DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 20
(Phần Đầu)
BẢN LUẬN QUYỂN 74
Trong giải thích ba tánh, có ba bài tụng. Quyển trước đã giải thích về bảy môn của quả đầu xong. Nay quyển này, đầu tiên giải thích bài tụng thứ hai có chín môn, Nhiếp là thứ nhất.
Vô tánh thứ hai; Biết v.v… là thứ ba, Mật ý v.v… thứ tư; Sở hành thứ năm; Thông đạt là thứ sáu, Tùy nhập là thứ bảy, Sai khác là thứ tám và y chỉ, là nghĩa thứ chín.
Kế là, giải thích theo thứ lớp. Trong môn dầu, 1/ Chín nói về nhiếp thu. 2/ Hỏi, đáp, nói về chánh trí là lý do của Y tha. Luận sư Cảnh nói: “Nay, luận này nói: “Tự tánh ban đầu không thuộc về năm pháp. Tự tánh thứ hai, thuộc về bốn pháp. Tự tánh thứ ba chỉ thuộc Chân như cựu hành luận Phật tánh quyển hai cũng nói rằng: “Năm pháp của tánh thứ nhất đều không gồm thu, vì không có tự thể. Tánh thứ hai, thuộc về bốn pháp; tánh thứ ba, chỉ thuộc về như như.”
Lại, luận ba vô tánh quyển thứ nhất cũng nói: “Tánh thứ nhất không có tự thể tướng, chẳng thuộc về năm tạng. Nếu pháp là “có” thì không ngoài năm tạng.”
Hỏi: “Nếu như vậy, vì sao kinh Lăng-già nói: “Tướng, Danh là tánh thứ nhất, Phân biệt là tánh thứ hai; Chánh trí như như là tánh thứ ba?” Lại luận Trung Biên chép: “Tánh thứ nhất thuộc về Danh, tánh thứ hai thuộc về tướng và phân biệt. Tánh thứ ba thuộc về chân như và chánh trí. Văn như thế v.v… làm sao hội ý giải thích.
Giải thích: “Văn, dù có nghĩa khác, nhưng vẫn không trái nhau. Vì sao? Kinh Lăng-già chép: “Tánh thứ nhất gồm thu Danh, tướng, nghĩa là y cứ vào chấp tánh nhất định Danh, tướng, rốt ráo không có tự thể, vì đồng với nghĩa không có tự thể của tánh thứ nhất, nên được gồm thu nhau.
Nhân duyên Danh, tướng đều sinh từ tâm, vì không lìa tâm, nên gọi chung là phân biệt, nên nói rằng “Phân biệt thuộc về tánh Y tha. Tướng và Phân biệt trong luận Trung Biên, y cứ vào pháp nhân duyên thuộc tánh y tha; Danh y cứ ở nghĩa không có tự thể của chấp ngang trái, đồng thuộc về tánh thứ nhất. Một thứ chánh trí dựa vào luận này và luận Phật Tánh v.v…, tức Y tha. Cho nên hữu vi dựa vào nhân duyên do thể biến đổi khác, chẳng phải Viên thành thật.
Kinh Lăng-già và luận Trung Biên nói, Như như, Chánh trí, đều thuộc về tánh thứ ba, nghĩa là đồng y cứ nghĩa không điên đảo, thuộc về Viên Thành Thật. Lại theo phần thuộc về lựa chọn dưới đây, thì Chánh trí cũng thuộc về tánh Viên Thành Thật. Nếu giải thích từ trước đến sau, nói về thông bít, người đới không nên khởi ngay lời vấn nạn rằng “Một thứ Chánh trí của Luận Du-già chỉ thuộc về Y tha; Biến kế sở chấp không có tự thể là lỗi. Lại nữa, Vô Tánh tân dịch, Bồ-tát Thế Thân đã giải thích Nhiếp Luận đều nói: “Như như Chánh trí thuộc Viên Thành Thật”, Kẻ tà kiến kia đã phá rằng: “Kinh, Luận tân dịch nói Chánh trí thuộc Viên Thành Thật.” Kẻ tà kiến kia phá rằng “Kinh, Luận tân dịch nói Chánh trí kia hoàn toàn thuộc về Y tha, tức có lỗi giả dối có thể hư hoại, há lượn sóng mạnh mẽ, thưa thớt, mất mát hay sao?” Lại, nói: “Dựa vào năm pháp không thuộc tánh thứ nhất, tức năm pháp nhiếp pháp không hết, nghĩa này không đúng! Vì biến kế sở chấp chỉ là sự câu kết, vẽ vời của tính trái ngược, rốt ráo vô pháp, vì đây là nói năm pháp không nhiếp thu, đâu được nói năm pháp như thế là lỗi thuộc về pháp không hết ư? Cho nên, nói rằng “Như quả đẹp của thế gian đa số lãnh nạp thẳng, trí sâu, nghĩa mầu nhiệm phần nhiều vời lấy chê bai”.
Pháp sư Thái nói: “Hỏi đáp trong đây, là nói về Chánh trí là trong lý do của y tha”. Phương Tây có hai Luận sư giải thích khác:
Một Luận sư nói: “Văn này chỉ tánh chấp đã làm rõ tánh Y tha của cảnh tướng phần. “Duyên” tự tánh của Biến kế sở chấp.”
Luận sư thứ hai nói: “Thuyết của lý không cùng tận, vì tâm thiện hữu lậu của người kia chẳng phải là Biến kế sở chấp.”
Thứ hai, trong giải thích môn vô tánh, y cứ ở ba tánh kia để nói về ba vô tánh:
1. Do tướng vô tánh, nên biến kế sở chấp nói là không có tự tánh.
2. Do sinh vô tánh và Thắng nghĩa vô tánh, nên tánh y tha, nói là không có tự tánh.
Dưới đây, là giải thích lý do tại sao?
Nói “Vì chẳng phải tự nhiên có, nghĩa là nói về ý vô sinh. Y tha từ nhân duyên sinh, nên gọi là vô sinh.
Nói “vì chẳng phải tính sở duyên thanh tịnh, nghĩa là hai giải thích không có tánh thắng nghĩa. ngoại đạo chấp thân của người, trời v.v… là Niết-bàn thắng nghĩa, là pháp thường lạc. Nay, nói về pháp nhiễm khổ, tập của y tha không có tánh thắng nghĩa, vì không phải đối tượng duyên của chứng trí thanh tịnh, nên nói y tha gọi là thắng nghĩa vô tánh”.
3. Chỉ do thắng nghĩa không có tự tánh tánh nên viên thành thật tự tánh, nói là “vô tự tánh”.
Ở đây có hai nghĩa:
1) Viên thành kia lìa tướng ngôn thuyết, chẳng phải là tình chấp lấy pháp của tánh nhất định, mà là người Sơ học dựa vào giáo, chấp chặt “có” là thắng nghĩa viên thành “không”. Đối tượng chấp lấy của người kia, chấp tánh thắng nghĩa, gọi là thắng nghĩa vô tánh”.
Hỏi: “Văn dưới đây có hai: Thể viên thành là thắng nghĩa. Do vô tướng v.v… vô tánh đã thể hiện rõ, gọi là thắng nghĩa vô tánh”.
“Vì sao v.v… ” trở xuống, là chính giải thích nghĩa này.
Hỏi Vì sao quyển trước nói viên thành chẳng phải ba vô tánh ư?”
