mạt pháp, các Tỳ-kheo, có gieo trồng căn lành nơi chư Phật đời trước đều đã vào Niết-bàn. Các chúng sinh thuần thiện cũng đã qua đời hết. Sau năm trăm năm sẽ có hai loại Tỳ-kheo, tham cầu không chán, sân giận tách ra khỏi Tăng chúng, thô tháo độc ác với bộ mặt sân si, buồn rầu. Họ sống theo ba cách. Những gì là ba?

  1. Chuyên về nghề thuốc.
  2. Nương việc buôn bán.
  3. Thân cận người nữ.

Do sống theo ba pháp này nên mất bốn pháp, những gì là bốn:

  1. Mất các giới.
  2. Mất đường lành.
  3. Mất được chứng quả.
  4. Mất sự thấy được pháp như thật.

Người đã có bốn pháp này lại tăng thêm bốn pháp, những gì là bốn:

  1. Ganh ghét mãnh liệt.
  2. Sân giận mãnh liệt.
  3. Tham của người khác mãnh liệt.
  4. Tham đắm lợi dưỡng nên chứa để thật nhiều, lại tham đắm y phục, tạo các kho chứa, lấy đó làm sự nghiệp nhưng chúng là rỗng không, không thật có, không có cung cách của Sa-môn. Đã có bốn pháp này lại rơi vào bốn pháp khác, đó là:
  1. Thường ưa phỉ báng pháp.
  2. Nói không đúng lúc.
  3. Nói pháp riêng cho người nữ.
  4. Lần lượt phạm giới.

Đã nghe các pháp này rồi, liền rơi vào vòng tai họa.

Này Ca-diếp! Cũng như người gặp chó dữ lại đánh nhằm vào mũi nó.

Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ sao? Con chó ấy sẽ tăng thêm sự hung dữ chăng?

Tôn giả thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, nó sẽ tăng thêm sự hung ác.

Đức Phật dạy:

–Này Ca-diếp! Những người ác này cũng như chó dữ, kia như Tỳ-xá-giá.

Nếu Tỳ-kheo tâm ý thanh tịnh, thọ trì và giảng nói pháp này,

mới là người chân thật ít ham muốn, khen ngợi nói về hạnh ít ham muốn. Nhưng hạng người kia nghe rồi kinh hãi, cho là quái lạ không tin, lòng bức rức khiếp nhược, lại càng tăng sân giận, rồi họ sẽ nương vào nghiệp nào đây?

Việc này tuy chưa đến nhưng nay ta nói trước, sau này sẽ có người không tu, khi nghe kinh này họ sẽ phỉ báng, như bị kim châm, lòng rất giận dữ, nói: “Đây chẳng phải kinh do Đức Phật nói, chê bai người ít ham muốn.” Đây gọi là người nhiều ham muốn, chẳng phải ít ham muốn.

Này Ca-diếp! Ta thường tìm nhiều cách khen ngợi người tu hạnh ít ham muốn, khen ngợi người biết đủ, người khéo bố tát, người ở với nhau yên ổn, người thực hành hạnh Đầu-đà, người ở chỗ yên lặng, người có nghề sống trong sạch, các ngươi chớ cùng với họ làm các việc ác và cùng đồng lõa với họ.

Vì sao vậy? Vì đây là cách sống tại gia, người tu chớ dùng cách này để xâm phạm lừa dối người, vì là cách sống tại gia nên các ngươi không nên quá sân hận. Các ngươi cũng chớ ham gom góp nhiều tiền tài vật chất, nên xả bỏ tài vật. Các ngươi cẩn thận chớ hiển bày tướng lạ khen ngợi công đức của mình, các ngươi cũng không nên bị trói cột lưu luyến vật chất, ham cất chứa nhiều, các ngươi cũng chớ nuôi lạc đà, ngựa, bò, lừa, cũng không nên quá biếng nhác, nên siêng năng tinh tấn đoạn trừ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.

Này Ca-diếp! Ta thường dùng các nhân duyên để khen ngợi người ưa thích chỗ thanh tịnh, vắng lặng, không thân cận với nhà người đời.

Đến thời mạt pháp sau này, sẽ có người chống lại pháp của ta, họ đã chống trái với pháp của ta rồi, lại còn muốn tạo các tai họa phỉ báng chánh pháp.

Này Ca-diếp! Cũng như có người khi đang bệnh nóng mà ăn lá tía tô, khi đã dùng lại càng bị khát nước, nên nói với những người khác: “Cho tôi xin một ít nước.”

Người kia đáp: “Này đại trượng phu, chớ xin nước vì ông đã dùng lá tía tô, ông có thể chết.”

Người kia nóng giận la mắng người này, do không nghe lời người khác, người bệnh kia uống nước liền qua đời.

Cũng vậy, này Ca-diếp! Tỳ-kheo thời sau này chấp thủ về “hữu kiến.” Vừa chấp giữ ý ác.

Tỳ-kheo ấy nói: Chỉ việc này là nên nương tựa, còn các pháp khác không nên nương tựa, lại ưa phản đối, sân giận, chê bai, mắng nhiếc, chê bai các kinh giáo pháp của Như Lai.

Vì vậy, này Ca-diếp! Những người này cạnh tranh với Như Lai.

Này Ca-diếp! Ông hãy xem xét Tỳ-kheo Hiền Hộ, khi Như Lai chế giới: “Các Tỳ-kheo Tăng ngày ăn một bữa.” Khi nghe xong, Tỳkheo ấy sân giận, trong ba tháng ông ấy không đến chỗ ta.

Này Ca-diếp! Khi ấy chư Tăng đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh mà còn như vậy, huống nữa sau khi Như Lai diệt độ, người tham về ăn uống, tham đắm y bát, đồ nằm, thuốc trị bệnh, họ bị mê mờ che lấp, sân giận mãnh liệt, nghe các kinh điển này còn không cung kính với Phật Như Lai, huống gì các vị Tỳ-kheo hành trì đúng như pháp.

Này Ca-diếp! Nếu các pháp này đã bị ẩn diệt, thì cuộc đời thật không tốt lành, lại càng thêm đen tối.

Này Ca-diếp! Thiện nam nào, muốn cầu điều tốt lành, nên tin vào pháp này của ta.

Về sau, đến đời mạt pháp, gặp nhiều xấu ác tai biến, khi giáo pháp của ta đến thời cuối, đời nhiều tạp nhiễm ô uế, con người sân giận hung dữ, khó gặp người lành. Thời ấy, người nào nghe và tin hiểu những kinh điển sâu xa này, nên tin rằng người ấy đang ứng hợp với Phật pháp, chẳng phải không ứng hợp, nên nói người ấy tin và thọ trì, chẳng phải không tin và thọ trì.

Này Ca-diếp! Nay ta cũng nói: gọi là tương ưng chẳng phải không tương ưng, chẳng phải không tin nhận.

Này Ca-diếp! Cũng như ngựa dữ, gặp người điều khiển ngựa giỏi mà còn chưa cỡi được; nếu hoàn cảnh an tịnh, không ồn ào còn không điều thuận, huống là đang trong cảnh thổi ốc, đánh chuông, khua trống mà chịu đựng được thì không có điều ấy.

Này Ca-diếp! Tỳ-kheo phá giới, mà có thể tiếp nhận được pháp của bậc Thiện trượng phu thì không thể có điều đó.

Này Ca-diếp! Cũng như ngựa dữ dùng roi đánh xuống một lần là ngựa kinh sợ.

Như vậy, này Ca-diếp! Chỉ nghe nói đến pháp không, vô ngã một lần, nếu người chấp trước nơi ngã sẽ kinh hãi sợ sệt mà phải đứng lên tranh tụng, huống lại giảng nói rõ về pháp ấy.

Này Ca-diếp! Cần nên phát khởi nguồn gốc của tâm siêng năng và đại trang nghiêm, để hàng phục trăm, ngàn, vạn, ức các ma, khiến cho chúng hoàn toàn không còn sự tranh tụng.

Thế nào là phát khởi nguồn gốc siêng năng?

Không ham muốn là nguồn gốc siêng năng.

Công đức thực hành hạnh Đầu-đà là nguồn gốc siêng năng.

Không tham lam là nguồn gốc của siêng năng.

Không si, không sân là nguồn gốc của siêng năng.

Không ganh ghét là nguồn gốc của siêng năng.

Xa lìa tham dục là nguồn gốc của siêng năng.

Ở một mình không bè bạn là nguồn gốc của siêng năng.

Xa lìa ngủ nghỉ là nguồn gốc của siêng năng.

Không khởi tất cả tâm ác bất cứ lúc nào là nguồn gốc của siêng năng.

Không khởi tâm tham dục bất cứ lúc nào là nguồn gốc của siêng năng.

Không khởi tâm nghi là rất siêng năng để lìa tất cả nghi, đã lìa tất cả nghi là đại trang nghiêm, phát tâm Bồ-đề không còn nương gá, huống lại còn tư tưởng chấp ngã.

Sau cùng, không nên khởi các tưởng về ngã, tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng con người, tưởng nam, nữ; không sinh khởi các tưởng về đất, nước, lửa, gió; không khởi tưởng về cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc; không khởi tưởng về giữ giới hay phạm giới; không khởi tưởng về không, tức không nên khởi tất cả tư tưởng, cho đến đối với Niết-bàn cũng không nên khởi tưởng.

Thế nào gọi là không nên sinh khởi các tưởng?

Vì các tưởng vốn không thật có.

Này Ca-diếp! Như tham dục là không thật, người biết diệt tham dục cũng không thật.

Này Ca-diếp! Dục không có sự nhất định, chỉ phương tiện tạm nói mà thôi. Vì vậy, Như Lai nói như thật: Dục này không phải là pháp như thật của ta, nó là pháp Tịch diệt.

Thế nào là pháp Tịch diệt?

Nếu chấp cho là ta không chấp trước, thì tư tưởng chấp trước còn lớn hơn núi Tu-di. Nếu người có tư tưởng chấp trước, nên biết người đó thất bại trong pháp của bậc Thánh. Người kia không thể phát khởi pháp của Sa-môn, không thể nương vào pháp của Sa-môn, mà chỉ gọi là người ngu si, do ngu si, nên vĩnh viễn không thể phát khởi pháp của Sa-môn.

Vì sao vậy?

Vì người có tư tưởng chấp thủ, sẽ bị đọa vào địa ngục Vô gián trong vô lượng kiếp.

