DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 22
(Phần Đầu)
BẢN LUẬN QUYỂN 82
Trên đây, đã giải thích bốn đoạn trước trong bảy đoạn xong. Nay, giải thích đoạn thứ năm, yên định người khác, để cho họ lắng nghe, tức là: 1- Nói thể của giáo; 2- Nói, giải thích Phép tắc; 3- Nói về đức của sư thuyết pháp đã thành.
Kế là, nói ở trong năm chúng mà nói các pháp, đã ở trong chúng nói pháp, yên định người kia, khiến trụ cung kính, không có lắng nghe trái ngược. Đầu tiên, tăng từ một đến mười, là nói về nhân lắng nghe. Hoặc có lợi ích chẳng phải bốn trường hợp như yên vui v.v…, như Bồtát địa nói:
Lợi ích chẳng phải an vui: Như khổ hạnh giữ giới hiện tại; An vui chứ chẳng phải lợi ích, nghĩa là đang được niềm vui nhiễm, gọi là yên vui, mà thể chẳng phải thiện, vì không chiêu cảm lợi ích cho đời sau.
Lợi ích đều có: Lạc thọ tương ưng với tu hành điều thiện v.v….
Câu phi: khổ thọ tương ưng với thực hành sát sinh v.v….
Hai nhân: 1- Thiện, pháp kiến lập. 2- Có quả vượt hơn.
Mau chứng giải thoát, rất sâu xa rộng lớn, tức là chân như.
Dường như rất sâu: Tức là “hai không”. “Hai không” là môn chứng chân như, nên gọi là dường như.
Các pháp duyên khởi: chân như và “hai không” đều do pháp nhân duyên làm sáng tỏ, nên luận nói: “Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là “không”. Dứt trừ năm pháp, năng tu bảy pháp: Dứt trừ năm cái, tu bảy giác. Tất cả pháp tập, đều thành pháp Diệt: nghĩa là nghiệp phiền não v.v… gọi là pháp tập. Do nghe pháp nên đều trừ diệt.
Đoạn thứ sáu trong bảy đoạn, giải thích khen ngợi Phật lược, rộng, trong đó: 1- Nêu chung, lập chương; 2- Giải thích riêng, trước lược, sau rộng. Trong lược có hai: Trước, y cứ năm tướng để nói về ca ngợi Phật.
Sau, y cứ vào sáu tướng để nói.
Lìa nhiễm dơ bẩn, nghĩa là lìa triền nhơ.
Không có ô uế vẩn đục, nghĩa là lìa sử, tùy miên. Lại, trước lìa phiền não, sau, lìa nghiệp.
Trong khen ngợi Phật lược, rộng có mười bốn đoạn:
- Khen ngợi sáu đức.
- Khen ngợi bốn đức.
- Khen ngợi năm đức.
- Khen ngợi sáu đức.
- Khen ngợi bảy đức.
- Khen ngợi tám đức.
- Khen ngợi tám đức.
Nói ba vắng lặng: là Thân, ngữ, ý vắng lặng.
- Khen ngợi mười hiệu.
- Khen ngợi hai mươi hai đức.
- Khen chung, riêng.
Năm đức: La-hán là chung, bốn trí là riêng.
1. Khen sáu đức, trong đó, Luận sư Cảnh nói: “ Dứt trừ hẳn năm chi: là dứt trừ năm kiết phần trên. Thành tựu sáu chi: là thành sáu pháp thường trụ. Niệm, Tuệ và Xả thường khởi đối với môn sáu thức.”
Pháp sư Khuy Cơ nói: “Dứt trừ năm chi, nghĩa là dứt trừ năm phần trên và năm phần dưới.
Thành tựu sáu chi: Là thành tựu sáu niệm. Lại thành tựu, tức sáu chi đã hiện hành. Quyển ba mươi bốn thọ ký, giải thích như ở trước. Nay, y cứ Kinh A-hàm nói: “quả La-hán dẹp bỏ năm cái, giữ gìn sáu trụ, được một thân niệm, hàng phục bốn ma v.v…, nhưng ở trong đây lại khen sáu đức kia:
- Dứt trừ năm Cái.
- Thành sáu hằng trụ.
- Giữ gìn bốn niệm trụ.
- Hàng phục bốn ma.
- Chứa nhóm điều thuần thiện.
- Trượng phu là trên hết.
- Khen ngợi bảy đức.
- Khen ngợi chín đức.
- Khen ngợi tám đức.
Trên đây, là ca ngợi đức. Hoặc có khi rộng, trước, lược khen đức. Hoặc có khi than thở riêng không nói đức trong lược qua. Tìm văn sẽ hiểu.
Đoạn thứ bảy, trong bảy đoạn, là giải thích thắng lợi của học, trong đó văn chia làm hai:
1/ Dựa vào thể để giải thích, vì của đại chúng nói pháp năm phần.
2/ Nêu thắng lợi của học, giải thích theo thứ lớp của văn kinh.
Ở trước nói: “Các sư nói pháp cho đến” hoặc văn, hoặc nghĩa” Trước là phải tìm sáu trong văn, mười trong nghĩa, để cho khéo thông đạt, tức là thấu suốt thể của pháp trước.
“Lại nữa, cho đến giảng nói chánh pháp”: Nhắc lại pháp trong giải thích, khởi vấn nạn về nghĩa. Kế là nói về đạo lý của năm thứ giải thích, nên gọi là vì người khác chuyển năm thứ thích. Đây là nêu thể trước và giải thích chung làm một.
“Lại, nên an lập thân mình như thế cho đến” mười thứ viên mãn”, đây là thứ hai, nói về đức của vị sư kia. Quyển trước nói: “Sư, là người thành tựu mười pháp v.v… cho đến nói rộng”.
Như thế, tự an lập rồi, nên vì chúng nói pháp. Kế là, nói thứ ba nói về chúng, ổn định chỗ ở cho người khác, để họ trụ cung kính, lắng nghe không có trái ngược là thứ tư, yên định nơi chúng nghe.
Lại, nên trước hết, khen ngợi công đức của Đại sư. Đây là thứ năm, khen đức lược rộng.
Năm phần nói chánh pháp như thế, nghĩa là như năm phần âm nhạc sinh ra sự mừng vui của mình, người. Lại có thể dẫn phát lợi ích của mình và mọi người. Đây là thứ sáu, nói về thắng lợi của học. Ở phần thứ ba của đầu quyển trước, giải thích về kệ để làm sáu phần. Theo văn ở chỗ này, nên tạo ra sự phán quyết này.
Nói “Nếu khéo tu học như thế xong. Phải biết rằng, đã đầy đủ năm thắng lợi, tức năm phần ở trước, nói là trong mỗi phần đều có đủ năm điều lợi. Cũng có thể năm phần được riêng một điều lợi:
1. Do thông suốt giải thích thể, nên đối với nghĩa Phật nói, hiểu rõ ràng, không khó.
2. Do đức của sư có thể khéo viên mãn nói các pháp tướng.
3. Do ở chúng nói pháp, nên khéo khởi phát niềm hoan hỷ rộng lớn cho mình và người.
4. Có thể yên định chúng nghe, khéo dẫn phát xuất ly, cho đến ngợi ca đầy khắp trong cõi người, trên cõi trời.
5. Do khen ngợi rộng, lược đức Phật, có thể sinh vô lượng công đức.
Dưới đây là đoạn thứ hai, nêu thắng lợi của Học, giải thích rộng.
Trong kinh có bốn trường hợp:
- Các thầy Tỳ-kheo phải an trụ thắng lợi tu học, đây là giới học.
- Tuệ đứng đầu.
- Giải thoát vững chắc.
- Niệm là tăng thượng.
Như bốn câu này trải đủ môn trong văn, giải thích theo thứ lớp: Đầu tiên, là dựa vào thể, kế là, dựa vào môn giải Thích.
Trong phần trước, trước chung, sau riêng. Lại nữa, như trong kinh nói “Thắng lợi của trụ học, phải biết rằng, lấy nghĩa của văn kinh này làm thể, văn này là chung. Dưới đây là phân biệt riêng, trước văn, sau nghĩa:
Nói văn, nghĩa là kinh này nói: “Các thầy Bí-sô! Phải biết thắng lợi của an trụ tu học”. Đây là nói về giới học v.v….
Nói “Trong đây có mười hai chữ”: Số chữ của các thầy có mười hai chữ.
Bốn danh, một câu: “Các thầy Tỳ-kheo”, là một danh. “Cần phải an trú” là danh thứ hai. “Tu học” là danh thứ ba, tức ba học. “Thắng lợi” là danh thứ tư, bốn danh dù khác nhau, nhưng đồng nói về một giới học, gọi là một câu. Như thế, tức gồm thâu danh, câu, chữ, thân, nghĩa là lúc nói một câu bốn danh, mười hai chữ giới học này, tức gồm thu danh, câu, chữ, thân của ba văn trước trong sáu văn.
Nói “Ngôn thuyết” trong đây tương ưng với danh, câu, chữ, là nơi chốn học là tướng đương tâm, tức thuộc về hành tướng.
Nói “Lời Đức Như lai nói, vốn vì Tỳ-kheo thưa hỏi, nghĩa là kinh kia đã nói: “Các thầy Tỳ-kheo v.v… ”.
Nói “Tức là vốn vì Tỳ-kheo, và đức Phật nói giới học này”, tức là căn cơ thưa hỏi.
Ngôn âm, mà đức Như lai đã nói, tức thuộc về ngữ. Cho nên một câu kinh này có đủ sáu văn, phải biết.
Như trong các câu “Tuệ là đứng đầu”, v.v… đều tùy tương ưng mà biết, như kinh ấy nói tuệ là đứng đầu nên thuộc về bốn danh, một danh, một câu cũng có hành tướng, căn cơ thưa hỏi và ngữ. Nếu nói giải thoát vững chắc thì niệm là tăng thượng, cũng thuộc về sáu văn, tùy theo tướng, nên biết.
Dưới đây, đem bốn câu kinh. Trải qua môn nghĩa đế nói. Nghĩa có mười môn. Văn trong đây có tám đoạn. Đầu tiên, là y cứ ở địa để nói, nghĩa là chỉ nói Địa Thanh văn trong nghĩa của địa: “Trước, là nói về mười bảy địa. Nay nói “Chỉ nói địa Thanh văn trong nghĩa của địa, nghĩa là vì kinh kia nói: “Bảo các Tỳ-kheo” vì nói câu này, nên biết chỉ là địa Thanh văn, hoặc đủ năm địa, nghĩa là nếu y cứ năm địa để nói về bốn câu này, thì bốn câu này đủ năm địa. Kinh nói “Thắng lợi của Học, là địa tư lương”: là ngắc lại giới học là địa Tư lương, tuệ làm thượng thủ, là địa Gia hạnh, nghĩa là tuệ tạo nên mười sáu hạnh ở trong địa vị như Noãn v.v…. Giải thoát vững chắc, niệm làm tăng thượng là Kiến địa, Tu địa, rốt ráo địa. Hai đạo kiến, Tu dứt trừ “hoặc” đều được giải thoát. Niệm nghĩa là Kiến đạo có niệm giác chi. Tu đạo có chánh niệm. Mười chi vô học, của địa Rốt ráo, cũng có niệm, cũng có giải thoát, không mất mát.
“Là gọi Nghĩa của Địa”, nghĩa là kết.
Thứ hai, là y cứ vào tướng để nói. Thắng lợi của Học trong nghĩa tướng là tự tướng của giới v.v… Kinh ấy nói về nghĩa tướng, có ba thứ năm: Đầu tiên, năm như tự v.v…. Kế là, năm như dị môn v.v… sau là năm như “sở thuyên” v.v…
Nay, trong văn này, chỉ y cứ vào tự tướng, cộng tướng của môn đầu, để phân biệt bốn câu.
Nói “Thắng lợi của Học: là tự tướng của giới, giới là sắc pháp, không có tương ưng, cộng hữu, cho nên chỉ có tự tướng, tuệ làm thượng thủ: Đủ hai thứ tướng, nói là đối với tự tướng của tuệ, nghĩa là thể của tuệ là tự tướng. Sở duyên giúp đỡ của sở y, gọi là cộng tướng: Sở y là căn, giúp đỡ là tâm pháp sở còn lại đồng thời. “Sở thuyên” là tướng theo cảnh, vì đều gọi là tuệ, nên là cộng tướng.
Giải thoát vững chắc: xác thực là tự tướng của giải thoát: Giải thoát là trạch diệt, trạch diệt là diệt “hoặc” kia chỉ là tự tướng. Niệm là tăng thượng, là tự tướng của niệm: Niệm là tâm sở tương ưng, cũng chỉ thuộc về tự tướng.
Kế là y cứ tác ý thứ ba v.v…, nói là thắng lợi của Học, nghĩa là chẳng phải các tác ý chỉ làm rõ tác ý, kiến lập nơi chốn, đây là nói giới học chẳng phải bảy tác ý, chỉ là nơi chốn của “sở y” của tác ý, vì dựa vào giới mà tu tác ý.
Tuệ làm thượng thủ: Nên biết tác ý thắng giải của tướng liễu, nghĩa là hai tác ý thắng giải, chỉ có đạo phương tiện.
Tuệ làm thượng thủ. Ở trước y cứ vị trong địa ở địa Gia hạnh, tức là phần xa. Cho nên chỉ tức hai tác ý thắng giải của tướng liễu.
Giải thoát vững chắc, nghĩa là “hiển bày cho đến “tác ý quả”: Đối Pháp v.v… nói “Xa lìa là đoạn vô ngại phẩm thượng, gồm cả đoạn vô ngại phẩm hạ. Tác ý của quả phương tiện, rốt ráo là đạo giải thoát.Nay, nói giải thoát vững chắc là Trạch diệt vô vi. Do được đạo vô ngại, giải thoát nên nói “Chỉ bày”. Thắng giải tướng liễu là đạo phương tiện. Tác ý quán sát là đạo Thắng Tấn. Với giải thoát vững chắc kia vì không có công năng, nên không nói hiển bày.
“Niệm làm tăng thượng”, phải biết đây là nói về tác ý quán sát, nghĩa là thể của niệm chỉ ghi nhớ sự “hoặc” đã dứt trừ, chưa dứt trừ, vì đồng với sự sở duyên của tác ý quán sát, nên đồng làm rõ nhau. Do lý này, nên tùy kiến lập trong trí v.v…, nghĩa là thắng lợi của Học, kết bốn câu được giải thích. Nên tùy kiến lập trong mười trí v.v… Đẳng, nghĩa là đẳng thủ, sáu thức, chín biến tri, ba môn giải thoát. Tuệ làm thượng thủ trong mười trí, thích hợp vớ đẳng trí kia, vì vị ở địa Gia hạnh. Hoặc niệm làm tăng thượng cho giải thoát vững chắc, đều chẳng phải mười trí.
Đối với sáu thức, giới học và giải thoát chẳng thuộc về sáu thức. Hai thứ Niệm, Tuệ tương ưng với ý thức. Đối với chín biến tri. Đối với nghĩa của ba giải thoát, so sánh rất dễ hiểu.
Thứ tư, là y cứ vào y xứ để nói, ý xứ có ba:
- Y xứ của sự.
- Y xứ của thời.
- Y xứ của Bổ-đặc-già-la.
Trong Y xứ sự, lại có ba thứ:
- Y xứ sự căn bản.
- Y xứ sự của phương tiện đắc.
- Y xứ sự của xót thương người khác.
Trong sự căn bản có sáu. Trong sự phương tiện đắc, có mười hai. Trong sự xót thương người khác có năm, như quyển trước có nói.
Nay, nói “Dựa vào Niết-bàn thuộc về Học xứ trong nghĩa y xứ”. Nghĩa là bốn trường hợp như thắng lợi v.v… của Học, y cứ trong sáu sự căn bản, chỉ là Niết-bàn thứ sáu.
Nói Hạnh thanh tịnh, nghĩa là bốn trường hợp như thắng lợi v.v… của Học, trong mười hai hạnh của phương tiện đắc, chỉ là hạnh thanh tịnh.
Tùy sự thích ứng trong năm trường hợp của y xứ sự của thương xót người khác, chỉ là ba trường hợp sau, cái gọi là giáo hóa, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, nên nói “Tùy theo sự thích ứng với y xứ kia”.
“Khởi giáo hóa dẫn dắt”, cái gọi là giáo hóa, dẫn dắt, cho đến chúc mừng”.
Hỏi: Bốn trường hợp thắng lợi của Học ở trong sự căn bản, vì
sao không nói Thắng tấn? Phương tiện đắc trong mười hai hạnh, vì sao không nói lìa hạnh làm lành, phần thắng tấn, thực hành hạnh nghĩa của mình? Và trong năm sự xót thương của người khác, vì sao không nói lìa dục v.v… ư?”. nay, sẽ giải thích, nên nói “Phải biết rằng, trong đây cũng có chung hạnh thiện v.v…. Vì tùy theo sự vượt hơn của việc thiện kia, nên chỉ nói hạnh thanh tịnh.
Trên đây, chỉ trải qua trong ba y sự xứ, để nói về văn của bốn trường hợp thắng lợi v.v… của Học xong. Dưới đây, đối chung với y xứ của Bổ-đặc-ca-già-la thứ ba, để nói về văn kinh của bốn trường hợp thắng lợi v.v… của Học.
Trước, nói về y xứ của Bổ-đặc-già-la có hai mươi bảy. Thắng lợi của Học chỉ thích ứng với Bổ-đặc-già-la xuất gia, nên nói “Bổ-đặcgià-la xuất gia là y xứ của Bổ đặc ca la. Lại, dựa vào căn nhuyến v.v…, tất cả Bổ-đặc-già-la phải biết chúc mừng. Ở trong hai mươi bảy hạng người, có chúng xuất gia với bốn trường hợp đầy đủ. Xuất gia, trong đó có lợi căn độn, cũng có bảy trong hạnh, cũng có người do nguyện, nên có ba, chỉ lấy Thanh văn, chứ chẳng phải lấy Bậc thánh khác. Chỉ lấy người đáng cứu độ. Cũng có người do chính trong hạnh, như trong văn sau nói “Chỉ trừ tại gia và người có chướng ngại không thể cứu độ, chẳng phải không trói buộc người, chỉ người chẳng phải trời, đều thuộc về bốn trường hợp, nên nói “Lại dựa vào căn nhuyến v.v…, tất cả Bổđặc-già-la, cần phải chúc mừng! Vì đã trải qua y xứ thời gian. Nói “Lại, trong thời quá khứ hiện tại, cần phải chúc nừng. Vì đã chứng đắc, vì đang chứng đắc. Nghĩa là các Tỳ-kheo v.v… ở hai đời quá khứ, hiện tại, đã chứng, đang chứng ba học và quả, cần phải chúc mừng. Nói ở thời gian hiện tại, khởi thị hiện, vào thời gian vị lai, khởi sự giáo hóa, dẫn dắt và khen ngợi, khích lệ. Trong hiện tại, Tỳ-kheo khởi sự thị hiện, ở vị lai, khởi sự giáo hóa, dẫn dắt.”
Thứ năm, là y cứ thắng lợi để giải thích: Nói trong nghĩa thắng lợi, nghĩa là tu ba học mau chóng được viên mãn là nghĩa thắng lợi. Thắng lợi này là thứ sáu trong mười nghĩa, nay thứ năm, là giải thích chung. Nghĩa là các Tỳ-kheo đối với ba học, sớm được viên mãn là thắng lợi.
Kia nói thắng lợi, tóm lại, đối với nghĩa nên khen ngợi mà khởi khen ngợi, hoặc pháp, hoặc người.”
Thứ sáu, là dựa vào tai hại lỗi lầm để nói. Trong nghĩa tai họa lỗi lầm, nói là người xuất gia, không nên làm hạnh khác lạ, không nên chứa nhóm tài vật khác. Điều này hợp với thắng lợi thứ năm, nay, ở thứ sáu kia nói: “nghĩa tai hại lỗi lầm”. Tóm lại, đối với nghĩa nên hủy bỏ, nhàm chán, mà khởi hủy bỏ, nhàm chán, hoặc pháp, hoặc người.
Thứ bảy, là y cứ sở trị (đối tượng trị) và năng trị (chủ thể trị) để nói có hai lượt, lượt thứ hai nói: “Lại, tất cả hạnh tạp nhiễm đều là đối tượng trị. Hạnh ba Học sở trụ v.v… đều là chủ thể trị. Lượt thứ hai kia nói đối tượng trị, nói tóm lại, tất cả hạnh tạp nhiễm. Nghĩa chủ thể trị, tóm lại tất cả hạnh thanh tịnh.
Thứ tám, y cứ ở nghĩa lược và rộng, để nói rất dễ hiểu.
Trên đây, đã dựa vào hai môn nghĩa văn trong thể, để phân biệt bốn câu kinh như thắng lợi v.v… của Học đã xong. Dưới đây, là thứ hai dựa vào năm môn trong giải thích, để phân biệt văn của bốn câu kinh, cái gọi là nghĩa khởi của pháp khó thứ tự, túc là năm. Đầu tiên, vì y cứ pháp khởi, nên gọi là Học. Do Nhẫn, Giới, Tịnh, nên nêu nhẫn nhục v.v….
Nói “Lại, vì vắng lặng cho đến “Nên gọi là Học”, nghĩa là vì tĩnh phá giới, được giới trong mát, trừ diệt nghiệp nhơ, nên gọi là Học.
Nói “Lại, nên biết rằng, vì tướng của thuyết trước, cho đến “và vì nhân, quả”, là giải thích lại lời dạy bảo. Dựa vào bài hát của môn huấn từ có năm môn này để giải thích tên đắc. Giới do tướng được danh, cho đến “Vì từ nhân, quả nên được danh”.
“Trong sự sai khác của môn nghĩa” trở xuống, là thứ tư, giải thích về sự sai khác của môn nghĩa. Khúc có năm môn:
- Tự tánh.
- Giới.
- Thời.
- Vị.
- Người.
Nói “tự tánh sai khác cho đến “hoặc qua hai trăm năm mươi Học xứ”, đây là nói về bảy nhóm Thi-la là tự tánh giới, trong đó, từ Bốn giới trọng cho đến Bảy diệt tránh là hai trăm năm mươi. Ngoài ra còn có “giới chúng học”, chung làm một, nghĩa là giới học của chúng. Hoặc chia làm hai: ác tác, ác thuyết. Hoặc chia ra thành một trăm, cho đến một ngàn. Nay, y cứ ở số nhiều oai nghi, nên nói “Hoặc quá hai trăm năm mươi”.
Sự khác nhau của cõi. “Đến chẳng phải cõi bị hệ thuộc”, Luận sư Phạm nói “Vô Sắc gọi là Tĩnh lự. Về danh có thông, có cuộc hạn. Luận Du-già y cứ chung, nên gồm cả Vô Sắc. Như Tĩnh lự Ba-la-mật cũng có cả Vô Sắc. Nếu dựa vào Luận Hiển Dương, quyển mười ba nói: “Thi-la tĩnh lự v.v… cho đến Thi-la, thì Vô Sắc không gọi là tĩnh lự. Luận Chủ
Đối Pháp nói: “không có sắc Dị thục trong cõi Vô Sắc, nên lược qua không nói.
Kiến lập luật nghi của cõi Sắc: Vì không có sắc Dị thục thô, nên Khắc Thật nói: “Phương tiện không cũng là đối trị của phần xa, vì đối trị với thân, ngữ phá giới của cõi Dục, nên về định đều có trên tư duy, cũng được giả lập tánh xa lìa của Thân, Ngữ.
Sự khác nhau về thời gian: Rất dễ hiểu Vị khác nhau, theo quyển trước, vị khác nhau có hai mươi lăm. Nay, trong văn này chỉ luận về năm thứ ba môn, lược qua không y cứ luận về năm thứ hai môn.
Nói: “Đã nhập chánh pháp chưa thành thục”, là vị của phẩm hạ. Đã nhập pháp Phật chưa thành tựu giải thoát phần, gọi là Địa vị phẩm hạ, cũng có thể phần giải thoát gọi là địa vị phẩm hạ.
Kế là, y cứ hai mươi bảy thứ Bổ-đặc-già-la để phân biệt. Đầu tiên, hai người tại gia, xuất gia, chỉ nói xuất gia có bốn:
- Dẫn kinh liễu nghĩa.
- Phân biệt về sự rốt ráo.
- Hạnh.
- Quả.
– Hạnh lại có hai: a. Hạnh tà. b. Hạnh chánh. Quả cũng có hai; a. Quả hạnh tà. b. Quả của hạnh chánh.
Nay, trong kinh này chỉ nói Hạnh chánh và Quả hạnh chánh:
Nói “Ba học như giới v.v… như thế, đây gọi là bờ mé của học, nghĩa là nếu ba Học mãn, thì các hạnh đều Viên. Vì quả hạnh dù nhiều, nhưng chẳng ngoài ba Học, nên nói là “Bờ mé”.
Lại, nói “Kinh như thế”, đây là nói lên chánh phương tiện, thuộc về bốn thứ Du-già, tức là Tín, Dục, Tinh Tấn và Tuệ, gọi là Du-già. Dugià này là thể của Hạnh.
“Trụ ba học như thế”, đây là chỉ rõ quả của hạnh chánh: Ba Học là quả của bốn Du-già ở trước Tín, Dục trong đây là trước, rồi mới đến phương tiện, nghĩa là tu phương tiện Ba Tuệ.
Kế là, y cứ ở nghĩa riêng để nói: Về nghĩa riêng có bốn:
- Phân biệt về danh khác nhau.
- Phân biệt về tướng của tự thể.
- Dạy bảo, giải thích về ngôn từ.
- Sự khác nhau của môn nghĩa.
Dạy bảo, giải thích về ngôn từ có năm:
- Do tướng.
- Do tự tánh.
- Do nghiệp.
- Do pháp.
- Do nhân, quả.
Sự khác nhau của môn nghĩa cũng có năm thứ:
- Tự tánh sai khác.
- Giới sai khác.
- Thời sai khác.
- Vị sai khác.
- Nhân sai khác.
Nay, y cứ theo bốn môn của nghĩa riêng, để phân biệt bốn câu văn kinh nói về sự thắng lợi của học, trong đó có bảy:
- Nêu bốn môn để phân biệt về tu học.
- Y cứ bốn môn, nhằm phân biệt về sự thắng lợi.
- Phân biệt Bí-sô.
- Nói về an trụ.
Bốn trường hợp này đều là giới Học.
5. Nói Tuệ là đứng đầu.
6. Nói về giải thoát vững chắc.
7. Giải thích Niệm là tăng thượng.
Đầu tiên nói “Trong nghĩa riêng cho đến “Gọi là khác nhau, đây là thứ nhất phân biệt về tên gọi sai khác.
Trước hết, giới học được gọi là tu học, cũng gọi là Tập, cũng được gọi là tu.
Nói “Thân, ngữ thanh tịnh, chánh mạng hiện hành, là tự tánh của học”, đây là thứ hai, phân biệt về thể, tướng của giới, dùng chánh ngữ v.v… làm thể.
Nói “Do tu hạnh chánh Thi-la, nhẫn nhục v.v… này, làm hiểu phát, nên gọi là Học”, đây là thứ ba, giải thích về huấn từ.
“Sao gọi là Học hạnh chánh Thi-la? Nói nói về “Lại nữa”, pháp trong giải thích, nghĩa là về mười hai phần giáo, phải biết rằng đây là thuộc về Khế kinh: Nói về thắng lợi của Học, bốn câu văn kinh là thuộc về mười hai bộ. Lại, vì thọ ký do liễu nghĩa: Như kinh ấy nói: “Các thầy Tỳ-kheo cho đến “Niệm làm tăng thượng v.v… ”, tức thọ ký là giới v.v… được quả giải thoát, tương đương với thọ ký kia.
Thứ hai, y cứ ở “đẳng ký” để nói, có bốn lần “lại nữa”:
1. “Nghĩa là cần phải nói y chỉ nơi chốn, là vì muốn tự làm rõ sức trí hạnh khắp, nên phát khởi kinh này. Ở trước, nói về đẳng khởi có ba.
a. Y sự; b. Y Thời gian; c. Y nhân. Mà nói kinh pháp, nên gọi là Đẳng Ký. Nay nói đức Như lai có sức trí hạnh cùng khắp, cần phải biết rằng, vì dựa vào sự, người, nên nói giáo pháp này”.
2. “Lại, vì chỉ bày rõ tinh tấn, siêng năng tu tập hạnh thanh tịnh, nghĩa là vì chỉ rõ người của hạnh thanh tịnh, nên nói bốn trường hợp này.
Nói “đến hiển bày chú trọng về của cải, lợi dưỡng cho đến nhanh chóng được viên mãn thắng lợi của ba Học”, nghĩa là vì giáo hóa của các Tỳ-kheo v.v… ham vui, chấp mắc của cải, lợi dưỡng sao cho họ tu ba học, nên nói bốn trường hợp này.
3. “Lại, vì bày tỏ về thể của bốn hạng Tỳ-kheo. Trường hợp này là chung.
Trong đây, kinh nói: “Sự thắng lơi của Học, là vì khiến thể của Bí-sô xa lìa dòng họ, hình tướng. Tỳ-kheo không nên giữ lấy dòng họ, thân hình khôi ngô, mà cần phải nghiêm trì giới Học, thắng lợi của Học, mới được gọi là Tỳ-kheo”.
Và “khiến xa lìa cho đến “vì thể của Bí-sô”: Có các Tỳ-kheo với tướng mạo bên ngoài, biểu hiện giả dối oai nghi, trong khi bên trong thì thường trái phạm. Nay, vì xa lìa dòng họ, hình tướng kia, nên nói là giữ gìn thể thắng lợi của giới học, mà Tuệ là đứng đầu. Nghĩa là vì muốn cho các Tỳ-kheo xa lìa chấp mắc giả dối về tiếng khen, nên khen ngợi thể của Bí-sô, để nói rằng, chỉ cầu chân trí, đừng mê đắm tiếng khen”.
Giải thoát vững chắc, thì Niệm là tăng thượng, khuyên bảo tu tập hạnh chánh chân thật, vì thể của Bí-sô, nghĩa là đã lìa giả dối, tức là tu chân thật.
“Vì sao v.v… trở xuống, là giải thích về thành lập thuyết trên”.
4. “Lại nữa”, văn rất dễ hiểu.
Thứ ba y cứ nghĩa để nói. Trước y cứ ở nghĩa chung để phân biệt, sau y cứ nghĩa riêng.
Trong phần trước, nếu theo quyển trên, thì nghĩa chung, là chung cho hai người lợi căn. Độn căn. Y cứ ở hạnh có bảy, nghĩa là phần Bạc trần của nhiều tham, nhiều giận, nhiều si, chấp mắc ngã, giác lo nghĩ v.v…, hoặc cũng giải thích đầy đủ.