Giải thích: “Y cứ ở môn sau, thể là thắng nghĩa, mà chẳng phải vô tánh, là vô tướng v.v…. Vô tánh đã thể hiện rõ, gọi là vô tánh. Nói về thật thể, chẳng phải là ba vô tánh, vì trí vô phân biệt lúc chứng viên thành đã lìa “có”, “không”.
Ở trước vì y cứ môn này nên nói là viên thành, chẳng phải ba vô tánh.
Thứ ba, là giải thích môn biết v.v… Như Nhiếp Luận nói: “Nên biết, nghĩa là ba tánh. Về lý, “có” “không” của ba thứ lớp tánh, tất cả người học đều nên biết khắp.
Nếu vậy, thì vì sao?” v.v… trở xuống là hỏi: “biến kế sở chấp, đối tượng hiễn hành của trí nào là trí phàm là trí Thánh?”
Đáp: “Chẳng phải đối tượng hiện hành của trí, vì là vô tướng. Giải thích: “Quyển kia y cứ ở biến kế sở chấp vì không có tự thể tướng, nên không thành duyên duyên, nên nói đối tượng chấp đều chẳng phải đối tượng hiện hành của trí phàm, Thánh. Vì thể tánh lìa “không”, nên là chỗ mà người học đã tìm kiếm, mong cầu. Cho nên, nói nói là đối tượng biết khắp. Y tha là nhiễm, có tự thể không thật, thành thử nên dứt trừ hẳn, viên thành nên chứng.
Thứ tư, là giải thích môn mật ý có hai: Đầu tiên nêu chung, nêu kinh không liễu nghĩa, đều do ba tánh, nên thuận theo tướng quyết định rõ ràng.
1) Lược giải thích hai môn:
1- Nêu kinh để nói ba thứ vô sinh, nhẫn. Kinh không liễu nghĩa y cứ vào ba thời kỳ mà tùy quyết định rõ.
2- Nêu ba giải thoát, kinh không liễu nghĩa, do ba tự tánh, nên tùy quyết định rõ.
Luận sư Bị nói: “Ba nhẫn ở Sơ địa trở lên, nên nói không có lui sụt.
Thứ năm, giải thích môn sở hành. Pháp sư Thái nói lại lời Ngài Giới Hiền rằng “Ý trong đây nói có pháp là “duyên”, “duyên” Thể tánh, vì chủ thể sinh, nên gọi là “sở hành của trí”. Tánh Biến kế sở chấp đã là pháp không, vì chẳng thuộc về bốn duyên; chẳng phải là “sở hành” (đối tượng hiện hành) của trí. Vì là vô tướng. Thuyết trước y cứ ở thể của trí là pháp không, nên nói rằng “tất cả nên biết”.
Luận sư Bị v.v… nói: “Như Nhiếp Luận nói: ‘Cảnh giới phàm phu của tánh phân biệt. Cảnh giới bậc Thánh của tánh chân thật. Cảnh giới phàm, Thánh của tánh Y tha, vì y cứ vào tính Biến kế, nên nói là “sở hành”. Luận và Nhiếp luận, lại nói ba tánh đều gọi là “nên biết”, nghĩa là vì Biến kế “không”, nên gọi là “biết”, Dựa vào tánh Y tha khởi, “đối tượng hiện hành” của hai trí Phàm, Thánh nhưng chẳng phải là cảnh của Chánh trí. Viên thành Thật chỉ đối tượng duyên (sở duyên) của Chánh trí chẳng phải là cảnh của Hậu trí. Như luận về tướng phần của Chân như là tánh y tha. Y cứ theo văn này, các thức sở duyên của A-lại-da chẳng phải duyên duyên.”
Thứ sáu, là giải thích môn thông đạt. Khi thế trí tư duy đối tượng chấp, thì có tướng “không”, khởi ngay nơi tâm, không thể thân chứng chân như, gọi là hiện hành hữu tướng. Trí xuất thế gian thông suốt đối tượng chấp chân như, gọi là thực hành vô tướng. Thấu suốt hai tánh khác, phải biết cũng thế.
Thứ bảy, là Giải thích môn ngộ nhập. Ngộ nhập đối tượng chấp xưa nay là không tức ngộ nhập Viên thành. Tùy nhập Viên thành, loại bỏ Y tha, nghĩa là chứng đoạn trừ nhiễm.
Thứ tám, là giải thích môn sai khác. Có ba lượt hỏi đáp. Trong phần đầu, Luận sư Cảnh nói: “Tánh y tha là pháp duyên sinh, có cả tình, phi tình, đầy khắp mười phương, quá hơn số lượng. Dựa vào Y tha kia, chấp có hai Nhân, Pháp khác nhau, với số lượng đồng với Y tha kia.”
Hỏi: “Cũng khởi chấp đối với Viên thành, chấp có Viên Thành Thật, đối tượng chấp cũng thế?”
Giải thích: “Viên thành lìa chấp mắc kia, lúc chấp Viên thành thật, thì sẽ có tướng không giống với Viên thành thật. Tướng Y tha khởi ở đối tượng chấp trên, vì luận gia này nói về số lượng của đối tượng chấp. Chỉ như y tha không nói như Viên thành thật. Lại đối với Y tha có hai biến kế tùy tâm giác của người kia, biểu hiện tình chấp “có”.
1. Tùy giác. 2. Quán tập tập khí tùy miên, nghĩa là vì biến kế sở chấp, nên huân tập thành hạt giống.”
Pháp sư Thái nói: “Như có người đồng theo ngôn thuyết giác biết chấp có các pháp, gọi là tùy giác, chấp tự tánh biến kế sở chấp, như trâu, dê v.v…. Quá khứ vô thỉ đến nay đã từng làm người v.v… quán tập Danh ngôn, tùy giác phân biệt huân tập hạt giống, gọi là quán tập vì sức tùy miên của tập khí, nên bò, dê v.v… dù không giác biết danh ngôn. Nhưng với giác biết danh ngôn, nghĩa là chấp các pháp không khác.”
Luận sư Bị nói: “Đây là nói do hai thứ chấp nên có tánh biến kế sở chấp.
Một cách giải thích của các nước phương Tây: “Lấy tự tánh của đối tượng chấp (bị chấp) làm tánh biến kế, nếu tân “năng duyên” (chủ thể duyên) hoàn toàn y tha, cho nên trong văn này, nêu lại chủ thể chấp.
Trong đây, Địa tiền giải thích danh, ngôn, là đối tượng mà hữu tình chấp, cho nên nói “tùy giác”, không thể nói rằng đối tượng chấp của chúng sinh khởi dù không có hiện hành, tâm “duyên” danh, ngôn mà do tùy miên giải các pháp như xanh v.v…, nên gọi là tập khí quán tập.
Kế là, trong phần nói về khác nhau của y tha, Luận sư Cảnh nói: “Như loại khác nhau của phẩm tướng, nghĩa là như loại khác nhau của phẩm tướng trong năm pháp là Y tha khởi.