Này Ca-diếp! Như Tỳ-kheo Quán-cẩu-ca-ly, Tỳ-kheo Đề-bàđạt-đa, Tỳ-kheo Toái Tài, Tỳ-kheo Hắc-kheo-xá, Tỳ-kheo Hải Dữ.

Này Ca-diếp! Như Tỳ-kheo Mã Sư, Tỳ-kheo Mãn-túc, Tỳ-kheo Thiện Tinh, là người gần gũi giúp đỡ ta, thường nghe ta nói pháp, thấy ta kinh hành, thấy ta ngồi thiền, thấy ta vận thần thông đi qua lại trên không, thấy trăm ngàn ngoại đạo bị ta hàng phục. Những người như vậy còn không có tâm tốt đối với ta họ, là con trùng dưới chân chống trái với ta tự dẫn đến đường ác. Nếu ai thật sự muốn nói đến công đức của Như Lai, ông nên dùng bột Chiên-đàn nhiều như núi Tu-di, rải lên trên cao biến thành lọng báu lớn trùm cả ba ngàn thế giới, rồi ở trong hư không đứng hầu vị ấy.

Vì sao vậy?

Này Ca-diếp! Vì người ấy có lòng tin xưng niệm danh hiệu Phật, bởi người thật sự có lòng tin rất ít, huống là người có lòng tin theo Phật xuất gia, xa lìa tham dục, tu thiền không chấp trước, hạng người kia rất ít có.

Này Ca-diếp! Nếu chúng sinh thọ trì giới cấm như ta đã dạy,

tin hiểu giáo pháp cam lồ như vậy, lại càng hiếm có.

Này Ca-diếp! Như có quần chúng nhóm họp ở đình miếu cùng làm một hình nộm rất đẹp, vẽ họa sắc sảo, mà bên trong chứa đầy phần dơ, hoặc có người chỉ thấy màu sắc y phục bên ngoài nên mang đi khoe với người. Có người thấy biết hình kia không thật nên liền xả bỏ.

Như vậy, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo, thấy ngôi nhà pháp công đức của Như Lai, trong đó có Tỳ-kheo thì sinh khởi tưởng về ngã.

Này Ca-diếp! Nếu có tưởng về ngã sẽ có tưởng về dục, nếu chấp tướng khác thì người ấy sẽ sinh tham dục.

Này Ca-diếp! Người không có tưởng chấp ngã, nghe các kinh này không sinh sân giận.

Vì sao vậy?

Vì làm thương tổn người khác là việc làm không tốt. Do đó, người nghe pháp này đều là người có tâm tốt. Nếu có nhiễm trước đối với tướng ngã là người tà kiến, người tà kiến khi nghe lời dạy chân thật này, họ sẽ sân giận.

Vì sao vậy?

Này Ca-diếp! Vì có tướng ngã tức là khởi sân hận.

Này Ca-diếp! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi, nghe những giáo pháp này mà sân giận phỉ báng, thì người này chỉ là Sa-môn trên hình thức và tên gọi mà thôi, ta không phải là thầy của họ, họ cũng không phải là đệ tử của ta.

Vì sao vậy? Vì người nói dối kia chẳng phải là đệ tử của ta, ta cũng không phải là thầy của kẻ nói dối ấy.

Vì sao vậy?

Này Ca-diếp! Vì Như Lai nói lời chân thật, Như Lai nói rằng tất cả pháp vốn không thật có.

Này Ca-diếp! Như Lai Thế Tôn phá tất cả tâm chấp ngã, vì người này tranh với Như Lai, nếu có kẻ tranh với Phật Như Lai, thì gọi là ma. Như Lai không chấp nhận bè đảng ma xuất gia thọ giới Cụ túc.

Này Ca-diếp! Nếu có người nói: ngựa con từ rồng và voi mẹ sinh ra.

Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ sao? Lời người này nói đáng tin không?

Tôn giả Ca-diếp bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn, không thể tin!

–Này Ca-diếp! Lời này có phù hợp không?

–Bạch Thế Tôn, không phù hợp!

–Này Ca-diếp! Chúng sinh nào chấp trước tưởng ngã, tưởng chúng sinh, tưởng thọ mạng, tưởng về người cho đến tưởng Niết-bàn, mà gọi ta là thầy, càng không thể phù hợp.

Này Ca-diếp! Nếu có người đến nói: Chim chúa đại bàng cánh vàng, từ loài chim thường mà sinh.

Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ thế nào? Lời nói như vậy có đáng tin không?

–Bạch Thế Tôn, không thể tin được!

–Này Ca-diếp! Nói năng như vậy là tương ưng hay không tương ưng?

Tôn giả Ca-diếp thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy là không tương ưng.

–Này Ca-diếp! Người nào chấp chặt nơi ngã, cho đến chấp trước Niết-bàn, mà gọi ta là Thầy, càng không thể phù hợp.

Này Ca-diếp! Giả sử có người nói: “Có con đom đóm vác núi Tu-di.”

Này Ca-diếp! Ý ông thế nào? Người nói lời như vậy có đáng tin không?

–Bạch Thế Tôn, không thể tin!

–Này Ca-diếp! Nói như vậy có phù hợp không?

Này Ca-diếp! Những người ác này, chấp về ngã kiến, chúng sinh kiến cho đến Niết-bàn kiến, gọi ta là Thầy thì càng không thể phù hợp.

Này Ca-diếp! Cũng như có vị Đại vương sai phái một sứ giả. Lại có một người không ai biết, giả làm người sứ gi truyền lệnh vua đến các nhà giàu có lớn, nói rằng: “Đây là lệnh vua, sai ta làm việc này.” Khi ấy, các quan và những người nhà giàu, thấy người lạ này dựa thế lực, nên trả lời rằng: “Tôi sẽ làm việc ấy.”

Khi ấy, các nhà giàu vì muốn bảo vệ sự sống nên đã đi đến chỗ vua.

Như vậy, này Ca-diếp! Năng lực phước báo của Như Lai đầy đủ tự tại, như vua được an lạc không có thù oán. Vua ở chỗ cung điện rộng lớn ăn uống đầy đủ. Tăng chúng đệ tử của Như Lai cũng như vậy, không có thù oán, ở trong cương giới của Phật pháp thì thực phẩm đầy đủ.

Lại có một người lạ, không ai mời mà đến ở trong chúng, tự nói kiến chấp về ngã, kiến chấp về Niết-bàn, rồi nói: Như Lai nói như vậy, như vậy. Lời này nên làm, lời này không nên làm.

Người có lòng tin với Như Lai, không trái lời Phật dạy, nghe nói như vậy, tự giảm bớt phần ăn mặc của vợ con, dùng phẩm vật tốt đẹp để dâng cúng, do niềm tin cung kính cúng dường, chỉ biết cúng mà không biết thời gian và cách cúng. Người như vậy cũng như kẻ lạ kia, nhận phẩm vật cúng, ăn xong vui thích ồn ào, luận bàn việc vua, việc giặc; nói toàn chuyện ăn uống, chuyện dâm nữ, bàn chuyện thuốc chữa bệnh, chuyện nguyệt thực, nhật thực, nói chuyện các vương gia. Lại còn nói chỗ này dễ kiếm được đồ ăn, chỗ kia không kiếm được. Như vậy, luận bàn đủ các vấn đề suốt cả ngày, đêm, rồi ở đấy hai đêm, ba đêm cho đến sáu đêm, rồi cùng nhau bàn luận tất cả mọi việc; có đủ những tánh ganh ghét, kiêu mạng, nhiều cách chơi giỡn, cười cợt, nói năng hỗn tạp, nước dãi lòng thòng, loạn tưởng mê ngủ, tùy theo sự vọng tưởng rồi nằm ngủ chiêm bao, thấy chính mình đi đến chỗ kia được người khác nghênh tiếp cung kính, khi ngủ dậy lại cùng nhau đoán mộng: “Này Đại đức! Ban đêm tôi nằm mộng thấy mình đi đến chỗ ấy rồi được thực phẩm như vậy.”

Người kia nói: “Đây là mộng lành, ông nên mau đến chỗ ấy.” Kẻ kia liền đi đến chỗ thành ấp trong nhân gian, đưa mắt nhìn ngắm, trong lòng nóng nảy bức rức do có quá nhiều hy vọng, trong tâm không thể chuyên nhất, mất hết oai nghi, các căn không vắng lặng, bị tâm rối loạn chi phối, nên khi đến nhà người sẽ dễ phạm cấm giới, một mình nói pháp cho người nữ làm nhân duyên để được giỡn cười, do đó lần lần thể hiện tướng tham dục, dùng những phương tiện đó để được lợi dưỡng, đã được lợi dưỡng mến ưa tham nhiễm, đam mê vướng mắc, thường ở chỗ ấy. Nếu trái với ý đã mong muốn, thời buồn khóc ra đi, tìm đến hai chỗ: Nơi được đón tiếp nồng hậu và nơi được khen ngợi, nếu không được tiếp đãi nồng hậu họ sẽ mắng nhiếc vị thí chủ ấy.

Rồi họ nhóm họp lại hỏi nhau rằng: “Ai bố thí cho các vị? Những người nào được thí? Được bố thí bao nhiêu? Ăn dùng còn nhiều ít?”

Này Ca-diếp! Như vậy, họ làm rất nhiều việc, không tương ưng với giáo pháp mà họ vẫn tiếp tục làm cho đến chết.

Này Ca-diếp! Họ làm những việc không tương ưng như thế là phỉ báng chánh pháp.