Y cứ nguyện có ba, nghĩa là Ba thừa chỉ là Thanh văn, vì kinh ấy nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo! Tỳ-kheo ở gần Phật, chỉ chúng Thanh văn, nên chẳng phải Độc giác. Độc giác ra đời không có Phật, nên gọi là Độc giác, vì giác ngộ riêng. Cũng chẳng phải Bồ-tát thì điều phục riêng quyến thuộc của mình, nên không nói về thắng lợi của ở chung tu giới”.
Trong có Bát Niết-bàn, không có Bát Niết-bàn, chỉ nói người nhập Niết-bàn. Người đã nhập chánh pháp của Phật pháp, chẳng phải chưa vào, trừ người có chướng ngại, không có tánh Ba thừa. Lấy người không có chướng ngại, cũng là người ràng buộc đủ, không buộc ràng đủ, chẳng phải không có ràng buộc. Vì trong kinh khuyên rằng: “Phải an trụ tu học thắng lợi, nên biết chẳng phải không có người ràng buộc. Chỉ có người chẳng phải trời, vì không có pháp xuất gia, nên chẳng phải Tỳ-kheo, nên trừ trời.
Nói “Như đối với thắng lợi của học cho đến “năm thứ khác nhau”, nghĩa là như năm tu trong khác nhau của môn nghĩa này, phân biệt tu thể của giới học.
Như thế, đối với Tuệ đứng đầu, cho đến Niệm làm tăng thượng v.v…, cũng nên lấy tự tánh, lấy thời gian; lấy vị, để phân biệt người cũng thế”.
Trên đây, đã dùng bốn môn để phân biệt tu học xong. Dưới đây thứ hai, y cứ bốn môn để phân biệt thắng lợi.
Nói “Thắng lợi trong đây là công đức, là tăng tấn, viên mãn gọi là khác nhau, tức là thắng lợi, gọi là môn sai khác, cũng gọi là thắng lợi, cũng gọi là công đức, cũng gọi là tăng tấn, cũng gọi là viên mãn, gọi là sai khác. Như nói “Phải quán mười thứ thắng lợi, là tự tánh của môn sai khác kia”, đây là giải thích về thể tánh (Mười thứ thắng lợi, như dưới đây sẽ giải thích).
Nói “Pháp này có thể có lợi ích, vì có thể đáng khen ngợi, nên gọi là thắng lợi”, đây là giải thích về lời dạy dỗ.
“Lại nữa”, ở đây cho đến “gọi là thắng lợi”, nghĩa là nói về giới học kia huân tập thức, thành hạt giống, tùy theo chỗ hạt giống đã sinh, quyết định theo đuổi, nên gọi là thắng lợi.
“Lại nữa” Vì khen ngợi pháp này đã tùy theo, nên gọi là thắng lợi. Nghĩa là chỉ có tâm, chủ thể giữ giới có khen ngợi.
Ba “Lần lại nữa” trên đây, là giải thích chung, khen ngợi chung.
“Sai biệt môn đến “cho đến nói rộng”, tức là sự khác nhau của môn nghĩa mười câu, rất dễ hiểu.
Thứ ba, trong y cứ bốn môn để phân biệt Bí sô, nói chúng đồng
phần của Cụ túc luận nghi Biệt giải thoát, là tự tánh của Bí-sô kia. Nghĩa là ở trên Biệt giải thoát, giả lập chúng đồng phần, chúng đồng phần là tự tánh, của Tỳ-kheo, vì phái Tát-bà-đa nói “Sự hòa hợp là tự tánh của Tăng”.
Nói “Đối với hình sắc kia cho đến “gọi là Bí-sô”, đây là huấn từ. Vì cạo bỏ râu, tóc, mặc ca sa v.v…, nên nói là “hình, sắc v.v… kia”.
Nói “Khác nhau môn”, nghĩa là vì sự khác nhau của Sát-Đế-Lợi v.v…. Trong phần nói về Bí-sô, có bốn tánh xuất gia khác nhau.
Thứ tư, là y cứ bốn môn để nói về an trụ kia. Nói “trụ trong đây v.v… đến “gọi là đó là khác nhau”, đây là giải thích về sự khác nhau của tên trụ:
Trụ cũng là Cúi, y cứ ở thời gian cũng gọi là tinh tấn, siêng năng, cũng gọi là tu tập. Tự tánh của trụ này, lìa ngoài học đã nói, không có tánh riêng, là giải thích tự tánh.
Thứ năm, y cứ bốn môn để giải thích Tuệ là đứng đầu. Nói “môn Sai biệt, nghĩa là tùy theo sự thích ứng với môn đó, được an lập như trước: như nghĩa sai khác của môn trong giải thích về tu học thứ nhất ở trước, có năm:
- Sự sai khác của tự tánh.
- Sự sự Sai khác của giới (cõi).
- Sự sai khác của thời gian.
- Sự sai khác của vị.
- Sự sai khác của người.
Nay, trong giải thích Tuệ là thượng thủ, lẽ ra cũng đồng với giải thích kia, cho nên nói an lập như trước.”
Thứ sáu, y cứ trong bốn môn để nói về giải thoát vững chắc.
Nói Mâu-ni: Xưa dịch là Mãn Túc (đầy đủ). Nay Tam Tạng Pháp sư nói: “Hán dịch là tịch tỉnh (vắng lặng).
Thứ bảy, là y cứ bốn môn, giải thích Niệm là tăng thượng. Nói “Lại nữa, tùy pháp thích ứng với môn kia như trước, phải biết là sai khác”, nghĩa là như trước đã nói về sự khác nhau của năm môn: tự tánh, giới, thời gian, vị, con người v.v….
Trên đây, nhiều môn đều là giải thích môn thứ ba trong năm môn, y cứ vào nghĩa để nói xong. Dưới đây, thứ tư, y cứ phần giải thích vấn nạn, để nói. Dựa vào môn vấn nạn trước, có năm:
- Vì chưa liễu nghĩa, được hiểu rõ ràng?
- Trái nhau Ngữ?
- Trái với bốn đạo?
- Chỉ bày không nhất định?
- Rốt ráo chẳng phải hiện thấy?
– Trong năm vấn nạn này, chỉ giải thích hai vấn nạn:
- Nạn vì chưa hiểu nghĩa, được hiểu rõ?
- Nạn là nói trái nhau, trong đó:
- Có đoạn giải thích về vấn nạn chưa hiểu rõ nghĩa.
- Có đoạn giải thích về vấn nạn lời nói trái nhau.
- Có hai hỏi, đáp để giải thích lại về vấn nạn chưa liễu nghĩa.
- Giải thích rải rác, văn, kinh.Văn ban đầu nói:
Hỏi: “Trụ thắng lợi của học, nghĩa là gì?
Đáp: “Tăng ngữ” này đến “Thấy trụ công đức thù thắng”: “Tăng ngữ” là danh. Vì danh có thể tăng thượng lời nói, nên gọi là tăng ngữ. Nói thẳng nên nói: “Đây là chỉ bày rõ giới học, thấy trụ công đức thù thắng “cho đến niệm là tăng thượng”: đến “bất sinh hỷ túc”, nghĩa là do niệm tính đếm, so lường mà được đầy, không đầy v.v…, cho nên với một ít thấp kém, bất sinh mừng đủ.
Kế là, có hai đoạn, giải thích vấn nạn về ngữ trái nhau:
Môn đầu, trong kinh khác nói “cho đến chẳng phải tâm tăng thượng”, nghĩa là trong kinh khác nói: “thứ lớp trước, sau của ba thứ giới, định, tuệ”. Trong đây nói giới ở sau, tức nói đến Tuệ, không nói về tâm học ư?”
Đáp: “Cho đến tức là chỉ bày rõ tâm học tăng thượng”: Về ý đáp, du văn không nói, nhưng đã ở trong những gì đã nói, nên như sự bày tỏ trong đây, đã dừng lại ở lời nói “thắng lợi” của học, tức làm sáng tỏ nhiếp thọ văn v.v… và chứng đắc Tam-ma-địa không có ăn năn v.v…. Cho nên. Đã có trong ngôn thuyết”.
Dưới đây dẫn thuyết để chứng thành. Như Đức Thế tôn nói: cho đến cái gọi là Tuệ căn, gọi là căn, lực tuệ vượt hơn. “Do các Tỳ-kheo, cho đến đều nói cùng lúc”, nghĩa là dẫn kinh để chứng minh rằng, vì định được dẫn do Tuệ, nên chỉ nói Tuệ, tức ảnh lược nói do định đã dẫn, nhưng định, tuệ đồng thời. Kế là, hỏi đáp rất dễ hiểu.
Thứ ba, có hai lượt hỏi đáp, để giải thích lại vấn nạn về nghĩa chưa rõ:
1. Hỏi, đáp rất dễ hiểu.
2. Trong hỏi, đáp nói: “Đối với giải thoát, cho đến “rất là vững chắc”, nghĩa là trong pháp vô thường, tuệ là trên hết, vì giải thoát thường rất vững chắc, nên gọi là riêng vững chắc.
Thứ tư, là giải thích rải rác văn kinh, trong đó có hai:
1. Y cứ thường giữ gìn Thi-la v.v…, để giải thích bốn câu kinh.
2. Dẫn giới do Đức Phật nói có nhiều danh, để giải thích văn kinh.
Ở phần trước: 1- Giải thích về trụ thắng lợi của Học. 2- Giải thích nghĩa của ba câu sau. Đầu tiên trong phần trước, là nêu chung, quán mười thắng lợi, thường giữ giới v.v…, gọi là trụ thắng lợi của Học. Kế là, giải thích riêng nghĩa thắng lợi kia, trong đó có hai: Trước, là giải thích nghĩa của mười câu. Sau, giải thích năm câu như thường giữ giới v.v….
Trong phần trước có hai: Trước, là giải thích về nghĩa câu, kế là, nói nhiếp thu mười làm ba, chia ra ba làm mười:
1. Khiến cho tăng không nhiễm ô.
2. Khiến cho tăng được trụ yên vui. Hai câu này đều gồm thu chín câu trước.
3. Làm cho giáo pháp của Phật, Thánh tùy chuyển trong thời gian dài, là nhiếp riêng thứ mười.
Nói “Do bảy thứ tùy hộ trong đây, là chỉ bày rõ trụ không có nhiễm ô và an lạc trụ. Nghĩa là bảy gồm thu hai câu trước trong hai, tức là nhiếp thu chín câu trước, trong đó một câu đầu, gồm thâu câu chung. Một câu kế là, gồm thu câu thứ hai, thứ ba. Một câu tiếp theo gồm thu thứ tư, thứ năm. Bốn câu tiếp theo là gồm thu một. Một câu sau cùng, chỉ bày rõ Thánh giáo tùy chuyển trong thời gian dài, là ngoài bảy câu trước.
Xét luật Từ phần chép: “Từ nay trở đi, sẽ nhóm hợp nghĩa mười câu kiết giới cho các Tỳ-kheo:
- Được tăng nhiếp thủ.
- Khiến tăng hoan hỷ.
- Khiến tăng yên vui.
- Để cho người chưa tin, khiến cho tin.
- Người đã tin, khiến cho tăng trưởng.
- Kẻ khó điều thuận, khiến cho điều thuận.
- Người hổ, thẹn được an vui.
- Dứt trừ hữu lậu trong hiện tại.
- Dứt trừ hữu lậu ở vị lai.
- Chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Luật Sư Thủ sớ thích: “Đây là nói về lợi ích kiết giới, trong đó ba câu đầu, lợi thể của giới pháp, xuất sinh công đức của các pháp.
Thứ hai, câu kế là có sáu lợi, nói công đức của hạnh riêng, lợi sinh thiện diệt ác. Thứ ba, câu kế là có một lợi, chính là nói về kiến lập hưng thịnh chánh pháp hạnh, được tăng nhiếp thủ: nghĩa là kinh này giáo hóa rộng, như sợi chỉ ràng buộc, giữ gìn. Người tu hành lìa lỗi lầm của bảy chi thân, miệng, như sợi chỉ xỏ hoa khiến cho không phân tán, nên nói nhiếp thủ thân, miệng, đã lìa hành động, sao cho nhu hòa, gọi là người ấy là Tăng. Đức Phật đã chế giới này, để cho các Tỳ-kheo, nửa tháng nói một lần. Giới đồng vâng giữ, dứt hết mọi tranh cãi, nên nói khiến tăng hoan hỷ. Y giáo vâng tu, đời sau, tất nhiên sẽ được quả báo rất lớn, do thần thông của mình, nên nói “khiến cho tăng yên vui”.
Dưới đây, là sáu lợi là pháp lợi hạnh riêng, trong đó có hai:
1/ Có hai lợi, nói về sinh thiện.
2/ Có bốn lợi, nói về điều phục, diệt hạnh ác.
Dưới đây, giải thích năm câu thường giữ gìn Thi-la, như văn rất dễ hiểu.
Ở trên, đã giải thích về trụ thắng lợi của học, dưới đây sẽ giải thích nghĩa của ba câu sau.
Nói “hành giả như thế thường xuyên giữ gìn Thi-la, là nhắc lại giữ giới ở trên.
Dưới đây, chính là giải thích nghĩa của ba câu, cách hành văn rất dễ hiểu.
Trên đây, y cứ thường gìn giữ thi-la v.v… để giải thích bốn câu kinh đã xong.
Dưới đây, thứ hai, sẽ dẫn thuyết giới v.v… có nhiều thứ, để giải thích văn kinh.
Giới thiện sự: là giới cận sự, giới Tỳ-kheo: là giới của năm chúng xuất gia.
Giới cận trụ: Giới một ngày, một đêm. giới tĩnh lự cho đến Người giữ giới, là Định cộng giới. Giới mà bậc Thánh ưa thích là đạo cộng giới.
Nói “Dựa vào giới Bí-sô, do rất vượt hơn”, nghĩa là giới Tỳ-kheo sinh ra giới vô lậu thiền, nên gọi là rất vượt hơn.
Thế gian giải thoát là giả danh vì đạo thế tục không thể dứt trừ kiết, vì không được vô vi.
Dưới đây, thứ năm, y cứ theo thứ lớp để nói. Trong thứ tự, trước nên trụ Thi-la Tỳ-kheo. Kế là nên nghe, trụ chánh pháp của Như lai, là Văn tuệ. Nên tác ý tư duy như lý là Tư tuệ.
“Hành giả như thế, cho đến “Vì viên mãn dần”, nghĩa là quyển trước nói: “Theo thứ lớp có ba:
- Thứ lớp viên mãn.
- Thứ lớp giải thoát.
- Thứ lớp năng thành.
Đây là thứ lớp viên mãn thứ nhất, thứ lớp năng thành rất dễ hiểu.
Giải thích về thứ lớp, nghĩa là khéo dạy răn đệ tử Thanh văn, đối với tất cả việc nên làm, nên gọi là đại sư: thông thường, văn kinh giải thích trong nêu đại sư v.v….
Trên đây, trong chính giải thích, có hai đoạn: Đoạn thứ nhất nói về bảy nghĩa xong. Dưới đây, đoạn thứ hai, đại khái dựa vào sáu tướng, để giải thích kinh Phật.
1- Sự biết khắp nghĩa là uẩn, xứ, giới v.v…
2- Xa lìa hạnh xấu ác và các “hoặc” phiền não
3- Thọ học hạnh lành.
4- Vì như bệnh v.v… trí hạnh thông suốt khắp tức như bệnh ung thư v.v… mười một hạnh chánh kiến hiện hành.
5- Do quả kia, là quả giải thoát.
6- Do mình và người thọ lãnh quả giải thoát kia. Nghĩa là “sanh tử của ta đã hết v.v… ”
Đây là nêu sáu tướng. Do sáu tướng này và do tướng đã kiến lập như trước, nên khéo giải thích kinh. Nghĩa là đều nhắc lại hai môn trước, sau; để giải thích kinh Phật.
Dưới đây, là y theo vấn nạn, để giải thích lại.
Quả kia: là người nhàm chán tai họa, lìa bỏ dục lạc. Hàng phục xa lìa nghĩa là giải thoát và người giải thoát khắp, đạo vô lậu đoạn, được giải thoát, cũng có thể người lìa dục, giải thoát nhàm chán tai họa, hàng phục, lìa và người giải thoát khắp đoạn, lìa hẳn.
BẢN LUẬN QUYỂN 83
Gồm thu phần trên của môn khác: Quyết trạch phần ở trước quyết định lựa chọn, nhắm vào nghĩa bất tận khác trong Bản địa phần ở trước, phân biệt rộng kinh, luận trong phần gồm thu giải thích, tác dụng của pháp tức quyết định lựa chọn văn luận kia. Nay, nghĩa văn trong phần gồm thu môn khác, đều nói, về danh, có các mỗi thứ không đồng nghĩa, có rất nhiều khác nhau: Một môn gồm thu nhiều môn, một nghĩa gồm thu nhiều nghĩa. Nay, đều quyết định lựa chọn, gọi là gồm thu môn khác. Nếu nói gồm thu danh khác, thì chỉ gồm thu văn. Nếu nói gồm thu nghĩa khác thì chì gồm thu ở nghĩa. Nay, gọi là môn khác, tức nghĩa văn đều gồm thu.
Trong phần này, luận có hai quyển, vì quyển này ở trước, nên nói là trên. Trong văn có hai:
- Kết trước, chia sau.
- Chính giải thích.
Thứ ba, là giải thích xong, tổng kết.
Trong chính thức giải thích; 1. Có một bài tụng, chia chung hai môn. 2. Dựa vào môn hai chương để giải thích theo thứ lớp.
Nói “Giảng nói môn khác của phẩm bạch v.v…, là thiện. Có cả hữu lậu, vô lậu, đều gọi là bạch. Muốn dùng các môn để nói theo thứ lớp.
Giảng nói môn khác v.v… của phẩm hắc: Bất thiện, gọi là phẩm hắc, bảo cho muốn biết dùng môn khác để phân biệt, giải thích. Ý của hai phẩm giải thoát của nửa bài tụng dưới, là vì nghĩa khai ngộ người khác, giúp họ giác ngộ, nên nói “lược tụng”, nên biết.
Trong dựa vào chương để giải thích, trước, giải thích về phẩm bạch, sau, giải thích phẩm hắc.
Giải thích phẩm bạch, có bốn lượt:
- Giải thích tám môn như sư v.v….
- Mười lăm môn như Trí v.v….
- Mười môn như Như lai v.v….
- Chín môn như dục v.v….
Trong môn đầu có hai: Trước là bài tụng nêu tám môn: 1- Sư; 2- Thứ nhất; 3- Hai Tuệ; 4- Bốn thứ khéo nói v.v…; – Cũng có nhân duyên; 6- Thí; – Giới; 8- Đạo.
Kế là, dùng Văn xuôi để giải thích, lại có tám đoạn:
Thứ nhất trong giải thích về sư, chia làm hai:
- Nói về ba Sư.
- Giải thích danh nghĩa khác nhau.
Trong phần trước, nói về bậc thầy mô phạm, nghĩa là giữ khuôn phép. Thân giáo sư là Hòa-thượng.
Nếu là người đồng pháp, nghĩa là người có khả năng khai ngộ. Người khiến ta nhớ nghĩ, tức là người đồng học, trước đã có hiểu biết. Nói cho phép ngừng dứt tất cả những điều nên làm, không nên làm, là bậc Đại sư. Thường dạy bảo, khuyên răn: là ba vị Sư sau.
Nói “Phải biết tức là người “năng thuyết”, “truyền thyết” và “tùy thuyết”, nghĩa là kết ba sư trước.
Kế là giải thích về sự khác nhau của Danh nghĩa, trước giải thích danh nghĩa của thầy, sau, giải thích hạnh của đệ tử.
Trong phần trước, danh nghĩa của thầy lược có mười sáu trường hợp. Luận sư Cảnh nói: “Ba nghĩa hay chèo, chèo vượt hơn, cho đến chèo: Văn chung cả ba sư. Ba nghĩa: hay dẫn dắt, dẫn dắt hơn và dẫn dắt đến cùng, cũng chung cho cả ba sư.
Pháp sư Thái nói: “Căn bản là hòa thượng, Xà-lê, gọi là người bạn thứ nhất. Nếu nói pháp thệ của Bồ-tát v.v… lại vì tất cả chúng sinh, mà làm hòa thượng, Xà-lê, thì gọi là người bạn thứ hai. Trong kinh có biệt danh này, cho nên giải thích.
Dưới đây giải thích về hạnh đã tu của đệ tử, có hai mươi chín trường hợp.
Bỏ dể, hiểu thì khó. Nói “Đối với tất cả việc, hiện đang tùy tùng nên gọi là Tín, thuận v.v… ”, nghĩa là trong các hữu tình v.v…, tin tưởng tất cả việc nhân, quả mà thầy đã nói, gọi là tinh tấn. Vì duyên người khởi niềm tin, nên gọi là khai tín. Vì “duyên” pháp khởi niềm tin, nên gọi là Tịnh tín.
Nói phạm hạnh, nghĩa là cho đến cùng cựa tập pháp dâm dục: Niết-bàn lìa nhiễm gọi là phạm. Tám chi Thánh đạo với phạm là hạnh. Lại, phiền não, gọi là phi phạm. Tám chi Thánh đạo lìa phiền não, nên gọi là phạm hạnh. Lại, tám chi này vì sinh ra từ phạm âm của Đức Như lai, nên gọi là phạm hạnh.
Lại, nói “người an trụ phạm hanh khác cho đến “do tu thân niệm”, nghĩa là địa vị ba mươi bảy phẩm giải phẩm ba, bốn, hai, năm, ở đạo phương tiện. Bảy giác ở kiến đạo. Tám chánh ở tu đạo. Kiến đạo dù đủ bảy giác, nhưng chỉ vì một phen nhập, không khởi định, liền được rốt ráo. Cho nên sáu giác còn lại từ giác chi định, đều gọi là Xa-ma-tha. Tám chánh ở tu đạo, vì Tuệ thường quán sát mạnh mẽ, bảy chánh còn lại từ Tuệ, đều gọi là Tỳ-bát xá na.
Trong bảy phương tiện, từ bốn niệm xứ, cho đến năm lực, gọi là chung là tu thân niệm, không đồng với Tiểu thừa chỉ quán sắc thân, gọi là thân niệm.
Nói “Như pháp thích ứng với thân niệm kia, vì tự tánh, phẩm loại kia v.v… ”: Hỏi: “Bảy giác của kiến đạo có định, phi định, vì sao gọi là chung là định?”
Giải thích: “Định giác chi trong kiến đạo là tự tánh, sáu giác chi còn lại là phẩm loại của chánh kiến kia, với tướng tùy theo gọi là Tuệ.
Kiến đạo trở xuống, có năm pháp. Bốn Niệm xứ, cho đến năm lực, trong đó, vì nêu đầu tiên, nêu sau, nên gọi là Tín, Niệm. Bốn niệm xứ này, theo Đại thừa, vì dùng Niệm, Tuệ làm tánh, nên trong bốn niệm trụ đầu, chỉ có thân niệm. Trong năm lực sau, nêu Tín, lực kia vì đều có cả định, tuệ, nên nói tín, niệm trong đây đều có ở cả hai phẩm. Nêu hai phẩm này, vì muốn nói tu thể của thân niệm có cả Định, Tuệ. Dưới đây, hai giải thích theo thứ lớp, trong thứ mười một được chia làm ba:
1/ Y cứ theo năm nghĩa như hạnh v.v… của mình để nói về danh thứ nhất v.v….
2/ Y cứ năm nghĩa như thiện v.v…, của thế gian để nói.
3/ Y cứ năm nghĩa như dục, hành v.v…, để nói, trong đó, lại có ba:
1- Chính giải thích năm danh: Nói “Nói trên”, nghĩa là vượt qua tất cả điều thiện của thế gian, vì khéo viên mãn: đây là y cứ vào thể của Hậu trí là xuất thế, vì hiện hành thế gian, nên gọi là thế gian.
2- Giải thích chín câu trong kinh, dưới đây sẽ kết thành nghĩa thứ nhất.
Nói “Do vì xuẩn động”, tức loài không có chân ở trước, cho đến nhiều chân.
“Do y chỉ”, nghĩa là có sắc, vô sắc, làm y chỉ cho cõi kia.
“Do tâm”, nghĩa là hữu tưởng, vô tưởng, phi hưu tưởng, phi vô tưởng. Đức Như lai là bậc nhất trong ba chủng loại ấy.
3- Trong giải thích hai tuệ. Tam Tạng Pháp sư nói: “Dùng hai lần “Lại nữa” để giải thích tuệ của Đại sư, nên nói là hai tuệ.
Lại, Đại Tuệ v.v… trở xuống, là giải thích nghĩa thứ hai. Luận sư Cảnh nói: “Dù có danh của các tuệ, nhưng gọi chung là hai tuệ, là tên của môn khác”.
Pháp sư Thái nói: “Sư là thứ nhất, tuệ là thứ hai, chỉ bỏ chử “thứ”, nên bài tụng nói rằng: “Hai tuệ”.
Trong văn có năm mươi mốt câu. “Bỏ dễ, hiểu khó, đều sinh ra tuệ”, tức “sinh đắc tuệ”. Tuệ Gia hạnh là Tuệ phương tiện.
Nói “Bức tường Tuệ, cho đến chẳng phải một trí giới”, Luận sư Cảnh nói: “Vách tường là trí hậu đắc, lợi khắp chúng sinh, chỉ được vận chuyển bởi tâm đại bi. Nhà cung điện là chánh thể trí nội chứng chân như, gọi là đến rốt ráo v.v… ”. Pháp sư Thái nói: “Trí giới như bức tường bao quanh khắp tất cả. Tường có một cổng, giới cũng như thế. Giới là nhân duyên khắp cả pháp. Bồ-tát mới học phải quán nhân duyên các pháp. Kế là, có thể biết rõ về sự khác nhau giữa mười tám giới, gọi là chẳng phải trí của một giới, là hướng đến đạo Gia hạnh của hai quả, nên nói là thềm bực. Phân biệt chín chắn trong mười tám giới, mỗi giới đều có phẩm loại, nên gọi các thứ trí giới. Vì như trú xứ rốt ráo của điên đường, nên tức trí giới v.v….
Y cứ ở ban đầu, giữa, sau, để nói về ba trí.
Thứ tư, là giải thích khéo nói v.v…, trước, giải thích riêng tám câu. Sau gom tám thành bốn.
Trong phần trước nói đầy đủ bốn y: Bốn y nhân, bốn y pháp cũng có thể có bốn y hành, nên nói “hữu y”.
Thứ năm, giải thích có năm câu như nhân duyên v.v….
Nói bốn y, nghĩa là bốn y như dưới cội cây v.v….
Ba thần biến: Là thần túc, Tha tâm, lậu tận. Trong dạy răn, lược qua không có tha tâm.
Thứ sáu, trong giải thích về bố thí: 1. Trong giải thích kinh có sáu câu. 2. Dùng sáu thí để phối hợp thuộc văn trước. 3. Kết thành.
Nói sáu câu dù khác, nhưng không ngoài ba thứ:
1- Phẩm loại của bố thí, tức hai câu trước.
2- Thời gian bố thí, tức hai câu kế.
3- Nơi chốn bố thí, tức hai câu sau. Thứ bảy, trong giải thích về giới, trước, nêu nửa bài tụng, nêu lên bốn môn của giới kia. Sau dùng văn xuôi, theo thứ lớp, giải thích riêng, tức làm bốn đoạn:
Thứ nhất, giải thích Thi-la, tức có mười lăm câu.
Thứ hai, giải nói pháp, tức có sáu câu.
Thứ ba, bốn đoạn chỉ như trước đã nói, rất dễ hiểu.
Thứ tám, trong giải thích về đạo, trước nêu một bài tụng, nêu tám môn. Bảy môn của phẩm đạo là bảy, nói rộng là thứ tám, nên nói vô lượng là sau.
Kế là, dùng văn xuôi để giải thích. Văn được chia làm sáu. Đầu tiên, là giải thích về niệm trụ, có mười ba câu. Nhưng trong văn này không có văn: về Thân, Thọ, Tâm, Pháp, chỉ nói dục, tinh tấn v.v… làm phương tiện của bốn niệm trụ.
Trụ ánh sáng nhiệt: Vì hy tu pháp đối trị lười biếng. Nghĩa là như ánh sáng mặt trời phá tan bóng tối. Như thế, chánh cần, có thể trị biếng nhác.
Trong đây, “chỉ bày rõ v.v… đến “bốn thứ đối trị”, nghĩa là chỉ kết bốn câu sau.
Thứ hai, là giải thích thần túc chánh đoạn.
Thứ ba, là giải thích căn, lực, đều chỉ trước đã nói.
Thứ tư, là giải thích bảy giác của kiến đạo, giải thích riêng về trạch pháp giác phần.
Nói phân biệt, lựa chọn, nghĩa là lấy chung tất cả chủng loại của pháp khổ, để làm Thánh đế khổ: là “duyên” chung về khổ.
“Rất phân biệt lựa chọn” cho đến “Trước tu pháp đã làm”, nghĩa là phân biệt lựa chọn giáo “năng thuyên” của khế kinh. Vì y chỉ giáo này, nên trước là tu pháp phải làm.
Nói “xét định v.v… hiểu rõ”, nghĩa là vì hiểu rõ một cách bình đẳng đối với tất cả pháp, nên nói là “xét định”. Hiểu rõ gần: là chứng pháp gần ở trước được quyết định.
“Hiểu rõ gần”: Ở trước là đạo Tầm, Từ, nghĩa là ba Tầm, Từ ở trước. Nay là đạo quyết định, nghĩa là ba Tầm, Từ sau là trí như thật. Đây là nói hai lần “lại nữa” khác nhau. Hiểu rõ vẫn là Trạch pháp giác phần.
Thứ năm, là giải thích tám Thánh đạo có ba mươi câu.
“Sáng rõ v.v… ”, là chánh kiến, chỉ giải thích về chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng v.v….
Nói “Biết rõ Thể phân biệt”, nghĩa là biết tâm năng “duyên”.
Lại, sáng rõ: là biết tự tướng thông suốt, nghĩa là biết cộng tướng. Hậu trí biết tự tướng, chánh trí biết cộng tướng.’
Hỏi: “Luận này trái với Nhân minh, vì hiện lượng của Nhân minh biết tự tướng, nghĩa là như ý thức, tâm định của năm thức, đều biết về tự tướng sự lý của các pháp. Nay, nói cộng tướng là y cứ vào lý sở tri, vì giống nhau nên gọi là cộng tướng.”
“Nhàm lìa v.v… trở xuống, là nói về chánh ngữ, chánh nghiệp, do tâm nhàm. Lìa mà khởi, gọi là nhàm lìa.
Nói “Niệm v.v… trở xuống, kế là, giải thích về chánh niệm. Lược qua không nói về ba chánh tinh tấn, chánh định, tư duy.
Dưới đây, thứ sáu, giải thích, nói rộng, có ba bài tụng, gồm ba mươi bốn môn: Bài tụng đầu có mười lăm môn, bài tụng kế có mười môn, tụng sau có chín môn.