Lại có hai thứ v.v…
1. Do tám chấp phân biệt huân tập mà sinh ba việc là Y tha nhiễm.
2. Từ văn huân tập khởi.
Pháp sư Thái nói: “1- Y tha tạp nhiễm tùy biến kế chấp khởi. Ở đây có hai nghĩa:
1. Chấp tướng phần của tâm từ chấp kiến phần khởi. Nếu chẳng phải tướng phần, thì như vô minh sanh ra hành của ba tánh.
2. Y tha phần tịnh khởi từ không có chấp, cũng có hai nghĩa (như trước rất dễ hiểu).
Dưới đây, là nói về một vị Viên Thành, không có nhiều phẩm số.”
Thứ chín, giải thích môn Y chỉ. Biến kế sở chấp dựa vào ba pháp, chấp có quyết định của người Pháp, phân biệt hai Trần là chủ thể chấp. Tướng, Danh là đối tượng chấp. Do dựa vào “năng chấp’ (chủ thể chấp), “sở chấp” (đối tượng chấp) câu kết giả dối, vẽ ra tánh bị chấp hình thành. Nhiếp Luận dựa vào ý xứ này để nói: Tác dụng ấy là gì? Là chủ thể biến kế. Cái gì là đối tượng biến kế? Là tánh biến kế sở chấp thành?
Đáp: “Ý thức là chủ thể biến kế. Tướng, Danh của Y tha là đối tượng biên kế. Do đây, chủ thể đối tượng tánh biến kế sở chấp được thành,”
Hỏi: “Trong ý chỉ này, tức nói y chỉ ba pháp. Vì sao thuyết trước nói biến kế sở chấp của môn Duyên, duyên gì nên biết?” trong phần đáp, tức nói “duyên” Tướng, Danh của Y tha kia thuộc nhau, trừ phân biệt ư?”.
Giải thích: “Thuyết trước nói về môn Duyên, chỉ lấy sở duyên (đối tượng duyên). “Duyên” Tướng, Danh của Y tha kia, nhất định chấp mắc hệ thuộc nhau, nên thành đối tượng chấp (sở chấp). Vì không lấy chủ thể chấp, nên trừ phân biệt.
Nay, môn Y chỉ lấy chung tâm, cảnh dựa vào tâm phân biệt của chủ thể chấp và lấy hai pháp tướng, danh của đối tượng chấp (bị chấp) mới thành “sở chấp”, nên môn y chỉ nương tựa chung ba pháp. Y tha, phải nói tức y biến kế sở chấp và đẳng lưu riêng của nó. Trong môn duyên ở trước tức nói y tha “duyên” tự tánh của biến kế sở chấp. Nghĩa là trong môn y chỉ này, phải dựa vào tâm “năng chấp” Nhân, pháp của tánh quyết định kia. Tâm “năng chấp” này dựa vào hạt giống danh, ngôn của tự loại. Và, hiện hành của danh ngôn kia, cái sau dựa vào cái trước khởi, nên nói “và tự đẳng lưu”.
Trong môn duyên ở trước chỉ nói y tha “duyên”tự tánh của biến kế sở chấp, nghĩa là y cứ trực tiếp “duyên”hai trần của tánh quyết định kia, huân tập thành y tha hạt giống và sinh y tha hiện khởi. Cho nên, chỉ nói”duyên” tự tánh của biến kế sở chấp. Nên biết rằng, tánh Viên thành thật là vô vi, thường trú, không có đối tượng nương tựa. Vì nhờ vã, nên không có y chỉ, tức là kinh nói không có trụ, tức không có nghĩa. Trước kia nói môn duyên, tức nói “duyên” biến kế sở chấp ngay trong y tha, rốt ráo không thật, nghĩa là y cứ vào trí gia hạnh “duyên’biến kế sở chấp kia đều không có tự tánh, chỉ cấu kết, phát họa gia dối. Do gia hạnh tìm kiếm, xem xét, biết rõ hai trần bị chấp chẳng thể nhân ngộ này mà nhập tánh viên thành, cho nên nói viên thành duyên biến kế sở chấp kia, không thật nên biết.
Dưới đây là giải thích bài tụng thứ ba có mười một môn: “nếu không có”là môn thứ nhất. “Tác nghiệp”, là môn thứ hai. “Vi tế” v.v… là môn thứ ba. “vô thể” là môn thứ tư. Sinh, là môn thứ năm. Chấp là thứ sáu. Biết rõ”, là môn thứ bảy. Nhiễm, là môn thứ tám. Khổ là môn thứ chín. Dụ là môn thứ mười. Phân biệt là môn thứ mười một. Văn xuôi giải thích có mười. Hai môn: Nhiễm, khổ:
1. Vì giải thích xứ, trong giải thích môn đầu nếu không có biến kế sở chấp, thì sẽ có lỗi gì?”
Đáp: “Ở trong tánh y tha khởi, lẽ ra không có chấp danh ngôn v.v… nghĩa là từ xưa đến nay, đều khởi chấp ở danh, ngôn của y tha. Do chấp cấu kết khắc họa, khởi pháp nhiễm sinh, tử của y tha kia, dứt nhiễm, được tịnh. Nếu không có tánh này, thì sẽ không có chấp danh, ngôn. Tánh này nếu không có, thì lẽ ra không thể biết được tạp nhiễm, thanh tịnh. Không có hai tánh sau, thì lỗi rất dễ hiểu.
2. Giải thích môn tác nghiệp. Luận sư Cảnh nói: “Tánh đầu có năm nghiệp:
a. Chủ thể sinh Y tha do chấp, hai trần Y tha của hai phần tướng, kiến được khởi, nghiệp này là chung, bốn nghiệp sau là nói riêng. Đối với phần chung, sinh ra Y tha kia, để nói vể năm nghiệp.
b. Khởi ngôn thuyết.
c. Sinh ra nhấp người.
d. Sinh ra chấp pháp.
đ. Chủ thể nhiếp thọ hai thứ chấp tập khí thô nặng kia. Do chấp hai thô nặng thành hai chấp tập khí thô nặng. Hai tánh còn lại đều có năm nghiệp, như văn rất dễ hiểu.”
Pháp sư Thái nói: “Năm nghiệp của tánh đầu tiên:
1. Tánh biến kế sở chấp dù chẳng phải “sở duyên”, “duyên sinh”, tâm “năng chấp”, nội vọng nghĩa là có tướng sở chấp, có tâm năng chấp nên nói là “năng sinh” (chủ thể sinh), Tánh y tha thật sự chẳng phải bốn duyên.
2. Do hai ngã tướng Nhân và Pháp sinh ra ngôn thuyết của hai ngã. Do ngôn thuyết của hai ngã, nên lại duyên hai ngã mà khởi.
3. Tùy giác phân biệt chấp, Thói quen thứ ba, thứ tư tùy giác chấp huân tập thành tập khí, tùy miên thô năng bèn khởi hai chấp tùy miên. Hai chấp tùy miên này cũng từ biến kế sở chấp sinh, nên biến kế sở chấp có thể nhiếp thọ hai thứ chấp thô nặng tập khí kia.
Y tha có năm:
a. Đại khái nói về Y tha năng sinh tạp nhiễm có hai thứ sinh. So với trước rất dễ hiểu, lược qua không nói chủ thể sinh thanh tịnh.
b. Dựa vào y tha, vì chấp có tánh biến kế sở chấp, nên có thể làm đối tượng nương tựa cho tự tánh biến kế sở chấp. Lại vì tục nhập chân, và làm chỗ nương cho tự tánh Viên Thành Thật, y cứ thế tục làm chỗ nương tựa cho Thắng nghĩa đế, nên nói trong tánh Biến kế sở chấp không nói.