Ca-diếp nên biết! Những Tỳ-kheo thô ác như thế chúng ta nên thương xót họ. Vì sao vậy? Vì những người như thế sẽ phải chịu những khổ báo lớn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Giả sứ giả nhà vua
Vì bảo dưỡng sự sống
Đi dạo qua nhiều nhà
Nói vua ra lệnh này,
Người kia đã nghe lệnh
Không giận sợ trách phạt
Kẻ ngu ưa dựa thế
Nương thế lực để sống.
Huống là Đức Tối Thắng
Trải qua trăm ngàn kiếp
Bố thí cả tay chân
Thực hành các hạnh khổ,
Phủ nhận Đấng Pháp Vương
Liền rơi vào lỗi lầm
Cũng không hỏi người trí
Việc nên làm hay không?
Tại gia cúng Tỳ-kheo
Đồ ăn uống hảo hạng
Loại y phục tốt đẹp
Đều cung kính cúng dường,
Tự mình nhịn ăn mặc
Cũng giảm phần con cái
Gom vật dụng quý tốt
Để cúng người trì giới.
Tu hành không tương ưng
Ăn rồi liền bỏ đi
Tụ tập lại một chỗ
Hỏi nhau món ăn ngon,
Nào việc vua, việc giặc
Lại nói việc đấu tranh
Cũng bàn việc ăn uống
Vì sao Phật nhóm họp?
Hoặc nói nhật, nguyệt thực
Hỏi việc vua kinh lý
Là sẽ được thành tựu
Hay lại bị thất bại,
Lời nói không tương ưng
Mà lại thường diễn nói
Thật là điều không nên
(Các tạng đều thiếu một câu)
Ưa đi đến nhà người
Là những nơi giàu có
Gặp người chủ keo kiệt
Không dâng món ăn ngon
Lại sinh nhiều ác cảm
Có trăm cách suy nghĩ
Cũng như lừa chở nặng
Cho nên trong khi ngủ
Mơ điều đã suy nghĩ
Thức dậy cùng nhau bàn
Có nhiều cách giải thích
Không lo lại cười lớn:
Ngươi sẽ được an lạc
Mau hoàn thành việc này,
Để chậm sau hối hận
Đến các thôn, thành, ấp
Làm những việc bất chánh
Đảo mắt nhìn tà vạy
Giống như loài khỉ vượn.
Khi đã vào thành ấp
Nói pháp cho người nữ
Xả bỏ kinh Phật dạy
Cùng với Giới giải thoát.
Đã đến nơi này rồi
Sao tránh khỏi thô ác
Sẽ mắng nhiếc thí chủ
Và các Thiện tri thức.
Lại tụ tập nhóm họp
Để cùng hỏi thăm nhau:
Ông được những món gì?
Món ăn ấy ngon không?
Nói những việc như thế
Trải qua nhiều năm tháng
Có tư tưởng như vậy
Lấy đó làm sự sống
Gom hoa thơm, ngâm rượu
Dùng làm thuốc để uống
Cho là ít bệnh đau?
Một Phật hay trăm Phật
Không cứu người không duyên,
Họ bỏ việc tu hành
Sống như người tại gia
Chấp ngã và chấp thường
Kiến chấp thêm trói chặt
Tu hành như thế này
Sẽ dẫn đến đường ác
Bèn phải chịu khổ báo.
Người phỉ báng chánh pháp
Phàm phu ít hiểu biết
Tu tập hạnh tại gia
Các đệ tử Đức Phật
Thực hành hạnh Thanh văn
Không chỉ vì sự sống
Mà hủy phạm giới cấm,
Người trí không vì ăn
Mà sinh khởi vọng tưởng
Quán món ăn không sạch
Thiền định đáp đền ân
Trừ bỏ các dục lậu
Tu tập trừ vọng tưởng
Do phương tiện tu hành
Theo pháp Phật xuất gia
Biết là pháp không tranh
Các nơi nói pháp không
Đều quyết tâm tu tập
Trong không được hiền thiện
Người Dũng Kiện trí tuệ
Biết tu tập pháp không
Quân ma đều sợ hãi
Là báo ân tín thí
Không hề có luyến ái
Chẳng chê bai tánh không
Là Phật tử Dũng Kiện
Đấng Thế Tôn phước điền
Chánh pháp không trường tồn
Do nhiều người làm ác
Ít Tỳ-kheo hiền hòa
Không buông lung lợi người
Người trí lại suy nghĩ
Sự chết đến bất ngờ
Đêm tu tập những gì?
Ngày càng thêm tận tụy
Đời không người cứu giúp
Chỉ trừ Đấng Thế Tôn
Bậc hữu học, vô học
Thảy đều sẽ diệt độ.
Nếu không biết như vậy
Mà tùy nghi nói pháp
Khinh không cung kính Phật
Và chánh pháp Vô thượng
Chánh pháp sắp hủy diệt
Cần nên siêng tinh tấn
Không lâu sẽ được nghe
Mặc dù chỉ ít lời.

*********

Khi ấy, Đại đức Ca-diếp bạch Phật:

–Lạ thay, thưa Đức Thế Tôn! Có người nghe những kinh này mà không ưa thích mến mộ.

Đức Phật dạy:

–Này Ca-diếp! Chúng sinh nào có bốn pháp thì nghe kinh này họ không ưa thích.

Bốn pháp đó là gì?

  1. Quá nhiều buông lung.
  2. Không tin nghiệp báo.
  3. Không tin có địa ngục lớn.
  4. Không tin ta sẽ chết.

Này Ca-diếp! Đó là bốn pháp khiến họ không ưa thích kinh này.

Này Ca-diếp! Chúng sinh lại có bốn pháp nên không mến thích khi nghe kinh này:

  1. Tự ỷ cường tráng.
  2. Tự ỷ có sức mạnh.
  3. Tham nhiễm năm món dục, đắm mê rượu chè.
  4. Không có tâm hiền thiện.

Đây gọi là bốn pháp khiến họ không mến thích kinh này.

Này Ca-diếp! Tỳ-kheo có bốn pháp, sẽ phỉ báng đạo giác ngộ của Đức Phật.

Bốn pháp đó là những gì?

  1. Họ vốn đã tạo nhiều điều ác nên ưa chê bai chánh pháp, hiện tại tạo nghiệp ác nên phỉ báng Tỳ-kheo-ni.
  2. Có vị tuy gọi là Hòa thượng, A-xà-lê được nhiều người kính trọng, nhưng họ cũng phỉ báng đạo giác ngộ.
  3. Những người theo vị ấy học cũng phỉ báng đạo giác ngộ.
  4. Do ít thấy nghe học hỏi nên ganh ghét, cũng phỉ báng đạo giác ngộ của Đức Phật.

    Này Ca-diếp! Đây gọi là bốn pháp hủy báng đạo giác ngộ của Đức Phật.

Này Ca-diếp! Lại có một pháp Sa-môn, Bà-la-môn nên làm.

Một pháp ấy là gì?

–Đối với tất cả pháp, tâm không trú chấp.

Đó là một pháp mà Sa-môn, Bà-la-môn nên làm.

Này Ca-diếp! Như có người rơi từ trên đỉnh núi cao xuống bất tỉnh mê man không hiểu biết gì, không biết đâu là đất, đâu là cây, tâm tưởng trống không, hơi thở ra vào hoàn toàn chấm dứt.

Như vậy, này Ca-diếp! Người kia chấp tất cả pháp, là chấp chặt tướng về mắt, chấp trước tưởng của mắt, làm theo pháp chẳng phải Sa-môn, pháp chẳng phải Bà-la-môn. Họ chấp chặt nơi tưởng về tai, mũi, lưỡi, thân, ý; chấp chặt nơi tướng của tai, mũi, lưỡi, thân, ý như vậy nên làm chẳng đúng pháp Sa-môn, pháp của Bà-la-môn. Chấp chặt nơi tưởng về sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chấp chặt nơi tướng của sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà làm những việc không đúng pháp Sa-môn, pháp Bà-la-môn. Chấp việc trì giới thanh tịnh, chấp chặt nơi tướng trì giới để cầu đạo giác ngộ; chấp nghe nhiều, chấp tướng nghe nhiều mà cầu đạo giác ngộ; chấp chặt vào sự hổ thẹn, chấp chặt đối với sự đến đi, mà phải làm chẳng đúng pháp của Sa-môn, pháp của Bà-la-môn. Nếu có chấp chặt thời sẽ bị hại.

Thế nào là bị hại?

Bị tham làm hại, bị sân, si làm hại, chấp tưởng về mắt, là chấp hình tướng con mắt, sẽ bị mắt làm hại, do ưa mà không cảm nhận đúng sắc ấy.

Chấp chặt vào tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy, do chấp thủ nên bị ý làm hại, nghĩa là có pháp vừa ý, có pháp không vừa ý. Nếu đã bị hại thì bị lừa dối, nghĩa là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cùng với trời, người, các cảnh khổ ấy làm hại do chấp chặt vào đối tượng, nên bị nó làm hại.

Ở đây thế nào là có tưởng chấp chặt?

Nghĩa là có tưởng chấp chặt nơi ý tưởng ngã, chấp chặt nơi ý tưởng ngã sở. Có tưởng chấp chặt vào địa, thủy, hỏa, phong đại. Chấp sự quán tưởng xương trắng, tưởng hư hoại, tưởng bầm xanh, tưởng các loại trùng rút rỉa, tưởng máu thịt thoái rữa, tưởng bào thai, tưởng giải thoát. Đã là cảnh giới giải thoát thì đâu còn vọng tưởng gì nữa, mà lại chấp trước? Nghĩa là chấp rồi cho rằng những cảnh giới trên đây sẽ được giải thoát. Sự chấp trước này đã có từ vô lượng đời ở quá khứ, chấp là ta đang nhớ nghĩ đến chỗ ở hiện tại. Chấp đời sau và chấp hiện tại sinh khởi tưởng như vậy. Ta ở đời quá khứ cũng như ta ở đời hiện tại, sinh ở chỗ nào cũng đều khởi tư tưởng chấp chặt cho đến cảnh giới Niết-bàn cũng khởi tư tưởng chấp chặt, suy nghĩ và nói: “Ta sẽ đạt được Niết-bàn”, khởi tư tưởng chấp trước như vậy.

Này Ca-diếp! Nói tóm lược, cho đến nếu có tưởng đều gọi là chấp, dù tưởng về không cũng đều gọi là chấp chặt nơi tưởng. Như vậy, đều là chẳng phải pháp của Sa-môn, chẳng phải pháp của Bàla-môn, chẳng phải việc làm của Sa-môn, chẳng phải việc làm của Bà-la-môn. Không phải là pháp của Sa-môn, Bà-la-môn mà Như Lai nói.

Này Ca-diếp! Cũng như hư không cùng với mặt đất không thể nghĩ rằng ta là hư không, là đất bằng.

Như vậy, này Ca-diếp! Sa-môn, Bà-la-môn không thể nghĩ: “Ta là Sa-môn, ta là Bà-la-môn do làm theo pháp này, vậy do nhân duyên gì có tên Sa-môn, tên là Bà-la-môn?”

Này Ca-diếp! Nếu không có ý niệm, mà cho là Sa-môn, Bà-lamôn làm theo pháp này, vậy vì nhân duyên gì làm theo pháp này mà có tên Sa-môn, Bà-la-môn?

Sa-môn, Bà-la-môn không hề có ý niệm: “Ta nên làm vậy, ta không làm vậy, vì Sa-môn, Bà-la-môn hoàn toàn không hề có ý niệm như vậy.”