Trong giải thích bài tụng đầu, trước là giải thích về trí có mười hai câu. Trí, nghĩa là nghe ngôn thuyết, tuệ là trước, cho đến người trí, nghĩa là người biết ngôn thuyết, tuệ là trước: Luận sư Cảnh nói: “Theo Tỳ Đàm, sáu căn kiến lập thấy, nghe v.v…. Luận Thành Thật lập sáu thức. Nay, theo luận Đối Pháp của Đại thừa nói: “Nếu mắt đã nhận biết thì gọi là thấy. Nếu tai đã nhận biết gọi là nghe. Nếu tự vẽ lờ mờ thì gọi là giác. Hiện tượng đã chứng, gọi là biết. Văn này là nói ba căn Mũi, Lưỡi, Thân ba thức và năm thức đồng thời ý thức đều cho là biết. Nếu tự mình đã chứng, gọi là thấy, tức là hiện lượng. Từ người khác mà được, gọi là nghe.
Kinh Thắng-man chép: “Mà nói kệ rằng: “Ta nghe âm thanh v.v… của Phật, không tự đích thân nghe Phật nói. Truyền nghe, tức là ghi chép, gọi là văn tuệ, là Thánh ngôn lượng. Nếu tự tư duy lờ mờ, thì gọi là giác, tức là Tỷ lượng.
Pháp sư Thái nói: “Trong kinh nói bốn thứ Trí, kiến, giác, tri nên luận chủ giải thích: “Người trí, nói là vì ở trước đồng nghe, nên khởi ngôn thuyết rằng: “Ta nghe”. Nhân nghe này, khởi trí, kiến, giác, tri, so với đây sẽ hiểu.
Kế là, giải thích về giảng nói, tức có tám câu, như văn rất dễ hiểu.
Thứ ba, là giải thích về thiện, có mười hai câu. Luận sư Cảnh nói: “Tức là bảy xứ thiện. Đầu tiên là nói về thời gian thiện, trong đó cũng có ba, nghĩa là đầu tiên, giữa, sau, tức là công năng của giáo, có thể làm cho người tu hành đầu tiên, sinh hoan hỷ là văn tuệ. Đạo trong hạnh là tư, sau là tu tuệ. Về sau, khiếnlìa chướng, chứng đắc, tức chứng trí. Trong trí:
- Lìa hiện hành nhơ và tất cả rốt ráo lìa dục, nghĩa là dứt trừ tùy miên.
- Nghĩa thiện.
- Văn thiện.
Đây là nêu ra giáo thể; “năng thuyên”, “sở thuyên” đều là giáo thể.
Thứ tư, là thuần nhất, tức là thiện riêng, vì không chung với ngoại đạo.
Thứ năm, là viên mãn, nghĩa là không có hạn lượng, vì rất tôn thắng. Đối tượng hóa độ vô biên, vì rất tôn quý hơn trong chủ thể hóa độ.
Thứ sáu, là thanh tịnh, nghĩa là tự tánh giải thoát, rằng ở vị hữu học, Vô lậu, gọi là tự tánh giải thoát.
Thứ bảy, là trong sạch nghĩa là giải thoát nối tiếp nhau, ở địa vị vô học.
Thứ tám, là phạm hạnh, nghĩa là tám chi đạo, là ba thứ giải phạm, như trước đã nói. Phải biết, đạo này đã được nói rõ là do bốn thứ tướng mầu nhiệm, thuần nhất v.v….
Văn này nói Phạm hạnh gồm bốn thứ như thuần nhất v.v…, theo thứ lớp giải thích, ba nghĩa trước riêng, không giải thích Phạm hạnh. Văn này được phân tích từng phần không đồng. Xưa nay thường nói phạm hạnh là chung, bảy phạm hạnh còn lại là riêng. Pháp sư Thái nói: “Dù nêu tám chánh đạo v.v…. Mà ở đây nêu đối tượng giải thích (sở thuyên) làm rõ giáo “năng thuyên”, vì nói khen vượt hơn chung.
Thứ tư, là giải thích Dục hữu có bốn câu. Dục cũng gọi là ái, cũng gọi là lạc, cũng gọi là Tín.
Thứ năm, giải thích hừng cháy, cũng có bốn câu.
Thứ sáu cũng có năm câu.
Thứ bảy, giải thích về Trần Xa v.v… có mười bốn câu. Luận sư Cảnh nói: “Nhơ, nghĩa là phẩm Trần xa kia, tức tâm sở đồng thời do kiến dứt trừ ngã mạn và phẩm kiến dứt trừ tất cả thô nặng không bao giờ có. Lấy chung kiến dứt trừ tất cả tùy miên, gọi là nhơ.
Nói Pháp nhãn, nghĩa là như thật hiện chứng, chỉ có pháp tuệ, nghĩa là chủ thể chứng chỉ có pháp tuệ không có nhân, gọi là pháp Nhãn.
Nói “Kiến Pháp” nghĩa là vì thấy như thật đối với khổ v.v…, nói là tướng kiến đạo.
Nói “Đắc pháp”, dưới đây là nói được quả Sa-môn. Nói biết pháp:
dưới đây là nói xuất quán, không thể do trí tha tâm v.v… mà biết, nên nói “không tự biết”. Được quả Sa-môn mà do đạo lý quán hạnh, biết tự đắc quả. Lại “Tự biết quả Dư lưu của ta v.v…, đạt được bốn tịnh không hư hoại.
Vượt qua “hoặc”, nghĩa là đối với tự chứng. Vượt qua nghi, nghĩa là đối với người khác đã chứng. Nếu có người chưa tự chứng, phần nhiều nghi “ngờ”, do tự nội chứng, nên vượt qua nghi “ngờ”.
Pháp sư Thái nói: “Câu đầu có hai lượt giải thích: Lượt dầu, trí của quyết trạch phần đã sinh, chưa được trí vô lậu rốt ráo. Ngã mạn trong địa vị này làm chướng hiện quán kiến đạo. “Hoặc” có gían đoạn khởi, “hoặc” không có gián đoạn khởi, gọi là vượt qua hạt giống của ngã mạn và hạt giống do kiến dứt trừ, đều gọi là nhơ.
Lượt sau, vượt qua là ngã mạn của tu hoặc và kiến hoặc hiện khởi. Nhơ, nghĩa là hạt giống của hai phẩm kiến, tu.
Câu sau cùng cũng có hai lượt giải thích: lượt đầu rất dễ hiểu. Lượt sau, trái với sinh tử của thế tục, thu hướng Niết-bàn thắng nghĩa, nên nói “kiến lập pháp hai đế”.
Thứ tám, là giải thích như bệnh v.v…, trước là nêu chung. Sau, là giải thích riêng. Ý hỏi: Vì sao trong kinh nói “như bệnh v.v… ”, không giảng nói quán kia, giống như bện nặng ư?
Đáp: Trước đáp chung nghĩa kia. Sau, là giải thích riêng bốn hạnh.
Trong phần trước nói “Nhưng người tu hành cho đến “quán sát quả kia”. Nghĩa là hành giả, trước quán khổ đế, tạo nên hành vô thường. Kế là, như thật quở trách, phá hủy việc kia, giống như bệnh v.v…, rất đáng nhàm chán, trái bỏ. Kế là lại quán vô thường, quán sát quả khổ, vì hành giả kia quán về vô thường trong hai thời gian ban đầu và sau, còn khoảng giữa thì quán bệnh v.v… ”. Nếu nói thẳng, thì quán kia cũng như bệnh nặng, thì sẽ không đồng với quán vô thường kia.
Kế là, trong giải thích riêng về bốn hành, đầu tiên giải thích vô thường. Nói “Vô thường cho đến “Vì đều lần lượt, nghĩa là quán một thân vô thường gọi là quán thân sanh, niệm niệm vô thường gọi là sátna. Sát-na xoay vần, nghĩa là do niệm kia vì cảm xúc thân kia khởi tận, nên niệm kia cảm thọ thân kia, khởi tận, nghĩa là xúc, thọ dù rằng đồng thời mà vẫn được nói là từ xúc sinh thọ. Lại, tương tự như nói niệm trước tương ưng với thọ. Xúc sinh ra xúc của niệm sau tương ưng với thọ.
Thấy sự nối tiếp nhau này, nghĩa là nói về quán xúc sinh thọ, chỉ là sự nối tiếp nhau, chẳng phải một sát-na, nên nói “ Thấy nối tiếp nhau” này. Do chẳng phải không hiện thấy, chứ chẳng phải “duyên” trí người khác, nghĩa là hiện thấy về khổ, nên nói “chẳng phải trí không hiện thấy, vì quán thân mình, nên nói “chẳng phải duyên” trí người khác.
Thứ hai, trong giải thích về nỗi khổ, trước nêu lên hai thứ. Sau, là giải thích riêng hai thứ. Trong đó, trước là giải thích các khổ như sinh v.v….
Nói “Do thấy sinh lần lượt có, nên ngộ nhập tánh khổ, nghĩa là mỗi niệm sinh diệt gọi là tánh khởi, tức là hành khổ. Kế là, giải thích ba thọ đều khổ. Văn này nói lúc khổ thọ sinh, khổ trụ khổ, nên khổ khổ, chẳng phải khổ, lạc thọ, xả thọ.
Mỗi niệm, diệt hoại, là giải thích hành. Hành kèm theo thô nặng, không được tự tại, gọi là khổ khổ, vì thể là pháp diệt, hoại, nên nói là khổ.
Trong đây trở xuống, lược giải thích thứ hai, đã diệt hoại, nghĩa là do vô thường, nên nói là khổ, đây là quá khứ.
Đã sinh khởi, nghĩa là vì pháp diệt hoại, nên cũng nói là khổ, đây là nói hiện tại.
“Pháp diệt, hoại này cho đến “Cũng gọi là khổ v.v…”, nghĩa là thể xả thọ củA-lại-da là pháp diệt hoại. Đôi khi khổ khổ đã theo đuổi, hoặc có lúc hoại khổ của lạc thọ theo đuổi. Theo đuổi một với hai khổ này đều sinh, gọi là tương ưng. Xả thọ này cũng gọi là khổ.
Vì sao phải quán trở xuống: là lượt giải thích thứ ba, nghĩa là do thọ này tham các tùy miên, do tùy miên nên thọ khổ ở đương lai. Trong hiện tại có công năng sanh lỗi lạc thọ duyên, nên sinh ưu não, nên sanh khổ hoặc. Nên quán lạc thọ như thế là khổ.
Sao lại phải quán khổ thọ như mũi tên? Vì rất thường xúc não, hư hoại, đây là quán khổ thọ.
“Chẳng phải khổ, lạc, thọ cho đến hai thứ khổ, lạc”, đây là quán xả thọ. Khổ khổ, khổ hoại, gọi là hai thứ khổ lạc.
Thứ ba, thứ tư, là giải thích “không” vô ngã, cách hành văn rất dễ hiểu.
Trong giải thích thứ chín có mười hai câu, cũng gọi là bày tỏ, cũng gọi là khai thị, cũng gọi là tỏ rõ v.v…, tức là gồm thu môn danh nghĩa khác. Xúc, nghĩa là hay xúc chứng.
Giải thích ngã thứ mười có tám câu: Ngã hữu tình v.v…, hoặc là thần ngã của ngoại đạo. Hoặc nói về giả ngã của pháp Phật. Tiếng phạm là Tát Đỏa, đời Đường dịch là Hữu tình. Hiền Thánh biết rõ chỉ có thức hữu tình, lại là vô ngã, v.v… nên gọi là Hữu tình. Tiếng Phạm là Ba-La-Noa, Hán dịch là Chúng sinh. Người xưa dùng danh từ “chúng sinh” phiên dịch Tát Đỏa ấy là lầm.
Tiếng Phạm là Ma-thố-Già, Hán dịch gọi là ý sinh. Vì từ ý sinh, nên là thân chủng loại của ý.
Ma Nạp Phược Ca, Hán dịch Nho đồng, hoặc phần nhiều dịch là Niên thiếu. Những danh từ này là tên khác của Thần ngã, vì tuổi thịnh vượng, ý tự tại, cao, thấp, xưa nói Ma-Nạp-lược.
Dưỡng dục, nghĩa là tạo nghiệp, chiêu cảm quả báo. Quả của con sinh nhau, là nghĩa thấm nhuần, gọi là nuôi nấng (dưỡng dục).
Thứ mười một, giải thích nghĩa dứt trừ, tìm văn, rất dễ hiểu.
Thứ mười hai, là giải thích về sanh tử đã hết, có hai lần “lại nữa”:
Đầu tiên là giải thích sanh tử của ta đã hết để giải thích bốn quả, ba câu còn lại chỉ ở Vô học ở sau. Giải thích như văn.
Nói “ bốn thứ thọ ký là giải thích rõ về hành tướng, tức là sanh tử đã hết v.v…, gọi là bốn thứ hiểu rõ, vì người khác nói, nên nói là thọ ký.
Thứ mười ba, giải thích về trời, thế gian: Trước giải thích văn tụng. Sau, giải thích rải rác văn kinh.
Trong phần trước nói “Đều là trời, thế gian” là câu chung.
“Ở đây có hai thứ”: trong giải thích bài tụng này, đều là trời, đời, chúng sinh, ở đây có ba thứ.
2. Theo trong nhiếp sự phần có ba thứ:
1. Đều là Ma, Phạm có hai.Ma, tự tại trong cõi Dục.
Phạm, tự tại ở Định.
2. Đều là hai chúng sinh: Sa-môn, Bà-la-môn, nghĩa là sinh ở trong cõi người, người hy vọng sanh lên ma phạm, mà tu hành.
3. Đều là hai sinh: Chư thiên, Người, nghĩa là ở trong tời trừ ma và phạm, lấy trời khác. Ở trong người, trừ Sa-môn, Bà-la-môn, lấy người khác.
Nói “Như thế tổng kết giải thoát, ba Phược xuất ly dục tham”, nghĩa là những người như thế, không giải thoát ba phần Phược là tham, sân, si, nói La-hán không đồng với họ, nên nói thoát ba phược. Dưới đây trong giải thích rải rác văn kinh, có mười câu.
Tỳ-nại-da là điều phục. Vì hàng phục, dứt trừ hiện hành, nên nói, do hai tác ý thắng giải liễu tướng.
Dứt trừ, nghĩa là do xa lìa, gồm cả rốt ráo Gia hạnh lạc.
Siêu việt, nghĩa là do tác ý của quả phương tiện rốt ráo. Văn còn lại rất dễ hiểu.
Thứ mười bốn là giải thích về năm câu như Y v.v…. Y, là năm thủ uẩn, nghĩa là chúng sinh tự nương tựa năm uẩn và sự thọ thuộc về bảy thứ, tức là cha, mẹ v.v… Lại bên ngoài, dựa vào cha mẹ v.v…. Nói thủ nghĩa là các dục tham, cũng gọi là thủ: tham là thể của bốn thủ.
Đây là y cứ ở “năng thủ”, gọi là “thủ”, nên nói là Tham, nếu y cứ ở “sở thủ” gọi là thủ, thì: 1- Chấp lấy các kiến; 2- Chấp giới quạ, gà v.v…; 3- Chấp ngã kiến và ngã sở chấp; 4- Chấp năm dục. Nếu y cứ ở “sở thủ”, gọi là thủ, thì nói bốn cảnh, gọi là bốn thủ. Việc này như phần nhiếp sự của văn dưới sẽ nói:
“Do không an lập và an lập, nên nói có bốn thủ”. Luận sư Cảnh nói: “Người tại gia chỉ khởi dục thủ, không an lập hai thủ: kiến, giới thủ. Xuất gia, ngoại đạo khởi kiến thủ, giới thủ, gọi là an lập. “Ngã ngữ thủ” không an lập và an lập, chung cho tại gia, xuất gia đều khởi, nên có bốn. Việc này như nhiếp sự phần đã nói.”
Pháp sư Thái nói: “Dục thủ là gốc, nên gọi là không an lập riêng, ba thủ còn lại gọi là an lập riêng. Do không an lập và an lập, nên có bốn thủ.
Nói chấp mắc: nghĩa là các phiền não hay hướng đến nơi nương tựa, tức gọi là triền v.v…. Phiền não hiện hành hay thu hướng về y, mẹ, tức gọi là ràng buộc hiện hành phiền não có công năng thú hướng năm uẩn kia và cha ẹm tức gọi là ràng buộc. Phẩm thô nặng kia, gọi là tùy miên.
Như thế, gọi là nương tựa: 1- Gọi là thủ; 2- Gọi là chỗ nương tựa của tâm; 3- Gọi là chấp mắc tùy miên; 4- Đây là theo thứ lớp kết bốn môn trước. Ở đây có thân thức và trong tất cả tướng bên ngoài v.v… đến “trong tướng cảnh giới, là nói trong thân hữu thức, có hạt giống của bản thức, có công năng làm nhân duyên cho ngã mạn v.v… và làm duyên cho cảnh giới. Hạt giống trước đối với hạt giống sau, là nhân duyên đồng loại. Cho nên thân thức cũng làm nhân duyên cho tùy miên. Tất cả tướng khí giới bên ngoài, chỉ làm duyên cảnh giới cho ngã, kiến, mạn v.v…. Lại, do “duyên” khí thế giới bên ngoài kia, vì huân tập thành hạt giống, nên đối với tùy miên nọ, cũng là xa làm duyên cho cảnh giới.
Thứ mười lăm, giải thích về chấp ngã, ngã sở v.v…, ngã mạn, đa số là ngoại đạo khởi. Hạt giống ngã mạn nội đạo, ngoại đạo đều có.
Kế là, có một bài tụng nêu mười môn để nói rộng ở trước.
Trong văn xuôi, đầu tiên, là theo thứ lớp, giải thích rộng. Ban đầu, giải thích Như lai v.v…, trước nhắc lại chỉ ra kinh nói. Kế là giải thích nghĩa kinh đó. Sau là phân biệt chung.
Y cứ trong phần giải thích, chỉ giải thích về tám danh hiệu, không nói hai danh hiệu: Chánh biến tri và Như lai.
Ứng nghĩa là vì xứng đáng nhận cúng dường, có giải thích: “Âm Phạm chỉ gọi là Ứng. Cho nên, dùng “ứng cúng dường để giải thích về tên “ứng” kia.
Nay, giải thích có nhiều nghĩa: lại nêu một nghĩa để giải thích:
“Giá hành, hành hành, thảy đều viên mãn”: Như căn kia, hoặc ngăn ngừa, hoặc gìn giữ môn căn, gọi là “giá hành”. Ba nghiệp tu tạo, gọi là “hành hành”.
Lại nữa, “Bốn thứ cho đến “thảy đều viên mãn”, nghĩa hiện lạc viên mãn của tâm tăng thưọng của bốn thiền.
Trước là hành hành: Trước nói giá hành, hành hành, gọi là chung là hành. Sau là trụ hành, nên gọi là trụ hành, thân thanh tịnh v.v… trong đây, hiện hành chánh mạng là hành viên mãn. Kín đáo giữ gìn căn môn, là gia hành viên mãn, có thể biết.
“Do hai thứ này cho đến “Pháp không quên mất”, nghĩa là do hành hành, nên chứng tỏ ba không giữ gìn. Do “giá hành” nên làm rõ không có quên mất. Do không gây ra lổi, tĩnh lự thế gian, ngăn ngừa tự khổ hạnh. Tĩnh lự thế gian là đạo vui. Ngoại đạo thực hành khổ hạnh, gọi là tĩnh lự lỗi.
Nay, nói Đức Như lai, do không tạo tĩnh lự thế gian lỗi, ngăn ngừa khổ hạnh, nên gọi là “ngăn ngừa tự khổ hạnh”. Lại, giải thích: “Do không tạo lỗi, vì định xuất thế, nên gọi là ngăn ngừa tự khổ hạnh.
Nói “Lại, đối với tự tánh của các pháp thế gian”, nghĩa là pháp từ duyên sinh. Nhân duyên: là năng sinh. Nhân duyên lỗi lầm của vị ái, nghĩa là do vị ái, nên khởi các lỗi lầm.
Xuất ly: Lìa dục hạnh, nghĩa là do thấy lỗi lầm, nên có thể lìa dục, có thể hướng về hạnh v.v… : Do thấy trong sinh tử, hướng đến tự tánh của các pháp trước, nhân “duyên” các tai hại lỗi lầm của vị ái, nên tâm nhàm, trái, thu hướng hạnh tam- Bồ-đề v.v…, gọi là “thu hạnh”. Đức Như lai đều biết khéo về “thu hạnh” này, gọi là “thế gian giải”. Dưới đây là phân biệt chung.
Nói “ Trong đây, Như lai cho đến “Là đức không chung, nghĩa là hai chướng không có nơi chốn, về lý vô vi thì đồng, gọi là đức chung. Từ câu “ngoài ra, minh hạnh viên mãn v.v… là đức không chung, với công đức hữu vi, Chư Phật đều thành tựu, riêng thuộc về Phật, gọi là bất cộng. Có chỗ giải thích hai chướng là vô vi, ba thừa đồng được, nêu gọi là công đức. Ba minh, v.v… Nhị thừa tùy phần thành tựu không bằng Như lai, nên gọi là không chung (không bằng giải thích trước).
Thứ hai, là giải thích về tưởng vô thường. Trước, chia ra bốn môn:
- Tu.
- Tu quả.
- Tu sai khác.
- Tu phương tiện.
Nói “Đối với tưởng vô thường trong Tố-đát-lãm, tu, nghĩa là hoặc tu hoặc tập: Theo Tố-đát-lãm, che lấp tu tưởng vô thường.
Tu quả: Tất cả dục tham, nói rộng. Nghĩa là do tu tưởng vô thường, nên nhập “không quán”, dứt trừ tất cả tham, gọi là tu quả. Đây là nêu tham dục đã lìa, nói về nghĩa trạch diệt, là tu quả kia. Tu sai khác, nói là thí dụ khác nhau, nghĩa là vì nhân tu tưởng vô thường, nên còn thực hành quán khác, gọi là tu sai khác.
Tu phương tiện, nghĩa là trụ nơi A-luyện-nhã, rất dễ hiểu.
Kế là, giải thích riêng bốn môn:
Trong giải thích môn đầu, trước giải thích về hoặc tu, hoặc tập, hoặc tu tập nhiều, có hai lượt. Sau, giải thích rải rác trong kinh, sáu câu là xứ, là sự v.v…, trong đó, trước, giải thích sáu câu theo thứ lớp. Sau, giải thích lại hai câu năm, sáu, gồm có ba lượt. Vì thuận theo dục tham, nên nói về điệu cử dưới đây:
Kế là, giải thích môn thứ hai, Sắp muốn nói về quả. Trước nêu chướng kia:
“Thuận theo dục tham, nói điệu cử v.v… ”: Cõi Dục tán, động, gọi là điệu cử. Cõi Sắc trì lại định, khởi mạn. Vô Sắc tham, thuận với vô minh, tức là nhiễm sắc, nhiễm của Vô Sắc, điệu cử, mạn, vô minh là năm kiết phần dưới. Lỗi này đã dứt trừ.
Nói “nhổ bỏ căn bản”, nghĩa là vì dứt tùy miên: cắt đứt hạt giống.
“Bẻ gẩy nhánh nhóc” cho đến “Vì không tăng trưởng, nghĩa là phiền não của địa dưới, vì cầu có báo, nên tu phước phần thiện. Do dứt phiền não, pháp thiện của phần phước không tăng.”Do tưởng vô thường sở duyên cho đến “vì quán vô thường”, nghĩa là tưởng cảnh chỉ quán, chỉ bày vô thường.
Đài các: Giải thích môn thứ ba, giải thoát “câu hành” v.v…, nghĩa là quả vô học.
Rường cột, nghĩa là người kia dựa vào nhân, là nhân ở trước.
Dấu vết của voi, nghĩa là dấu vết voi là hơn hết trong các dấu vết. Tưởng vô thường là hơn hết trong các tưởng. Tưởng vô thường của vô học thứ nhất, với cảnh rộng, thông suốt, như vua Chuyển Luân vương. Tưởng vô thường của người học hẹp, như thành vua nhỏ. Cũng có thể loại trừ tưởng vô thường, các tưởng khác v.v…, như thành vua.
Lại, “hoặc ở A-luyện-nhã” v.v… trở xuống, là giải thích môn thứ tư:
Nói “Chỉ có tánh vô thường hữu sắc v.v…”, nghĩa là bốn uẩn vô thường, các Bộ đều nói chung, một thứ sắc uẩn.
Có thuyết nói: “Vào lúc kiếp sơ, thời kỳ kiếp sinh, hoại, diệt, trung gian thường trụ”.
Vì phá chấp này, nên nói “Chỉ có sắc vô thường v.v… ”.
Thứ ba, giải thích Để-sa: Để-sa, là tên vì sao. Có Tỳ-kheo đặt tên mình từ ngôi sao, có tên Để-sa. Đức Phật vì Để-sa nói bốn thứ đến đạo, chướng hai thứ đạo v.v…. Lại, nói: “Bà Sa Ba mươi quyển có Để-sa, Phạm thiên”. Luận sư Cảnh nói: “Nói bốn chướng:
- Nghi.
- Tà Tầm, Từ.
- Tà phần Tầm, Từ.
- Tà phần Kiến hành.
Hai đạo: Là Chánh đạo, tà đạo. Chỗ khác là tà đạo. Dưới đây là giải thích rải rác văn kinh:
Phẫn nộ và khổ não, đồng là loại phẫn nộ là một.
Không vui, là sự giận tạp nhạp, đây là thứ hai. Hai thứ này cũng như cái hầm, khe suối.
Kế là, nói mạnh mẽ, nhạy bén, nghĩa là ở trong rừng rậm sâu. Phiền não mạnh mẽ nhạy bén đều ở trong rừng rậm. Dù bỏ cha mẹ, vợ con, bảy thứ sự đã nhiếp thọ, mà do phiền não vì đều tham luyến, nên không thể bỏ. Việc này có chỗ giải thích:
Nói có bốn chướng:
- Nghi.
- Tà Tầm, Tư.
- Tà phân biệt Tầm, tư.
- Tà phân biệt kiến hạnh.
Hai đạo: 1- Khổ não; 2- không vui. Hai thứ này như cái hầm, khe suối. Dưới đây, là giải thích về lời nói v.v…. Dù đi vào núi rừng để tu đạo, bỏ bảy sự nhiếp thọ, mà không thể bỏ lợi dưỡng, cung kính. Do hai nghĩa này nên khổ não không vui, không bằng giải thích trước.
Thứ tư, giải thích về sự sợ hãi có thể biết.
Thứ năm, là giải thích vô vi. Tên khác của không lay động là phân biệt, gọi là môn nhiếp khác.
Thứ sáu, là giải thích “không”. Ngã nào sẽ “không” ngã sở? Cái gì sẽ “không”? Là nêu văn kinh. Hoặc là ngã giả của pháp Phật, hoặc là ngã mà ngoại đạo đã chấp thật có.
Ngã sở sẽ “không” v.v…, nghĩa là y cứ ở đời vị lai cho đến “Vì mong cầu bất sinh”: uẩn của mình ở vị lai rằng: “Ngã nào sẽ “không” gọi là mong cầu sinh? Khí thế giới ngoại ở vị lai, “ngã sở” nào sẽ “không”, để được gọi là mong cầu bất sinh?”
Lại nữa, biểu thị rõ mong cầu, vì dựa vào bất sinh. Vì sắc là y chỉ của sự mong cầu. Trên sắc uẩn đã được nương tựa ở vị lai, nói ngã nào sẽ “không”?
Lời nói và mong cầu đều dựa vào sắc kia, vì cảm thọ bất sinh, trên thọ uẩn ở vị lai, nói “ngã sở” nào sẽ “không”, nên nói là mong cầu bất sinh. Ngã sẽ “không”, ngã sở cũng sẽ “không”, nghĩa là y cứ ở đời hiện tại mà nói. Trước nói: “Ngã nào sẽ “không”, Ngã sở nào sẽ “không”? Nay sao không nói thẳng rằng: Ngã sẽ “không”, Ngã sở sẽ “không”, chỉ nói y cứ ở đời hiện tại là khác, như ở trước đã dựa vào “ngã” “pháp”, lại làm hai lượt như trước đã dẫn.”
Nói “Đây là quán vô thường diệt, quán trước ở nơi trạch diệt”, nghĩa là nói hai quán khác nhau. Lại, quán trước vì chỉ có hy vọng, nên quán sau do quán tánh vô thường đối với nhân hiện tại. Nghĩa là nói lại hai quán khác nhau.
Thứ bảy, là giải thích về không nối tiếp nhau, như văn.
Thứ tám, là giải thích về “không”. Nói diệt, nghĩa là vì dứt trừ các phiền não khác, là Niết-bàn hữu dư, nói Niết bàn nghĩa là Niết-bàn vô dư.”
Thứ chín, giải thích vô thường. Pháp có tận, nghĩa là vì một phần tận, là quá khứ. Pháp có mất nghĩa là vì hoàn toàn mất, là rơi vào ba đời, ba đời đều mất. Lại, pháp có tận, nghĩa là vì toàn phần diệt, nói là pháp ba đời đã tận, sẽ tận và hiện nay đang tận. Pháp có mất nghĩa là nối tiếp nhau đổi thay, hư hoại. Hai giải thích có khác: Pháp có lìa dục, nói là tương ưng với tai họa lỗi lầm, nghĩa là có riêng nghĩa lìa. Pháp có diệt, nghĩa là tất cả pháp hữu vi đều có xuất ly.
Thứ mười, là giải thích vô dư, chung câu của vô dư đoạn, còn có câu riêng, lại là pháp nhiễm của ba đời, rất dễ hiểu.
BẢN LUẬN QUYỂN 84
Dưới đây có một bài tụng nêu chín môn, nói về thuyết rộng ở trước.
Trong văn xuôi, giải thích rộng theo thứ lớp. Đầu tiên, giải thích ba thứ dục. Luận sư Cảnh nói: “Trong đây, dùng ba thứ môn, để quở trách dục. Trước, y cứ ở bốn điên đảo, nhằm quở lỗi lầm của các dục. Kế là, nêu tám dụ, để quở trách dục kia. Sau, y cứ vào bất tịnh v.v… để quở lần nữa dục kia.
Phần đầu nói “Các dục vô thường, giả dối, không thật”, là nhắc lại văn kinh. Rằng, đối với các dục, nói rộng về điên đảo v.v… nghĩa là nói về ý Phật nói. Dưới đây, sẽ y cứ vào bốn điên đảo, là giải thích văn kinh.
Kế là, nêu pháp giả dối, sự huyễn, đã lừa dối, mê hoặc người ngu v.v… trở thành bốn thứ điên đảo trước. Kế là, trong phần nêu tám dụ, thí dụ xương khô, vì khiến không có no. Như con chó gặm mẩu xương khô, chỉ nuốt ở mõm, mặt, không có cái gì được no bụng. Các dục giống như khúc xương khô kia. Dưới đây, sẽ y cứ vào bất tịnh v.v… quở trách lại sự hôi hám, nhơ nhớp.