Thứ ba, thứ tư hai chấp người Pháp lấy tánh y tha làm “duyên sở duyên, làm đối tượng nương tựa cho hai chấp kia.
c. Thức Lại-Da làm “sở y” cho hạt giống của hai chấp kia.” Luận sư Bị nói: “Tánh đầu tiên có năm:
1- Do hai trần người, Pháp nên có thể sinh tâm “năng phân biệt” của Y tha.
2- Nếu luận Y tha lìa tánh ngôn thuyết nên không thể nói, mà ngôn thuyết, nghĩa là do biến kế. Ba, bốn, như luận.
3- Do biến kế nên khởi chấp người pháp. Do hai chấp, nên thuộc về hai thứ kia.”
Lại, giải thích: “do không có hạt giống, nên đối với các hữu lậu đều có tánh thô nặng, thứ năm trong năm nghiệp của y tha, tự có hai môn: Nếu là môn lý tùy chuyển, thì tâm vương và năm căn v.v…, đều có thể giữ gìn hạt giống. Nếu luận hay cho nương tựa thô nặng, thì nói chung tất cả các pháp hữu lậu. Nếu là môn chân thật, thì chỉ là Lại-da hay gìn giữ hạt giống. Viên thành thật kia, chính là năm thứ nghiệp, là hai duyên sở duyên của năm đối trị. Thứ ba là giải thích môn vi tế, v.v… Pháp sư Thái nói: Biến kế sở chấp khó ngộ nhập, cho nên là sở duyên của tám thức y tha nhỏ nhiệm. Cảnh y tha thường hiện tiền nên gọi là Thô, viên thành quả Thánh mới thấy nên nói là rất nhỏ nhiệm.
Luận sư Bị nói: “Vì các pháp sắc, tâm có thể nên nói thô. Vì biến kế sở chấp không có tự thể, nên gọi là tế.”
Thứ tư giải thích môn không có tự thể:
4- Không có tự thể năng chuyển biến có tự thể, do chấp vô thể nương vào tha thể mà khởi hỏi pháp không có tự thể không thành duyên duyên (năng duyên, sở duyên), sao được nói duyên, không có tự thể, có thể kia sinh ư?”
Luận sư Cảnh giải thích: “ “không có tự thể” chung này tự nó thuộc về đối tượng chấp, có thể chuyển “có thể”. Tự là tướng phần, y tha có pháp có công năng làm duyên duyên, sinh ra kiến phần như “duyên”, như “duyên” mười tám giới. Lúc Pháp chấp nhất định có, tức có tướng phần của các giới. Chính tâm kiến phần khởi làm duyên sở duyên. Bên cạnh nghĩa chấp quyết định của hai tướng phần kia, tự nó không có tự thể, tự nó thuộc về đối tượng chấp, có thể chuyển thành có thể, tức y cứ ở tướng phần. Vì trong văn chung nói, nên nói là một tánh không có tự thể, có thể chuyển thành có thể.’
Có chỗ giải thích: “Pháp y tha khởi, do tình vọng khởi, nên nói Biến kế chấp có thể chuyển y tha, chứ chẳng phải là nhân duyên và gần “duyên duyên” v.v….
5- Là có thể, có thể khởi “có”, “không”, nghĩa là tánh Y tha khởi có thể sinh tự loại và khởi hai trần người Pháp.
d. Là có Thể mà chẳng phải năng chuyển, tức Viên Thành Thật dứt hí luận.
Thứ năm, là giải thích môn sinh, bất sinh. Vì biến kế sở chấp xưa nay vô sinh, nên nói “bất sinh”, nhưng ví có khả năng sinh Y tha, nên nói là “sinh sinh”. Tánh y tha khởi là pháp sinh, chủ thể sinh Y tha và Biến kế sở chấp.”
Hỏi: Nếu nói Biến kế xưa nay bất sinh, thì vì sao nói do Y tha sinh ra?
Giải thích: Vì y cứ ở nghĩa không có tự thể, nên gọi là bất sinh; vì tùy tánh chấp, nên cũng gọi là sinh. Tánh Viên Thành Thật do nghĩa ngừng dứt, nên bất luận chủ thể sinh.”
Hỏi: So với môn trước đâu có khác mà cần phải nói lại?”
Luận sư Cảnh nói: “Môn trước y cứ vào có tự thể, không có tự thể, nhằm nói khả năng sinh nhau. Nay, y cứ vào pháp sinh, bất sinh để nói về chủ thể tương sinh. Luận sư Cảnh nói: “Chuyển cả sinh diệt. Lúc mê có thể sinh Y tha. Nếu tỏ ngộ đối pháp chấp, tức diệt y tha?”
Nay, giải thích: “Chuyển: “nghĩa là chuyển biến sinh là nghĩa sinh khởi”.
Thứ sáu giải thích môn chấp, vô chấp, trước là nói về tướng chấp, vô chấp của tánh biến kế sở chấp.”
Luận sư Cảnh nói: “Giác ngộ có chấp, vô chấp, tức tuổi nhỏ trở đi, hiểu rõ về Danh, Ngôn, con người khởi chấp giác ngộ. Nếu gọi là biết rõ, thì không khởi chấp kia.
Kế là, giải thích về tùy miên có chấp, vô chấp, tức là trẻ con, gia cầm, gia súc v.v… dù không hiểu danh ngôn, nhưng vì sức tùy miên mà có đối tượng chấp. Nếu y cứ vào người Đại thừa dứt bỏ tùy miên, thì phải biết là vô chấp.
Pháp sư Thái nói: “Trong đây y cứ vào ngã chấp để nói về tánh biến kế, chấp và không chấp, phân biệt ngã kiến, do ngôn giáo của ngoại đạo chấp không có ngã, nên gọi là chấp giác ngộ. Câu sinh ngã kiến không do ngôn giáo, mà là do sức tập khí nhậm vận khởi, nên gọi là tùy miên chấp, trong đó có hai: Nếu là người phàm phu chưa nhổ hạt giống, tập khí của Câu sinh ngã chấp kia, thì phải biết rằng người ấy có tùy miên chấp; nếu La-hán v.v… cho đến địa vị chưa bỏ tập khí thô nặng, dù đã dứt trừ hết hạt giống của tùy miên Câu sinh ngã chấp nhiễm ô, nhưng trên hạt giống thiện, vô ký vẫn còn có tập khí thô nặng của ngã chấp. Do sức tập khí thô nặng này, nên tâm vô ký thiện chấp có Nhân, Ngã đều gọi là “chấp có”, chỉ có mình Phật, có khả năng nhổ bỏ tập khí, nên gọi là “không có chấp”.
Luận sư Bị nói: Trong bốn thứ, hai thứ đầu y cứ ở phân biệt khởi, nói chấp không chấp. Hai thứ sau, dựa vào câu sinh để nói về chấp, không chấp.
Trong phần trước, tức Địa tiền vì có phân biệt khởi chấp, nên gọi là “có chấp”. Sơ địa trở lên, vì không có phân biệt ngã, nên gọi là “không chấp”. Trong hai thứ sau, tức trừ Địa tiền, cho đến Thập địa trở xuống, có hai chấp câu sinh, phân biệt nên gọi là “có chấp”. Kim cương trở lên dứt trừ hẳn hai chấp, nên gọi là “không có chấp”. Đại thừa phán quyết như thế. Nếu tùy từng phần mà nói, thì Sơ địa trở lên, cũng có “vô chấp”.