Này Ca-diếp! Cũng như có người, trong đêm tối dùng hai tay quờ quạng trong hư không nhếch môi, hít mũi, tuyên bố: “Ta mân mê đùa bỡn thế gian, ta đùa bỡn thế gian.”

Này Ca-diếp! ý ông nghĩ thế nào? Kẻ kia đùa bỡn ai?

Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người ấy chỉ tự đùa bỡn.

Vì sao vậy? Vì trong đêm tối tăm không có người nên không có thể đùa bỡn với ai.

Đức Phật dạy:

–Cũng vậy, này Ca-diếp! Nếu có Tỳ-kheo đến chỗ thanh vắng hoặc dưới gốc cây, hoặc đến ngoài đồng trống, mà nghĩ tưởng mắt là vô thường, cho đến tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là vô thường. Lại suy nghĩ sắc là vô thường, cho đến thanh, hương, vị, xúc, pháp đều vô thường. Lại tự nghĩ tưởng: “Ta có hướng đến Niết-bàn là tự lừa dối, chẳng phải hạnh của Sa-môn.”

Vì sao vậy? Vì lúc đầu chấp chặt vào mắt… Sau tu vô thường, sau lại thực hành vô thường, lầm chấp như vậy. Lúc đầu lại chấp tai, mũi, lưỡi, thân, ý sau tu vô thường, sau lại thực hành vô thường, mà ba chỗ ấy đều không thể chấp. Nếu có tư tưởng chấp chặt vào ba chỗ này, thì khi nào chúng ta được nhất tâm?

Này Ca-diếp! Sự giác ngộ của chư Phật rất là sâu xa, khó được, khó vào, việc sinh tử cũng khó vượt qua.

Này Ca-diếp! Thế nào gọi là nhất tâm?

Khi tìm cầu pháp bên ngoài sẽ không thấy được một pháp, cũng không biết được sự thật của mắt, không biết được sự thật của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tuy nói tất cả các pháp là không thật, cũng không thể rõ được.

Vì sao vậy? Vì tánh vốn như vậy, mà tánh vốn đã như vậy thời không nên khởi tâm. Nói tất cả các pháp không thật thì đâu còn tâm đạt được, hay không đạt được? Nếu đời quá khứ, vị lai và hiện tại không có niệm không có thực hành nên gọi là vô hành.

Thế nào là vô hành?

Vì không mới, không cũ cho nên gọi là vô hành. Nghĩa là, ở đây không có tâm giải thoát quá khứ, không có tâm giải thoát vị lai, không có tâm giải thoát hiện tại. Nếu không có tâm để có thể nắm bắt được gọi là nhất tâm, đó gọi là nhất tâm.

Này Ca-diếp! Đời sau này sẽ có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di chỉ trên danh tự, họ sẽ làm mất ý nghĩa ngôn ngữ. Họ đều có tư tưởng chấp thủ về ấm. Như Lai dạy năm ấm như mộng, những người này khi ấy lại nói ấm là thật, mộng này cũng là có, nên nói năng về mộng. Họ cho rằng, nếu nói mộng là không, chúng ta nương vào đâu để làm cơ sở phát khởi tư tưởng, có vấn đề để nói năng, cho nên ở đây chúng ta phải phát sinh mộng, tưởng, họ quyết định năm ấm là có, nên Như Lai mới nói năm ấm như mộng. Nếu họ không cho rằng ấm là thật có thì Như Lai không nói ấm giống như mộng. Vì vậy, những kẻ si này lại nương nơi mộng mà sinh tư tưởng cho là thật, nên khi nghe những kinh này liền phỉ báng.

Lại có Tỳ-kheo-ni đi đến nhà thí chủ, nói: “Vị ấy là La-hán, vị kia cũng là A-la-hán.” Những Tỳ-kheo này nương dựa vào kẻ thiếu trí, thân cận Tỳ-kheo-ni, bỏ bê các việc lành, tạo nghiệp bất thiện; có các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được nghe nói sơ sài về giới, hay một bài kệ, nghe rồi họ liền bỏ đi.

Này Ca-diếp! Đến khi ấy, có các Tỳ-kheo hai mươi hạ cho đến ba mươi hạ lạp, ở chỗ thanh vắng, có các Ưu-bà-tắc chỉ mới tin đạo trong một ngày, đối với sự hiểu biết về kinh điển của Đức Phật, họ đều như nhau không khác.

Này Ca-diếp! Khi ấy, ở đời họ cùng nhau xướng tên pháp không: “Pháp không này thanh tịnh, pháp không này thanh tịnh.”

Thời ấy, có các Tỳ-kheo khi nghe pháp này rồi cùng nhau nhóm họp, họ đã nghe mà không biết lo sợ; lại còn nói: “Kinh này không thích hợp với người xuất gia, cũng không hợp với người tại gia, nên phải cùng xả bỏ, vì chẳng phải do Đức Đạo Sư giảng nói. Vì sao vậy? Vì nó không giống với ta, cũng không giống với các ngươi.”

Nếu được nghe Đức Phật nói pháp sâu xa vi diệu, thì cả người tại gia và xuất gia này cũng đều phỉ báng.

Vì sao vậy? Này Ca-diếp! Vì hiện tại người tu phạm hạnh rất thuần tịnh, người có lòng thanh tịnh cũng còn rất ít, huống gì thời ấy. Như vậy, các hàng trí giả lần lượt diệt độ, người tốt ít dần, người hiền ít dần.

Này Ca-diếp! Đến lúc ấy, trong cả ngàn Tỳ-kheo mong có được một Tỳ-kheo chân chánh, thể nhập giáo pháp, hiểu được giáo pháp cũng còn rất khó, như vậy, đâu phải chỉ có một người khinh thường chê cười không học giáo pháp! Cho đến ba ngàn chúng Tỳkheo, muốn tìm một người chân chánh, thể nhập chân chánh hiểu rõ giáo pháp, cũng còn rất khó.

Này Ca-diếp! Đến thời ấy, hàng tại gia, xuất gia chỉ biết cùng nhau phỉ báng.

Này Ca-diếp! Đời sau này, có các Tỳ-kheo siêng năng tu hành vì muốn diệt trừ tất cả pháp ác, thành tựu pháp lành, đầu đêm cuối đêm không ngủ nghỉ, sẽ có những kẻ hung ác muốn giết hại người kia, khinh bỉ mắng nhiếc rồi bỏ đi.