“Các thức ăn được thọ dụng vì đã đổi thay, hư hoại thành”, nghĩa là đoạn thực ở trong bụng, được tiêu hóa, tan rả mới thấm nhuần.
Pháp sư Thái nói: “ Dục có ba thứ:
- Vô thường.
- Giả dối.
- Không thật.
Thứ hai, giải thích về thưa hỏi: Thưa hỏi lập ra cúng dường. Thỉnh là thưa thỉnh vì muốn nghe chánh pháp, dứt trừ tham v.v… mong cầu quả thánh v.v….
Thứ ba, là giải thích pháp, có bốn mươi lăm câu, trong đó có chung bốn thứ pháp: Lý, giáo, hạnh, quả, với nghĩa văn khéo léo, mầu nhiệm, tức là giáo pháp. Hiện thấy là lý, không có nóng bức là quả, lúc nào cũng là như lý. Các người có trí biết rõ pháp bảo hạnh bốn đế v.v….
Thứ tư, là giải thích về tăng, có năm đoạn:
- Giải thích năm câu, như chánh hạnh v.v… sáu pháp vững chắc tức sáu hòa kỉnh.
- Giải thích sáu câu như Đại sư, đệ tử.
- Bốn câu như giải thích tựa v.v….
- Năm câu như giải thích khéo thấy
- Ba câu như giải thích bậc Thánh v.v….
Thứ năm giải thích về Tuệ thí có chín câu.
Thứ sáu, giải thích về sự nhàm chán có ba câu.
Thứ bảy, giải thích Phạm chí. Trước giải thích rải rác năm câu. Sau, phân biệt chung có hai lượt.
Trong lượt trước, nói: “Hiện tại, vị lai gọi là “có” nghĩa là vì sẽ hiện hữu. Quá khứ, gọi là “chẳng” phải có: “Vì pháp đã diệt. Do các câu này quán sát, không cò điên đảo, là tướng của Bà-la-môn.
Đầu tiên nói: “Đây là Bà-la-môn, nghĩa là rốt ráo, đến bên kia bờ, Vì dứt sạch các điều ác, đây là tướng của Bà-la-môn kia.
Kế là, có bốn câu, quán sát không có điên đảo tướng của Bà-lamôn, trong đó, ba câu chỉ rõ nhiều môn. Và chánh trí quán sát tướng của môn kia. Nghĩa là không có do dự, dứt trừ điều xấu ác, lìa các thứ tham. Hoặc không tu tập đúng phẩm thiện.
Lại chỉ bày rõ một câu thứ tư, để quát sát tướng của môn kia, tức có chấp mắc về “chẳng phải có”, không có tùy miên.
Nói “chấp mắc trong đây”, rằng, tám thứ chấp mắc, tạo nên chấp mắc lo rầu trong “chẳng phải có”, nghĩa là ưu sầu trong “phi hữu” ở quá khứ, bởi vì đeo đuổi cái lo. Trong cái “có” của đời hiện tại, có năm thứ chấp mắc. Trong cái “có” ở vị lai, tạo tác nên hành động, như văn. Nói “Tổng cộng cả ba xứ, tác động rất dày, nặng, tạo nên vị rất ngọt. Ba xứ, tức ba đời ở trước. Ở ba đời trước, vì chấp mắc, khiến tác động tất nặng, tạo nên hai vị rất ngọt.
“Lại có khác nhau v.v… trở xuống, là lược giải thích thứ hai. Nói “ Đối với thọ ký đã giải thích, vì dứt trừ nghi hoặc, tức là không có do dự v.v…. Tất cả đều quên mất trong việc đã làm, vì đoạn pháp hạnh, tức là dứt trừ các ác tác, vì đối với sự việc nên làm, đều làm v.v….
Dứt trừ nhân khổ ở vị lai, tức là lìa các tham ái, nghĩa là vì không ưa thích lợi dưỡng cung kính.
Vì dứt trừ nhân khổ thô, nặng, tức là chấp mắc về “có”, “chẳng phải có”, không có tùy miên, nghĩa là vì tùy miên dứt hẳn.
Nói “có”, nghĩa là đối với các tướng thuộc về ba cõi, tác ý rằng “chẳng phải có”, đối với cõi vô tướng, tác ý tư duy, đây là giải thích về có, không có, phải biết rằng, khác với ba đời trước: là nói về “có” “không”.
Nói “chấp mắc”, nghĩa là tham, sân, si trong nghĩa này chính là nêu ra thể.
Hỏi: Vừa rồi “nói “có”, nghĩa là tác khởi chấp mắc tham v.v…, về nghĩa này có thể đúng. Nói “chẳng có”, nghĩa là tác ý tư duy về cõi vô tướng, tức là tâm vô lậu, làm gì có khởi chấp mắc tham v.v…, mà nói là chấp mắc trong “chẳng có” ư?”
Giải thích: “Như nhập định vô tướng, các người hữu học tùy tham hiện hành v.v…, vẫn có tùy miên, nên nói là chấp mắc “có”. Về nghĩa này chỉ nói người học, không nói La-hán đã dứt hết tất cả tùy miên.
Nói bốn thứ tạp nhiễm: Tầm, tư là một, hí luận là hai, chấp mắc là thứ ba, tưởng là thứ tư. Hai thứ trước là phẩm xuất gia, hai thứ sau là phẩm tại gia. Do có chấp mắc tùy miên, nên ba độc kia được sinh khởi. Các người xuất gia do nhớ nghĩ lại cảnh mà mình đã từng trải qua, nên có tầm, từ. Người tại gia cứ nhớ mãi việc vợ con, nên có Tầm, Từ.
Thứ tám, là giải thích về vô thường. Nói “Phải biết trong đây, văn lược của Tăng nhất, nhằm nói rõ chướng ngại khác nhau như vô thường v.v…, sự khác nhau là về sau”. Luận sư Cảnh nói: “Văn lược của Tăng Nhất, tức là đoạn văn bị tổn hại bởi năng lực của vô thường. Trong văn của địa Thanh văn, thêm vào văn này.”
Pháp sư Thái nói: “Chín văn lược trong Tăng nhất A-hàm, y cứ vào sự khác nhau của dục, vô thường v.v…, nhằm nói về quán vô thường, có chướng khác nhau, là văn sau cùng.”
Nói “quán sát như lý”, đây là nói chuyển hai pháp không có điên đảo, hai pháp định tuệ không có điên đảo mà chuyển, nên nói là “như lý’.
Thứ chín, giải thích sắc như đống bọt, là nói tư duy đến nước, của vị uống, ăn mà sinh ra. Nghĩa là do lo nghĩ đến thức uống, ăn, trong miệng, nước rịn ra, tức là sắc uẩn khô, cũng như đống bọt, vì thêm, bớt một cách nhanh chóng. Văn còn lại dụ về huyễn hóa, tìm đọc có thể biết.
Trên đây, là giải thích về phẩm bạch đã xong.
Dưới đây, là giải thích phẩm Hắc, trong đó: 1- Kết trên, sinh dưới. 2- Chia chương, giải thích riêng. Trước, bài tụng nêu chín môn.
Chia riêng tham, sân, si, tức thành mười một môn.
Kế là, Văn xuôi giải thích, gồm có chín đoạn:
Đoạn thứ nhất, giải thích sinh hữu, có mười câu:
Nói sinh, nghĩa là kiết sinh ban đầu, tức phần vị danh sắc. Về mặt đạo lý, kiết sinh, nên gọi là Thức, mà nói là danh sắc, có ba nghĩa để giải thích:
1. Giải thích: “Là đại khái có hai giải thích: Danh sắc, thời gian dài. Chi thức, một niệm, vì ít theo nhiều, nói chung là danh sắc.
3. Giải thích: “Ở đây đồng với Đối Pháp. Luận ấy nói”. Hành, thức và Hữu, gọi là nghiệp tạp nhiễm. Sáu chi danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, sinh, già, chết, gọi là sinh tạp nhiễm. Vô minh, ái, Thủ, gọi là phiền não tạp nhiễm.
Nay vì y cứ nghĩa này, nên nói “kiết sinh ban đầu”.
Tức là phần vị danh sắc.
Thứ hai, là giải thích về già có mười bốn trường hợp.
Thứ ba, là giải thích về chết có tám câu.
Xứ tâm khác tồn tại, nghĩa hai thứ Thọ, Noãn ở trên, dưới đều xả.
Xứ của hữu tâm khác đã được lập.
Thứ tư, là giải thích về Tàng v.v… có mười lăm trường hợp.
Chấp ngã gọi là tàng, nghĩa là tâm chấp ngã năng cất giấu ở cảnh. Hoặc bị cảnh nhiếp thọ cất giấu.
Thứ năm, là giải thích việc đáng mừng v.v… trong đó, trước là giải thích việc đáng hớn hở v.v…. Sau, là giải thích việc đáng mong muốn v.v….
Trong phần trước, hai lượt giải thích rằng sự cảnh giới, nghĩa là cảnh đáng ưa. Sự lãnh thọ, nghĩa là lãnh thọ sự an vui.
Thứ sáu, là giải thích phiền não. Nếu theo Đối Pháp, thì có hai mươi lăm môn. Nếu theo văn trong quyết trạch của Du-già, thì chỉ có hai mươi bốn môn. Nay trong văn này đếm được ba mươi tám môn. Ba mươi môn trước, chỉ nói về môn khác của pháp phiền não. Tám môn sau, lấy chung phiền não và nghiệp, gọi là chung là phiền não.
Trong giải thích về chín kiết, 1- Nêu năm nghĩa nhằm giải thích về nghĩa kiết kia. 2- lý do Chế lập.
Nói “Đối với năm thứ sự, vì có thể hòa hợp, nên gọi là kiết: Hoặc “sở kiết” hợp với “năng kiết”, hoặc “năng kiết” hợp vớ “sở kiết”.
Nói “Trừ bảy tùy miên, tất cả tâm pháp nhiễm ô khác đều là tùy phiền não: “Có chỗ nói: “Tất cả triền, đều là tùy phiền não, nói chung do tướng xoay vần theo nhau khởi. Nay trong văn này, chỉ có một thuyết nói: “Triền có tám thứ nói là Vô Tàm, nghĩa là trừ phẩn, phú”. Theo nhiếp sự phần dưới rằng: “Vô tàm, Vô quí, che lấp giới học, hôn trầm, thùy miên, ngăn che định học, điệu cử, ác tác, chướng ngại, tuệ học, keo kiệt, ghanh tỵ gây chướng ngại đối với tài, pháp mà Bồ-tát thọ dụng. Phẩn, phú đối với ba học trước và đồng thọ dụng của pháp, chẳng phải chướng ngại. Cho nên không nói.
Trong giải thích về gốc cây, chiếc xuồng, Luận sư Cảnh nói: “Gốc
cây chiếc xuồng tức là ba thứ như tham v.v…. Gốc cây của năm tâm, tức là trồng năm tâm, dưới đây nói: “Vì tham v.v… khác nhau, nên nói có ba, là môn ba độc.
Có chỗ giải thích: “Gốc cây, chiếc xuồng có hai:
- Năm thứ, tức là sự trồng của năm tâm.
- Ba thứ, tức là tham v.v….
Nễ-Già, là tiếng Phạm đời đường dịch là thường lưu chú, (thường chảy rót). Hoặc dịch là thường hại, cũng là ba thứ như tham v.v…. Mũi tên đã có rễ của hạnh ác, đều là ba thứ như tham v.v…. Sự nghèo thiếu, nhiễu não cũng là tham ba. Tìm văn có thể biết.
Rừng rậm cũng là tham v.v….
Trên đây, trong ba mươi môn, chỉ nói câu phiền não kiến lập. Tám môn dưới đây, sẽ y cứ chung phiền não và nghiệp ác để lập. Tám môn gồm:
- Ái Thi-la.
- Gọi là pháp ác.
- Mục rã bên trong.
- Sản sinh.
- Thủy sinh: ốc sên.
- Tiếng ốc, chó đi.
- Dối Xưng Sa-môn.
- Dối Xưng phạm hạnh.
Văn có hai lượt: Trong lượt đầu, nói Đột Thi-la là giới mát mẻ, Đột là trái hại, cũng gọi là xả. Ái thi-la này há không chung cho nghiệp Thân, Ngữ hay sao?
Nói sản sinh phẩm hạ: Là tiền bạc, sản nghiệp phẩm hạ. Không có bảy tài sản thiện, chỉ có nghiệp ác phiền não, tiền bạc, sản nghiệp phẩm hạ.
Tiếng óc, chó đi, từ dụ được tên, thí như có con chó, tiếng sủa trong trẻo, giống như tiếng ốc mà làm chó đi. Tỳ-kheo xấu ác cũng thế, nói thiện mà làm ác.
Mùa mưa trong năm, là hạ lạp.
Lượt thứ hai, là giải thích lại, rất dễ hiểu.
Lại, có gọi là tham v.v… trở xuống, lại có nhiều việc lộn xộn, chỉ đồng với thuyết sau.
Nói gà quay. Pháp sư Thái nói: “như gà quay sống. Nỗi khổ vô thường cũng thế, nên nói là gà quay.”
Luận sư Đạt nói: “dụ cho Tỳ-kheo phá giới”.
Thứ bảy, là nói rộng tham, sân, si tự tại có ba đoạn:
1- Giải thích tên khác của tham, có bốn mươi chín câu.
Nói bảy kiêu hãnh, ở đây có hai giải thích:
2- Giải thích tức là sắc, lực, tài năng v.v…, có thể dẫn văn trước, y cứ cảnh để nói về sự kiêu hãnh.
3- Giải thích: “Vì Đẳng lưu của bảy mạn, nên nói rằng bảy kiêu.
Có chỗ giải thích: Kiêu của ba cõi, gọi là ba kiêu.
Lại giải thích: “Kiêu, do ba độc khởi”.
Có chỗ giải thích: “”không có ba bệnh như kiêu v.v… ”.
Nói “Vết nhơ bên trong”, trở xuống, là thứ hai, giải thích về sân có bốn mươi mốt câu, lược thành ba mươi hai câu.
“Vô trí ở mé trước v.v… Trở xuống, là thứ ba giải thích về si, trong đó, trước, nói về sự khác nhau của mười chín vô minh. Sau, giải thích về danh, nghĩa của vô minh.
Nói “Và phần có đối v.v… trong câu hắc bạch có phần hắc bạch đối nhau, nói là đối phần trở xuống, trong giải thích danh, nghĩa, có ba mươi hai câu.
“Đối với kia, đối với đây v.v… ”, nghĩa là đối với biết không như thật như đã nói, nên nói rằng, đối với điều chưa nói kia, vì không biết như thật, nên gọi là ở đây, cũng có thể chung với đây.
Thứ tám, giải thích ba câu như ít v.v….
Thứ chín, là giải thích ba câu của môn khác v.v….
Nhân là lý do như thế, gọi là v.v… trở xuống, là đoạn văn lớn thứ ba, giải thích xong, tổng kết.
Trong các kinh, tùy thô, hiển của kinh, lược chỉ bày trường hợp khác nhau. Ngoài ra, còn có vô lượng câu, phải suy nghĩ lựa chọn.
BẢN LUẬN QUYỂN 85
Sự hành trạch của Khế kinh trong nhiếp sự phần, thuộc “một” phần trong thứ nhất.
Trên đây, đầu tiên là Tông của Bản địa phần nói về nghĩa của mười bảy địa. Có chỗ bất liễu nghĩa khác trong mười bảy địa cần phải phân biệt.
Kế là, thứ hai, nói về phần quyết trạch. Dù phân biệt quyết định lựa chọn trong nghĩa, nhưng vẫn chưa phân biệt, giải thích kinh pháp, nên kế là thứ ba, nói về Nhiếp trạch phần.
Dù nói soạn luận, giải thích pháp dụng, nhưng chưa nói về danh, với nghĩa của các pháp, đều có nhiều thứ, nên kế là, thứ tư, nói về nhiếp thu môn khác lạ. Dù nói về các thứ nghĩa văn của môn khác, nhưng chưa nói về bản tạng, chỗ nương tựa của nghĩa văn, nên kế là thứ năm, nói về phần nhiếp sự, nghĩa là về phần này, vì đem giáo ba tạng Nhiếp thu sự hành trạch v.v… đã nói, nên nói như thế. Phần này nói đủ ba tạng, trước giải thích Khế kinh. Trong khế kinh có bốn lựa chọn:
- Nói năm uẩn là hành trạch, vì là hành hữu vi.
- Là xứ trạch (Lựa chọn xứ).
- Nói về duyên khởi Đế ăn và lựa chọn cõi.
- Là lựa chọn pháp phần Bồ-đề.
Nay, trong ba Tạng, trước nói về Khế kinh, trong bốn lựa chọn, trước nói về lựa chọn hành, gọi chung là lựa chọn hành thứ nhất. Trong bốn quyển, quyển này ở đầu, nên nói trong một văn, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Kế là, chính là quyết định lựa chọn. Sau, kết khuyên, nên hiểu rõ.
Trong chính thức quyết định lựa chọn, 1- Chia ra ba Tạng. 2- Giải thích theo thứ lớp tức là ba đoạn:
Đầu tiên, có mười bốn quyển, nói Tạng thứ nhất. Kế là, có một quyển rưởi nói về Tạng thứ hai. Sau, nữa quyển thứ một trăm, nói về Tạng thứ ba.
Y cứ văn trong Tạng đầu, được chia làm hai:
- Nêu kinh đã giải thích.
- “Từ đây về sau v.v… trở xuống, là nói về chủ thể giải thích Ma-đát-lý-ca.
Trong phần trước có hai: Trước là gạn nêu hai mươi bốn kinh. Sau, giải thích theo thứ lớp.
Phần trước sở tác của thời gian trước. Pháp sư Thái nói: “Vì một bộ phận đã nói trước, nên nói rằng, việc đã làm (sở tác) của thời kỳ trước.
Trong giải thích thứ lớp, trước, làgiải thích riêng bốn kinh, tức là y cứ ở Bộ để lập riêng. Sau, khuyên chung biết hai mươi thứ kia, tức là y cứ ở nghĩa để lập kinh. Bốn kinh trước là gốc, hai mươi là ngọn. Nói lại bốn kinh trước cũng gồm thu hai mươi sau. Hai mươi sau cũng gồm thu bốn kinh trước.
Trong giải thích bốn kinh, nói dựa vào năm nhóm phạm và nêu ra nằm nhóm phạm nói lỗi.
Một trăm năm mươi học xứ, nghĩa là năm thiên giới có hai trăm năm mươi, nhưng Luận chủ sao chép giới thô kia có một trăm năm mươi. Chúng Học vi tế, không thể hạn chế số lượng, nên nêu một trăm. Ngoài ra, gọi là lỗi.
A-cấp-ma, Hán dịch là Truyền. Như giáo này, trước Phật, sau Phật, vì lần lượt giảng nói lưu truyền không có khác, nên gọi là truyền, không đồng với thời xưa nói rằng, A-hàm được gọi là Tịnh giáo.
Trong đây, tự giải thích A-cấp-ma, nghĩa là ở trong đây, Đức Thế tôn quán đãi giảng nói với đối tượng được giáo hóa kia, tức Như lai và các đệ tử.
Nói tương ưng tức “người năng nói” tương ưng với giáo, tức là văn. “Uẩn, giới, xứ v.v… trở xuống, là sở thuyết, tức nghĩa của giáo ấy.
Lại, dựa vào tám chúng để nói các pháp tương ưng, tức là giáo đã phổ cập con người, cái gọi là tám chúng, như pho thuyết đầu tiên.
Trong ngôn, xứ mà nói, nghĩa là vì chẳng phải rộng, chẳng phải lược.
Nói “Với bốn thứ như thế, thầy trò xoay vần cho đến là gọi là Khế kinh sự”. Luận sư Cảnh nói: “Đây là giải thích về nghĩa truyền. “Tăng nhất”, lẽ ra là lầm.”
Đạt Luận sư lại nói “Trong văn này lại thêm hai chữ “Tăng nhất” ấy là sai lầm, vì trong bản thảo không có hai chữ này, nhưng người xét văn lại gắn thừa hai chữ “Tăng nhất”.”
Văn kết này, tổng kết bốn A-cấp-ma.
Trừ Phương Quảng trong mười hai phần, phần còn lại, được gọi là kinh tương ưng của Thanh văn. Về mặt đạo lý. Đại, Tiểu thừa đều có đủ mười hai. Nay trong văn này, lại nêu một nghĩa.
Dưới đây là khuyên chung biết hai mươi thứ khác. Bốn thứ trước, kinh chưa hẳn có đủ nghĩa trong hai chục kinh, nên nói “như ưng”.
Dưới đây, thứ hai, nói về chủ thể giải thích Ma-đát-lý-ca. Văn chia làm ba:
Phần đầu, nói về ý sau và danh nghĩa của Bản mẫu, kế là, chính là giải thích. Sau, là kết khuyên biết rõ.
Bản mẫu chữ, là mười bốn âm. Lại giải thích cõi ba trăm chữ gọi là Bản mẫu y cứ trong chính giải thích, bốn lựa chọn, tức là bốn đoạn. Y cứ trong lựa chọn hành (Hành trạch), “ngày của Ốt-Đà-Nam chung cho đến “không có nhàm chán trụ Thiểu dục”. Đây là tiêu biểu chung cương yếu, có riêng mười một môn: 1- Giới; 2- Lược giáo; 3-Tưởng, hành; 4- nhanh chóng thông suốt ; 5- Nhân; 6- Chi đoạn; 7- Hai phẩm; 8- Sự trí; 9; Tranh cãi; 10- Không có nhàm chán; 11- Trụ thiểu dục.
Kế là, có mười một bài tụng riêng, giải thích mười một môn của bài tụng chung. Nhưng mỗi bài tụng trong mười một bài tụng ở dưới, có nhiều môn, mỗi môn đều gồm thâu nhiếp đầu vào bài tụng chung.
Y cứ ở kệ riêng ban đầu, lại có mười một môn: 1, Giới; 2, Thuyết; 3, Hành trước, 4, Quán sát; , Quả; 6, tướng ngu; , các Định như vô thường; 8, Giới; 9, Hai thứ lần lượt; 10, Chẳng phải đoạn, chẳng phải thường; 11, Nhiễm tịnh.
Trong Văn xuôi, giải thích mười một môn, tức mười một đoạn: Đầu tiên, trong giải thích về giới, trước nói về thể của bốn thứ giới đối tượng trị (sở trị). Sau, nói về đạo “năng trị” (chủ thể trị).
Phần trước, nói “Có bốn thứ cho đến “Đã nhóm hợp thành giới”, nghĩa là tập tà thắng giải, huân hạt giống gọi là giới. Cái “có” ở trước, phân biệt khác với cái “có” hôm nay. Thân trước của đời trước đã được tự thể, là phân biệt khác với thân hôm nay của đời nay, nay đã được tự thể.
“Lắng nghe, thường thấy cho đến “Đã nhóm hợp thành giới”, nghĩa làđời trước đã nghe nói: “Thân ta là thường, bất sinh từ nhân, tức là giải thoát, thường tập kiến chấp huân thành hạt giống, cho nên với thân hôm nay, do hạt giống ấy làm nhân, tập tà thắng giải, huân hạt giống thành giới. Như nói: “Do chấp thường cho đến “Nói rộng cũng thế”, nghĩa là so với ba giải thích kiến chấp khác”.
Dưới đây là nói về đạo “năng trị”, đầu tiên, là nói về ý của giáo hưng thịnh. Sau, chính là nói về đạo “năng trị”.
Nói “Vì tùy thứ tư, nếu lìa các hành khởi ngã kiến, do giáo vận chuyển của môn “không”, vì điều phục lìa uẩn chấp ngã, ngã ở trong uẩn, nên nói hành của năm uẩn là không, không có ngã.
Nếu tức các hành, khởi ngã kiến, là do chuyển môn vô ngã, nghĩa là nói “ngã” kia tức uẩn, mà không có ngã.
Trong giải thoát thứ hai, trước hết, chia ra ba chương. Sau, theo thứ lớp giải thích riêng:
Nói “Lại, giải thoát có ba: 1, Giải thoát của thế gian, nghĩa là giả thiết lập ra, vì không dứt trừ hạt giống “hoặc”.
Thế nào là phương tiện? Nghĩa là dụa vào tánh “như sở hữu” và tánh “Tận sở hữu” v.v… trong các hành: Kiến đạo về trước, quán hành hữu vi, có lý vô thường v.v…, gọi là tánh “như sở hữu”. Loại tánh của năm uẩn, mỗi tánh uẩn đều không đồng, gọi là tánh “tận sở hữu”. Tu tưởng vô thường về hai tánh kia, do tưởng này nhập hiện quán đế tận, gọi là phương tiện quán của kiến đạo. Như đối với giải thoát kia đều là phương tiện. Trong pháp đã chứng nội tại, nói là “đời đã tận, các hành ở các đường ác lại tận bảy đời v.v… tức là người Dự lưu, được “sanh tử của ta đã hết”.
Lại, ta trụ có thể rốt ráo tận, đạo không có lui sụt v.v… tức là phạm hạnh của Dự Lưu đã lập.
“Nếu đối với Vô học cho đến việc nên học”, nghĩa là nói về việc đã làm xong”. Nay, ta còn không có.” Trở xuống, là nói không thọ hữu sau.
Thứ ba, giải thích về hành ở trước. Nói “thấy pháp hành ở trước v.v… đến” chánh kiến xuất thế”, nghĩa là phương tiện của kiến đạo, gọi là thấy hành ở trước.
Do nghe bốn phạm hạnh của phương tiện giải thoát đã nói như trên, khởi văn, tư, tu, chưa nhập chánh tánh ly sinh, có thể nhập chánh tánh được thấy như thật.
“Pháp hạnh trước kia của quả đạo cho đến” vì đã dứt trừ các phiền não khác”. Luận sư Cảnh nói: “ Tu đạo là phương tiện quả của nhà đạo, gọi là quả của hạnh ở trước, nghĩa là khi đã được kiến đạo, khởi tu đạo, dứt trừ,”hoặc”, chánh tư duy v.v…. Hoặc theo thứ lớp của kiến đạo; gọi là hoặc đồng thời, hoặc đồng một thân. Nếu thời gian sau, và thân sau, mới khởi sự tu đối trị đoạn, thì gọi là hoặc thời gian sau, vì dứt trừ phiền não của tu đạo khác.”
Pháp sư Thái nói: “ Về đạo lý, chánh kiến chánh tư đều cùng có. Nhưng, nay Luận chủ lại y cứ ở đạo, “năng dẫn” để nói về đạo “sở dẫn” Hoặc có sinh đồng thời với đạo “năng dẫn”. Hoặc có “năng dẫn” diệt, về sau “sở dẫn” mới sinh”.
Luận sư cho rằng: Hoặc sinh đồng thời nghĩa là đạo vô gián sinh đồng thời với “hoặc”.
Nói “ hoặc sinh thời gian sau”, nghĩa là đạo giải thoát.
Thứ tư, trong giải thích về quán sát, nêu tám sự: 1) Vị ái. 2) Tai họa lỗi lầm. 3) Xuất ly. 4) Văn. ) Tư. 6) Sức tư duy lựa chọn. ) Kiến đạo. 8) Tu đạo.
Kế là, nói riêng tướng quán sát. Nói “là gọi là quán sát khác nhau của một môn”. Là tổng kết ba môn trước để làm một môn, y cứ “sở quán” (đối tượng quán) để nói về quán sát, năm thứ sau, y cứ chủ thể để nói về quán sát.
Nói “không dứt hiện hành”, là sức tư duy lựa chọn, hàng phục, và vì dứt một phần, là kiến đạo dứt kiến hoặc.
Thứ năm trong giải thíchvề quả, trước, là nêu chung hai quả. Sau là giải thích riêng, trong đó, 1) Nói quả cuả hai thứ dứt ”hoặc”. 2) Có khi không bao giờ còn vận chuyển nữa, tức là Niết-bàn hữu dư. 3) Nói về quả của khổ diệt, có năm phen. Đây là Niết-bàn vô dư, nỗi khổ của thân, tâm đã diệt, tức năm thức tương ưng với ý thức, khổ diệt, khổ hoại và khổ khổ khổ diệt, vì đồng là “khổ sự”, nên chung làm một. Hành khổ, khổ diệt, vì là “khổ lý”, nên chung làm một.
Thứ sáu, là giải thích tướng ngu, như văn.
Thứ bảy, là giải thích bốn thứ như vô thường v.v… quyết định, trước là nêu chung, bốn môn quyết định sau, là giải thích riêng bốn môn, gồm có ba lượt:
Trong lượt thứ nhất, nói: “ Thế nào là các hành vô thường quyết định v.v… cho đến” vì tương ưng với khởi tận”, đây là nêu ba nghĩa, nhằm chứng minh ba đời vô thường,: “Nếu hành vị lai cho đến”Như thế, lẽ ra chẳng phải vô thường quyết định”; nghĩa là các hành của vị lai, trước là, “không” không thì là quyết định, tức là lẽ ra chẳng phải trước không mà có. Vì nếu thế, thì đáng lý chẳng phải vô thường quyết định.
“Do hành kia v.v… trở xuống, là giải thích thuận với vô thường, là quyết định của vô thường kia.
“Nếu hiện tại cho đến các hành ở vị lai, thì lẽ ra chẳng phải vô thường quyết định”, nghĩa là hành của hiện tại sinh, nếu quyết định là “có”, thì lẽ ra chẳng phải trước “có” mà “không”. Vì trước “có” mà “không”, nên biết quyết định vô thường, phải biết rằng, vị lai trước “không” mà “có”, nhất định là vô thường, cũng có thể trước kia y cứ ở vị lai để giải thích câu thứ nhất trước “không” mà có. Kế là, là y cứ hiện tại, để giải thích trước “có” mà “không”.
Dưới đây y cứ ở khởi, tận để giải thích vô thường: “Các hành trong hiện tại, lẽ ra cũng không tương ưng với khởi, tận cho đến” chẳng phải quyết định “có”, nghĩa là hành hiện tại bắt đầu khởi, tức vì cùng tận, nên tương ưng với khởi, tận pháp quá khứ, chỉ tận chẳng phải khởi, pháp vị lai khởi mà chẳng phải tận, vẫn là vô thường, huống chi là pháp hiện tại có đủ tương ưng với khởi, tận, há chẳng phải là vô thường, vì hữu vi ở trước thi thiết chẳng phải có? Cho nên các hành quá khứ vô thường quyết định rất dễ hiểu”.
“Như thế v.v… trở xuống, là kết thành nghĩa vô thường quyết định kia.
Nói “Vị lai chưa có, do đây nên “không”, quá khứ đã diệt, do đây nên “không”, nghĩa là y cứ ở nhân duyên không của tha, các hành hiện tại tuy có chưa diệt cho đến do đây nên là không. luận sư Cảnh nói: đối với hiện pháp quyết định chấp có biến kế sở chấp tất nhiên rốt ráo vô tánh, nên gọi là “không”.