Kế là, nói y tha có chấp, không chấp Luận sư Cảnh nói: “Trong đây cũng có hai:
1. Do tự tánh biến kế sở chấp, chấp giác ngộ, v.v… nghĩa là nêu tánh đối tượng chấp để nói về y tha, chủ thể chấp.
“Khéo hiểu rõ v.v…” trở xuống, đối với các Trần Nhân, pháp, không khởi chấp trái ngược.
2. “Nếu đối với tướng ràng buộc”. Cho đến chấp thứ hai, nghĩa là đối với các cảnh giới khi có cái được (chứng đắc), gọi là có tướng trói buộc.
Kế là, nói về vô chấp vô chấp có hai:
1) Nói chứng trí, cõi không có tướng, đã nhổ bỏ tướng ràng buộc, gọi là vô chấp.
“Hoặc vào thời điểm sau v.v…” trở xuống, nói trí Hậu đắc, như có mà được, phải biết là không có chấp.
Pháp sư Thái nói: “Trong đây, y cứ vào pháp, ngã, để nói về “có chấp”, “không chấp” trên tánh y tha. Việc này cũng có hai thứ:
1. Nếu do tùy danh, ngôn, giác ngộ, phân biệt chấp có biến kế sở chấp pháp ngã, lại do tùy danh mà nói giác ngộ phân biệt. Biến kế mà thành tự tánh pháp chấp, như ngôn, giáo của Tiểu thừa chấp pháp có tánh v.v… thì gọi là chấp đầu tiên, chỉ do trong văn, nêu giác ngộ biến kế. Giống như giải thích pháp chấp giác ngộ biến kế, chẳng phải chính nói, về chấp người giác ngộ, vì trước đã nói.
2. Nếu đối với hạt giống ràng buộc của tướng chưa được nhổ bỏ, do sức hạt giống, nên trong các tướng khi có sở đắc, gọi là tùy miên thứ hai. Hai thứ pháp chấp, không chấp v.v… tìm trong văn rất dễ hiểu.
Luận sư Bị dẫn giải thích của Tam Tạng Pháp sư: “Đây cũng có bốn thứ, như giải thích trong biến kế”.
Có sai khác, nghĩa là pháp của tánh y tha vì lìa tác dụng ngôn thuyết, vì không có chỗ nương tựa chấp mắc, nên gọi là “chấp”. Lại, trong bốn thứ này, hai thứ đầu, y cứ ở phân biệt, không có nói chấp, không chấp. Hai thứ sau, y cứ vào tướng ràng buộc, không nói về chấp, không chấp. Ngài Tam Tạng Pháp sư lại nói: “Hai chấp y tha, tức là hai chấp của biến kế, không có tự thể khác. Như trên năm uẩn, chấp có bên Thần ngã, gọi là nhân chấp. Không hiểu rõ bên nghĩa uẩn, gọi là pháp chấp. Trong đây cũng thế. Bên cạnh nghĩa chấp ngang có tánh phân biệt, gọi là biến kế chấp. Không hiểu rõ bên nghĩa tánh y tha, gọi là chấp y tha. Dưới đây, sẽ nói viên thành không có chấp:
Cõi này chẳng phải chấp chỗ yên ổn, đầy đủ. Nếu ở trong cõi này, người chưa được xúc chứng, khởi đắc tăng thượng mạn, phải biết chính là biến kế sở chấp đã vẽ lờ mờ tánh y tha mà khởi. Dù “duyên” chân như mà khởi chấp mắc, lại chấp tâm biến hóa, vì như tướng phần, y tha khởi chấp.
Thứ bảy, là giải thích môn biết rõ, có ba lược hỏi đáp:
I. Nói về biết rõ biến kế sở chấp có mười một tướng:
1. Chỉ có chấp danh.
2. Không có tướng, tánh.
3. Không có sinh, diệt.
4. Không có nhiễm, tịnh.
5. Niết-bàn xưa nay, xưa nay các Đại đức giải thích lời này: nêu “năng trị” làm rõ tánh phân biệt của bị trị. Nay, giải thích không như vậy. Tức vì rốt ráo là không, nên tức là tự tánh “không” chứ chẳng phải vì dứt bỏ cho nên không v.v… như văn trước nói. Xưa nay vắng lặng v.v… dựa vào tướng sinh mà nói.
6. Chẳng phải ba đời.
7. Chẳng phải ba cõi trói buộc. Không trói buộc.
8. Chẳng phải ràng buộc, giải thoát.
9. Chẳng phải ba thọ.
10. Chỉ là một vị.
11. Như hư không. Vì hư không không có tự thể, nên nêu để làm thí dụ.
Chín thứ trước, là nêu tướng, hai thứ sau là tướng chung.
II. Kế là, nói biết rõ Danh, tự y tha: Được giải thích tất cả thuộc về sự hữu vi, đây là nêu chung. Dưới đây là giải thích riêng:
1. Y cứ Pháp tướng có năm mươi tám; mười sáu thiện xảo.
2. Sự quả nghiệp.
3. Sự thứ hướng sinh.
4. Sự sinh loại.
Pháp sư Thái nói: “Nói chung sự sinh của tướng các pháp, gọi là sự sản sinh. Dòng loại của các pháp, sự loại của Danh, sắc, chẳng phải sắc của căn, trần v.v….”
Nay, giải thích: “Đây là cha mẹ sản sinh các thứ sắc loại.
5. Hai mươi tám tầng trời.
6. Sự Phương tiện nhập Thánh.
7. Sự kiến đạo, tu đạo.
8. Sự của quả Thanh Nhị thừa.
9. Sự Diệt Định.
10. Sự đến bên kia bờ.
Luận sư Cảnh nói: “không”. Có chỗ giải thích là sáu Độ.
11. Sự ba mươi bảy Phẩm.
12. Sự tĩnh lự.
13. Sự Bôn Vô lượng.
14. Sự Định Vô Sắc.
15. Sự tu mười tưởng.
16. Sự tu tùy niệm.
Pháp sư Thái nói: “Sự niệm trụ”. Nay, giải thích: “Sự sáu Tùy niệm.
17. Sự ba khoa công đức.
18. Sự các công đức như lực vô úy, v.v…
Kế là nêu dụ: Tướng có ba loại.
1. Y cứ dụ chiêm bao v.v…, 2. Như Nhiếp Luận v.v… nói có năm thứ. 3. Như bảy thứ cuồng v.v…, có thể dẫn kinh Niết-bàn v.v….
Giải thích về thí dụ uống nước tiểu của bạn. Luận sư Cảnh, Bị đồng nói: “Có người bị đánh ngất xỉu ngã xuống đất. Có người với tâm ác, tiểu vào miệng người kia, người ấy liền sống lại, sống lại rồi bảo rằng: “ông hãy uống nước tiểu của tôi đi, sẽ được sống. Nghe xong người kia liền lội xuống sông Hằng, trải qua sáu tháng ngâm tẩm, mới được vào thôn. Vì người phương Tây kiêng nước tiểu, dãi, huống chi chịu uống. Xưa nay tương truyền trần khí dược là phân, bèn lấy phân trong cầu xí để uống, thật philý!