Này Ca-diếp! Đến lúc ấy, Phật pháp hủy hoại, các Tỳ-kheo cũng bị tổn hại, trong thời đó người có trí, người có niềm tin sâu xa, người không nhiễm trước, nên cung kính lẫn nhau, hết lòng mến thương nhau, cùng tụ tập ở với nhau tu hành nơi chỗ thanh vắng yên tịnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Ta giảng nói pháp này
Nêu rõ Đệ nhất nghĩa
Nói ấm không chắc thật
Quán sát như giấc mộng.
Thời ấy các Tỳ-kheo
Lại cùng nhau đấu tranh
Kia, đây không gì khác
Mà chấp có tướng khác.
Tỳ-kheo lại còn nói:
Người kia nói thế này
Đây mới là Pháp nhãn
Sẽ không có sai khác.
Tỳ-kheo bảo tại gia
Ngươi thật là ít có
Thông hiểu đạo giác ngộ
Ngươi mau được Sơ quả!
Người ấy tưởng thấy pháp
Đến thân cận Tỳ-kheo
Cúng dường vật trân quý
Thường phụng sự bố thí,
Như lời Tỳ-kheo nói
Chân thật không sai khác
Giống với điều ta biết
Thấy pháp nên giảng lại.
Người thí và Tỳ-kheo
Đều không nương chánh pháp
Phá hoại đạo giác ngộ
Sau này sẽ xuất hiện,
Chớ thân kia, gần ta
Ta là người giảng đạo
Ngươi sẽ nhanh chứng đắc
Như ta đã mau chứng.
Là câu nói duy nhất
Cùng luận nói vắng lặng
Kết hợp thành một nhóm
Hủy hoại giáo pháp ta,
Cũng như giặc hung dữ
Giết hại các xóm làng
Khiến xóm làng thành ấp
Tàn hại vơ vét sạch,
Tỳ-kheo sẽ như vậy
Kẻ vô trí ám độn
Ngu si hủy cấm giới
Chấp trước ngã, mạng, nhân,
Ta nói nên xa lìa
Nương sự thấy của mắt
Tự xưng A-la-hán
Thật là Tăng thượng mạn.
Rồi cùng nhau tu tập
Xưng là bậc Tôn túc
Có danh không thật trí
Khó kiếm một người tốt.
Hoặc có những Tỳ-kheo
Tâm ác cho là thật
Nói tà vạy với người:
Chẳng có Phật, Thanh văn;
Hủy báng đạo Bồ-đề
Và cả Đấng Pháp Vương
Chư Thiên rất lo buồn
Ai cũng đều rơi lệ
Ngất xỉu rớt xuống đất.
Chư Thiên có niềm tin
Nói: Pháp Đấng Sư Tử
Nay đã bị hủy hoại
Lạ thay, Phật Thế Tôn!
Lạ thay, Pháp lìa nhiễm!
Lạ thay, Tăng phước điền!
Là con Đấng Thế Tôn
Không còn được nghe pháp
Đức Pháp Vương giảng giải,
Thế giới sẽ tối tăm
Pháp Phật sắp hủy diệt
Tự phát âm thanh lớn
Khắp trời đất, trung gian
Vang tiếng bảo chư Thiên:
Đuốc pháp nay sắp diệt
Chớ để hàng Trời, Rồng
Sau này phải hối hận!
Lòng thành nghe pháp Phật
Nay sẽ không còn nghe
Trải qua nhiều số kiếp
Nếu mình và mọi người
Chấp nhận làm chúng sinh
Khi nào được thành Phật?
Đức Phật dẫn dắt đời
Vì tất cả chúng sinh
Ngài giảng nói chánh pháp
Đến nay sẽ diệt hết.
Pháp hoại đại loạn khởi
Người tạo nhiều bạo ác
Ma chuyển thành cực ác
Người thiểu dục kém yếu,
Kẻ dối trá ngu si
Người hư ngụy phàm phu
Lòng sân giận hẫy hừng
Hủy báng pháp Thiện Thệ.
Nghe tiếng vang trời đất
Chư Thiên đều kinh hoàng
Các vị Tứ Thiên vương
Nghe rồi đều buồn rầu,
Các Dạ-xoa tụ tập
Cùng ở nơi thành trống
Ai cũng buồn, rơi lệ
Tiếng kêu la, khóc lớn,
Gào thét rất thống thiết
Chư Thiên đều nhóm họp
Lại cùng nói với nhau:
Trong tâm có ý nghĩ
Các thành ấp trang nghiêm
Những của báu trong thành
Tất cả không chói sáng
Giống như đống ngói đất
Thành này không oai đức
Không chút gì đáng vui
Thành này không oai đức
Nhưng vốn rất đáng ưa.
Tại chỗ ta giáng sinh
Chư Thiên đều đến đó
Thấy rồi buồn quỳ xuống
Họ cùng bàn với nhau
Chư Thiên đến cõi dưới
Chỗ ấy thật đáng sợ
Pháp chân thật của Phật
Nay đều bị hủy hoại.
Cõi dưới Diêm-phù-đề
Thấy rõ việc hủy hoại
Phật tử thấy đau lòng
Trốn lánh đến chỗ khác,
Thành đẹp trong bảy ngày
Không còn vẻ oai đức
Chư Thiên bảy ngày ấy
Tất cả đều rơi lệ.
Buồn thay, Đấng Dũng Kiện
Chúng con đã diện kiến
Nay không còn được thấy
Phật pháp lại diệt hết!
Nơi trú xứ Xá-vệ
Đến đó lòng cung kính
Đây chỗ Ngài nương ở
Mọi người đều rơi lệ.
Đây chỗ Phật thường ngồi
Thế Tôn ngồi ở đây
Diễn nói Tứ Thánh đế
Chúng con từng được nghe,
Thế gian đều tối tăm
Không cung kính lẫn nhau
Làm ác rồi phải chịu
Rơi vào trong đường ác,
Nhiều cung điện chư Thiên
Đều sẽ thành trống không
Chúng sinh không ai cứu
Diêm-phù-đề là vậy.
Đây là chỗ kinh hành
Hoang vắng và hư hoại
Thế gian không thể vui
Khi Pháp Vương diệt độ,
Chủ Tự tại Đế Thích
Cõi trời Tam thập tam
Rất lo buồn khổ não
Phát ra tiếng than lớn,
Chúng trời Tam thập tam
Quơ tay đều kêu khóc
Như nghe nơi các nước
Chạy quanh ở trong đó.
Có rất nhiều chư Thiên
Luận bàn về Đức Phật
Đạo Sư bỏ chúng ta
Ngài thường hay nói pháp,
Chư Thiên không ăn uống
Không ca hát cười vui
Đế Thích luôn sáu tháng
Trong tâm rất buồn lo.
A-tu-la khi nghe
Phật pháp không sáng tỏ
Nay chúng ta nên đi
Đến cõi Tam thập tam.
Các vua cõi Diêm-phù
Sẽ phá chùa tháp Phật
Trời, A-tu-la nhóm
Thời ấy sẽ như vậy.
Có các vị Tỳ-kheo
Phải đọa vào đường ác;
Cũng có Tỳ-kheo-ni
Rơi vào đường xấu ác
Người tại gia phá giới
Ưu-bà-tắc ở nhà
Nói ra lời thô ác
Sẽ hướng đến đường ác;
Có người nữ xấu ác
Đều cũng đọa đường dữ
Thế giới đều dao động
Thời ấy có việc này
Kẻ chạy vào xóm làng
Người chạy đến rừng sâu
Chúng sinh chạy tản má
Ít có kẻ sống sót.
Thời ấy nhiều giặc cướp
Và hoạn nạn đói khát
Ngũ cốc bị mất mùa
Do côn trùng phá hoại,
Lúa gạo giá tăng cao
Người sau khi mạng chung
Chết đọa loài ngạ quỷ
Ở đấy chịu khổ đau
Có tất cả chùa tháp
Vật chư Tăng bốn phương
Khi ấy các Tỳ-kheo
Sẽ cùng nhau phân chia.
Các sự khổ như vậy
Sau khi ta diệt độ
Họ sẽ nhanh chóng tạo
Khi ấy có tất cả
Các phàm phu vô trí
Do ngu, không trí tuệ
Sẽ làm việc phàm phu
Nhanh chóng đọa đường ác.
Nên siêng năng đọc tụng
Nếu từ tuệ xuất thân
Dùng tuệ dạy chúng sinh
Mau đến con đường lành,
Dùng tuệ sáng soi rõ
Cần nên học theo ta
Bỏ tất cả phiền não
Mau chóng đến Niết-bàn.
Chánh pháp không trụ lâu
Nên siêng năng tinh tấn
Ta chỉ dạy như vậy
Nên chân chánh tu hành!
Sau khi ta diệt độ
Trong sáu mươi tiểu kiếp
Có nghe danh hiệu Phật
Chẳng có ai quan tâm,
Cùng tụ họp với nhau
Bị đói khát bức bách
Ăn thịt cả mẹ con
Lần lượt giết hại nhau,
Nếu có sinh trẻ nhỏ
Không dám đến nhà khác
Trẻ chỉ ở trong phòng
Cũng còn rất sợ hãi,
Có thấy nghe việc này
Khổ sinh tử là vậy
Ai sống theo tham dục
Luôn dục tưởng người nữ,
Sống không biết trí tuệ
Gốc dục là người nữ
Sinh khởi nguồn gốc khổ
Vì vậy nên bỏ khổ.
Nếu chúng sinh si mê
Ham thân gần người nữ,
Nếu là bậc trí tuệ
Mau thành tựu Niết-bàn.
Tà vạy tạo nghiệp khổ
Quả báo liền ứng hiện,
Đây là quả hữu lậu
Nên bị đọa đường ác.
Nếu là pháp vô lậu
Không tạo không có nghiệp;
Nếu chưa được tĩnh lặng
Cần nên gấp tu hành.

Này Ca-diếp! Như vậy gọi là Tỳ-kheo thành tựu pháp ban đầu. Nếu phát tâm tu hành pháp vô lậu, thì không nên trụ vào tất cả các pháp để giảng nói tất cả các pháp.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát nên cương quyết trong công việc và vững tâm an trú.

Thế nào là cương quyết trong công việc và vững tâm trong an trú? Nên vững tâm và nên siêng năng tinh tấn.

Ở đây, thế nào gọi là vững tâm, là siêng năng tinh tấn?

Này Ca-diếp! Vững tâm là Bồ-tát nên khởi tâm như thế này: “Nên cúng dường chư Phật nhiều như cát sông Hằng, rồi sau mới phát khởi ý niệm hướng về nhất tâm.” Như vậy, tuy trong thời gian nhiều như cát sông Hằng ấy, không có một vị Phật nào xuất hiện, Bồ-tát cũng luôn phát khởi các tâm nói trên nhiều như cát sông Hằng. Dù được một thân, hay nhiều thân như cát sông Hằng, khi nghe được một câu Phật pháp, nên thực nghiệm lời pháp này để tăng trưởng trí tuệ đạt đến đạo quả Vô thượng, là Bồ-tát nên phát sinh tâm như vậy. Bồ-tát có ý niệm: “Nay ta nên tu hành các hạnh khổ khó thực hành, siêng năng cần mẫn tu hành trí tuệ của Đức Phật, ta nên tìm cầu như vậy.”

Này Ca-diếp! Bồ-tát nên vững tâm như vậy.

Này Ca-diếp! Ta sẽ nêu thí dụ, người có trí nhờ thế dụ mà hiểu rõ.

Này Ca-diếp! Nếu khổ hạnh như vậy sẽ được đạo quả Bồ-đề, thì trải qua số kiếp, nhiều như cát sông Hằng cũng không nên biếng nhác, siêng học không lười biếng, siêng học không dừng, trong vô số kiếp học đạo Bồ-đề.

Bồ-tát suy nghĩ: “Nay ta vững tâm quyết chí, nguyện không xả bỏ chánh đạo cao tột.”

Này Ca-diếp! Bồ-tát nên vững tâm như vậy.

Này Ca-diếp! Nếu có Bồ-tát vững tâm như vậy, thì không chấp chặt những gì?

Nghĩa là không chấp chặt nơi xứ, không chấp chặt nơi chẳng phải xứ.

Thế nào là không chấp chặt nơi xứ, không chấp chặt nơi chẳng phải xứ?

Nếu đối với xứ và phi xứ người ấy đều không chấp giữ, thì sẽ không chướng ngại đạo quả Vô thượng Bồ-đề, trái lại còn mau chóng thành tựu.

Này Ca-diếp! Giả sử có người đem bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới dùng để bố thí, có người khác lấy những kinh điển Như Lai đang diễn nói để làm con mắt chân chánh hướng đến giác ngộ, luôn suy nghĩ tìm cầu để nương tựa an trú, thì phước của người này có được nhiều hơn gấp bội người bố thí kia.

Này Ca-diếp! Bồ-tát nên vững tâm như vậy, cũng không được đối với sự vững tâm này mà không dừng dứt vọng tưởng.

Thế nào là nghiệp ban đầu? Là gây nhiều nghiệp từ ban đầu.

Thế nào là gây nhiều? Không thể cho rằng nơi một tâm hiểu biết mà gây nhiều nghiệp.

Vì sao vậy? Vì pháp này không thể dùng ngôn ngữ nói rằng, ở đây, sao lại thường gây tạo nhiều nghiệp lúc đầu được. Đó gọi là vững tâm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Chẳng phải tâm, tưởng tâm
Nên thường có sợ hãi
Ta sẽ thành, không thành
Việc này nên thế nào?
Vì thường sinh nghi ngờ
Nương theo các duyên cảnh
Tu tạo thành phương tiện
Làm sao được giác ngộ?
Bởi do tưởng biếng nhác
Không có tâm Bồ-đề
Bèn có các nghi hoặc
Hoặc Phật và Thanh văn,
Hy vọng mà không được
Phật pháp rất hiền thiện
Tuy không dùng âm thanh
Mà đạt được an lạc.
Có lòng tin mong muốn
Gom góp pháp thắng diệu
Chẳng phải ít tư duy
Mà được đạo thù thắng.
Trong tất cả các pháp
Nên nương vào một pháp
Trí giác được tăng trưởng
Tu hành là chứng đắc.

Này Ca-diếp! Khi nói pháp này, nếu có Bồ-tát thành tựu được hạnh tu mà không gặp Đức Phật, nên tự nguyện: “Ta sẽ thành Phật, Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Giác.”

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nên tu hành những gì để được giác ngộ?