Pháp sư Thái nói: “nghĩa đế là nghĩa thật. Thắng nghĩa là nghĩa đệ nhất. Các hành hiện tại không có hai nghĩa đó, nên “không” quyết định.
“Thế nào là các hành vô ngã quyết định cho đến “là gọi là các hành vô ngã quyết định”, nghĩa là pháp quá khứ, vị lai hãy còn là vô ngã, huống chi là pháp hiện tại đang không có tự tại mà được gọi là “ngã” ư?
“Lại do hai tướng v.v… trở xuống, lần lượt giải thích thứ hai rằng: 1/ Tánh ngoài mỗi thứ các hành, nghĩa là không có ngã sở; 2/ Các hành từ duyên sinh không tự tại, nghĩa là thân trong là vô ngã.
“Lại, do mười tướng v.v… trở xuống: lượt giải thích thứ ba nói: “do bại hoại v.v…. Luận sư Cảnh nói: “Do bại hoại, biến dịch, biệt ly, với ba thứ này, nên biết là vô thường, chẳng đáng ưa thích, không yên ổn, hai thứ này được nói là khổ. Xa lìa thường lạc, tịnh v.v…, gọi là “không”, tướng khác làm rõ vô ngã”.
Đạt Luận sư nói: “1- Bại hoại; 2- Biến dịch; 3- Chia lìa; 4- chẳng đáng ưa thích; – không yên ổn; 6- Nên xa lìa tướng của tướng khác. Trong đây, giảm lược không nói về bốn tướng còn lại, vì như địa Thanh văn đã nói”.
Thứ tám, giải thích giới có năm thứ. Nói giới diệt: là Kiến, tu dứt trừ “hoặc”, vì đã dựa vào thân ấm diệt, nên gọi là giới diệt.
Thứ chín, là giải thích hai lần lượt: Đầu tiên là nêu chung; 2- Giải thích theo thứ lớp. Trong giải thích về quả trí lần lượt. Văn chia làm hai: trước, y cứ vào bốn pháp, sau y cứ ở bốn chấp.
Thứ mười, là giải thích chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, trước, y cứ ba đời, sau y cứ bốn duyên. Trong phần trước:
1. Vì dùng đi đứng vô thường làm nhân, nên tức là quá khứ.
2. Vì sinh xong, không có nhân của trụ, tức là hiện tại.
3. Vì tánh nhân của các hành vị lai đã diệt, tức pháp vô thường hiện tại là nhân của vị lai.
Văn dưới đây nói duyên đẳng vô gián, nghĩa là sáu thức v.v…trước và đẳng vô gián diệt v.v… của pháp tương ưng, đây là nói vì năm thức làm duyên đẳng vô gián với năm thức, nên có nối tiếp nhau. Trong pho kinh đầu rằng: “Năm thức không có duyên thứ đệ, là vì y cứ ở tâm “suất nhĩ”. Nếu y cứ ở đẳng lưu thì vẫn được nối tiếp nhau”.
Thứ mười một, là giải thích về nhiễm tịnh: 1/ Chia ra hai chương. 2/ Dựa vào chương để giải thích. Trong giải thích có ba: trước là giải thích ba sự. Kế là giải thích hai tướng. Sau, là phân biệt, giải thích lại. Lời kết trong ba sự, tóm lược chung làm một, gọi là ba sự v.v… Ba sự dù khác nhau, nhưng vẫn gọi là chung là quán sát nhiễm tịnh.
Trong phần giải thích hai tướng nói:
“1- Tánh như sở hữu, nghĩa là như tai hại lỗi lầm của vị ái kia, như vì tánh xuất ly mà quán.
2- Do “tánh tận sở hữu”, nghĩa là dứt hết tai hại lổi lầm của vị ái sở hữu kia, xuất lý thảy đều quán. Rằng trong đây, quán các hành làm duyên sinh lạc, sinh hỷ, gọi là vị ái, nghĩa là các hành là vị sở ái. Lại, vị ái rất nhỏ, hẹp. Luận sư Cảnh nói: “Vì ở chỗ các hành sinh mừng, vui rất ít nên gọi là nhỏ, hẹp.”
Pháp sư Thái nói: “Vị ái là nhân, tai hại lổi lầm gọi là quả. Vì tướng của quả có lỗi nhiều, nên nói là rộng lớn. Do lỗi của tướng là nhỏ nên nói là hẹp nhỏ.
“Như thế, do hai tướng, quán tánh “như sở hữu”, cái gọi là vị ái:
- Quán hạnh, sinh vui, mừng.
- Quán ái vị rất nhỏ hẹp. Về quá hoạn rộng lớn Luận sư Cảnh nói: “Vì vô thường nêu nghĩa hằng là các hữu lậu, nên gọi là rộng lớn.
Do hai tướng: một là vô thường, hai là rộng lớn.
– Trong xuất ly do hai tướng quán.
- Xuất dục tham, diệt đoạn.
- Vắng lặng vô thượng đẳng.
Lại, “Tức tai hại lỗi lầm của vị ái này, xuất ly đẳng trong các hành v.v…”. Nghĩa là quán chung. Lại, “Vì biết rõ v.v… trở xuống, là thứ ba, phân biệt, giải thích lại, được chia làm hai: 1. Y cứ người để nói về ba việc. Lại, tùy theo pháp thích ứng với ba xứ này v.v… trở xuống”, là y cứ ở đạo để nói.
Trong phần trước có hai:
- Y cứ Nhị thừa.
- Y cứ vào ba thế gian.
Ở phần trước, nói: 1, Đối với các dục nhiễm, chúng chấp mắc, tức vị ái, 2. Chúng xa lìa, tức quán lổi lầm mà sinh xa lìa, 3. Chúng ly hệ (Lìa trói buộc), tức xuất ly:
Kế là, y cứ ba thế gian. Nói: “1) Do được tự tại dục và vì tự tại tịnh, nên bằng nhau”, nghĩa là ma vương vì được tự tại trong cõi Dục, nên nói rằng, được dục tự tại. Phạm Vương vì đã lìa dục, ác, bất thiện, nên nói rằng tự tại tịnh. 2) “Do siêng tu được nhân kia, cho nên bằng nhau”, nghĩa là Sa-môn ngoại đạo v.v… này cầu được ma, phạm, nên tu nhân cõi trời kia. 3) Vì hướng đến nhân quả của các thứ nghiệp, nên bằng nhau, nghĩa là ngoại trừ hai ma Phạm, ở trước, còn có mỗi thứ nghiệp của cõi trời, người.
Dưới đây, trong y cứ ở đạo, để nói. Trong ba sự, trước, y cứ ở hai đạo kiến, tu. Để nói về tai hại lỗi lầm. Sau, y cứ bốn giải thoát, nhằm nói về xuất ly. Trong đây, lược qua không nói về vị ái.
Y cứ nói về giải thoát, đầu tiên là pháp. Kế là, dụ, sau, hợp. Trong pháp thuyết, Pháp sư Thái nói: “Tham trước là trong, tham sau, là ngoài. Vì tham trong năm dục, nên cần phải nói lại. Luận sư Đạt nói: “Ba tướng trước nói về Niết-bàn Hữu dư, một tướng sau, nói về Niết-bàn vô dư nghĩa ấy rất dễ hiểu.
Trong dụ, trước y cứ vào năm dụ, dụ cho nhà chướng của bốn giải thoát ở trước. Sau, nêu bốn câu để kết năm dụ trước.
Trong phần trước, nói “Ví như có người cho đến” Hoặc dây tơ, hoặc sắt, là dụ thứ nhất, bị ba độc ràng buộc. Hoặc gỗ, dụ cho tham, hoặc dây tơ, dụ cho sân. Hoặc sắt, dụ cho si.
Lại “Đặt để người khác, khiến họ ngăn giữ, là thí dụ thứ hai, vì tùy miên ba độc, và đã ngăn giữ tác ý không đúng.
Hoặc “Nếu có ba độc kia cho đến” lại chấp tương lai”, là dụ thứ ba, vì tục, đạo hàng phục dứt trừ tham v.v… kia trở lại chấp tương lai. Ở cõi dưới, hoặc có người còn không khiến người kia lay chuyển, huống chi là được trốn tránh.
Thí dụ thứ tư, sức tư duy bất chính, không khiến hành xả đối với phược tham v.v…. Hoặc “có an trí cho đến không có kẻ muốn trốn tránh.
Thí dụ thứ năm, xứ kia, trong thọ năm dục mầu nhiệm, tâm sinh niềm vui, bị ràng buộc bởi chấp mắc chín kiết.
Dưới đây sẽ nêu bốn câu để kết năm dụ trước. Luận sư Cảnh nói:
“ Như thế, người kia đã bị tất cả thứ phược ràng buộc, là câu thứ nhất. Vì đã giữ gìn phương tiện giữ gìn, nói chung các câu thứ hai, thứ ba, thứ tư, làm câu thứ hai, vì bị trói buộc bởi sự trói buộc rất vững chắc; nghĩa là nói chung câu thứ tư. Bị chín kiết trói buộc là câu thứ ba. Lại, bị kẻ thù tùy dục gia hại v.v… nghĩa là thêm riêng một thứ này là câu thứ tư.
“Nếu có chủ thể thoát là bốn phược”, thì là thoát tất cả phược. Luận sư Đạt nói: “Bị phược ràng buộc, kết dụ ba độc”.
“Vì phương tiện thiện” v.v… trở xuống là Kết trước khiến người kia ngăn ngừa, giữ gìn. Trong đây không kết dụ tùy miên.
“Vì rất v.v… trở xuống, là kết dụ chín kiết.
Kế là kẻ thù v.v… trở xuống, là kết dụ sinh ra khổ sinh v.v….
Nói “ đánh, đập”, là dụ ma uẩn. Hoặc dụ cho sự cắt rọc. Thí dụ ma chết, hoặc làm hại bằng gậy gộc. Dụ thiên ma, hoặc cắt đứt cả mạng sống, dụ cho ma phiền não”.
Trong hợp, Luận sư Cảnh nói: “Như thế, “đối với người kia cho. đến” thí dụ tham, sân, si, ràng buộc”, nghĩa là hợp dụ thứ nhất.
Nói “ba xứ, người ngu thế gian”, nghĩa là ma, phạm v.v… dùng làm ba. Thủ cấm kia, nghĩa là thí dụ tầm, tư bất chính và người chưa nhổ hết gốc tùy miên, hợp dụ thứ hai.
“Vì tầm, tư bất chính cho đến” mà trốn tránh xa”, nghĩa là hợp dụ thứ tư trước.
“Tùy miên phiền não chưa nhổ cho đến” lại chấp đem trở lại”, là kết hợp dụ thứ ba. Ba thứ trung gian này kết họp lại làm thứ hai, dục hấp dẫn đáng yêu, thí dụ cho chín kiết. Kết hợp với dụ thứ năm, hợp thành ba.
Lại “Bốn ma oán v.v… trở xuống, là thêm hai thứ này để làm dụ thứ tư. Nếu thoát khỏi bốn thứ này, thì gọi là cởi trói tất cả. Luận sư Đạt nói: “bị các thứ phược cho đến “ Phược tham, sân, si,” hợp dụ ba độc thứ nhất.
“Thủ cấm của người kia” trở xuống, là hợp dụ tùy miên phiền não của tác ý bất chính thứ hai, thứ ba.
Nói “Dục hấp dẫn đáng ưa thích: dụ cho chín kiết.
Nói “Do kiềt kia, nên”, là hợp dụ thứ năm, khổ sinh v.v….
“Người kia đã như thế v.v… trở xuống, là hợp kết thí dụ đầu tiên trong văn.
“Phương tiện thiện v.v… ” trở xuống, là dụ thứ hai trong kết hợp.
“Rất cứng chắc v.v… trở xuống, là dụ thứ ba trong kết hợp.
Nói “Lại bốn ma oán”, hợp dụ thứ tư.
Môn lớn thứ hai, là giải thích về giáo v.v… sơ lược, trước, là tụng nêu mười một:
- Giáo sơ lược.
- Quả của giáo.
- Chung cuộc(tu)
- Số đoạ.
- Ba biến tri dứt.
- Trói buộc.
- Giải thoát.
- Kiến, mạn tạp nhiễm.
- Câu tịnh thuyết.
- Xa lìa bốn đủ.
- Viên mãn.
Trong văn xuôi giải thích, tức là mười một đoạn. Đầu tiên, trong giải thích về giáo sơ lược. Do ba nhân duyên thỉnh giáo sơ lược, truyền trao v.v…. Luận sư Cảnh nói:
“1- Sơ lược nghe pháp đủ được nghĩa v.v… của mình.
2- Lại có sự sợ hãi đối với môn đã nhập, nên cho đến sẽ không khiến ta tác ý tán loạn v.v…
3- Lại, đối với tất cả pháp đã nghe, suy nghĩ như thế không được quyết định, phải nương tựa vào đâu? Do ba nhân duyên này, lược thỉnh dạy bảo, truyền trao.
Có chỗ giải thích:
“1- Nếu người chỉ nghe làm ciứu cánh thì Đại sư sẽ vì họ nói, khiến sinh hiểu biết như thế, chỉ nghe sơ lược pháp đủ được nghĩa mình, đâu nhờ vào sự học rộng v.v… vì lẽ vì hạnh chánh là thật, mà từ bỏ muốn học rộng?
2- Pháp môn đã nhập, phần nhiều quán hạnh đã làm có sợ hải. Đại sư thì thực hành phương tiện thiện rồi mợi được nhập.
3- Đối với nhiều pháp, khéo nghe, suy nghĩ, nên không để cho tác ý tán loạn.
Lại “Đối với pháp đã nghe, tư duy như thế” trở xuống là nói chung về thỉnh giáo.
Trong giải thích quả của giáo, Luận sư Cảnh nói: “ Vì xuất gia này, và xuất gia như đây:
1- Tức hình tướng, nghĩa là cạo tóc, đắp y nhuộm, hình đồng với thân của Chư Phật vô thượng.
2- Sự nghiệp cụ túc: Được sự nghiệp ba học hiện pháp.
3- Ý lạc cụ túc: được nâm thông tự nhiên.
4- Đầy đủ chỗ Bỏ, lấy, nghĩa là do chứng đắc bên trong, nên bỏ sinh tử, lấy Niết-bàn. Cũng có thể bỏ hiểu biết v.v… của giới thủ.
Nói “Cụ túc, là dựa vào xuất gia này, được vô thượng v.v… đã nói như trên. Pháp sư Thái nói: “ Vì được đạo vô thượng này, nên xuất gia. Và như xuất gia chân chánh sau đây. Những gì là bốn?
1. Dựa vào xuất gia này nên được chứng đắc vô thượng, tức y hình tướng cụ túc.
2. Được hiện pháp tức hiện pháp lạc tĩnh lự. Có thể phát sự nghiệp thần thông.
3. Chứng đắc tự nhiên: Do dựa vào tĩnh lự. Vì khởi ý lạc cụ túc căn lành như Noãn v.v…, nên tự nhiên nhập kiến đạo.
4. Chứng đắc nội tại: Do ở địa vị kiến đạo, vì bỏ phàm lấy Thánh Cụ túc, nên chứng chân lý bên trong.
Có chỗ giải thích: “Vì chánh pháp này nên xuất gia. Và xuất gia như chánh pháp này”, nay, theo Luận sư Cảnh nói: “Nhắc lại văn luận rằng: “Nói cụ túc là dựa vào xuất gia này, được vô thượng v.v… ”. Chữ “cụ túc” này, nên thuộc về câu trên, sao lại thuộc câu dưới? Không thể chuyên nương tựa.”
Thứ ba, là giải thích về chung quy, nghĩa là có sáu thứ chết, hai thứ trước rất dễ hiểu.
Chết không điều phục, nghĩa là đời quá khứ không điều phục có hành của tùy miên, mà ở thân đời nay, cũng không điều phục tùy miên mà chết. Chết rồi, tự thể của vị lai mới sinh. Lại, nhiếp thọ có hành của tùy miên cho đến “Tức là bị các khổ ràng buộc, bị ràng buộc bởi tham v.v….
Điều phục chết, nghĩa là ở hiện tại đã điều phục tùy miên rồi mới qua đời. Tự thể vị lai không còn sinh khởi nữa.
Chết của phần đồng: Như quá khứ không điều phục tùy miên. Đến hiện nay cũng không điều phục, mà bỏ thân mạng gọi là chết v.v… của phần đồng. Nếu ở quá khứ không điều phục, trong hiện tại hôm nay, đã diều phục rồi qua đời, thì đây gọi là chết không đồng phần.
Nói “Nếu ở hiện tại cho… đến “các hành đồng phần”, thì rất dễ hiểu.
Lại, dưới đây, là chết có hai: Tướng lỗi lầm của lưu chuyển và sự thắng lợi của hoàn diệt. Dưới đây sẽ giải thích hai trạng thái này: Văn rõ ràng rất dễ hiểu.
Thứ tư, là giải thích về số đọa: Chỉ nói như trước.
Thứ năm: là giải thích: Do ba tướng nên phải biết vô ngã biết khắp và dứt trừ:
1/ Đối với vô ngã biết khắp bên trong.
2/ Không có ngã sở biết khắp bên ngoài.
3/ Đối với trong ngoài cũng không có thừa, hệ thuộc lẫn nhau.
Vì thường tập ba tướng này, nên bỏ tùy miên kia, được dứt trừ rốt ráo.
Thứ sáu trong giải thích về ba thứ ràng buộc.
Nói: Rằng đầu tiên, vì các thứ, nghĩa là vì có tám kiết, chẳng phải một, nên gọi là “các thứ”. Nói là trong đây chẳng phải cảnh hữu vi chỉ một thứ, mà “sở duyên của hữu vi có đến năm thứ”. Nghĩa là chấp ngã “chẳng thật có”, chẳng thật có đồng nhau không cần tùy pháp lập riêng. Nếu chấp sẽ có pháp “có”, vì không đồng nên có năm thứ.
Thứ bảy, trong giải thích giải thoát, biết khắp các hành tóm lược có hai thứ:
1. Hiểu rõ tánh “như sở hữu”, tức do bốn thứ hành như vô thường quyết định v.v….
2. Hiểu rõ tánh “tận sở hữu”, tức do mười một hành quá khứ v.v…”
Thứ tám, trong giải thích Kiến, mạn, trước, nói về kiến, mạn. Sau y cứ ở bốn người, để an lập tạp nhiễm.
Trong phần trước có hai thứ kiến, mạn, phải biết rằng, nên dứt trừ. Nghĩa là kiến, mạn này khác nhau là năm. Do hai thứ môn: Do hành nên ràng buộc, vì tùy miên. Do hành thành ba: Ngã, Ngã sở, ngã mạn này do triền lập một, nghĩa là chấp mắc, tức ngã, ngã sở ở trước và mạn hiện khởi, chấp mắc là triền ràng buộc. Ba hạt giống trước gọi là tùy miên.”
Nói “Lại có thân thức cho đến “ tướng nhân của tùy miên, nghĩa là nói có thân thức, kể cả sự ngoài dùng làm tướng nhân của năm thứ trước. Câu này là chung.
Dưới đây là nói riêng:
Nói “Tức tướng nhân này có hai cho đến “Chấp ngã, ngã mạn, dùng có thân thức làm tướng nhân của “sở duyên”, thân thức của năm uẩn mình làm tướng “sở duyên”. Về lý, cả hai thứ dùng tướng làm thức của nhân duyên, lược qua, không nói. Chấp ngã sở, lấy chung hai thứ làm tướng nhân của “sở duyên”. Nghĩa là chấp chung thân thức và núi, sông v.v… bên ngoài làm tướng “sở duyên” của ngã sở. Cũng nên dùng có thân thức làm tướng của nhân duyên, cũng lược qua không nói, vì có giữ gìn ngã, ngã sở và ngã mạn.
“Chấp mắc kia, do nghe pháp bất chính v.v… cho đến “làm tướng nhân của nhân duyên”.
Thứ tư là chấp mắc, dùng tà văn, tà nhân duyên, tà giáo v.v… làm tướng “sở duyên”, tùy miên làm tướng nhân. Tùy miên kia cho đến làm nhân duyên của nhân duyên”, nghĩa là tùy miên thứ năm trong năm thứ trước, vì phiền não hiện hành không như thật v.v…, có thể huân tập thành tướng nhân của nhân duyên, vì không thể “duyên” cảnh, nên không có tướng nhân của “sở duyên”.
Dưới đây là y cứ ở bốn người để an lập tạp nhiễm:
Tạp nhiễm, tức là đối với năm pháp trước, nghĩa là ngã, ngã sở, ngã mạn, triền và tùy miên.
Nói “Pháp này phàm phu v.v… đến “nhưng chấp mắc không thật có”, tức là nhập pháp phàm phu, ở bảy phương tiện hàng phục về chấp mắc, chỉ có bốn thứ và nhân của thân thức, đều có một phần tướng nhân của chấp mắc. Nghĩa là có thân thức, chẳng phải trực tiếp là nhân của bốn thứ ở trước, mà cũng là một phần tướng nhân của chấp mắc.
“Trong chúng hữu học v.v… đến “đều không thật có”, nghĩa là người học đã dứt kiến, dứt phân biệt, ngã, ngã sở kiến và người kia có tướng nhân của thân hữu thức. Cũng dứt trừ chấp mắc thứ ba và tùy miên thứ tư.
Nói “Và ngã mạn, chấp mắc, đều là tướng của nhân kia”, nghĩa là kiến dứt trừ ngã mạn, chấp trước, đều là tướng của nhân kia, tất cả đều có thể dứt trừ.
Nói “Nhưng có ngã mạn tùy miên có thể được”, nghĩa là do dứt trừ phân biệt ngã, nên tu dứt trừ ngã mạn không hiện hành. Nhưng vẫn có tùy miên ngã mạn có thể được. Lại, chúng sinh hữu tình ngaọi đạo, thông thường đã có hành không vì dứt trừ chúng”, nghĩa là trong bốn thủ, đều tác ý đoạn dục. Thuận với kiến của mình là hành động trong kiến thủ, giới thủ. Đối với hành vi của người khác không thuận với tình cảm của mình thì dứt trừ.
Đối với “Ngã ngữ thủ, tất cả ngoại đạo đều không nói dứt trừ.
Nói “Chúng phàm phu của pháp này v.v… đến “Lại tu hạnh chánh”: Chướng kiến đạo, nghĩa là gọi là đẽ dứt trừ một phần. Chướng ngại tu đạo, gọi là dứt trừ phần khác”.
Thứ chín, là giải thích về câu tịnh thuyết có tám:
1. “Nói là do vượt qua kiến, mạn, nên gọi là hai thứ v.v…, nghĩa là hợp hai ngã, ngã sở.
2. Do dứt trừ tướng nhân của chúng, nên gọi là câu trừ thuyết thanh tịnh của tướng, nghĩa là trừ tướng nhân của thân hữu thức.
3. Do dứt trừ tướng chấp mắc.
4. Do dứt trừ tùy miên.
5. “Nói là với hữu sau v.v… đến “gọi là cắt đứt tham ái”, nghĩa là lại không tạo nên hành của hữu sau, gọi là cắt tham ái.
6. Và “vì chuyển ba kiết”, nghĩa là vì dứt trừ ba kiết, nên gọi là “chuyển”.
7. Nói là vì hiện quán chính mạn. Luận sư Cảnh nói: “Xét chữ “Hoàn” trong bản thảo, nói là chữ “chánh”, Tam Tạng Pháp sư nói “Nên nói rằng “chỉ mạn”. Vì vô học, mạn dứt hết, nên gọi là chỉ mạn. Ngài Tam Tạng sư lại nói: “Nhưng chánh giải cũng được, nghĩa là người Vô học nói: “Sanh tử của ta đã hết v.v… ”. Bốn phạm hạnh giải kèm theo ngã giải, gọi là mạn, nhưng chẳng phải tà mạn, nên gọi là chánh mạn”. Pháp sư Thái nói: “Vì chánh hiện quán mạn”, lại giải thích: lẽ ra nói chánh kiến mạn hiện quán, luận y cứ theo chánh chướng, cho nên chỉ nói chánh mạn, Đạt Luận sư nói: “Tam tạng Pháp sư có hai giải thích:
1- “Chữ Chánh này sai lẽ ra là chữ “chỉ”, bậc Vô học không bao giờ khởi lên tăng thượng mạn, cho nên nói “chỉ mạn”, trong đó người học dù không cố ý khởi mạn, mà khởi tăng thượng mạn”. Lại, nói “Chữ Chánh không lầm, vì bậc Vô học cũng khởi: “sanh tử của ta đã hết v.v… ”, lẽ ra cũng khởi chánh mạn, vì giả thuyết mạn.
8. Đã thực hành Biên khổ. Như thế, tất cả đều gồm thu làm một.
Nghĩa là tám thứ này gọi chung là một câu “Thanh tịnh thuyết”.
Thứ mười, giải thích về xa lìa có bốn đủ:
1. Không có thứ hai mà trụ, nghĩa là Phật bỏ lìa. Pháp sư Thái nói:
“Bờ mé có hai nghĩa:
- Bên cỏ xấu làm dụng cụ nằm.
- Chiều dài cực biên như pháp.
- Thân xa lìa rất dễ hiểu.
- Tâm xa lìa, trong đó có ba lượt giải thích: a. Lìa tâm, tư bất thiện. b. Do năm tướng phát động tinh tấn. c. Dứt trừ chướng phẩm chỉ, quán.
Thứ mười một là giải thích ba viên mãn. Xem văn sẽ hiểu.
(Phần Cuối)
BẢN LUẬN QUYỂN 86
Môn lớn thứ ba, là giải thích Tưởng, Hành v.v…. Tụng trước nêu mười môn: 1- Tưởng hành; 2- Tướng ngu; 3- Nhãn; 4- Thắng lợi; 5- Chín trí; 6- Vô si; 7- Thắng tấn; 8- Khác nhau của ngã kiến; 9- Ba tưởng hành; 10- Phẩm chung v.v… của pháp có ba, sẽ nói rộng ở sau.
Nói là có ba lần “Lại nữa” trong môn này, nên nói rằng ba. Ba lần “Lại nữa” chẳng phải một, nên nói “Đẳng” (bằng nhau).
Một “Lại nữa” trước, lược nói về bốn pháp Ốt-Đà-Nam, Hán dịch tướng chung của pháp, dịch là pháp ấn. Tuy nhiên, xét bản Phạm không có chữ “Pháp ấn”.
Lại, lần “lại nữa” thứ hai là nói rộng về ý của lần “lại nữa” đầu, nên nói “nói rộng sau”. Đây là Luận sư Viễn v.v… đã giải thích. Nếu theo Pháp sư Cảnh,Thái v.v…, giải thích thì thành mười một đoạn. Môn thứ mười kia, được gọi là phẩm chung v.v… của pháp. Môn thứ mười một, gọi là ba sẽ nói rộng sau:
Nay, dựa vào giải thích của văn xuôi đã được phán quyết ở trước, tức thành mười đoạn:
1. Giải thích về tưởng hành, xét văn, rất dễ hiểu.
2. Giải thích người ngu có ba tướng. Lại y cứ mạn, để nói về tướng ngu.
3. Giải thích Tuệ nhãn, xa lìa trần cấu, có hai lượt giải thích.
4. Giải thích thắng lợi.
Nói “Chánh thế tục và Đệ nhất nghĩa”, nghĩa là Y như Tỳ-Đàm, là giáo “năng thuyên”, gọi là Chánh tục lý “Sở thuyên”, gọi là Đệ nhất nghĩa.
5. Giải thích chín trí: Năm trí trước là kiến đạo trở xuống, bốn trí sau ở tướng Kiến đạo. Trí lưu chuyển của các hành. Đại khái, do ba thứ nhân duyên tập, nên tất cả hành tập đã có Chánh trí. Nghĩa là vì khổ, Tập nên sinh sắc, vì Xúc tập nên sinh thọ, vì danh sắc nhóm hợp, nên sinh thức, tức vì ba tập này diệt, nên sắc, thọ, thức diệt, gọi là Hoàn diệt. “Duyên” vị ái là trí của nhân duyên tạp nhiễm. “Duyên” tai hại lỗi lầm là trí của nhân duyên thanh tịnh. Ở địa vị phàm phu tu năm trí trước, có thể nhanh chóng chứng bốn trí sau.
Thứ sáu, là giải thích về Trụ vô si, trước, là giải thích về Trụ vô si. Sau, chỉ rõ chung về trụ có si, trong đó, đầu tiên chỉ rõ có si, rơi vào số vô minh. Kế là nói về tên khác của ba độc. Tên tham có mười lăm, tên sân cũng có mười lăm, tên si có bảy. Sau, nói về sự khác nhau giữa hỷ và tham.
Thứ bảy, là giải thích Thắng tấn, trước nói về bốn Thắng tấn, sau, nói về tưởng của ba Thắng tấn.
Nói “Não hại cho đến “tu tưởng nhàm trái”, là trái lìa với bạn thân, của vật tan mất, nên sinh não hại.
Nói “trong đây, trước, đối với tưởng tai hại lỗi lầm, cho về sau sẽ nói đến nguyên nhân lỗi lầm đó, làm rõ tu thứ lớp.
Thứ tám, là giải thích về sự khác nhau của ngã kiến. Luận sư Cảnh nói: “Nói “Ba duyên tự y chỉ ngã kiến, nghĩa là đối với các thân trong riêng mà khởi”, nghĩa là tức “duyên” thân mình, khởi phân biệt ngã kiến.
Bốn, “duyên” ngã kiến y chỉ người khác”, nói là đối với thân người khác mà khởi phân biệt, nghĩa là không chấp thân này ngã của mình, chỉ phân biệt thân người, chấp ngã như ở đây là tốt, không tốt v.v….
“Ngã kiến” Vì y chỉ sinh ngã mạn cho đến “Ví như trên mặt thanh tịnh viên mãn”, nghĩa là dụ cho thức tâm”, chất tượng, là dựa vào phát sinh ảnh tượng”, nghĩa là ngã mình đã chấp là ảnh tượng, dựa vào tự chấp ngã là, lại phân biệt chấp ngã như thế của người khác, gọi là ảnh tượng. Ảnh tượng vì dựa vào tự Y chỉ, phát sinh tưởng hơn trong kém, nghĩa là lại dựa vào ngã của người khác chấp, mà so sánh với ngã của mình, rồi khởi tưởng hơn kém.
Trong hợp dụ rằng “Như thế do tà phân biệt, nên duyên ngã kiến y chỉ của mình làm duyên, phát sinh duyên ngã kiến y chỉ của người khác.
“Như dựa vào chất v.v… trở xuống, là nêu dụ.
“Dùng Câu sinh ngã kiến làm duyên sinh ra ngã mạn”, nghĩa là phải biết rằng thí dụ khác với trước: Dựa vào phân biệt ngã kiến mà khởi mạn, xem thường người khác mà khởi. Dựa vào Câu sinh ngã kiến mà sinh mạn, tự ỷ thị mà khởi, chỉ gọi là kiêu, nên có khác nhau, như nói về mắt, người đến bên chậu đựng nước sạch, tự ngắm mắt, tai của mình.”Ngoài ra như trước nên biết tướng kia”, nghĩa là dụ cho Câu sinh ngã kiến, khởi ngã mạn.