Nói “trần khí dược”, nghĩa là lấy bã thuốc mà người vứt bỏ, đemchưng, nấu để uống, gọi là Trần khí dược.
Pháp sư Thái nói: “Như hai người bạn cùng băng qua sa mạc, nơi không có nước, một người còn được một ít nước, vội uống hết, rồi dùng nước tiểu của mình đem cho người kia uống, nên gọi là nước tiểu của bạn.
Con giả: “Như thế gian nhận con nuôi, chẳng phải đích thân mình sinh ra. Bề ngoài thì họ biểu lộ cử chỉ thân thiện, nhưng trong ôm ấp tính dua nịnh, tà vạy, phung phí tài vật trong nhà, còn phải tra hỏi.” Dưới đây là đương thể, nói về tướng, gồm có sáu câu:
- “Không” chẳng có tự nhiên sinh.
- “Vô nguyện”, vì đáng nhàm chán.
- “Xa lìa”, vì không nên ưa chấp mắc.
- Không có chấp lấy, vì không có “năng chấp” “bị chấp”.. Dối tra, vì không có thật thể.
- Không vững chắc, vì nhanh chóng hao mòn, tiêu mất.
III. Nói biết rõ Viên Thành Thật: Đầu tiên, là ngay nơi thể nói về tướng, như ở trước đã nói chân như, Thật tế v.v…. Sau y cứ cái “không”, tức mười thứ v.v….”
Thứ tám, là giải thích môn nhiễm khổ. Trước nói về nhiễm kia. Sau so với khổ. Vì biến kế sở chấp không có tự thể, nên chẳng phải nhiễm, chỉ khiến cho y tha nhiễm. Y tha chỉ có tự nhiễm. Viên thành, Bạch tịnh làm cho y tha cũng tịnh.
Thứ chín, là giải thích môn thí dụ. Đối tượng chấp như hư không, vì đồng với không có tự thể; y tha như kẻ thù, trai hại, vì làm hao hụt pháp lành, thân mạng. Viên thành như cất giấu nhiều kho tàng châu báu vô tận. Nếu khi chứng đắc, sẽ được lợi ích vô cùng! Nhưng kho báu này dụ cho thật tánh. Xưa nay, các Luận sư đều giải thích không đồng nhau: Nếu là các Luận sư của đạo phía Nam, thì dẫn kinh Lăng-già v.v… nói rằng: “Như lai tạng tánh đầy đủ tất cả công đức, như cát sông Hằng, vốn tự có, chứ chẳng phải đến nay mới có. Lại, chính kinh Lăng-già kia nói: “Ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tùy hình hảo, ngồi kiết già mà là vô lượng, không che giấu, không thể hiển hiện”. Lại, kinh Niết-bàn nói: “Đại Bát Niết-bàn vốn tự có, đầy đủ tất cả công đức như cát sông Hằng.”
Lại kinh Hoa Nghiêm chép: Này “Phật tử, tất cả chúng sinh đều có tạng tánh Phật Như lai, đủ các công đức”. Lại luận Địa Trì nói “chủng tánh của tánh, nghĩa là sáu nhập thù thắng, lầnlượt nối tiếp nhau pháp nhĩ từ vô thỉ.”
Kinh, luận như thế, đều chứng minh rằng, trên đây, đủ các công đức. Nếu như thuyết của đạo phía Bắc thì sẽ không có tất cả công đức trên đây, tức là phạm lỗi đồng với đoạn kiến của ngoại đạo. các Luận sư của đạo phương Bắc nói: “Lập tất cả công đức vốn có, bất sinh từ nhân, mà là tự có trên đây”, thì hoàn toàn đồng với lỗi “tự thể” của Tăng già.
Làm sao biết được, không có công đức vốn có? Vì sao Đức Thế tôn lại nói: “Tất cả các pháp đều là không, chẳng sinh, chẳng diệt?” Đức Phật bảo Đại Tuệ: “Vì chúng sinh đoạn kiến, nên ta mới nói trên đây, có các công đức.” Tức đem đoạn văn này, để giải thích chung ý tất cả kinh.”
Nay, Pháp sư Thái nói: “Dựa vào luận này chứng minh rằng, lý của Viên Thành thật, thành tựu gốc muôn đức, nên nói là kho tàng trong lòng đất không nói chân như đầy đủ muôn đức. Như Bồ-tát Hộ Nguyệt v.v… dù lập hạt giống pháp nhĩ vô lậu của ba thừa, mà là Thể của hữu vi, chẳng phải chân như, nên không đồng với cách giải thích của đạo phía Nam. Nhưng vì hạt giống vô lậu vốn có, nên không đồng với giải thích của đạo phương Bắc.”
Pháp sư Bị nói lại văn nói về đầy đủ các đức vốn có rằng: “Chân như vốn có, chính vì nó thường sinh tất cả các đức, nên nói là vốn có tánh “hằng”.”
Có chỗ giải thích: “Vì trên chân như không có vô minh, nên gọi là trí tuệ. Không có tán loạn, gọi là định, điều này không đúng! Vì nếu như thế, thì các pháp vô tình cũng không có vô minh, nên lẽ ra có trí định.”
Lại giải thích: “Không lìa hữu vi, tu công đức của sinh, gọi là đủ công đức, về lý cũng không đúng. Nếu như thế, nghĩa là chẳng lìa cái không, lẽ ra gọi là không.”
Thứ mười là giải thích môn phân biệt, trong đó có hai:
- Giải thích ba tánh đều có nguyên do.
- Nhân lời nói dài, nói về trí vô phân biệt.
Trong phần trước, biến kế sở chấp do Y tha, nên có biến kế sở chấp. Y tha do nhân duyên, nghĩa là do nương tựa nhân duyên, pháp quả mới được sinh, nên gọi là y tha Viên thành do tất cả các khổ phiền não không tạp nhiễm, tức vì không có điên đảo, nên gọi là chân thật. Lại, do thường, tức do không biến đổi khác, gọi là chân thật.
Y cứ theo nghĩa trong đoạn sau, thích hợp với năm tướng của Trí vô phân biệt trong Nhiếp Luận.
Trong văn, trước vấn nạn, sau là giải thích.
Trong vấn nạn, trước dùng năm nghĩa để thành tựu định.
Kế là đặt ra năm vấn nạn:
1. “Nếu do không có tác ý: Kinh nói: “Trí vô phân biệt tương ưng với tác ý như lý”, mà nói là không có tác ý, nên không hợp lý?
Lại nếu vì không có tác ý, nên gọi là trí vô phân biệt, thì ngủ say, điên cuồng, say rượu thành lỗi của Trí này?
2. “Nếu vì vượt qua tầm từ phân biệt kia, nên gọi là trí vô phân biệt, thì các tâm, tâm pháp của Nhị thừa trở lên, lẽ ra là trí vô phân biệt? Nếu việc ấy là phải, thì sẽ trái với giáo đã nói rằng: “Tâm pháp của ba cõi đều là phân biệt?
3. “Nếu vì không có sở hữu, thì sao luận này không thành chẳng phải tâm ư?”
4. “Nếu do là người tánh ngu, chậm lụt kia, thì sao luận này không thành tánh của sắc và chẳng phải suốt tướng ư?