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có ba nghiệp cầu đạo giác ngộ.

Những gì là ba?

  1. Có tâm mong muốn tu hành.
  2. Với Nhất thiết trí, không chấp trước hạnh tu của mình.
  3. Nên giữ gìn năm giới.

Đầy đủ ba phần này sẽ hướng đến sáu pháp. Sáu pháp là những gì?

  1. Được gặp pháp bậc Thánh.
  2. Các căn đầy đủ.
  3. Không bị đui, mù, câm, điếc.
  4. Thân không thô xấu.
  5. Mau đạt được tín tâm, không sợ pháp thậm thâm.
  6. Nghe pháp mau hiểu, liền được không thoái chuyển.

Nên đầy đủ sáu pháp này và cần biết rõ năm pháp chướng ngại.

Năm pháp chướng ngại là những gì?

  1. Nói hai lưỡi là chướng ngại cần biết.
  2. Không bao giờ nói dối.
  3. Là Bồ-tát, nên thấy chướng ngại của hư dối.
  4. Tham tiếc là chướng ngại, Bồ-tát không bao giờ tham tiếc.
  5. Nếu vướng vào tham dục là chướng ngại của Bồ-tát, nên không bao giờ tham dục.

Đó là năm pháp này làm chướng ngại.

Lại có ba pháp cần phải làm.

Thế nào là ba pháp?

  1. Thường có tâm muốn xuất gia.
  2. Đối với Sa-môn, Bà-la-môn trì giới, nên tôn trọng cung kính, theo các vị ấy để được chỉ dạy.
  3. Những người chấp tướng nói pháp, nên xa lìa. Vì sao vậy? Vì là việc Bồ-tát không nên học.

Bồ-tát không nên gánh vác công việc mà không thật lòng.

Vì sao vậy? Vì như vậy không phải là Bồ-tát.

Nếu gánh vác công việc mà không thật tâm, là học sự chướng ngại, không phải học tập Phật pháp.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát nên học ba pháp. Những gì là ba pháp?

  1. Chuyên tâm hướng đến thành tựu quả Phật.
  2. Nên tinh tấn chuyên cần tu tập đọc tụng.
  3. Đối với các chúng sinh, Bồ-tát thường tu hành tâm Tư.

Nên tu tập ba pháp như vậy.

Lại nên thân cận ba pháp.

Những gì là ba?

  1. Từ bỏ việc bắt bớ đánh đập.
  2. Không chê người khác là thấp hèn.
  3. Chúng sinh gặp cảnh sợ hãi, nên cứu giúp họ.

Ba pháp như vậy cần nên thân cận.

Đức Phật nói kệ rằng:

Không gần người thấp kém
Thấy kẻ không ngay thẳng
Đã thấy nên xa lìa
Như xa lánh rắn độc.
Không nên học theo họ
Cũng không nên lễ bái
Cần nên tránh thật xa
Như thấy loài chó dữ.
Người này đọa đường ác
Những kẻ chấp chặt tướng
Tu học theo người này
Sẽ đọa theo với họ.
Không nghi ngờ pháp không
Phật pháp đã được nghe
Tỳ-kheo vui pháp không
Nên cung kính vị này.
Nhờ đó thêm đa văn
Cũng sinh trưởng trí tuệ
Được gần đạo giác ngộ
Tất cả nên kính lễ.
Mau chóng thọ trai giới
Đã thọ siêng đọc tụng
Liền tăng trưởng trí tuệ
Như hồ mọc sen xanh.
Mau chóng thọ trai giới
Nên nghe nhiều Phật pháp
Để tăng trưởng trí tuệ
Dứt trừ các lậu hoặc.
Trí lớn càng tinh tấn
Oai đức lớn vô úy
Tu hành trước tự lợi
Sau cũng để lợi tha.
Không đánh trói cột người
Nên vui sống như thế
Trợ giúp việc giác ngộ
Giáo pháp không bị diệt.
Người này ít bệnh tật
Có thân hình đẹp đẽ
Được mọi người mến yêu
Càng mến mộ Phật pháp.
Nếu tu hành Từ tâm
Là Bồ-tát tại gia
Xa lìa các đường ác
Mau chóng được sinh Thiên.
Đã được sinh cõi trời
Năm dục tự vui sống
Từ cõi trời, khi chết
Sẽ không sinh đường ác,
Mà sinh vào loài người
Dòng quý tộc giàu có
Thân hình rất tốt đẹp
Không ai dám khinh khi,
Không cầu ai giúp đỡ
Người này siêng tu hành
Mau thấy pháp thù thắng
Chúng sinh đều mến mộ.
Khi ngủ được an lành
Khi thức cũng hoan hỷ
Không bao giờ sợ hãi
Được chư Thiên hộ vệ.
Như pháp quán phân nhơ
Bồ-tát hay quán sát
Ở đời cũng như vậy
Nói rộng ra cũng thế,
Sẽ được những người hiền
Ca ngợi và tán thán
Người sợ, bạn không sợ
Là Bồ-tát tại gia
Không thờ cúng chư Thiên
Không mến mộ cõi trời
Là con đường ngay thẳng
Người trí phải tu tập.
Do có căn lành này
Lìa tất cả đường ác
Tam minh, Nhất thiết trí
Khéo học ba điều răn,
Là chỗ tạo công đức
Nơi lễ bái phụng sự
Ai thấy cũng kính lễ
Người ở riêng đáng kính,
Là nơi tạo công đức
Chỗ lễ bái phụng sự
Khiến chúng sinh hướng thượng
Thấy lễ kính chư Phật,
Ở hoàn cảnh tại gia
Phát khởi tâm Bồ-đề
Việc này đáng tán dương
Nay nghe các pháp khác.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nên thành tựu ba pháp. Những gì là ba?

  1. Cần nên xa lìa hy vọng tốt lành.
  2. Là Bồ-tát tại gia nên sửa sang nhà cửa, để phòng ngừa các chướng ngại.
  3. Siêng tu tập, phải học rộng hiểu nhiều. Bồ-tát nên đầy đủ ba pháp này.

Lại có ba pháp nữa. Những gì là ba?

  1. Pháp sư nói pháp thông suốt không nên làm trở ngại.
  2. Nên ân cần cầu thỉnh Pháp sư nói pháp.
  3. Thường nên thắp sáng đuốc cúng dường, nên tu hành theo ba pháp này.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia không bao giờ làm ba pháp này, nếu tạo ba pháp này thì sẽ thành người nữ.

Những gì là ba?

  1. Không ngăn cản khiến mẹ không được nghe pháp và không ngăn cản khiến mẹ không được viếng thăm Tỳ-kheo, cũng như không ngăn cản vợ đến viếng Tỳ-kheo.
  2. Không nên cản trở, làm chướng ngại người muốn nghe pháp.
  3. Đối với người nữ, không nên bỏ việc chánh đáng mà làm việc sai quấy.

    Ba pháp này đều không nên làm. Nếu tạo nghiệp này sẽ đọa làm thân người nữ.

Đức Phật nói bài kệ rằng:

Nên đốt ngọn đèn sáng
Thường thường dùng tín tâm
Mắt không nhiễm trần cảnh
Để thành tựu Phật nhãn.
Đạo sư dùng mắt này
Thấy biết khắp tất cả
Nếu có được trí này
Thì sẽ được thật trí.
Biết pháp thời quá khứ
Thì hiện tại cũng vậy
Không nhớ tưởng đời sau
Chẳng tạo tác ba tướng,
Nếu có ba tướng ấy
Đều nên bỏ tất cả
Đều cùng đồng một nghĩa
Tướng tức chẳng phải tướng.
Phật nói các nguồn gốc
Thật pháp không nguồn gốc
Do kia không phân biệt
Được giác ngộ cao tột,
Đã thành tựu Phật nhãn
Đều thông suốt tất cả
Là câu nói giác ngộ
Như ở trên đã nói.
Đã nói pháp như vậy
Không phải pháp hủy hoại
Tất cả pháp là không
Nên gọi là nói pháp.
Các ngoại đạo tà kiến
Nói pháp cho tại gia
Như thắp ngọn đèn sáng
Người có mắt sẽ biết.
Không ngăn người nói pháp
Với pháp Thích Sư tử
Không đến với đường ác
Kịp giúp người mù tối,
Nên thường luôn khuyến thỉnh
Diễn nói pháp Thiện Thệ
Sử dụng căn lành này
Vận chuyển bánh xe pháp.
Nếu mẹ muốn nghe pháp
Ngăn cản làm trở ngại
Đọa thân nữ xấu ác
Đui gù rất thô xấu,
Không nhìn thấy hình sắc
Không nghe âm thanh hay
Chỗ ở rất tối tăm
Như rắn ở hang tối;
Tham lam, ganh với vợ
Hay làm việc chướng ngại
Khi thân hoại mạng chung
Sinh thân nữ tệ ác
Đầu vàng và mắt xanh
Đen điu thật khó nhìn
Da vàng chân cong queo
Điếc khùng không biết gì,
Với những chỗ như vậy
Kẻ ác mau nhận chịu
Đàn ông mà ganh ghét
Luôn tạo nhân tham dục.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia không nên làm ba việc. Ba việc ấy là những gì?

  1. Không nên dùng người nữ làm nhân duyên cho tham dục để họ bố thí sữa, sữa đặc và các vật dụng không đúng pháp.
  2. Nếu có người muốn xuất gia thì không nên ngăn cản, người chưa được xuất gia thì khuyến khích, hỗ trợ cho họ xuất gia.
  3. Nếu có người muốn xây dựng tháp Như Lai, thì nên khuyến khích, hỗ trợ chỉ dẫn, không nên cướp đoạt những vật liệu xây dựng ấy.

Như vậy là ba việc Bồ-tát tại gia không nên làm.

Đức Phật nói kệ rằng:

Không đem gái tặng người
Không làm điều phi pháp
Chưa cưới gặp nạn đến
Đều chẳng nên đem cho.
Họ nói đến kia xin
Chắp tay mà làm lễ
Cho rồi cũng nên cùng
Đem tâm lành hoan hỷ.
Còn nhỏ ở trong Tăng
Cho Tăng làm thị giả
Nếu có xin giúp đỡ
Nên hỗ trợ bé ấy.
Chớ quậy nước làm đục
Nếu có cùng nương ở
Không nên làm hại họ
Hoặc khởi tâm sân giận.
Có người muốn xuất gia
Là con hoặc thân quyến
Việc này đối Bồ-tát
Sẽ không làm chướng ngại,
Khiến chúng sinh đều vui
Chứng đắc vào diệt độ
Ta đây vốn mong muốn
Nói pháp Đấng Vô Thượng,
Biết những việc đã qua
Không làm cho thêm xấu
Đêm dài không còn lo
Bị phiền não nhiễm ô.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia còn có ba pháp không nên làm, ba pháp ấy là gì?