“Đây là tất cả thứ Tát-ca-da kiến cho đến “có ân đức lớn”, nghĩa là khen giáo pháp Phật vượt hơn, năng diệt thân kiến. Đức Phật và đệ tử, chỉ bảo người tu hành, gọi là có ơn lớn.
“Chỉ do một nhân duyên như thế, cho đến “Vì chưa đầy đủ”, nghĩa là như nói tu hành, gọi là tùy phần trả ơn. Pháp sư Thái nói: “Gương soi là cái do nhân công tạo ra, nên dụ cho Kiến phân biệt. Vì nước chẳng phải do công sức con người tạo ra, nên dụ cho “kiến câu sinh”.
Thứ chín, là giải thích ba tướng. Vì các hành diệt, nên gọi là cõi Niết-bàn vô dư:
6. Nói là đối với nghiệp trước, nghĩa là trước và nay, đẽ khởi các hành diệt hẳn.
7. Nói là sự sinh kia đã mặc tình tánh diệt hoại, chẳng phải trụ rốt ráo, các hành hẳn diệt.
8. Tất cả phiền não lìa hẳn trói buộc, nên vô dư đoạn, sau lại bất sinh. Do ba tưởng này, vì các hành diệt, nên gọi là vắng lặng, không đồng với lông rùa, sừng thỏ hoàn toàn không có.
Thứ mười, là giải thích phẩm chung v.v… của pháp có ba (sẽ giải thích rộng ở sau) trong đó có hai: Trước, nói bốn pháp Ốt-Đà-Nam. Sau, nêu hai “lại nữa”, giải thích rộng vể nghĩa Ốt-Đà-Nam kia.
Tất cả pháp vô ngã, nghĩa là dựa vào “không” giải thoát, kiến lập tất cả pháp ấn thứ ba.
Niết-bàn vắng lặng, nghĩa là dựa vào môn vô tướng, để kiến lập Ốt-Đà-Nam của kiến thứ tư, là pháp ấn Niết-bàn. Pháp sư Thái nói: “Ốt-Đà-Nam có hai tiếng: Nếu là tiếng nặng thì nói rằng, nhiếp thọ lấy vật, vì tuệ thí người khác. Nếu là tiếng nhẹ thì là nghĩa sơ lược của các pháp. Như tất cả hành vô thường v.v… là nghĩa yếu lược của các pháp, nên ở đây là tiếng nhẹ.
Dưới đây, sẽ nêu hai lần “lại nữa” để giải thích rộng, trong đó, một lần “lại nữa” đầu nói sở trị, đã loại trừ tâm thối lui. Một lại nữa sau, kế là nói về hạnh năng trị.
Trong phần trước, nói dục Câu hành thắng giải, nghĩa là bốn thứ pháp Ốt-Đà-Nam, nên đối với các hành mà sinh lạc dục: Do bốn thứ pháp Ốt-Đà-Nam, vì nói bốn pháp ấn, nên đã được dứt trừ các hành lạc dục vô thường, khổ, không v.v…, đối với tu tập lạc dục trong hành vô tướng của Niết-bàn vắng lặng.
Lại, đối với các hành vắng lặng, sinh ra lạc dục cho đến “tâm kia, thối lui v.v… ”, nghĩa là trước hết, nêu bất lạc để nói về lạc dục kia, rất dễ hiểu.
Nói “Lại do hai duyên cho đến “Vì niệm quên mất”, nghĩa là do hai duyên lạc, dục này, nên tỏ ra sợ hãi đối với vô ngã, e rằng sẽ lui sụt.
Nói “Lại nhẫn nhục này cho đến “Tâm người kia ngu muội v.v… ”, nghĩa là đối với vô ngã này, vì nhẫn dục chưa tập quen, nên cho dù hiểu rõ chỉ có các hành, nhưng tâm họ vẫn còn mê muội, và vì kèm theo ngã giải, nên thường tư duy cho đến tâm người kia lui sụt.
Dưới đây là nói về hạnh “năng trị”:
Nói “ Đối với người có trí, đồng phạm hạnh, đã như thật đồng hiển rõ”, nghĩa là tâm quán sẽ bị bít lấp, ngưng đọng lại khi quán vô ngã, như thật ngữ bảo rằng, không tỏ thái độ kiêu ngạo, lừa dối, che giấu điều mình đã biết.
Nói “Do biến tri kia cho đến “Đều là quả đã chứng đắc”, nghĩa là “duyên” về ba sự, chánh trí biết khắp chấp ngã Tát-ca-da Kiến. Hạt giống của ngã kiến, gọi là tùy miên. Do chấp ngã nên tức chấp đoạn, thường vì thế, nên nói ngã kiến là chỗ y chỉ hai kiến đoạn, thường. Từ hai kiến thân biên này sinh khởi chấp mắc, kể cả tùy miên, gọi là quả đã được. trong thuận theo quán bảy phương tiện, Chánh kiến rất dễ hiểu rõ việc này. Dưới đây, là nêu ra ngã kiến, “duyên” ba việc:
1- Sở thủ, nghĩa là năm thủ uẩn.
2- Năng thủ, nghĩa là bốn thủ.
3- Nếu thủ như thế, nghĩa là bốn thức trụ về phương pháp thủ, tùy theo thứ lớp của bốn thức trụ đó, như trước, nên biết.
Làm chỗ nương tựa của tâm hai thủ: 1- Giải thích: “Bốn thức trụ là chỗ nương tựa của hai tâm “năng thủ” “sở thủ” ở trước.
2/ Giải thích: “Ba sự làm chỗ nương tựa của hai tâm ngã và ngã sở ở trước. Cũng có thể dựa vào ba việc này khởi ngã kiến xong, tức làm đối tượng nương tựa cho hai kiến đoạn, thường, nên trong phần chung ở trước, nói về ngã chấp của ba việc, tức nói chỗ nượng tựa của hai kiến đoạn, thường. Nói “Là tùy theo thứ lớp của ba việc kia”, như trước biết là chỗ nương tựa của tâm hai thủ.
Lại, đối với ở tất cả các triền của ba sự kia cho đến “Và tùy miên kia v.v…”, nghĩa là nêu ra quả đã được, đây là giải thích Biến tri.
Nói “Lại, nếu dựa vào ba việc kia thì, lẽ ra đã biết khắp lúc chánh
kiến vận chuyển cho đến “huống chi được xuất ly”, là thiện của giải thoát phần.
“Nếu là tùy thuận hiện quán cho đến có “Khả năng xuất ly”, là quyết trạch phần. “Nếu đã dẫn phát v.v… đến “Mới được xuất ly” là kiến đạo.
“Phải biết rằng, khi ba kiến như thế chuyển biến, sẽ có sự khác nhau này”, nghĩa là chánh kiến của giải thoát phần, chánh kiến của quyết trạch phần và chánh kiến hiện quán. Sự khác nhau của ba kiến này, đã nói như trước.
Môn lớn thứ tư, là giải thích về thần thông nhanh chóng v.v…, trước hết tụng trình bày mười môn:
- Mau chóng hiểu thông.
- Tự thể.
- Cảnh giới của Trí.
- Lưu chuyển.
- Hạnh hỷ túc.
- Xuôi dòng.
- Biết tướng đoạn.
- Tưởng.
- Lập tư lương trái.
- Phẩm sở tác v.v… của sư sẽ nói rộng ở sau.
Trong Văn xuôi giải thích, tức là mười đoạn: Trong giải thích mau thông hiểu đầu tiên, trước nói về ba pháp. sau, nói về năm thứ lần lượt.
Trong phần trước:
- Nói về ba lực, để cho được thông hiểu nhanh chóng.
- Nói về sự khác nhau của trí, kiến.
- Nói về tu bốn thiện xảo.
Trong phần đầu, nói “sức thường Tập”, nghĩa là thường làm, thường chuyển. Cuối cùng không đặt ra kỳ hạn rằng “Ta vì hôm nay, ngày mai, ngày sau, sẽ được hết lậu, khiến tâm nhàm chán mỏi mệt. Không tác động kỳ hạn này, thì sẽ không có nhàm chán uể oải.
Trong nghĩa trí, kiến khác nhau, tức có chín cặp. Lại, có Nhĩ diệm sắc, xưa nói Trí mẫu. Luận sư Cảnh truyền đạt lời Tam Tạng Pháp sư nói “Cũng là sở duyên”, tức sở duyên “hữu sắc” với ảnh tượng sở duyên của Vô Sắc.”
Đạt Luận sư nói “Ở đây, nói là cảnh giới. Dưới đây sẽ nói về bốn thiện xảo. Văn có ba: Trước là nói về sự thiện xảo. Kế là nói về năng sở y, sau nói về đạo thanh tịnh.”
Trong phần đầu nói “Như thật biết khắp tất cả cảnh”, nghĩa là tất cả pháp của cảnh giới bốn niệm trụ.
Nêu ra sự thọ, nghĩa là Sơ Thiền phát ra ưu căn, cho đến bốn thiền phát ra lạc căn.
Kế là, trong phần nói về sở y, năng y. Luận sư Cảnh nói: “Siêng tu thiện xảo như thế, phải biết rằng có bốn thứ sở y (đối tượng nương tựa), năng y (chủ thể nương tựa). Nghĩa là nói về bốn thứ thiện xảo ở trước đều có sở y, năng y. Nghĩa sở y, nghĩa là tu tập chánh cần, quán hạnh, làm nghĩa sở y của bốn thiện xảo ở trước. Nghĩa năng y: là Pháp vô lậu của người học, vì y chỉ siêng năng mà có, nên là chủ thể nương tựa, ngoài ra không nói ở địa vị chưa được thanh tịnh.”
Pháp sư Thái nói: “Ở trước nói về ba mươi bảy phẩm Đạo, nói chung là bốn thứ thiện xảo, nghĩa chung được chia làm hai: ba niệm trụ trước, chánh đoạn, Thần túc v.v… làm sự sở y, vì ở kiến đạo. Một căn lực chi giác đạo v.v… sau, người Học đã có các pháp vô lậu làm sư “năng y”.
Dưới đây, là nói về đạo thanh tịnh, có hai lượt giải thích:
1/ Lượt trước rằng: “Các pháp kia đều do đạo thanh tịnh, về sau, mới thanh tịnh, nghĩa là hướng về phẩm trợ đạo của bảy môn trước. Các pháp này do được đạo thanh tịnh vô Học, về sau mới thanh tịnh.” Sau là nói về năm thứ lần lượt, như văn, rất dễ hiểu.
2/ Lượt thứ hai, là giải thích tự thể; 1-Nêu chung; 2- Giải thích riêng năm câu:
- “Lượng tuổi thọ có giới hạn” v.v… trở xuống, là nêu việc cần giữ viên đất sét, lấy, bỏ tự tại. Và chứng tỏ thân phải chết, không như đối tượng dục, nhanh chóng trong một sát-na.
- Vì nhân tạo tác.
- Vì mài mòn tiêu diệt.
- Do bậc Thánh nói.
- Vì thọ dục viên mãn.
Nói “Ba thứ nhân duyên, có thể được viên mãn v.v… ”. Luận sư Cảnh nói: “Bố thí là nhân của tài sản, hoặc là nhân viên mãn của tự thể. Điều phục các căn và cõi Dục tu từ mà đắc quả, tức là rộng lớn thù thắng.
Hữu tình điều phục các căn viên mãn, đều thực hành và tu từ ở cõi Dục mà được quả tức là rộng lớn thù thắng, là nhân cúng dường viên mãn của hữu tình.”
Có chỗ giải thích: 1- Thí, giới điều phục sáu căn, vì đều thực hành, nên tài sản đầu viên mãn. 2- Vì quả do cõi Dục tu từ được, nên tự thể viên mãn.
3. Từ là nhân trước vì không tổn hại hữu tình, nên được viên mãn thứ ba.
Thứ ba, là giải thích về cảnh giới của Trí, trước nói về “hạnh trí”. Sau, nói về dứt ngu.
Trong phần trước, nói: “Đã được trí chưa được, nghĩa là được trí chưa từng được, nói thị xứ, chẳng phải có biết, chẳng phải có trí. Biến kế sở chấp, chẳng phải có biết, chẳng phải có trí.
Thị xứ, biết cái còn lại chẳng phải là “không trí”, nghĩa là tánh y tha khởi, vì chẳng phải không, nên biết là trí bất không”.
Dưới đây sẽ nói dứt trừ “hạnh ngu”. Luận sư Cảnh nói: “Trong đây chỉ nêu tám thứ: Ba thứ trước học rộng các pháp:
- Thủy giới sinh ra: là nêu sắc pháp, phần nhiều do nước sinh ra.
- Vô ngã dường như ngã mà biểu hiện rõ ràng, là nêu chung năm uẩn.
- Không tùy theo dục, mà vì tạo tác. Nghĩa là sinh rồi liền diệt, không được tùy dục mà có tạo tác.
Năm thứ sáu, y cứ ở uẩn: Sắc như đống bọt nước, do ba hòa hợp sinh, vì giống nhau, như ba việc: mây, đất, mưa mà có bọt. Trên sắc uẩn khiến mọi duyên đã sinh. Thọ như bọt nổi. Cảnh sở tri có thể rõ ràng, dụ cho lạc thọ. năng đốt cháy là khổ thọ, Hay xui khiến mê loạn là xả thọ. Cũng có thể ba nghĩa dụ chung cho ba thọ. Tưởng như dương diệm, vì dứt trừ căn bản Tát-ca-da Kiến. Tưởng là rễ của kiến. Do quán lỗi lầm của tưởng, loại trừ được gốc của thân kiến.
“Đa số tự thể của phẩm đều nhân sự mà khác nhau: dương diệm phần nhiều nhân tưởng mà sinh. Nhân chúng nam, nữ và nhân sát-na đã sinh không dừng, rất dễ hiểu. Hành như cây chuối. Thức “hữu’ “thủ” dựa vào bốn thức trụ, phát khởi các thứ tự thể tùy chuyển.
Pháp giống nhau: Thức hưu lậu, nương tựa bốn thức trụ, tạo nên tội phước v.v…. Tự tánh của hành không thật, như cây chuối. Khi tám thức khởi, diệt, thể của chúng chẳng chân thật, cũng như ảo thuật. Lược nói về tám thức này. Bảy tướng còn lại là giải thích như trong nhiệp dị môn phần).
Có chỗ giải thích: “Năm uẩn trong đây, mỗi uẩn đều dùng ba nghĩa để quán, cho nên có mười lăm tướng: Sắc uẩn có ba:
- Sắc từ nước sinh.
- Vô ngã giống với ngã kiến, vì dùng tướng biểu hiện rõ.
- Không mặc tình tùy dục mà tạo tác.
Vì đủ ba nghĩa này, nên hiểu rõ sắc như bọt nước. Thọ uẩn có ba:
- Ba thứ căn trần, thức hòa hợp sinh.
- Như mây, đất, nước mưa hòa hợp.
- Vì bọt nước nổi “hữu” khởi, nên hiểu rõ thọ như bọt nước trôi nổi.
Tướng uẩn có ba:
- Như dợn nắng.
- Có thể nói như lửa, vì có thể đốt cháy.
- Có thể làm mê loạn chúng sinh, vì pháp tương tự.
Hành uẩn có ba:
1/ Dứt trừ Tát-ca-da kiến, như chặt cây chuối.
2/ Chứng hành uẩn, phần nhiều tự thể của phẩm đều từ nhân sinh ra khác nhau không đồng, chẳng có một thể tánh chân thật có thể được.
3/ Thời gian sau lượng sát-na, không có tạm ngừng, vì pháp tương tự.
Thức uẩn có ba:
- Thức hữu lậu.
- Nương tựa bốn Thức trụ.
- Phát ra các thức tự thể chuyển, biến hóa thành các hành.
Thứ tư, là giải thích lưu chuyển. Văn chia làm ba: Đầu tiên, là nêu hai thế gian, để nói về sự khác nhau.
Kế là, nói về năm thứ sinh tử lưu chuyển. Sau, nói về năm tướng lưu chuyển bị ràng buộc.
Trong phần đầu, mé trước sau của khí thế gian, cách xa đến hai mươi kiếp Không, gọi là mé trước sau dứt. Lại, nhân của sinh tử khí hẳn cắt đứt, chỉ vì y cứ ở phân biệt chung đã được duy trì, nên nói rằng, đạo lý không dứt. Nhân ngoại khí của tự thân cũng dứt. Lại, sinh tử của khí thế gian dứt mà lại nối tiếp. Kiếp “không” một phen cách biệt, lại nối tiếp. Đạo đối trị chủng loại sinh tử, hể một phen dứt thì không bao giờ còn nối tiếp nhau nữa!” kế là, nói về năm tướng lưu chuyển, như văn.
Dưới đây, là nói về năm tướng bị ràng buộc.
Nói “Chính là chủ thể ràng buộc”, nghĩa là đồng loại của mình.
Không nhàm chán với khổ v.v…, nghĩa là người tu hành đối với uẩn khổ của mình, không có nhàm chán, uẩn, khổ chính là chủ thể ràng buộc.
Thứ năm, giải thích hạnh mừng đủ. Đầu tiên, là nói về sự hỷ túc (mừng đủ). Sau, là nói về đường hạnh ái.
Trong phần trước, con người có nhiều sự nghiệp, như thú hướng về dục. Trời thôi dứt sự nghiệp, như đứng, ở. Địa định của Phạm Thiên, như ngồi. Hữu đảnh vắng lặng như nằm.”
Dưới đây sẽ nói về con đường của hạnh ái, văn chia làm ba. Đầu tiên là nói về con đường năm hành. Kế là nói về con đường của hành ái. Sau, nói về hai thứ quả và tướng nhân của con đường hành du ái.
Trong phần đầu nói: “Phải biết rằng đối với người kia, như thứ lớp của năm hành kia, khác nhau của thú hướng.
Hai thứ đầu, gọi là thú hướng. Thứ ba gọi là đứng, thứ tư gọi là ngồi, một thứ sau gọi là nằm.
Kế là, nói trong bốn con đường hành ái: Đầu tiên là nói về bốn con đường. Sau thuộc về bốn câu.
Trong phần trước, nói “Trong sở đắc, hoặc chuyển, hoặc tập v.v…”. Nghĩa là đối với các tư cụ đã được, tùy cái người kia muốn, hoặc đổi bán cho người khác, hoặc tự tập cận ái. “Thọ Duyên” cảnh này và “duyên” các hữu, do vì phát nghiệp.
Dưới đây là thuộc về bốn câu: Phải biết rằng, bốn con đường như thứ lớp thú hướng v.v…. Như nói thú hướng v.v…. Ở chỗ khác nói là bốn xứ như mừng vui, cũng thuộc bốn con đường, như thứ lớp con đường ấy.
Dưới đây là nói về ba thứ quả và tướng nhân của con đường du hành ái. Trước là nói về sự khác nhau của tướng quả:
Nói “Các thứ khác nhau của tất cả thân”, nghĩa là năm đường, gọi là các thứ, một đường trong cõi Sắc, gọi là một thứ. Sau là nói về nhân khác nhau, nên khiến cho quả khác nhau.
Nói “tức khác nhau này”, nghĩa là thân, thọ thuộc về năm thứ hành.
Các thứ khác nhau: Ở đây có hai cách giải thích:
1/ “Tức năm thứ hành của “hữu” sau.
2/ “Thân thọ thuộc về năm uẩn: như Sắc v.v… ”, nay cứ theo văn dưới đây, thì giải thích sau là hơn.
Thứ sáu, là giải thích về xuôi dòng, trước là nói về xuôi dòng, sau, chỉ rõ về ngược dòng.
Trong phần trước, nói “Thế nào là nổi, chìm?
Nghĩa là về các hành, như trước đã nói, sự trôi lăn v.v…, tùy theo thứ lớp v.v… của chúng.”
Có chỗ giải thích: “Nghĩa là tức ở trước đã nói “năm thứ sự trôi lăn như xứ v.v… kia”, chấp sự ban đầu là “ngã”, chấp bốn sự sau là “sở”, nên nói tùy thứ lớp”.”
Nay, “giải thích tức như ở trước đã nói”: Các hành lư chuyển, nhân duyên tạp nhiễm, thanh tịnh và thể thanh tịnh”, vì không biết như thật, nên chấp ngã, ngã sở.”
Dưới đây, trong giải thích về ngược dòng, trước chỉ rõ chung ngược dòng. Sau, nhân nói về tướng thông minh, có mười chữ “lại”, để làm số.
Thứ bảy, là giải thích tướng của trí đoạn. Trước, là nói về biết, nghĩa là tướng đoạn. Sau nói về ba thắng lợi.
Trong phần trước, tự có biết rõ vô ngã mà chưa dứt trừ ngã chấp. Tự chưa dứt trừ ngã chấp. Tự có biết rõ vô ngã, mà dứt ngã chấp, đối với hai người này do hai tướng. Ba thắng lợi sau, do tướng trước được, không nói là được riêng.
Thứ tám, là giải thích tưởng, trước là nêu, sau là giải thích riêng theo thứ lớp.
Đầu tiên, giải thích về quả khác nhau, tức là Trạch diệt. Nói “ là tu tưởng này cho đến” vô minh làm bạn. Nghĩa là tham của ba cõi là gốc. Diệu cử, ngã mạn, vô minh, theo thứ lớp, giúp đỡ một.
Các chỗ nói phiền não. Ở đây, y cứ một môn. Lại có khác nhau. “Nói là ở trong đây, chỉ bày rõ kiết phần trên, phần dưới đều dứt hết”, nghĩa là ở đây, chỉ rõ môn giản lược, chỉ nói dục tham, tức thuộc về năm phần dưới. Tham sắc, tham Vô Sắc, điệu cử, mạn, vô minh, tức là năm kiết phần trên. Nêu “hoặc” đã dứt trừ, chứng tỏ được Trạch diệt, quả chung như vô thường, v.v…
Thứ hai, là giải thích tự tánh: là tự tánh của các tưởng như vô thường v.v… tức là ba tuệ: Văn tuệ, gọi là thân gần gũi. Tư tuệ, gọi là tu tập, tu tuệ, gọi là tu tập nhiều. Lại, y cứ sáu tác ý, hiểu rõ tác ý tưởng, gọi là gần gũi. Trừ tác ý của Gia hạnh rốt ráo, bốn tác ý còn lại, gọi là tu tập. Tác ý của Gia hạnh rốt ráo gọi là tu tập nhiều.
Lại “Do tác ý sự sở duyên của căn sở y, tùy theo thứ lớp đó, phải biết gọi là Thừa”, nghĩa là căn sở y ngã của tưởng vô thường. Tác ý “duyên” sự sở duyên làm tùy kiến lập.
Lại “Do v.v… trở xuống, là giải thích tên khác của tưởng. Thứ ba, giải thích sự khác nhau của phẩm loại, nghĩa là khi tu tưởng vô thường như thế, sẽ nhanh chóng nhổ gốc tùy miên v.v… rất dễ hiểu.
Thứ tư, là giải thích về phương tiện khác nhau. Nói là “Một mình ở chỗ rảnh rang, cho đến” hai thứ đều đủ” nghĩa là thuận theo Niết-bàn tức là đạo phương tiện chứng đắc Niết-bàn tức đạo vô ngại. Do đủ hai đạo này, nên chứng Niết-bàn.
Thứ chín, trong trái với tư lương, trước, nói về pháp tư lương trái, thuận. Sau, nói về giáo đạo.
Trong phần trước, đầu tiên, là nói về trái với tư lương, sau trái lại hiển bày thuận với tư lương. Trong phần trước đầu tiên là nói về năm thứ trái với tư lương, sau nói về thuận theo pháp kia.
Lại có năm thứ như thứ lớp, phối hợp với năm thứ trước. Nói về hai ly dục: 1) Nói là lìa triền 2) Nói về lìa tùy miên.
Y cứ trong phần nói về giáo đạo, Pháp sư Thái nói: “ Ba thứ trước là nói ngôn giáo của chánh đạo khi trụ định, hai thứ sau, là nói ngôn giáo của chánh đạo thực hành việc lúc xuất định. Nếu theo sự phán quyết của Luận sư Cảnh thì văn ngôn giáo của năm thứ chánh đạo này tức là chữ lược mà Luận sư đã sáng tác trong giải thích bài tụng.
“Phẩm Đẳng, sẽ giải thích rộng ở sau” nghĩa là nêu “đẳng thủ” mà Luận sư đã sáng tác giản đơn. Phẩm rộng sau: phẩm có mười lăm đoạn.
Nay, không dựa vào sự phán quyết này. Lại nữa, “Đại sư v.v….trở xuống, thứ mười giải thích phẩm đẳng mà Luận sư đã sáng tác v.v… sẽ nói rộng sau. Văn được chia làm hai: Trước một lần “lại nữa” chính là nói về việc mà Luận sư đã làm. Sau, có mười lăm lần “lại nữa” giải thích rộng về lần “lại nữa” đầu.
Trong phần trước, có chỗ giải thích: “chính là chiết phục, nghĩa là chiết phục tội nặng.
Chính là quở trách: quở trách tội nhỏ.
Nay, giải thích: “chiết phục tà đạo, nhiếp thọ chánh đạo, quở trách có trái phạm. Chính là nói khổ, tập, chính là nói diệt, đạo Trong mười lăm lần “Lại nữa”, đối tác sơ lược.
Thứ nhất, đối tác thọ ký riêng sự xua đuổi. Trong ghi nhận riêng, Luận sư Cảnh nói: “Do hai nhân duyên thọ ký riêng tướng che giấu, nghĩa là Thanh văn đấu tranh, trái vượt hạnh chung, dự trù thọ ký tướng mạo trong giới luật: 1) Khuấy rối càng lan rộng thêm. 2) Tướng ưng với luật”.
Có chỗ giải thích: “Lúc Thanh văn đấu tranh, chỉ có thể như tướng cỏ che đất mà thọ ký riêng. Do hai nhân duyên.
1/ E đấu tranh khuấy rối lan rộng.
2/ Thọ ký riêng của tướng che lấp tương ưng với luật, trong xua đuổi, do bảy nhân duyên:
1- Thấy một chúng Tỳ-kheo đều thực hành tà hạnh nên đều đuổi ra khỏi chúng.
2- Trong một chúng, thấy phần đông người làm tà hạnh kia kéo nhau đến chỗ Phật. Theo đa số đều đuổi.
3- Dù là người tà hạnh ít, nhưng là phương tiện thủ chúng, nên đều đuổi ra.
4- Dù không thực hành tà hạnh, nhưng vì tánh xấu, ác không được ở chung, nên đuổi.
5- Người bị trú xứ khác đuổi, rồi đến đây, nên phải đuổi ra. Hai người sau, rất dễ hiểu.
Thứ hai, là đối hành khất vào trú xứ.
Thứ ba, đối nhiếp thủ chúng, khuyến dụ trời.
Thứ tư, đối đầu tiên, tin, sau ăn năn, sa-di, lao sách.
Thứ năm, là sư nói đối đã qua.
Thứ sáu, là đối quở phạm, trị tà.
Y cứ trong đối trị tà, có bốn lần “lại nữa”;
Ba lần “lại nữa” trước, là nói về tà. Một lần “lại nữa” sau, là nói về đối trị.
Trong ba lần “Lại nữa” trước, nói “Nghĩa là đối với ba cho đến “như trước nên biết”. Có chỗ giải thích: “Tức thủ v.v…, gọi là ba sự, có thể dẫn văn trước.”
Nay, giải thích: “Nói ba việc, như ở trước đã nói:
- Các dụng cụ giúp ích trong cuộc sống hằng ngày.
- Tướng tổn hại người khác.
- Hoặc bị người khác mắng nhiếc, phá hại.
Hoặc tùy phần có một phi ái hiện hành, người đồng phạm hạnh, không đồng phần pháp.
Y cứ trong phần nói về đối trị, nói “1- Vì dứt trừ Tầm, Tư bất chính, vì không có điên đảo, thường nói hai hạnh v.v… ”. Luận sư Cảnh nói: “Hai niệm xứ chung, riêng gọi là hai hạnh.”
Có chỗ giải thích: “1- Không có điên đảo; 2- Thường gọi là hai hạnh”.
Nói “Tức là có thể chứng ngay tâm định vô tướng và trụ môn Cam lộ nhiệm mầu v.v… của hai cõi”, nghĩa là giới đoạn, giới không có dục, gọi là hai cõi. Hai thứ Niết-bàn, gọi là cam lộ mầu nhiệm.
BẢN LUẬN QUYỂN 87
Thứ năm, là Môn Đại, giải thích về nhân v.v…. Bài tụng trước nêu sáu môn: 1/ Nhân; 2/ Thắng lợi; 3/ Hai trí; 4/ Phần vị người ngu; / sự Khác nhau của hai thứ kiến; 6/ Thánh giáo v.v… ở đây.
Kế là, trong phần dùng Văn xuôi để giải thích, gồm có sáu đoạn: Đầu tiên là giải thích môn nhân. Luận sư Cảnh nói: “Nhân chung cho đến thấm nhuần tự thể”. Hỷ, giống như hỷ lạc. Vì năm uẩn hỷ lạc, nên huân tập trở thành hạt giống của danh ngôn, là nhân chánh của sự thọ sinh, nên làm nhân trước. Đã do hỷ lạc ở chỗ sinh kia, nên chướng ngại cho sự nhàm, lìa.
Hỏi: “Lúc thọ sinh có nhân phiền não v.v…, vậy tại sao chỉ nói hỷ ư?”. Luận chủ đáp: “Vì dục, sẽ sinh chỗ được sinh cho đến “Chẳng phải ở nơi đó, khởi tưởng nhàm trái.”
Hỏi: “Ở trước đã nói hỷ là Tập sắc, riêng làm Tập thọ, danh sắc làm Tập thức. Vì sao trong đây lại nói hỷ làm nhân sinh ra năm uẩn ư?”
Đáp: “Vì hỷ làm chánh nhân sinh khắp năm uẩn, như ở đây đã nói. Ở trước, sở dĩ nói Hỷ làm Tập sắc là vì sắc chỉ có nhân hỷ của đời trước, tức sinh, không đồng với thọ uẩn còn phải nhở xúc “duyên” thức, nhờ vào danh sắc, mới được sinh khởi, nên nói rằng: “Lại, tức hỷ này chỉ dựa vào sắc, nói nhân đời trước. Sinh xong, không đợi nhân khác, vì rốt ráo chuyển.”
Nói “Nhân không chung cho đến “mới được sinh khởi”, nghĩa là thuận với xúc như lạc v.v…, đối với tất cả tâm pháp như thọ v.v… làm duyên, rất dễ hiểu. Thức do ý vô gián diệt và ba uẩn “Câu sinh”. Danh của bốn uẩn này và sắc của mười thứ: Năm căn, năm trần, làm duyên cho sáu chủng thức, đều là nhân không chung.”