5. Nếu do đối với cảnh, thực hành gia hạnh vi tế, thì tức là chê bai trí này lìa tướng gia hạnh?
Dưới đây, trong hội ý giải thích, Luận sư Cảnh nói “Đối với Cảnh sở duyên, vì lìa gia hạnh, nghĩa là trí này đã chánh chứng, lìa tầm kia, tâm cầu gia hạnh, tức giải thích trí vô phân biệt.”
Nói “Cảnh sở duyên này cho đến lìa phân biệt: Đây là nói về cảnh vô phân biệt, nêu cảnh để nói trí là vô phân biệt.
Nói “Khi đẳng trì tương ưng với diệu tuệ sinh, thì đối với tướng “sở duyên”, có thể hiện chiếu soi thủ v.v…, tức định, diệu tuệ có thể hiện soi rọi, như lìa năm tướng, gọi là vô phân biệt.”
Pháp sư Bị cho rằng, theo ý văn đầu tiên của luận Trung Biên, thì Địa tiền, trước bỏ tướng phần, kế là loại bỏ kiến phần, nhập Sơ địa, chỉ có tự thể”. Luận này cũng thế, cho nên luận nói: “Cảnh sở duyên” này lìa tướng “có”, “không”, nghĩa là muốn nói về lìa nghĩa tướng phần, lìa các phân biệt, muốn nói về lìa nghĩa Kiến phần.
Đẳng Trì, Diệu Tuệ, có thể hiện soi rọi thủ, nghĩa là muốn nói về Địa tiền không có Kiến, tướng, vì tuệ đã dẫn phát. Sơ địa trở lên, chỉ có tự thể, do không có hai chướng Kiến, tướng, nêu chứng được Chân như.
Theo nhiếp Luận bản dịch xưa, địa vị nhẫn thực hành quán vô tướng. Pháp thứ nhất, thực hiện quan vô sinh, vì quan vô tướng, nên lìa tướng phần.
Do lìa Kiến phần, nên thực hành quán Vô sinh. Vì thế, nên từ Sơ địa trở lên, chỉ có phần của tự thể. Cho nên, các nước phương Tây so sánh rồi nói rằng “Giống như con bò có hai sừng. Trước, đập gẫy một chiếc sừng; sau đến sừng thứ hai, chỉ còn có cái đầu của nó, để đả phá”. Tuy nhiên, nói về trí này, người phương Tây có hai giải thích:
1. “Chánh Thể Trí “duyên” Chân như, không có tướng phần. Vì tự nội chứng.
2. “Không có các tâm “duyên” cảnh mà không phân biệt. Cho nên khi trí này “duyên” chân như cũng tạo ra ảnh tượng.”
Nay, theo luận Duy Thức thì giải thích trước là hơn.”
Trên đây, là quyết định lựa chọn, đầu tiên, trong Trì Du-già có mười hai đoạn. Bốn đoạn trước đã nói xong.
Dưới đây là đoạn thứ năn, quyết định lựa chọn phẩm oai lực:
Đã nói phần nghĩa chân thật, là kết đoạn trước.
“Do năm nhân duyên, phải biết rằng oai lực không thể nghĩ bàn, nghĩa là nêu số, sinh sau, với tâm không nhất định, hoàn toàn không đồng.
Lại, nói “Hoàn toàn hệ thuộc tâm của định Sơ địa” nghĩa là Bát địa trở lên, cũng có sự này. Nhưng phần nhiều y cứ ở địa vị Phật đều là tâm định.”
Dưới đây, kế là thứ sáu, quyết định lực chọn phẩm thành tựu: mười Pháp hạnh:
- Biên chép, thọ trì kinh
- Cúng dường.
- Tuệ bố thí người.
- Lắng nghe.
- Xem đọc.
- Lãnh thọ.
- Phúng túng.
- Nói rộng cho người nghe.
- Ở riêng một mình, tư duy.
- Tùy nhập tu tướng.
Mười công hạnh như thế, đều có nghĩa tư chất, gọi là phước.
Thứ chín là đạo gia hạnh, là Tư. Thứ mười là đạo tịnh chướng, là tu. Tìm tướng văn này, công hạnh thứ chín mới gọi là gia hạnh, nên có thể nói là tám công hạnh trước, chỉ có “sinh sắc thiện”.
Công hạnh thứ bảy, quyết định lựa chọn phẩm Bồ-đề, trong đó, trước nêu lược, nay sẽ giải thích, sau theo thứ lớp giải thích năm tướng Bồ-đề:
1. Trong giải thích tự tánh, đầu tiên là nêu tự tánh, nghĩa là chuyển y vượt hơn. Sau nói về chuyển y có bốn thứ tướng. Trước đơn cử số, nêu danh. Sau, giải thích riêng.
I. Giải thích văn “sinh chuyển” tướng sở y, có ba tiết:
2. Thuận với ý giải thích, muốn biên minh về thân Phật, tất cả đạo xuất thế gian hữu vi, vô lậu. Trước khởi gọi là sinh. Sinh tức là lưu chuyển nối tiếp nhau, nên gọi là “chuyển”. Chân như và công đức hữu vi này vì làm đối tượng y chỉ, nên gọi là sở y (đối tượng nương tựa).
Lại giải thích: “Thân tự thọ dụng nối tiếp nhau, là đối tượng y chỉ của sinh, chuyển của đạo xuất thế.
3. Y cứ quả để giải thích ngược lại: Nếu đạo xuất thế không dùng “chuyển y” làm đối tượng nương tựa, thì quả vị Phật đã không được “chuyển y” này? Đạo quả Phật này lẽ ra phải bất sinh đầu tiên, không chuyển sau, bởi vì không có nơi nương tựa.
4. Y cứ vào nhân để vấn nạn ngược lại: “Nếu xa lìa “chuyển y” kia mà có quả Phật này, thì sự “sinh chuyển” của đạo xuất thế gian sẽ ở địa vị nhân, lúc chưa “chuyển y”, ở trước lẽ ra đã có sự sinh chuyển của đạo quả Phật này, vì ở địa nhân được “chuyển y”?
II. Giải thích về tướng “sở y” của “bất sinh chuyển”, văn có hai tiết:
Tiết đầu, thuận với giải thích. Kim cương đã dứt trừ, tất cả phiền não chánh sử của tu đạo và Sơ địa đã dứt trừ tập khí của kiến hoặc, mới khởi, gọi là “sinh”. Sau nối tiếp nhau, gọi là “chuyển”. Vì dứt trừ chúng, được trạch diệt, nên nói trạch diệt. Thân giải thoát đã nương tựa Chân như, gọi là “sở y” của không “sinh chuyển”.”
Tiết thứ hai, là giải thích ngược lại: “Nếu thân giải thoát không dùng pháp thân “chuyển y” làm đối tượng nương tựa, nghĩa là vì Phật không được chuyển y của thân này, nên tất cả phiền não và tập khí hợp với các duyên hạt giống v.v… của hữu sau. Do đó, phiền não và tập khí “sinh chuyển” có thể được vì bất sinh, không chuyển nên không thật có.
III. Giải thích khéo quán sát tướng quả sở tri, cũng có hai tiết:
1. Giải thích thuận. Do chân trí rốt ráo làm nhân, được quả chân như đã chứng, nên nói rằng khéo quán sát tướng quả sở tri.
2. Giải thích vấn nạn ngược lại. Luận giải thích: “Nên đồng với thủ uẩn, có các tai họa lỗi lầm đáng quán sát. Lại có các lậu. Lại, ngoài các lậu, còn các pháp hữu lậu khác.”