  1. Không nên mua bán con trai.
  2. Không nên mua bán con gái.
  3. Không nên phổ biến chất độc hại, nếu có người làm ra chất ấy, chớ nên thân cận.

Đức Phật nói kệ rằng:

Bỏ việc mua con trai
Không mua bán con gái
Không phổ biến chất độc
Người làm cũng lánh xa,
Chư Thiên trách việc này
Chúng sinh bị khổ não
Tùy theo các phương diện
Mũi tên khổ làm hại.
Trong đêm dài lo âu
Bị quá nhiều khổ đau
Chấm dứt khi mạng chết
Vì vậy không nên làm,
Lỗi này và các lỗi
Ta biết chỗ tạo ra
Nay nêu lên một ít
Vì để được giác ngộ.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia không nên làm ba việc, ba việc ấy là những gì?

  1. Không đến nhà dâm nữ.
  2. Đối với nam hay nữ không phạm vào sự bất chánh.
  3. Không nên ở gần chỗ giết trâu bò.

Ba việc như vậy, Bồ-tát tại gia không nên làm. Đức Phật nói bài kệ rằng:

Không đến nhà dâm nữ
Kẻ xấu ác tham dục
Vì vậy không đáng kính
Do gần dục thấp hèn,
Làm thầy đi đến đây
Sẽ bị người khinh khi
Bệnh hoạn đến mau chóng
Chịu như vậy trọn đời.
Nam nữ không chân chánh
Cả hai đều không gần
Người nữ không hoan hỷ
Sao lại xúc phạm họ,
Chỗ giết hại trâu bò
Đều không nên đến đó
Vì chỗ không thích hợp
Bồ-tát là phải vậy.
Các lỗi lầm như thế
Đức Phật đều đã biết
Là việc làm bất chánh
Nay nêu bày rõ ràng,
Đức Phật nói một ít
Chúng Thanh văn nên biết
Nay đối trước Đức Phật
Làm sao đừng để quên,
Chúng sinh tin Hiền thánh
Muốn mau đạt Niết-bàn
Vì vậy nên ta nói
Không là người khó dạy.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nên thành tựu ba việc. Ba việc đó là những gì?

  1. Trong nhà nên đối xử với nhau như khách, không có tưởng chấp ngã.
  2. Nếu đã có bố thí cho ai thì nên khởi tưởng gom góp công đức.
  3. Với những người ta chưa bố thí giúp đỡ nên nghĩ vì ta xa họ hàng ngàn do-tuần, không có tưởng vì vợ con mà cất chứa vật báu.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nên thành tựu ba điều trên. Rồi Phật nói bài kệ rằng:

Nên quán tưởng sự chết
Không lâu ta sẽ chết
Vì vậy vật cất chứa
Tiền của ấy không bền.
Nam nữ có việc riêng
Không nên vì lợi ấy
Bỏ thân mạng tài vật
Mau chóng cầu pháp bền.
Chú trọng muốn giác ngộ
Không coi thường việc này
Mong được lợi ở pháp
Nên phải thường chế phục.
Giống như bé gái giỡn
Cũng như lóe sáng hiện
Không tham đắm mùi vị
Người cầu pháp cũng vậy,
Đọc tụng không dừng nghỉ
Pháp lành trang nghiêm
Khó có thể tu tập
Với tất cả chúng sinh.
Pháp tướng tợ như vậy
Ca-diếp, ta đã nói
Nếu có người thông lợi
Ta sẽ biết người này,
Kia biết đã hiểu rõ
Tự mình rất thông suốt
Người này đến lúc ấy
Thường được gặp gỡ ta.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia thành tự ba việc sẽ không bị thoái thất sự tiến tu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những gì là ba?

Cha mẹ chưa tin Tam bảo phải khuyến hóa khiến cha mẹ, có niềm tin; cha mẹ hủy giới cấm của Phật nên khuyến khích cha mẹ giữ giới; cha mẹ tham tiếc nên khuyến khích để cha mẹ biết bố thí, tán thán đạo quả Vô thượng. Ở trong đại chúng vì cha mẹ diễn nói chánh pháp. Đây gọi là pháp ban đầu, Bồ-tát tại gia sẽ không thoái chuyển đối với đạo quả Vô thượng chánh chân.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nên biết rõ vị đáng cúng dường và người không đáng cúng dường, nếu đã biết rõ, những vị đáng cúng dường thì nên thiết trai cúng dường, người không đáng cúng thì không nên cúng, nhưng đối với các vị ấy nên tu tâm Từ bi. Này Ca-diếp! Như vậy gọi là pháp thứ hai làm cho Bồ-tát tại gia không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng chánh chân.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có của cải là do siêng năng cực khổ dành dụm, vì vậy không nên để thất thoái mất mát hết, không đem cho người khác, mà nên cất để vào nơi chắc chắn để bố thí các vị Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới thanh tịnh, bình đẳng khắp bờ cõi thôn ấp, đem tiền của bố thí không làm phiền tất cả các vị tu hành thanh tịnh. Này Ca-diếp! Đây là pháp thứ ba khiến Bồ-tát tại gia không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng chánh chân.

Đức Phật nói kệ rằng:

Nếu Bồ-tát tại gia
Tu giác ngộ cao tột
Sinh khởi ba món tuệ
Để học đạo Vô thượng,
Nếu là cha hay mẹ
Ác tuệ không niềm tin
Khuyên cha mẹ tin kính
Khiến hướng đến thắng pháp.
Nương giới bỏ tham lam
Không tuệ phát tín tuệ
Hướng giác ngộ cao tột
Khuyến mong đến chỗ ấy,
Nếu đi khắp bốn phương
Cầu người khéo nói pháp
Nên thực hành pháp thí
Để tăng trưởng trí tuệ.
Phạm giới khuyên giữ giới
Người không tin khuyên tin
Không tuệ dạy phát tuệ
Người này không thoái chuyển,
Thấy Tỳ-kheo trí tuệ
Người trì giới nghe nhiều
Nên thân cận cung kính
Luôn được thưa hỏi pháp.
Do thân cận Tỳ-kheo
Thường thường được học hỏi
Nhanh chóng thấu hiểu pháp
Vì vậy không thoái chuyển,
Trí tuệ được tăng trưởng
Biết người trí ở đâu
Trí tuệ đã tăng trưởng
Xả thân để cúng dường.
Đây là tướng tin hiểu
Như ta đã giảng nói
Không thể không lòng tin
Mà hướng đến giác ngộ,
Lần lần thấy tăng thêm
Mau chóng được tăng trưởng
Tất cả lợi ích này
Người kia được không khó.
Đã được thêm lợi ích
Cho mình và cho người
Vui vẻ cùng hướng tới
Trí người này tăng trưởng.
Tùy khả năng kinh tế
Vốn sẵn có trong nhà
Có các vị trì giới
Đem dâng cúng tất cả,
Không nghe lời sai quấy
Cũng không nói quái lạ
Quyết tâm thực hành thí
Mau đạt thành Như Lai.
Nhu hòa dễ ở chung
Người nội lực hiền từ
Vui vẻ xả bỏ hết
Trước sau đều như vậy,
Là thí chủ dũng mãnh
Không mong cầu ở người
Người bố thí bậc nhất
Tất cả đều buông bỏ
Hoặc vàng bạc và tiền
Suốt đời đã bố thí
Mong cầu pháp Vô thượng
Cầu cao tột nhiệm mầu,
Cõi trời và thế gian
Cùng nhau chuyên cúng dường
Gặp người cầu giáo pháp
Thảy đều nên cúng dường,
Người Dũng mãnh tu tập
Dùng pháp làm mạng sống
Có trí tuệ thắng pháp
Người đang cứu thế gian.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có ba pháp, khiến đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi lại còn rơi vào cảnh giới Niết-bàn của Thanh văn. Ba pháp đó là những gì?

Nếu chỉ một lần tạm thời phát tâm Bồ-đề, lại sợ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đối với đạo giác ngộ cao tột khởi tư tưởng cho là gánh nặng, mà mong cầu các pháp lành khác, không chuyên tâm suy nghĩ, không ưa căn lành cao tột, người này bị tâm ý làm hại, vì có tưởng về khổ. Này Ca-diếp! Đây là pháp ban đầu khiến Bồ-tát tại gia thoái tâm tu đạo cao tột liền rơi vào Niết-bàn của Thanh văn. Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nếu tạm phát tâm Bồ-đề, khi ra thực hành bố thí lòng sân hận phát khởi, sau đó hối hận, thì người này không thể thành tựu trí của Phật. Này Ca-diếp! Đây là pháp thứ hai khiến Bồ-tát tại gia thoái tâm Bồ-đề, liền bị rơi vào Niết-bàn của Thanh văn.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nếu tạm phát tâm Bồ-đề, không siêng năng tinh tấn tu tập học rộng hiểu nhiều, thì người này chỉ có một ít căn lành mau vào Niết-bàn. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ ba khiến Bồ-tát tại gia thoái tâm Bồ-đề. Đức Phật nói kệ rằng:

Đã phát tâm Bồ-đề
Không tu hạnh chân chánh
Làm hủy hoại Phật thừa.
Rơi vào Thanh văn thừa
Biếng nhác không niềm tin
Sẽ không được giác ngộ
Tham tiếc không trí tuệ
Đó cũng là chướng ngại.
Biết ân tu tịnh giới
Tâm thường ưa hành xả
Khi xả tâm hoan hỷ
Sẽ mau được giác ngộ.
Tâm tạo các việc ác
Tâm cũng hay bố thí
Chúng sinh tâm vững chắc
Thế gian đáng xây tháp,
Nếu không bỏ Phật pháp
Tâm hướng đến giác ngộ
Sẽ làm Phật ở đời
Làm ruộng phước cho người.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có ba pháp làm thoái thất tâm Bồ-đề, rơi vào Niết-bàn Duyên giác để nhập Niết-bàn. Những gì là ba?