Hỏi: “Thọ và thức đều sinh ra từ nhân kiếp trước, thế sao lại nói là xúc và danh sắc ư?”, nên về sau đáp: “Do thức, thọ kia là từ nhân trước sinh, nhưng trong từng sát-na, sát-na, vẫn còn phải đợi nhân khác, mới được sinh khởi.”
Luận sư Đạt nói “Nói hỷ, ái, do ái này phát sinh thấm nhuần v.v…, tức là huân tập danh ngôn”, nên Nhiếp Luận nói: “Lúc nhãn căn này sinh, vì từ thọ này huân tập, sinh khắp năm uẩn, nênnói là nhân chung, nhưng sở dĩ ở trước nói do Tập hỷ, là vì theo mạnh mà nói. Sắc uẩn chỉ sinh từ hỷ, bốn uẩn còn lại cũng đợi căn, trần v.v… hiện tại, cho nên nói riêng, vì tập hỷ, nên tập sắc. Đoạn văn ở trước cũng nói: “Vì tập xúc, nên tập thọ vì tập danh sắc, nên tập thức”, là nói trong nhân không chung. Bốn uẩn còn lại này chỉ sinh quả mình, bất sinh, chung quả khác, nên nói là nhân không chung.
Thứ hai, là giải thích sự thắng lợi, được chia làm hai.
1/ Nói La-hán có bốn thắng lợi.
2/ Nhân nói Tát-ca-da kiến là gốc sinh ra sáu mươi hai kiến.
Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói: “1-Tánh luôn thường trú khi ở nơi hành”, tức sáu thường trú, nghĩa là mắt thấy sắc, bất sinh lo, mừng, chỉ dừng lại ở tâm xả, trụ niệm, tuệ, cho đến ý “duyên” pháp cũng vậy. 2- Tánh của vô thường, lúc ở nơi trụ, trụ, nghĩa là trụ nơi Diệt đế. 3- Nhân xưa đã sinh các hành nhậm vận quy diệt, nghĩa là quả báo tàn dư của La-hán, đáp lại thế lực nhân trước, vì thế lực của nhân đã hết, nên nhậm vận (tùy ý) mà diệt, tức Niết-bàn hữu dư. 4- Hành hữu sau, nay, vì nhân đoạn, nên không còn sinh nữa, nghĩa là phiền não trong thân La-hán đã dứt, báo đương lai sẽ bất sinh, là nhập vô dư. Ba lần lượt như văn.
“Ngoài kia do hai thứ này, hoặc đi, hoặc đứng cho đến “mà nhập Niết-bàn”, nghĩa là nhập hữu dư vậy.
“Trước đã sinh hữu cho đến “không còn sinh nữa”, là nhập vô dư.
Luận sư Đạt nói: “Trong đây, đầu tiên, là nói về sự thắng lợi của sự chứng đắc. Kế là, từ “làm chứng như thế v.v… trở xuống, là nói về nhân tố thắng lợi của chứng đắc. Trong bốn thắng lợi, hai thắng lợi trước là đạo “năng chứng”, hai thắng lợi sau, là Niết-bàn vô dư “sở chứng”.
Trong phần trước, nói “Lúc ở nơi hành, tánh luôn thường trú”, nghĩa là nói trụ giới đoạn, giới không có dục diệt và giới Hữu dư Niếtbàn.
Nói “Tánh trụ của vô tướng khi ở nơi trụ”, nghĩa là nói trụ cõi Niết-bàn vô dư.
“Nhậm vận quy diệt”, nghĩa là nói diệt hiện thân, nhập Niết-bàn vô dư.
“Đoạn nhân hạnh của hữu sau bất sinh”, nghĩa là nói rõ thân sau bất sinh, nên nhập Niết-bàn vô dư. Trong y cứ nhân chứng đắc Niết-bàn vô dư.. 1- Y cứ ở ba thứ lần lượt, để nói về nhân “năng đắc”.
2- “Lại, khi ở hành v.v… trở xuống, là giải thích lại thắng lợi ở trước kia. Nói “Nhàm lìa trong y cứ lần lượt trước”, nghĩa là kiến đạo từ phương tiện mà được tên. Lìa dục nghĩa là tu đạo, tâm khéo giải thoát là đạo vô học.
Y cứ trong giải thích lại thắng lợi, đầu tiên là giải thích lại đạo “năng chứng”. 1- “Đó do là hai” trở xuống, là giải thích lại Niết-bàn đã chứng.
Trong y cứ giải thích lại “năng chứng”, chỉ giải thích một giải thích đầu, không giải thích một giải thích sau.
Dưới đây theo thứ lớp, nhân nói thân kiến làm gốc, sinh ra sáu mươi hai kiến.
Trong văn, đầu tiên, là nói thân kiến là gốc sinh sáu mươi hai kiến. Tiếp theo, nói về lý do khởi sáu mươi hai kiến. Sau nói sáu mươi hai kiến là ba suy tổn.
Trong phần đầu, ba đời tức gọi là ba phần. Nói “mé trước đều hiện hành”, nghĩa là như có người nghĩ rằng: “Ngã đã từng có ở đời quá khứ chăng?” v.v…. Nghĩa là vì vô tri, nên do dự, vì do dự, nên chấp ngã.
Mé trước, sau đều hiện hành, tức gồm thu hai đời trước làm đời thứ ba. Cũng có thể pháp hiện tại hình thành song song quá khứ, vị lai. Kế là, nói về nguyên nhân khởi sáu mươi hai kiến, trong đó được chia làm hai: Đầu tiên, là nói dựa vào thân, khởi sáu mươi hai kiến. Sau nói về nhân duyên sinh khởi của sáu mươi hai kiến.
“Bốn thường kiến trong phần trước”, nghĩa là có các Sa-môn, Bàla-môn v.v… nói rằng: “Ta đã dùng vô số phương tiện để tu tập, chứng được tam muội của ý định. Vì sức tam muội nên nhới lại việc thành, hoại trong hai mươi kiếp, chúng sinh trong đó không thêm, không bớt, thường trú, không lay động”. Do đây nên biết “ngã” và thế gian, tất cả đều thường.
Thứ hai, là biết bốn mươi kiếp. Thứ ba, là có thể nhớ tám mươi kiếp. Thứ tư, là trực tiếp dùng tri kiến, nhanh chẹn nói: “Ngã” và các thế gian tất cả đều thường. Ba người trước đều dựa vào thiền định, biết kiếp nhiều ít.”
Luận thường kiến của một phần tư, nghĩa là như nói: “Kiếp sơ, Phạm Vương sinh trước, nhìn thầy cung điện của Phạm trống rỗng, nghĩ rằng: “Chỗ này trống trải, các phạm được sinh.” Do ý nghĩ này, Nhị thiền trở lên, các vị trời chết đi, sinh đến nơi đây. Phạm vương nghĩ rằng: “Ta là thường, do ta sinh ra chúng phạm kia.” Chúng phạm lại nói: “Ta từ Đại Phạm Vương sinh Phạm Vương là thường. Các chúng Phạm chết đi, cho đến sinh trong loài người xuất gia, tu đạo, được trí túc mạng. Biết được quá khứ của mình đã từng sinh Phạm Thiên, Phạm Vương là thường, có thể sinh muôn vật.”
“Ngã thường, vô thường, do nghĩa này, nên “ngã” và thế gian, hoặc thường hoặc vô thường.
Lại có các vị trời quên mất khi dạo chơi ở cõi Dục. Do dạo chơi quên mất, thất niệm mạng chung, đến trong loài người xuất gia, được định, thấy quá khứ của mình từng được sinh ở trời Dục. Do quên mất ý, nên chết đi. Người không quên mất ý thức thì thường, không chết. Cho nên, thế gian có nửa thường, nửa vô thường.
Thứ ba, ý phẩn là trời cõi Dục. Do tướng của ý phẫn, quán quên mất y chết đi, lời nói khác như trước.
Thứ tư, là không nhân thiền định, trực tiếp dùng tri kiến nhanh chóng, nói thế gian là nửa thường, nửa vô thường.
Hai luận Vô Thân: 1- Từ Trời Vô Tưởng chết đi, sinh đến trong cõi người, tu được thiền định, thấy quá khứ đã từng vô tâm trong năm trăm kiếp, tâm sinh trở lại. Phải biết thế gian vô nhân mà có. Lại, có người không được thiền định, tâm ngay thẳng, với ý mau chóng nói “Các thế gian vô nhân mà có”.
Bốn là luận hữu biên, vô biên: Khí thế gian hữu biên.
Y cứ trên, dưới vì nói: “Sức thần thông chỉ biết Ni-tra, không biết trên còn có địa ngục. Phía dưới vượt quá thủy phong luân, không biết còn có Ni-tra, cho nên nói là hữu biên. Bên cạnh lại thấy vô biên, lại dùng thiên nhãn vì ngang dọc đều thấy, nên nói: “Vừa hữu biên, vừa vô biên. Thấy ở kiếp hoại, gọi là chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên”.
Bốn là bất tử kiểu loạn luận, tức hỏi khác, đáp khác:
1/ Ta không biết thiện ác là có được quả báo hay không được quả báo”
2/ Không biết là có đời sau, hay không có đời sau?
3/ Lại nghĩ: “Ta không biết cái gì là thiện? Cái gì là bất thiện?
Nếu có người hỏi, sẽ lấy đây để đáp. Việc này như thế, việc này không như thế. Việc này khác, việc này không khác. Việc này cũng khác không khác v.v….
Thứ tư, là trực tiếp do ngu đần vô tri, e có người lại hỏi lại dùng ý nghĩ này để đáp. Mười tám kiến chấp này khởi chấp mé trước, bốn mươi bốn kiến, khởi chấp ở mé sau.
Luận Mười sáu hữu tưởng, là bốn trường hợp trong Sắc: Hữu sắc, hữu tưởng, Vô Sắc hữu tưởng v.v…, hữu biên hữu tưởng v.v…. Vô biên hữu tưởng v.v… cũng có bốn.
Một là tưởng, có tưởng, ngần ấy tưởng, có tưởng ít tưởng, vô lượng tưởng; có tưởng khổ, có tưởng vui; có tưởng khổ vui; có tưởng không khổ không vui.
Luận Tám vô tưởng, chỉ bốn trong sắc, bốn trong biên, vì vô tưởng nên không được nói “Tám trường hợp một tưởng, tưởng ngần ấy khổ, vui v.v….
Luận tám phi hữu tưởng, phi vô tưởng, lại y cứ bốn trong sắc, bốn trong bốn biên là tám.
Bảy đoạn kiến: Lại, trong chấp nhân, bỏ thân này xong, sinh tử rốt ráo dứt mất. Có thuyết nói: “Trong con người chẳng phải đoạn diệt.
Năm dục ở các tầng trời cõi Dục, tự buông lung mới được đoạn diệt”.
Lại nói “Trời Sắc mới được đoạn diệt”.
Có thuyết nói “không xứ”. Cho đến có thuyết nói “Phi tưởng mới được đoạn diệt, cõi khác chẳng phải đoạn diệt”.
Luận năm hiện pháp Niết-bàn:
1/ Trời dục và hiện thân con người là Niết-bàn.
2/ Người nói: “Chấp này chẳng đúng, tức có Niết-bàn. Người khác không biết, nói là có lìa giác, quán sinh hỷ v.v…, nhập định Sơ thiền, thậm chí chấp thiền thứ tư cho là Niết-bàn.
Ở đây nói rằng hiện, nghĩa là chẳng phải ở vào thời gian sau, mà hiện thân người kia mới được Niết-bàn, giải thích rộng nghĩa sáu mươi hai kiến, như Bản địa phần và trong Quyết trạch phần).
Nói năm thứ như thế, lại lược làm ba:
- Luận thường kiến: Tức ba thứ trước.
- Đoạn kiến, tức bảy kiến đoạn diệt.
- Hiện pháp Niết-bàn luận, tức là tà kiến.
Dưới đây, sẽ nói về nhân duyên sinh khởi của sáu mươi hai kiến, có sáu:
1/ Do nhân duyên. Nghĩa là thân kiến kia dùng làm nhân duyên: Y cứ làm duyên tăng thượng gần, sinh ra sáu mươi hai kiến, nên gọi là nhân duyên.
2/ Do tà giáo cũng sinh chung sáu mươi hai kiến.
3/ Do tĩnh lự, nghĩa là ở trước nghe nói ba luận trước trong tất cả luận về thường, ba luận trước trong luận một phần thường.
4/ Hữu biên luận, một loại đầu trong hai luận Vô nhân, tu được định, mới chứng trụ quyết định, gọi là Y tĩnh lự.
Nói “Lại, tĩnh lự này có hai, cho đến “Túc trụ tùy niệm Câu hành”, nghĩa là trong chấp ba thường luận của mé trước, do sự khác nhau của thanh tịnh phẩm thượng, trung, hạ và với bốn thứ biên, vô biên luận: Đây là nêu Nhất thiết thường luận. Ba kiến trước nương tựa trí túc mạng và bốn kiến trong Biên.
“Do sự nhớ nghĩ kia, cáckhí thế giới, phương tiện xuất hiện hai thứ thành, hoại”. Nghĩa là nói chung, dựa vào hai kiếp này khởi ba thường kiến và bốn biên kiến.
Nói “Nếu có khi nhớ nghĩ lại phần vị của kiếp Thành, thì lúc bấy giờ sinh ba thứ vọng tưởng”. Đây là nói về ba thứ thường kiến (chấp thường), dựa vào kiếp thành mà khởi.
“Nếu có người hoàn toàn nhớ nghĩ thượng, hạ v.v…” trở xuống, là nói dựa vào kiếp Thành, khởi ba biên kiến trước, dựa vào kiếp hoại, khởi lên biên kiến sau, nghĩa là chẳng phải tưởng hữu biên, chẳng phải tưởng vô biên.
Lại có luận vì nương tựa các tĩnh lự, nên phải biết rằng, hoặc nói một phần thường luận, nghĩa là một phần thường kiến của ba luận trước.
Hoặc nói Vô nhân luận, nghĩa là một vô nhân luận đầu tiên. Hoặc nói luận Bất tử kiểu loạn: Bất tử kiểu loạn, là gốc Bà-la-môn chấp khổ mà thờ trời. Y theo tĩnh lự thực hành bốn kiến chấp bất tử kiểu loạn để giải thích vấn nạn của người khác, đời nay là vị trời. “Nên biết rằng, trong đây có hai tịnh thiên cho đến “không có rối loạn mà chuyển v.v…” nghĩa là vì sống lâu không chết. Vì vô lâu, nên gọi là không rối loạn.
“Về sau, không thanh tịnh cho đến “giả vờ rối loạn, để lẩn tránh”, nghĩa là nếu có Bậc thánh dựa vào đạo lý bất tử, kiểu loạn, có ai gạn hỏi, thì người phàm phu kia không thể đáp, nên bèn ủy thác sự việc khác, giả vờ rối loạn để lẫn tránh. Như Đại Phạm Vương vì tránh nạn A-Thâu thật của tịnh mạng, nên khen ngợi mình: “Ta là Đại Phạm tự tại tác giả, thọ giả (người tự tại sáng tạo, tự tại thọ dụng)”.
Nói “Vì tâm định vô tướng đối với các đế, vì không thiện xảo v.v… nên” trở xuống là nói về ý khởi sự giả vờ, rối loạn.
Trên đây, là nói ra trời không chết, không rối loạn đã xong.
Nói không chết, không có rối loạn, người có hành động dua nịnh, cho đến dùng quan niện này để làm nhà mà tự ở yên. Người kia tự nghĩ: “Nếu có ai gạn hỏi có thể thọ ký thì thọ ký, không thể thọ ký thì không thọ ký, vì chẳng phải tịnh thiên của ta, nên đối với tất cả sự gạn hỏi mang tính cách giấu kín, đều được thọ ký riêng.” Nghĩ như thế xong, thốt lời dèm pha, thêu dệt, giả vờ rối loạn. Người kia đã trụ tà tư duy như thế, đối với người khác, hay gạn hỏi trời vô lậu đã tự xưng: “Ta không chết, không có rối loạn”. Do ôm lòng e sợ mà không có thọ ký riêng”.
Trên đây, đã nói về ba thứ không chết, giả vờ rối loạn. Dưới dây sẽ nói về câu thứ tư: Không chết, giả vờ rối loạn. Dưới đây sẽ nói về câu thứ tư: Không chết, giả vờ rối loạn nên nói rằng: “Có bốn câu ngu xuẩn v.v…, do dựa vào đời, như văn.
5/ Do dựa vào kiến. Nghĩa là dựa vào ba kiến như trước, nên biết: “Trước đây, đã nhiếp thu năm kiến làm ba, nghĩa là thường kiến, đoạn kiến, tà kiến, gọi là ba kiến. Nhắm vào trong văn đây để nói dựa vào ba kiến, khởi chấp, không đồng với chỗ khác. Như văn trong. Du-già chép: “Kiến mạt, kiến mạt, tám thường kiến trước trong kiếp ngọn, kiến ngọn. Mười sáu kiến Hữu tưởng, Phi vô tưởng, hợp với bốn mươi kiến, dùng thường kiến làm tánh. Bảy kiến đoạn diệt trong kiếp mạt, kiếp mạt, dùng đoạn kiến làm tánh. Bốn kiến biên, vô biên trong kiếp bản, kiến bản.
Hỏi tướng khác, đáp bốn kiến khác, hai kiến không có nhân mà có. Kiến Niết-bàn trong kiếp, kiến mạt. Mười lăm kiến này đều dùng tà kiến làm tánh, nên Du-già nói “Trong các kiến chấp của sáu mươi hai kiến, một phần thường kiến của tất cả bốn thường kiến, chấp trước, so đo mé trước. Các luận hữu tưởng, luận vô tưởng, luận phi tưởng, phi phi tưởng chấp so đo mé sau. Thường kiến đã được gồm thu trong biên kiến của các kiến này. Luận bảy sự đoạn chấp so đo mé sau, thuộc về kiến đoạn diệt trong biên kiến. Lại, các luận vô nhân chấp so đo mé trước, luận Biên, Vô biên, luận Bất tử kiểu loạn và Luận Hiện Niết-bàn v.v… chấp mé sau, đều thuộc về tà kiến.
Dựa vào thường kiến đó, khởi hữu tưởng trong mười sáu kiến: Bốn kiến đầu chỉ nói hữu sắc hữu tưởng, Vô Sắc hữu tưởng, vừa hữu sắc vừa Vô Sắc, hữu tưởng, hữu tưởng phi hữu sắc, phi Vô Sắc.
Nay, trong văn này do dựa vào các kiến, nghĩa là dựa vào ba kiến như trước, nên biết. Do dựa vào kiến ban đầu, chấp “ngã” có sắc, hoặc hữu tưởng có sắc, hoặc Phi hữu tưởng phi vô tưởng có sắc: Ba câu trong đây; câu đầu trong bốn câu trước của luận hữu tưởng và câu đầu trong bốn câu trước của luận Vô tưởng và câu đầu trong bốn câu trước của luận phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Ở đây nói “có sắc” là thường kiến.
Dựa vào kiến thứ hai, chấp “ngã” không có sắc, các kiến khác như trước, nghĩa là chỉ có ba câu. Nói “không có sắc” ở đây là đoạn kiến. Ba câu này thích hợp với câu thứ hai trong luận hữu tưởng, luận vô tưởng, luận phi hữu tưởng và phi vô tưởng.
Dựa vào kiến thứ ba, có hai:
1. Nói “ngã” có sắc không có sắc.
2. Nói “ngã” chẳng phải có sắc, chẳng phải không có sắc. Ngoài ra như trước đã nói.
3. Chấp ngã có sắc, không có sắc, có tưởng.
4. Có sắc, không có sắc, không có tưởng.
5. Có sắc không có sắc, Phi hữu tưởng, phi vô tưởng, tương đương với câu thứ ba của ba luận kia. Hai ngã phi hữu sắc, phi Vô Sắc, hữu tưởng là một câu. Hai phi hữu sắc, phi vô sắc vô tưởng, ba Phi hữu sắc, phi Vô Sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, tương đương với câu thứ tư của ba luận kia. Đây là dựa vào tà kiến thứ ba mà khởi.
Lại, “Tức chấp ngã là có sắc, đến “một là chấp ngã hẹp nhỏ, hai là chấp ngã vô lượng, nghĩa là cả hai luận trước đều chấp hẹp, nhỏ, kể cả vô lượng. Trong văn, giản lượt không nêu kiến thứ ba cũng hữu sắc, cũng vô sắc, cũng hẹp, nhỏ, cũng vô lượng. Chẳng phải có sắc, chẳng phải không có sắc, chẳng phải hẹp, nhỏ, chẳng phải vô lượng “Do sự khác nhau của bốn thứ Ngã luận này cho đến “Như trước nên biết”, nghĩa là hẹp, nhỏ trong luận hữu sắc, Vô Sắc tức là hữu biên, vô lượng là vô biên. Cũng hẹp nhỏ, cũng vô lượng, tức là cũng hữu biên, vô biên. Chẳng phải hẹp nhỏ, chẳng phải vô lượng, tức là phi hữu biên, phi vô biên.
Lại, “Tức y chỉ cho đến “Pháp lạc phương tiện”, nghĩa là dựa vào các kiến, ở trước đều nói “ngã” thanh tịnh, giải thoát đối với chỗ sắc dục, đều được tự tại, trụ nơi biến hóa, an trụ tĩnh lự, thọ dụng pháp lạc.
6. Do xứ sinh, như văn rất dễ hiểu.
Dưới đây kế là thứ ba, nói sáu mươi hai kiến là ba thức suy đồi tổn hại:
Nói “rằng tạp nhiễm”, nghĩa là nói chung, hoặc là xứ tạp nhiễm, nếu chủ thể tạp nhiễm, là bốn chuyển của ba thứ:
- Thường, vô thường v.v….
- Hữu biên, vô biên v.v….
- Mình làm, người khác làm v.v…, đều có bốn trường hợp, gọi là bốn chuyển.
Người kia do vô trí, nên trước, cần phải thu hướng đạo lý khác nhau thường, vô thường v.v…, sau mới hỏi về khởi.
Lại, người trí đối với Thánh pháp, lk thể thọ ký sự việc, vì đối với hai đế lý đều không thể ghi nhân. Bốn thứ trong đây, hoàn toàn là mé trước của thường luận. Tức tất cả đều là thường luận có bốn. Vô nhân luận có hai, rất dễ hiểu, đều trước chấp “ngã”, sau chấp thường v.v….
Lại, tức một phần thường luận v.v… của bốn thứ, tức là bốn luận nữa thường, nửa vô thường v.v….
Thứ ba, trong giải thích hai trí, trước chính là nói về hai trí, để cho kiến thanh tịnh. Sau, tùy nghĩa khó hiểu, dùng các môn để phân biệt.
Trong phần trước có hai: nói về hai trí, khiến cho hai kiến tịnh. Sau, là nói về tu tập, sao cho tịnh khác nhau.
Trong phần trước nói “có hai Trí khiến cho kiến tịnh và kiến khéo thanh tịnh: nghĩa là trí pháp trụ và trí Niết bàn có công năng khiến cho học kiến thanh tịnh, vô học kiến được khéo thanh tịnh.
Trí pháp trụ: Hiểu rõ nhiều tự tướng, cộng tướng nghĩa là thuận với pháp tánh của ba thọ, mỗi thọ đều có tự tướng riêng. Phương tiện biết rõ ba khổ: Khổ khổ, khổ hoại, khổ hành, về lý gọi là chung là cộng.
Trí Niết-bàn: Cái biết dứt hẳn.
Kế là, nói về tu tập, sao cho tịnh khác nhau, có hai lượt: lượt đầu nói: “Người không có năng lực, có năng lực, tức Tùy tín hành tùy pháp hành.”
Lượt sau nói “Có ba trí hiện quán biên:
1. Trí thuận sinh vô lậu.
2. Trí vô lậu, tức trí căn bản.
3. Trí nối tiếp nhau, sau trí vô lậu, tức trí hậu đắc, Dự lưu được, là trí chánh thể thứ hai. Quả Dự lưu là đạo giải thoát thứ ba. là trí của quả giải thoát thật lý chánh trí chỉ gọi là đế trí, vì nhiếp thu ít theo nhiều, nên cũng gọi là biên. Vả lại, có thể vì đầu tiên trong ba đạo: Kiến, tu, vô học, nên gọi là Biên.
Dưới đây, tùy theo nghĩa khó hiểu, có tám lần “lại nữa”:
Trước là nói về vô dư dứt trừ ba tướng:
- Do triền v.v… không hiện hành.
- Do đoạn không có dục, diệt của ba cõi.
- Do dứt trừ phiền não và sự khổ.
Thứ hai, là nói về năm giới, tức đoạn không có dục, diệt hữu dư, vô dư.
Thứ ba, là nói về cắt bỏ sự của bảy nhiếp thọ, đây là giải thích rộng văn kinh.
Thứ tư, là nói về ba cõi không còn sinh lại nữa, không có sự nối tiếp nhau, không có trung hữu, không có thủ, nghĩa là không có sinh hữu. Không có sinh nhiều là không có hữu sau.
Thứ năm là nói lập ba kiết, nghĩa là vì chưa phát khởi, nên lập thần kiến làm kiết, dù đã phát thú, nhưng vì tà thành lập, nên lập giới thủ làm kiết. Vì không hạnh chánh ở trong chánh pháp, nên lập nghi làm kiết, tức phẩm tại gia, nghĩa là người khởi thân kiến, ở trong Tỳnại-da, nói pháp ác mà phẩm xuất gia, nghĩa là người khởi giới thủ, ở phẩm Tỳ-nại-da, nói pháp thiện, nghĩa là người khởi kiết nghi.
Thứ sáu, là nói hai thứ giải thoát, quyết định.
Thứ bảy, là nói về các lậu giải thoát.
Thứ tám, là nói về bốn tướng của A-la-hán:
Thứ tư, là giải thích phần vị ngu, đầu tiên, là nói về phần vị người ngu có năm:
- Vì không có sinh đắc tuệ.
- Vì không có tuệ vô văn, v.v…
- Vì không có tuệ vô lậu v.v….
- Vì bị triền ràng buộc.
- Vì bị tùy miên theo đuổi.
Kế là, nhân nói dài, để nói về chấp giả dối Ngã luận. Trước là nói về ngã luận có bốn. Như Bà sa nói: “Phân biệt Hành “duyên” ấm, không phân biệt xứ đã khởi, tức có hai mươi ngã kiến, rằng “Sắc là ngã.
“Ngã” ở trong sắc. Sắc thuộc về Ngã, ngã có sắc v.v….
Kế là, nói ngã luận hay khởi tạp nhiễm.
Nói “Vì tùy miên”, nghĩa là ham vui, chấp mắc cảnh giới của Pháp nội, tạm thời bị chướng ngại, mà chẳng phải rốt ráo, tức nhập bảy phương tiện, là địa vị phàm nội, không bao lâu sẽ nhập Thánh, dù có Tùy miên che lấp tạm thời, chẳng phải mãi mãi.
Thứ năm, là giải thích về sự khác nhau của hai kiến. Trước, là lược nói về nghĩa đồng phần, không đồng phần nêu ở của hai kiến lại do bốn tướng trở xuống là giải thích rộng kiến ngã sai khác. Trong phần trước, ngã vô ngã chấp nhân duyên năm uẩn là cảnh, nên gọi là Đồng phần, nhưng đối với năm uẩn ngã kiến tà kiến cho nên nhiễm ô, vì vô ngã kiến chánh chấp cho nên thanh tịnh, vì thế gọi là không đồng phần, y cứ giải thích rộng kiến ngã sai khác, văn chia làm ba: một là nói về bốn tướng tạp nhiễm, hai là nói hai tướng sáu chuyển hiện hành, ba là nói giai đoạn vô minh. Trong phần đầu, luận sư Cảnh nói: một là nhân duyên cho đến không thể lìa bỏ, do hai ngu này, nên đối với vô ngã chấp là ngã, nói duyên tăng thượng để làm nhân duyên. Hai là tự tánh, cho đến không được xa lìa. Do nhân duyên của hai ngu trước nên không thể dứt được tùy miên ngã kiến, cho nên lấy tùy miên làm tự tánh của ngã kiến. Tự tánh là chủng tánh. Ba là do quả, cho đến có lãnh thọ: là lấy ngã kiến làm nương tựa, không thể lìa tùy miên ngã mạn kia. Năng lực của hai tùy miên ngã kiến và ngã mạn này có công năng sanh ra khổ vui, khởi ngã, ngã sở kiến, v.v… các pháp nhiễm ô đều là ngã kiến, cũng là quả. Bốn đẳng lưu: nghĩa là do sự giữ gìn của năng lực nhân ở trước, cho nên hạt giống tùy theo ý, vì thế thuộc về tà ý, trong ý có hạt giống vô minh và quả vô minh, cho nên chủng tánh vô minh thành gọi là giới. Luận sư Đạt nói: ý đuổi theo, hạt giống ngã kiến này ở trong thức thứ sáu, đây là y theo môn tùy chuyển lý mà nói, rằng hạt giống vô minh: Tân huân thành hạt giống. Vô minh giới: vô thỉ đến nay huân thành hạt giống, tân và cựu khác nhau. Nói rằng hai thứ, tánh nghĩa của hạt giống rõ ràng, nên nói là giới. Kế là nói do hai thứ sáu chuyển hiện hành, y cứ thế gian chia làm ba: Ngã đối với quá khứ đã từng có hay là không? Ngã đối với vị lai là sẽ có hay sẽ không? Ngã đối với hiện tại là hiện có hay hiện Không? Y cứ Mạn có ba, nghĩa là Ngã là hơn, là bằng, hay là kém, ở đây hai lần ba là sáu, dưới là nói giai đoạn minh, vô minh. Nói vị có ba: là Kiến đạo rồi thì vị văn hữu lậu, hai giai vị kiến và Tu là giai vị minh thứ hai. tâm khéo giải thoát, v.v… là giai vị của minh thứ ba. Giai vị vô minh cũng có hai: Một là trước, hai là sau, vị tùy miên là trước, vị các triền là sau, hai thứ này tuy là đồng thời nhưng phải do tùy miên mà sanh ràng buộc, nên nói là trước, đây là sai khác thứ nhất. Lại kiến đoạn vô minh là trước tu, dứt vô minh là sau. đó là sai khác thứ hai. Thứ sáu là giải thích thánh giáo này, v.v… một là nêu chung thiện ác, hai là tùy nghĩa nói rộng. Trong phần trước, nói là xử thế tôn cho đến xưng là Thế tôn Ốt-đà-nam thuyết, hễ Phật nói pháp thì thẳng vậy mà nói, không có Thế tôn Ốt-đà-nam thuyết. Lại nói đều là kiết tập gia ngữ. Y cứ trong phần nói rộng, đầu tiên là nói hai thuyết lợi tổn, sau là giải thích văn kinh. Trong phần trước có hai: đầu tiên là chánh nói tướng của hai thuyết lợi tổn, hai là ở chỗ trở xuống, vì nói dài chỉ có pháp không có người, không nên sanh sợ hãi. Trong phần trước, do hai nhân duyên khéo nói trong pháp phát khởi Đại quả: Một là lìa hẳn ba khổ, hai là tất cả các kiết dứt hẳn. Trong ác thuyết pháp thì hai việc khó được, do y theo thân kiến nên đối với các hành, chỉ nhàm chán khổ khổ, nguyện ngã đương lai sẽ không có ngã khổ, ngã không có khổ”, đây tức là hai, cho đến cho rằng, nỗi khổ ở vị lai sẽ lìa khỏi ngã và, ở vị lai, sẽ không có khổ. Việc này lại là hai, do bốn thứ hành tướng này vượt qua khổ khổ. Đối với hai khổ hoại, khi hành kia đã dứt trừ, còn bất sinh niềm vui, huống chi có thể dứt trừ. Do thuận theo khổ kia chưa dứt trừ, nên lạc thọ của ba thiền là khổ hoại. Xả thọ của bốn thiền là khổ hành.
Như thế, hai thọ lạc xả, ngoại đạo chấp làm Ngã, nên hai khổ Hoại, khổ Hành thuận theo cái chưa dứt trừ, nói là Ngã sẽ là không, đối với điều không nên sợ hãi, lại giả dối sinh sợ hãi. Hai thọ lạc, xả vốn chẳng phải Ngã, chỉ là hai khổ Hoại, khổ Hành. Nay, chán lìa nỗi khổ đó, chứ chẳng phải loại trừ ngã, đâu nhọc công sợ hãi.
Dưới đây, là nói chỉ có pháp, không có người, không nên sinh sợ hãi, được chia làm hai: Đầu tiên, là nêu hai môn của sáu thứ, nói chỉ có pháp, không có người không nên sinh sợ hãi. Sau, là nêu ba môn của năm thứ, để nói.
Trong phần trước, nói “Lại, ở chỗ này cho đến “có chuyển, có nhiễm”, nghĩa là khi khởi sự nhiễm, chỉ có tâm trụ nơi bốn thức trụ. Lại, chỉ có tâm dứt bốn thức trụ, không có chuyển, không có nhiễm. Lại, có bốn y, lại có bốn thủ. Lại có hai duyên: Năng duyên, sở duyên. Lại có sáu thức v.v…. Lại có hai thức trụ, đó là triền và tùy miên.
Ba nhân duyên, nghĩa là ba chữ do. Dưới đây sẽ nêu năm thứ ba môn, chỉ pháp không có nhân, do đó, không nên sinh sợ hãi.
Nói “Do giới cấm, hai thủ thật này trói buộc thân v.v… hai giới, kiến, trói buộc thân, hợp thành một, kiến thủ chấp kiến, đây là thật, vì giả dối khác, nên nói thật này. Kế là có nửa bài tụng, tụng năm thứ ba môn ở trước.
Quả nhân: Trước tụng, nghĩa là ở hiện Pháp, hướng đến Tập đế, “duyên” khổ vị lai v.v…. Thọ lãnh phần vị ba thọ. Đời, tụng ba đời. Ái tụng ba ái, trói buộc tụng ba trói buộc.
Dưới đây là trói buộc văn kinh:
Hỷ, ái thấm nhuần, như trước nên biết, nghĩa là như nói rộng trong nhân các hành: Hỷ là nhân trước, chưóng ngại chỗ sinh kia, nhàm, lìa thấm nhuần tự thể. Nói trong nhân chung, không chung của các hành như trước.
Nói “Phải biết rằng, ba thứ này lại có khác nhau: Dục, Sắc, Vô Sắc, như thứ lớp của cõi đó. Luận sư Cảnh nói: “Đầu tiên, Hỷ, ái thấm nhuần, là cõi Dục. Lại, tức thức kia lúc chuyển như thế, ở hai xứ sinh phải biết kiết sinh nối tiếp nhau, rộng thêm: 1- Đối với có sắc là cõi Sắc; 2- Đối với không có sắc là cõi Vô Sắc.
Có chỗ giải thích: “Y cứ thỉ, chung của con người có ba. Y cứ trong ba cõi trước, cũng có sự khác nhau này: Trước, tức cõi Dục. Kế là, tức cõi Sắc, vì thai mãn, sau tức Vô Sắc, vì ra khỏi thai sắc.
Nói “Sáu thứ giới của thọ”, nghĩa là sáu thức tương ưng với thọ có sáu thứ. Tưởng, Hành cũng vậy. Giới là nghĩa nhân, tức hạt giống.
Đại tự tại Na-La-Diễn-Noa và Chủ chúng, có chỗ giải thích: “tầng Trời thứ sáu cõi Dục gọi là Đại Tự Tại. Tổ công của Phạm Vương, tên
Na-La-Diễn-Noa. Xưa, bốn Đại vương thiên gọi là Chủ chúng.”
Lại, giải thích: “Đại tự Tại tức Ma-hê-thủ-la ở đỉnh cõi Sắc. Chủ chúng là Phạm Chủ.”
“Lại, người kia ở ý Địa cho đến “Gọi là ý sở hành” Luận sư Cảnh nói: “Đây là nói hệ thuộc bốn thân, gọi là ý sở thành”.
Có chỗ giải thích: “Đây là giải thích Hữu trong môn Dị, do năm nghĩa, nên phương tiện khởi Ái”.
Nói “Lại, do Hữu sau kia cho đến “Y chỉ kiến lập”, nghĩa là do nghiệp cảm của Hữu sau, đã nhiếp giữ hạt giống thức của hữu sau, nên trong chỗ y chỉ của hiện thân này, kiến lập thân thức sẽ sinh”.
Lại, giải thích: “Hạt giống của hữu sau, phải biết là được kiến lập từ hiện thân ở đây. “Vì hạt giống kia không có nên cho đến “Thảy đều diệt hết. Nghĩa là vì hạt giống nơi thức sau không có, thuộc về nghiệp, “hoặc” kia, nên đương lai như trước đã nói về lý khác nhau của ba phần vị như thai v.v… của khác nhau con người lúc đầu, sinh trưởng, rộng lớn, tất cả đều diệt, nên nói rằng đoạn thức trụ. Lại, môn Không giải thoát kia vì nương tựa, nên gọi là không có gì làm v.v… Đây là y cứ môn ba giải thoát, nhằm phối hợp giải thích về không có làm gì v.v… đã nói trong kinh. Nghĩa ấy rất dễ hiểu. Đối với ái, lạc kia, vì thường tu tập, nên khéo được giải thoát, nghĩa là đối với người kia, không có làm,không có ái, ưa thích tu tập, nên được giải thoát của bậc hữu Học. Vì tất cả tùy miên dứt hẳn, nên tâm khéo giải thoát, được giải thoát của bậc Vô học.
Nói “Thức hữu lậu kia cho đến “đều quy về vắng lặng”, nghĩa là đối với hiện thân, chỉ có các thọ như ảnh và thức uẩn như cây. Lúc sắp nhập vô dư, như ngọn đèn sắp tắt.
Nói “Dựa vào triền đầu tiên đoạn, thuyết, gọi là vắng lặng v.v…”. Pháp sư Thái nói: “Vì dứt trừ ba triền, nên như thứ lớp đó được vắng lặng v.v… ”.
Luận sư Đạt nói: “Dựa vào kiến đạo, vì đã dứt trừ hết phiền não, nên gọi là vắng lặng, cho đến địa Vô sở hữu xứ, vì tu hoặc dứt trừ, nên gọi là mát mẻ. Địa Phi tưởng vì tu hoặc dứt hết, nên gọi là yên lặng.”
Có chỗ giải thích: “Vì dứt trừ triền phiền não, nên gọi là vắng lặng. Vì tùy miên dứt trừ, nên gọi là thanh tịnh. Vì Dị thục đoạn, nên gọi là yên lặng.
Lại, do ba duyên, thức thứ thức trụ đều không có sở hữu:
- Tự thể chẳng phải nhiễm.
- Chẳng phải pháp nhiễm khác.
- Vì bạn không có thức nhiễm khác. Nghĩa ấy rất dễ hiểu. thứ sáu, môn Đại.
Giải thích chi đoạn v.v…. bài tụng trước nêu bảy môn:
- Chi đoạn.
- Hiển bày sự thật.
- Hành duyên.
- Giáo không có giáo nào bằng.
- Bốn thứ chung hữu tình.
- Đạo có bốn.
- Rốt ráo có năm.
Kế là trong Văn xuôi giải thích, lại có bảy đoạn:
1. Giải thích chi đoạn, quả đã được, gọi là đoạn Nhân làm rõ gọi là chi.
2.Giải thích rõ ràng có mười hai. Luận sư Cảnh nói: “Hiểu rõ như thật:
1) Nghĩa là lắng nghe đều phân biệt, chấp thiện, ác, lại chia làm hai: Chánh giáo là một, hiện, tỉ lượng là hai. Tự, cộng là hai. Tánh như sở hữu, tánh tận sở hữu là hai. Nhập kiến địa, rốt ráo địa là hai.
Luận sư Đạt nói: “Nói mười hai, nghĩa là chấp thiện v.v… nhưng không đầy đủ.”
Có Luận sư giải thích: “1. Lắng nghe; 2. Thiện; 3. Ác; 4. Chánh giáo lượng; 5. Cảnh hiện lượng; 6. Cảnh tỉ lượng; 7. Tự tướng; 8. Cộng tướng; 9. Như sở hữu; 10. Tận sở hữu; 11. Nhập kiến đạo; 12. Nhập địa rốt ráo.
Thứ ba, giải thích hành duyên. Đầu tiên, nêu chung. Kế là, giải thích riêng. Sau, tổng kết.
Trong giải thích riêng, tức có bốn người:
- Phàm phu nội pháp.
- Phàm phu tại gia.
- Phàm phu ngoại đạo.
- Hữu học nội pháp.
Trong bốn người, mỗi người đều có hai trường hợp. Trước, nói không như thật. Sau, nói như thật. Pháp sư Thái nói: “Đây là trong bốn người biết không như thật, vì muốn cho họ được thanh tịnh, nên gọi là “chỉ rõ như thật”.
Thứ tư, là giải thích giáo vô đẳng. Trước, là nói giáo vô đẳng. Sau, nói về sự khác nhau của lưu chuyển.
Thứ năm, là giải thích bốn chúng hữu tình. Luận sư Cảnh giải thích: “1- Nghiệp sinh lên cõi trời, chuyên thực hành buông thả, tức là Ma, Phạm nói ở trước.
3. Hoàn toàn nhân chuyển, nghĩa là mong cầu tất cả Sa-môn v.v… kia.
4. Các chúng hữu tình ưa Niết-bàn.
5. Các chủng loại tạp nhạp: Hoặc đối với quả, ham vui, chấp mắc, thọ dụng, tức là người đầu tiên. Hoặc ưa nhiếp thọ quả ái trong tương lai, chính là người thứ hai. Nhân hạnh cầu mong quả trước, đôi khi tu tư lương Niết-bàn, xa lìa mọi buông lung, là người thứ ba.
Tùy thích ứng trong ba chúng hữu tình trước, phải biết rằng, biên, tập diệt kia của thế gian, đây là hội tụ sự khác nhau của hai chúng, nên nói: “Phải biết rằng biên Diệt của thế gian”: Là nói về Ma, Phạm ban đầu, thọ quả thế gian là pháp diệt chung. Phải biết rằng, Biên, Tập diệt kia là chúng thứ hai, tu hành cầu nhân sanh cõi trời, là nhóm hợp pháp đoạn diệt. Và Tát-ca-da (thân), biên tập, diệt kia là người thứ ba ưa Niết-bàn, lìa các buông lung. Tất cả nhân quả cũng là khổ, tập Tát-cada là thân, tức là khổ đế, hành diệt vô thường. Tập diệt kia, nghĩa là đã lìa buông lung, nên là tập đế kia, là pháp có thể đoạn diệt, gọi là biên, tập diệt kia.
Nói “Trong chúng hữu tình thứ tư kia”, nghĩa là con người, chủng loại lẫn lộn thứ tư. Phải biết rằng, Tát-ca-da là khổ. Tập kia là tập. Diệt kia là diệt. Thu hướng đạo là đạo Đế. Sự khác nhau, nghĩa là có bốn đế không đồng, nên nói là khác nhau. Pháp sư Thái nói: “Và Tát-ca-da, nghĩa là nói lại thế gian, vì Tát-ca-da là tên khác của thế gian. Tập kia và biên diệt, như thứ lớp đó, là nói lại biên, tập diệt kia.”
Luận sư Đạt nói: “Trong bốn câu này, ba câu trước là nói riêng về ba người. Câu thứ tư nói chung về ba người trước, để làm người thứ tư.
Nói Samôn, Bà-la-môn, nghĩa là Sa-môn, Bà-la-môn của ngoại đạo, những người cầu quả báo sinh lên cõi Trời.
Nói “Phải biết”, nghĩa là lời khuyên văn này có thể nói “nên biết” để khuyên, vì khiến cho khổ diệt v.v….
Thứ sáu, là giải thích về đạo có bốn.
Nói “Ba là dựa vào kiến đạo, Một là dựa vào tu đạo”. Luận sư Cảnh nói: “ Kiến đạo có ba đế trước.”
Tu đạo có đạo đế kia, vì trong tu đạo, có thể dứt trừ tập khác, chứng diệt, tu đạo khác viên mãn, nên được gọi là tu đạo”.
Luận sư Đạt nói: “Một tướng của văn này nói: là chẳng phải đạo lý cùng tận, vì ba nghĩa: biết đoạn và chứng, đủ có thể chứng đắc trong kiến đạo”.
Thứ bảy, là giải thích rốt ráo có năm:
1- Nói là đã chứng được khổ và nhân khổ, vì dứt hết không có thừa.
2- Có khả năng tạo nên nghĩa của người khác, tất cả nghĩa của mình đều viên mãn.
3- Được dứt trừ rốt ráo và trí.
4- Vì có thể rốt ráo thành Niết-bàn.
5- Đã được nhập xong, bậc thánh kia, trụ trong năng an trụ.
Trong văn không có số 1, 2, v.v… chỉ có chữ “cố” thuộc về mong cầu.
Kế là, nói: “Đối với tướng thứ nhất, có bốn thứ khác nhau: như trước nên biết nghĩa là như trước nói:
1/ cắt ái bỏ phụng sự cha mẹ v.v…
2/ Không có mắc nợ.
3/ Vì sinh hữu là không.
4/ Hữu sau là vô sinh.
Đây là đầu tiên, chứng được khổ và nhân khổ vì dứt hết không có thừa. Tướng thứ hai, có A-la-hán dứt hết các lậu v.v… mà có sự khác nhau, như trước nên biết, nghĩa là như trước đã chứng được A-la-hán giải thoát các lậu.
Lại, tương ưng với bốn nghĩa, gọi là tướng A-la-hán.
1- Sự nghiệp của mình đã rốt ráo, phải nên thực hành nghĩa sự khác.
2- Nên được tất cả nghĩa đạo lý đầy khắp nghĩa của mình.
3- Nhân hạnh vị lai đã đoạn diệt hẳn, nên chứng nghĩa hiện pháp lạc trụ.
4- Vượt qua học địa, nhập nghĩa tướng ưng của địa Vô học. Đây là văn trước nói có khả năng tác thành nghĩa của người khác, trong khi nghĩa của mình đã được viên mãn.
Về tướng thứ ba, có tất cả sự hạnh rốt ráo, đều được dứt trừ, nghĩa là dứt hết nghiệp. Có rốt ráo không có nhơ, vì tất cả phiền não rốt ráo dứt trừ, dứt hết phiền não. Hai tướng này là đoạn, tức là ở trước nói: “được rốt ráo đoạn. Có phạm hạnh rốt ráo, nghĩa là cùng tận tu đạo, tức là ở trước nói: “Và trí”. về tướng thứ tư, ví như thế gian có đủ năm thứ tướng v.v…, nêu dụ để so sánh với pháp.
Pháp sư Thái nói: “Vì không có hy vọng ở người khác, nên chẳng phải mình, chẳng phải hy vọng cái khác.
Đã hàng phục Ma-la, nên nói “Tràng Phó”, (ngọn cờ ngã).
Giải thích tướng thứ năm, tìm văn sẽ hiểu.
Thứ bảy, là môn Đại, là giải thích hai phẩm v.v…. bài tụng trước kê khai mười một môn, phẩm một, hai tóm lược chung. Ba phẩm kế là, có khác, tức chia làm ba môn thành bốn.
5- Thắng giải.
6- Đoạn.
7- Lưu chuyển.
8- Tánh có.
9- Không khéo thanh tịnh, khéo thanh tịnh.
10- Sư nói thiện, nói ác.
“Đẳng”, là đẳng thủ.
11- Môn.
Kế là trong phần dùng văn xuôi để giải thích, lại có mười một đoạn.
Đầu tiên là giải thích về hai phẩm: Chung, lược. Lược, do ba thứ, gồm thâu chung tất cả phẩm Hắc, phẩm bạch:
1. Vì pháp đã biết khắp. Nghĩa là nói được chín biến tri xứ, tức tất cả Khổ, Tập hữu lậu.
2. Vì biết khắp: Chính là thể chín biến tri của Trạch diệt.
3. Vì thành biến tri, tức là Thánh đạo và Thánh đệ tử của Phật, Bồ-tát, đều là thành tựu duyên của biến tri. Diệt, Đạo đều là phẩm bạch. Chín biến tri đều gồm thu diệt Đế, nên nói: “Một phần của phẩm bạch”.
Dưới đây nhân nói về pháp không thể thọ ký, nghĩa là “sau Như lai diệt độ, cho đến “cũng không thể thọ ký”: Chín mươi sáu đạo đều xưng là Bản sư, cho là Như lai đầy đủ mười hiệu. Tùy hỏi về chữ “Hạnh”. Sau khi diệt độ, Như lai là “có” hay “không” đều không thể nói. Dưới đây sẽ giải thích lý do:
Vả, dựa vào thắng nghĩa, pháp kia không thể được, huống chi là Diệt đạo, hoặc “có” hoặc “không”, nghĩa là giả gọi là Như lai trong thắng nghĩa đế, vốn không thể được, huống chi sau diệt độ, Đức Như lai được nói là “có” “không”, nên luận nói: “Về mặt chân đế, hữu vi là không, duyên sinh như huyễn. Vô vi không có thật sự không khởi, dường như hoa đốm trong hư không.
Nói “Nếu dựa vào thế tục cho đến “đâu luận “có” “không” v.v…”, nghĩa là nếu y cứ ở hành hữu vi trong đạo thế tục để lập Như lai, thì thể của hành sau Như lai diệt độ, có thể là không, sẽ y cứ vào đâu để lập Như lai? Như lai đã “không”, thì đâu luận “có” “không”.
“Nếu đối với Niết-bàn cho đến “thiết lập là “có”, thì không hợp lý”, tức Niết-bàn, là do không có hành, đã chứng tỏ không thể nói “có”, đâu được y cứ vào “có”, “không” kia, để lập Như lai. Lại cũng càng không nên lập ra “chẳng phải có”, chớ nên gây hư hại, lập bày thể Niết-bàn diệu hữu, đã chẳng thể nói “có”, chẳng thể nói “không”, thì đâu được y cứ vào lập bày Như lai, để nói về thể “có” “không”.
“Lại, Niết-bàn này v.v… trở xuống, là nói về tên khác của Niếtbàn. Niết-bàn, chính là hiện tượng được chứng.
“Thế nào là nói “sở lượng” của phi hiện lượng?”
Giải thích: “Chính là “sở lượng” của hiện lượng, của định vô phân biệt. Nay, phân biệt chẳng phải hiện lượng của năm thức tâm tán mà được, nên nói rằng: “Hiện lượng không thể so lượng”.
Thứ hai, giải thích về sự gánh vác trong, ngoài có khác. Chủ thể gánh vác, đối tượng gánh vác của pháp trong, đều lấy nghĩa tánh của năm thọ uẩn để chia ra “năng” “sở”. Có đức bên trong v.v…, là đối tượng gánh vác, cũng có thể ba câu như thường xuyên gánh vác v.v…, gọi là ba đức.
Thứ ba, là giải thích về sự ràng buộc trong, ngoài có khác: Nói ràng buộc bên ngoài, dể hiểu rõ.
Nhân duyên ràng buộc ràng buộc, phương tiện giải thoát của giải thoát. Luận sư Cảnh nói: “ Nhân duyên của ràng buộc bên ngoài chẳng phải chỉ một thứ, nên lập lại rằng ràng buộc của ràng buộc. Được giải thoát cũng chẳng phải một hiện tượng, do đó nên nói lại giải thoát.
Lại có giải thích khác: “Sự ràng buộc bên ngoài dễ có thể biết rõ. Sự ràng buộc và nhân duyên ràng buộc, giải thoát và nhân duyên giải thoát. Sự ràng buộc bên trong, tất cả khó biết.
Thứ tư, là giải thích đồng phần, không đồng phần của Phật và Ala-hán. Đây là thứ ba có khác. Đức Như lai và La-hán tuệ giải thoát đều do một tướng, gọi là đồng, nghĩa là đồng giải thoát. Do ba thứ tướng, gọi là dị phần:
- Hiện Đẳng giác.
- Chủ thể nói pháp
- Thực hành hạnh chánh.
Trong phần trước có bốn:
1. Trong đây Đức Như lai tự nhiên tu ba mươi bảy pháp phần Bồđề, thể hiện Đẳng Chánh Giác.
2. Đẳng chánh giác xong, thì thấu rõ các pháp.
3. “Liễu đạt(thấu rõ) pháp vượt hơn như thế” v.v… trở xuống, là nói về hai chướng của giải thoát.
4. Làm bậc thầy giải thoát cho các chúng trời là bậc thầy giải thoát. Độc nhất không có hai. Hiểu rõ bốn tướng này, gọi là Tự nhiên Đẳng giác Bồ-đề, không chung với Thanh văn.
Lại “Dựa vào nghĩa của người khác” trở xuống, là nói năng thuyết không chung, có năm tướng kia, như văn. Ba là nói hạnh chánh không chung có ba:
1. Thanh văn trước nương tựa Như lai, sau, thựa hành chánh hạnh.
Đức Như lai không có ít đối tượng nương tựa. (Sở y).
2. Đề dựa vào tánh của tự tánh, thực hành hạnh chánh.
3. Nói về hai hạnh: có thể được khác với không thể được. Thanh văn chỉ có thành tựu, không thành tựu, chẳng phải sau cùng có hai hạnh trong thân Bồ-tát có thể được, nghĩa là thành tựu, không thành tựu là một. Lại nữa thân hiện hóa sắp thành chánh giác, thân sau cùng hậu hữu là hai. Nếu đã thành tựu thì Bồ-tát kia ở trong hiện pháp đã thành giáo của Đại sư, tức là ta đã khiến nhập Niết-bàn vô dư mà diệt độ. Hiện pháp được lợi ích nói lên công năng của giáo, nên nói thành giáo của Đại sư. Cũng có thể đã thành tựu, nghĩa là khả năng có thể phó chúc pháp Tạng của Đại sư, nên nói”Thành tựu giáo của Đại sư.
Thứ năm, là giải thích thắng giải.
Thứ sáu, giải thích hai đoạn.
Thứ bảy, giải thích lưu chuyển, đều như văn rất dễ hiểu.
Thứ tám, là giải thích có tánh trước, nói về tánh của ba có là pháp đáng dứt bỏ. Sau, nói về ba đoạn là chủ thể trị, nghĩa là không nghĩ đến luyến ái, trừ tánh có đầu tiên. Không ưa vui, nghĩa là dứt trừ hai tướng trước. Lìa diệt v.v… tức là giới đoạn, giới không có dục, giới diệt, trừ tướng thứ ba kia.
Thứ chín, là giải thích thanh tịnh bất thiện.
Thanh tịnh bất thiện, tức, tức quán không vô ngã hữu lậu của Kiến đạo trở xuống, hàng phục ngã, ngã sở.
Lại, hàng phục bốn trói buộc và ba sở hữu. Ba sở hữu gồm thu bốn trói buộc, đều như văn. Bốn căn lành tạo nên hạnh vô ngã, nên thuộc về địa định. Phải biết rằng, do hai nhân duyên thanh tịnh bất thiện:
1. Nói về hạnh không vô ngã, với ngã kiến và ngã mạn có gián cách mà khởi.
2. Khiến cho nhân duyên hiện hành của pháp kia, nghĩa là đối với các dục, hoặc Tát Ca Đa có thức nhiễm ái như thế, nên không thể biết khắp, tức là bị ái của Tát-ca-da làm nổi, chìm. Do ý lạc này, nên không thể thu nhập Niết-bàn kia. Lại, do tám tướng rất dễ hiểu rõ khắp, trừ các tai hại lỗi lầm.
Lại “ở trong đây v.v… trở xuống, là tám tướng mới xuất nhập, cho đến nói: Phải biết rằng, trong đây trừ pháp kia dục thứ tám kia, kể cả pháp diệt. Do bảy tướng còn lại, quán sát ba đời đã có tai hại lỗi lầm, do tướng bị dứt trừ, quán xuất ly kia.
Nơi, “phải biết rằng trong đây, do ở trước đã gọi là trí thông đạt”, nghĩa là trí vô ngã hữu lậu của Địa tiền, do về sau, gọi là kiến thanh tịnh thiện, trí trong kiến đạo.
Thứ mười, là giải thích sự khác nhau của thầy, trò nói thiện, nói ác, do năm tướng:
1. Vì trụ, nghĩa là ngoại đạo ở chốn ồn ào náo nhiệt. Pháp Phật trụ nơi vắng lặng.
2. Do ngự trị chúng, nghĩa là ngoại đạo hy vọng trong, đồ chúng đệ tử của mình, chúng nói sẽ thừa nhận chung: ta là thầy chúng. Vì đệ tử của ngoài đạo có số lượng hạn chế, nên gọi là hữu lượng. Đức Như lai dù làm Đáng Đại sư vô thượng của tát cả vô lượng trời, người trong thế gian, đồng tôn kính, nhưng Ngài không có hy vọng.
3. Do luận quyết định lựa chọn, rất dễ hiểu.
4. Do kiến lập, mở mang, làm rạng rỡ đạo.
Trước, là nói về tướng ngoài có bảy câu. Câu thứ bảy, đối với ngữ thích ứng đã nói, như ngữ đã nói, vì không như thật biết, nên gọi là không biết lượng. Vì không biết như thật trong lời nói ở chỗ này, nên gọi là “không biết” nhân.
Kế là, chỉ rõ chung pháp bên trong, do năm hạnh. Lại, các ngoại đạo dù không có thuyết khác v.v… nhưng trước, buông sau phá.
Thứ mười một, giải thích khổ, vui không nhất định, tức là môn đã lấy chữ “Đẳng” trong bài tụng.
Trong văn, đầu tiên, là chia chương, lập tông, tức khổ, vui đều có bốn tướng dựa vào ba sự. 2- giải thích theo thứ lớp. Trước là y cứ vào chỗ sinh. Nói lạc, là khởi tĩnh lự thứ ba, ở chỗ lạc thọ tăng mà nói.
Đã theo đuổi lạc, nghĩa là ở trong con người chấp nhận có hai thứ. Luận sư Cảnh nói: “ Nỗi khổ, vui trong con người đều khởi, nhưng gọi là đã theo đuổi lạc thọ”.
Luận sư Đạt nói: “Vì tùy miên lạc trong con người theo đuổi, nên gọi là “đã theo”. Vì đã có hạt giống của hai thứ khổ, vui, nên nói chấp nhận có hai thứ.
Nói chưa lìa hẳn niềm vui, nghĩa là ở tĩnh lự thứ tư trở lên, dù niềm vui không hiện hành, nhưng vẫn thành hạt giống vui, gọi là chưa lìa hẳn. Nỗi khổ trong đây, được nói là ở quỷ, súc, nghĩa là ở đây y cứ một phần quỷ, súc, nơi thuần thọ khổ, gọi là tự tánh khổ”.
Hỏi: “Trước kia nói niềm vui trong đây, tức y cứ ở xứ rất vui, nói là ở thiền thứ ba. Nay, nói khổ, vì sao không nói nỗi khổ cùng khắp ở Na lạc ca (địa ngục) mà nói là ở quỷ, súc ư?”
Giải thích: “Về mặt lý, thật sự có khổ. Nay, y cứ có một phần trong quỷ, súc, thuần thọ khổ, nên nói rằng quỷ, súc. Khổ cùng khắp, mới nói là ở Na-lạc-ca”. Lại hỏi:
Văn quyết định lựa chọn ở trước đã thành tựu trong căn, rằng, ưu căn trong địa ngục, thành tựu không hiện hành. Nay, vì sao nói rằng ưu khổ cùng khắp?
Giải thích: “Y cứ vào sự thọ khổ cùng cực ở địa ngục. Trong địa ngục kia khởi nổi lo, cũng gọi là khổ, nên nói chỉ hiện hành khổ. Nay, y cứ nỗi khổ lo, sáu thứ vì khở riêng, nên nói rằng “khổ lo cùng khắp”.
Kế là, dựa vào thọ để nói. Lại, nói lạc, nghĩa là phần vị hiện tiền của bất khổ, bất lạc thọ. Luận sư Cảnh nói: “Lúc xả thọ khởi, chẳng phải khổ cũng gọi là lạc”.
Pháp sư Thái nói: “ Bất khổ, bất lạc thọ, vì là vắng lặng nên gọi là lạc.
Đã theo đuổi lạc, nghĩa là phần vị hiện tiền của khổ thọ, bấy giờ, du sau khổ, gặp duyên thuận, khởi lạc ngay, gọi là theo đuổi lạc.
Hỷ lạc cùng khắp: phần vị hiện tiền của lạc, không lìa hẳn lạc, nghĩa là đối với tất cả phần vị, vì hạt giống lạc đã theo đuổi, nên trái với lạc này, gọi là sự khác nhau của khổ.
Nên nói là khổ, nghĩa là phần vị hiện tiền của bất khổ, lạc thọ.
Khổ đã theo đuổi, nghĩa là phần vị hiện tiền của lạc thọ, khổ lo cùng khắp, nghĩa là phần vị hiện tiền của khổ thọ.
Không lìa hẳn nghĩa là vì tất cả phần vị đã theo đuổi nhân khổ.
Dưới đây là y cứ ở cuộc đời để nói. Lại, lạc, nói là thuận lạc hạnh và vui xong, diệt, nghĩa là thuận với lạc hạnh quá khứ là ngay từ đầu có niềm vui đã theo đuổi, nghĩa là có nhân vui ở đời vị lai, sẽ sinh khởi niềm vui. Mừng vui cùng khắp, nói là thuận theo xứ vui ở hiện tại, nghĩa là thuận với lạc hạnh ở hiện tại và lạc thọ.
Chưa lìa hẳn niềm vui, nói là hai đời khác, nghĩa là ngoài pháp lạc thọ, vì còn có nhân vui, nên gọi là chưa lìa hẳn.