Là Bồ-tát tại gia đã phát tâm rồi mà còn ham ưa pháp bí mật. Này Ca-diếp! Đó gọi là pháp ban đầu khiến Bồ-tát tại gia bị thoái thất tâm Bồ-đề rơi vào Niết-bàn Duyên giác để nhập Niết-bàn.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia đã phát tâm rồi, mà còn hy vọng giờ tốt, cầu tìm ngày tốt. Này Ca-diếp! Đó gọi là pháp thứ hai khiến Bồ-tát tại gia bị thoái thất tâm Bồ-đề rơi vào Niết-bàn Duyên giác để nhập Niết-bàn.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia biếng nhác; không siêng năng cần cầu cách trợ giúp cho tâm Bồ-đề. Này Ca-diếp! Đó gọi là pháp thứ ba khiến Bồ-tát tại gia bị thoái thất tâm Bồ-đề rơi vào Niết-bàn Duyên giác để nhập Niết-bàn.

Đức Phật nói kệ rằng:

Tham ưa pháp bí mật
Không giáo hóa người khác
Rơi vào địa Duyên giác
Là thoái thất Bồ-đề.
Ba pháp thoái thất này
Mất lợi lại bị khổ
Dù quá khứ, hiện tại
Do nghi tâm Bồ-đề.
Đã nghĩ về Đại thừa
Còn hy vọng tốt lành
Không phải người tin hiểu
Chớ thân cận kẻ này.
Nếu đã rất chuyên tâm
Quyết cầu đạo giác ngộ
Không lễ lạy nhiều chỗ
Chỉ trừ lễ tháp Phật.
Nếu có tâm kính tin
Không sinh làm chư Thiên
Cũng thành tựu quả lành
Gọi Đấng Thiên Trung Thiên.
Đã phát tâm Bồ-đề
Không cúi lễ kẻ khác
Thân người này tốt đẹp
Dù sinh ra ở đâu.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có ba việc khiến sắc thân rất đen.

Những gì là ba việc?

  1. Làm cho đèn bị tắt, tối đen trong điện tháp thờ Phật.
  2. Thấy có người khác tranh cãi liền giận. Không liên quan đến việc của riêng mình mà vẫn ưa thay người khác tranh cãi kiện tụng.
  3. Thấy người thân sắc đen có ý khinh chê.

Này Ca-diếp! Đây gọi là Bồ-tát có ba việc khiến sắc thân rất đen. Phật lại nói kệ rằng:

Trong tháp đốt đèn sáng
Nếu tắt ánh sáng ấy
Kẻ kia thân bị đen
Giống như hòn đá đen.
Thấy người thân đen xấu,
Ta trắng ngươi quá đen
Là khinh chê người khác
Bị thân đen như than!
Khéo giữ gìn khẩu nghiệp
Tạo nghiệp sẽ không mất
Tùy nghiệp mình đã tạo
Sẽ chịu quả như vậy.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có ba việc sinh vào nhà thợ thuyền. Những gì là ba?

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia phát nguyện thọ năm giới, nếu có người quen biết từ xa trở về tặng rượu mời uống, hoặc dùng rượu để mời người khác uống. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ nhất khiến Bồ-tát tại gia sinh vào nhà thợ thuyền.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia tự nguyện giữ hạnh thanh tịnh, lại cùng với người làm việc tham dục, do nghiệp này nên sinh vào nhà thợ thuyền. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ hai khiến Bồtát tại gia sinh vào nhà thợ thuyền.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nếu thấy người khác hăng hái làm việc pháp, siêng năng đọc tụng kinh điển, người này lại muốn làm đền thờ trời thần. Đã là Bồ-tát mà nói với người ấy rằng: “Ngươi nên bỏ việc đọc tụng làm việc này xong rồi tụng tiếp!”, do tạo nghiệp này nên sẽ sinh vào nhà thợ thuyền.

Đức Phật nói bài kệ rằng:

Dùng rượu mời người uống
Và cùng người quen biết
Đem rượu để chiêu đãi
Nghiệp này đọa làm thợ.
Không làm được dao kim
Và các việc tinh xảo
Chỉ biết ngồi ở đó
Dọn đồ nghề vào túi.
Bỏ bê vợ ở nhà
Cùng người bàn dâm dục
Quả báo tạo nghiệp này
Thác sinh nhà thợ thuyền.
Rèn không được dao kim
Không biết dùng đồ nghề
Dạy cầm búa gõ đập
Tập rèn những cái đinh,
Do việc chướng ngại này
Khiến xa bỏ Phật pháp
Sinh vào nhà thợ thuyền,
Người sinh vào nhà này
Không thấy biết đồ nghề
Không thấy búa kìm gắp
Đồ dùng bị phá hoại
Nghiệp báo phải như vậy.
Ca-diếp, giữ khẩu nghiệp
Và giữ gìn ý nghiệp
Tất cả pháp bất thiện
Không nói với người khác,
Sinh tử chịu các khổ
Lại tăng trưởng thêm ái
Vì vậy siêng tu hành
Bỏ tất cả việc ác.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia thành tựu ba pháp này thì được sinh vào cung vua, thân thể đặc biệt, đoan chánh đáng yêu, da dẻ hồng hào sáng sủa, không biếng nhác, lại thông minh sáng suốt.

Những gì là ba?

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia chưa từng thấy Sa-môn, Bà-la-môn nếu đã được thấy liền tin tưởng cung kính, biết đây là ruộng phước, người đáng cúng dường, người nên cung kính làm lễ. Do biết là ruộng phước nên tin kính, rồi lại thỉnh mời xin cúng y phục, thực phẩm, đồ nằm và các loại thuốc trị bệnh. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ nhất khiến Bồ-tát tại gia được sinh vào cung vua.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia vững tâm an trú vào lời nguyện của mình, khi an trú vào lời nguyện của mình như lời nói mà an trú, sẽ không nói dối. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ hai khiến Bồ-tát tại gia được sinh vào cung vua.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia đối với các Sa-môn, Bàla-môn thanh tịnh, thân cận thưa hỏi tu tập theo giáo pháp rất vững chắc. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ ba khiến Bồ-tát tại gia được sinh vào cung vua.

Đức Phật nói kệ rằng:

Người trí thấy đã biết
Người thanh tịnh đa văn
Liền sinh khởi ý niệm
Đi đến cầu chỉ dạy.
Đã được chỉ giáo rồi
Như thật mà tu hành
Là không vì Niết-bàn
Thực hành không chướng ngại.
Đã được pháp chắc thật
Thường thân cận vị này
Trí tuệ cần tăng trưởng
Nhanh đạt điều khó được.
Có niềm tin như vậy
Mà hướng đến Bồ-đề
Được giác ngộ không khó
Như người trí đã làm.
Có đời sống tốt đẹp
Bỏ tiền tài vật chất
Tu tập pháp thượng diệu
Chứng tịch diệt cao tột.
Thường sinh dòng quý tộc
Có sắc thân đẹp đẽ
Mặc y phục quý tốt
Được Niết-bàn tối thượng.
Biết được pháp như vậy
Người có trí thông tuệ
Tu hành không khiếp nhược
Như Phật đã giảng dạy.
Chí hướng thừa tối thắng
Người đạt thừa thù thắng
Diệt tất cả kết sử
Như quả tối thượng kia,
Như nghiệp đã tạo tác
Quả báo cũng như vậy
Trước sau đều không mất
Dù qua ngàn muôn kiếp.

Này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia, tuy ở tại gia cũng thành tựu ba pháp, nếu có gieo trồng căn lành này, sẽ không hưởng thụ sự vui của năm dục, cho đến sẽ đạt được Chánh đạo vô thượng.

Này Ca-diếp! Là Bồ-tát tại gia đã thọ trì năm giới thì không khen ngợi cái vui của năm món dục với người khác, không dụ dẫn người nữ, tự mình siêng tu khởi ý nghĩ: “Ta không nên thân cận người nữ.” Người này sẽ không ham muốn thú vui năm dục, cho đến sẽ thành tựu Chánh đạo vô thượng. Này Ca-diếp! Đây là pháp thứ nhất của Bồ-tát tại gia, sẽ không tham thú vui của năm dục và sẽ thành tựu Chánh đạo vô thượng.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nếu nghe kinh điển nhiệm màu, thì có niềm tin thanh tịnh để tu tập. Này Ca-diếp! Nếu kinh điển này truyền đến chỗ chẳng có người tài giỏi, thì họ cần được khuyến khích giúp đỡ.

Này Ca-diếp! Thiện nam này có thể làm cho người khác xả bỏ tâm nghi ngờ, thì Bồ-tát do căn lành có được biện tài vô ngại, được biện luận thông suốt, dù đang sống hay mạng chung, cũng mau được thấy Phật, sau khi qua đời được sinh lên cõi trời, không bao lâu nữa sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Ca-diếp! Đây gọi là pháp thứ hai của Bồ-tát tại gia, khiến vị ấy sẽ được Chánh đạo vô thượng, không thọ năm món dục.

Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có căn lành, thảy đều hồi hướng đến Chánh đạo vô thượng, không vui theo ngoại cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không ham tiền của, không ham tự do, không ham quyến thuộc; phát tâm tu pháp vô lậu sẽ được quả báo vô lậu, mau thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không thọ thú vui của năm món dục. Này Ca-diếp! Đây là pháp thứ ba của Bồtát tại gia không ham hưởng thọ thú vui của năm món dục, cho đến thành tựu Chánh đạo vô thượng.

Đức Phật nói kệ rằng:

Tại gia giữ năm giới
Khéo hộ trì giữ gìn
Không thích gần người nữ
Lìa bỏ chỗ thấp hèn
Pháp tương tợ như vậy
Cố tu tập vô lậu
Nếu có ai nghi ngờ
Khuyên dạy mau hiểu rõ.
Tất cả các căn lành
Đều hồi hướng giác ngộ
Do các căn lành này
Mau bỏ vui năm dục,
Có khả năng đa văn
Vì chúng sinh nói pháp
Phát khởi tâm đại Bi
Thành tựu đạo Bồ-đề,
Đã được nghe kinh này
Sinh ý muốn tốt lành
Không còn gần tham dục
Mau chuyển bánh xe pháp.

Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh pháp này đặt tên là gì, để chúng con cùng nhau thọ trì.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

–Kinh này tên là Phật nói ba điều răn cho Bồ-tát cũng gọi là Đức Phật giảng nói về điều răn cấm Bồ-tát cũng gọi là Gom góp tất cả giáo pháp của Đức Phật.

Đức Phật giảng nói kinh này rồi, Đại đức Ma-ha Ca-diếp và tất cả đại chúng Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà… nghe Phật giảng nói đều rất hoan hỷ.