Pháp sư Bị nói: “Nếu không nói Chân như trạch diệt làm chuyển y thì lẽ ra lại quan sát tự thể của Phật, lẽ ra lại quán sát có đối tượng dứt đối tượng diệt.”
IV. Giải thích tông tướng thanh tịnh của pháp giới có hai:
A. Nói lược về tướng.
B. Phân biệt rộng về “không thể nghĩ bàn” Trong phần trước có ba tiết:
1. Giải thích thuận. Luận giải thích: “Nhổ bỏ được hạt giống của tất cả tướng, nên tất cả tướng không lại hiện ở trước nữa.”
Pháp sư Thái nói: “Xả bỏ tướng rốt ráo, gọi là pháp giới thanh tịnh”.
2. Giải thích ngược lại. Nếu nói là ra khỏi triền ràng buộc, chân như lìa các tướng, thì lẽ ra chẳng phải thưòng trú, lẽ ra có thể nghĩ bàn?
Vì có các tướng?
3. Kết thuận rất dễ hiểu.
Y cứ trong phân biệt rộng “không thể nghĩ bàn ở trước, y cứ “không hai” để nói về “không nghĩ bàn”. Sau, dựa vào hai nhân để nói về “không nghĩ bàn”.
Trong phần trước, trước nêu chung, nêu, năm thứ kia. Sau, theo thứ lớp, giải thích riêng. Trong giải thích trụ nói rằng, loại sắc: Là loại tư lưu của sắc pháp môn, nên nói là loại sắc, chẳng phải sắc chướng ngại. Lạc trụ, tức là hiện pháp lạc trụ, văn còn lại rất dễ hiểu.
1. Giải thích công năng, tức mười tự tại, như Bản địa phần và Luận Đối pháp v.v… nói.
2. Giải thích gia hạnh, như văn.
3. Trong giải thích chuyển có hai thứ chuyển. Luận sư Giới Hiền giải thích: “Chuyển lúc quyền, nghĩa là cac hữu tình cho đến Thập địa chưa giải thoát trở xuống, chư Phật Thế tôn vì chúng Địa tiền, hiện hóa thân, vì Bồ-tát Địa thượng, hiện Tha thọ dụng với tướng Thô tế v.v…, ánh sáng xanh, vàng v.v…, giống với thân thọ dụng, tùy cơ biến hóa, đổi thay, khởi, diệt, chẳng phải thường có, gọi là chuyển lúc quyền.
Chuyển rốt ráo, tức thân tự thọ dụng, như nghiệp thiện của người cõi dục, vì kém, nên chỉ được thân cao tám thước. Nghiệp của các vị trời, vì nghiệp dần vượt hơn, nên tăng trưởng theo thứ lớp. Cho đến thân của sắc rốt ráo cao một muôn sáu ngàn do-tuần. Với quả trời Phật thì thiện cùng cực, nên các sắc căn đều khắp pháp giới, vượt ra ngoài số lượng.”
Pháp sư Bị nói: “Chuyển rốt ráo, gọi là thân thọ dụng, rốt ráo viên mãn, đầy khắp pháp giới. Các căn như nhãn v.v…, mỗi căn tức khắp pháp giới. Ánh sáng cũng tỏa khắp. Cho nên nếu y cứ ở ánh sáng mà nói, thì vì sao nói là lợi người? Đó là do thân này đồng được nghĩa thành.
4. Trong giải thích trở lại cũng có hai thứ: a. Tướng hóa nhập diệt. b. Thực hành thành giác.
Thứ tám, văn trong Phẩm Quyết định Lực, chủng tánh được chia làm tám: Đầu tiên, nói về khen ngợi đức Như lai, sinh nhóm phước lớn, trong đó có ba:
1) Nói về người năng khen ngợi, có thể nói lời lợi ích, cũng như kẻ nắn bình của thế gian, do nhân công hình thành. Đức Như lai thì không như thế. Không do người khác khen ngợi mà có chỗ làm, tuy nhiên khiến cho người khen ngợi được thực hành lợi mình. Vì sao? Vì đức Như lai công đức Viên mãn, không còn chỗ nào để thêm, do tiềm ẩn việc thiện của mình, vì rất thiểu dục, nghe khen, không mừng.
2) Nói về khen ngợi Như lai có hai thứ pháp kỳ diệu: a. Khiến người khen ngợi sinh ra lợi mình. b. Đã sinh lợi mình, hợp với tâm Phật, tức gọi là cúng dường nhiếp thọ Như lai.
Dưới đây do lời nói, mà biện minh rộng Đức Phật có hai sự: Nếu chỉ khi Bồ-tát không vừa ý Phật. Nếu nhân bố thí của, dứt ác, tu thiện, tức là vừa ý Phật.
3) Nói do sáu thứ tướng, lược nhiếp đức của Phật, trước nêu số, bày danh. Sau, giải thích theo thứ lớp:
Nói “Như lai thành tựu đức của ba cõi” nghĩa là vì trí lượng biến hóa giống với ba cõi. Văn còn lại rất dễ hiểu. Ba minh do năm nhân duyên, chẳng phải chỗ trở về của các vị trời. Nêu giáo gạn hỏi, liệt kê, theo thứ lớp giải thích riêng.
Đầu tiên trong hình tướng được chia làm hai: trước, là nêu năm nhân để nói về cõi trời chẳng phải chỗ trở về. Sau nói rõ Đức Phật là chỗ chân quy y.
Trong phần trước nói: “Do hình bạo ác, có kẻ sợ hãi, như hình tượng của thiên thần v.v… đáng sợ hãi.
Y cứ trong văn sau, trước trái với tướng trời ở trước, nêu năm nhân của Phật. Sau, nêu năm tướng để nói Đức Phật là Y.
1. Nói về tự tánh, trước, trời, sau, Phật.
2. Tác nghiệp cũng thế.
3. Pháp nhĩ, ý nói là sự tốt lành của thế gian đều dựa vào công sức của mình, nếu là sự cung kính, thì cõi trời chưa gọi là công dụng. Như cõi Trời kia cung kính Đức Phật, tức gọi là công dụng.
4. Trong nhân quả có ba: Chia ra, gạn lại hỏi đáp, chỉ rõ chẳng phải hai thuyết trước, rất dễ hiểu.
Thứ ba, y cứ vào sự cung kính để chứng tỏ chẳng phải. Lại dùng ba môn để gạn lại hỏi đáp, vấn nạn để Phá:
Nếu chỉ cúng dường làm nhân, tức cõi trời không phải công dụng. Nếu chỉ cúng dường cõi Trời thì luống đặt ra. Nếu nói là đều có do bảy thứ quả mà các ông đã nói, thì việc toại ý không quyết định, nên không hợp lý.”
Pháp sư Thái nói: “Thuyết trong pháp ngoại đạo nói: “Do cúng dường trời, nên có quả đã tư duy bảy thứ này, tức là quyết định việc này.”
Luận chủ phá rằng:
“Sự việc này không nhất định”:
1. Vì các vị trời làm duyên cúng dường, nhưng đối với các niềm tin, hiểu trời đã nhiếp thọ thì không quyết định. Hoặc có người được trời nhiếp thọ, ủng hộ không có tai nạn. Hoặc không nhiếp thọ, ủng hộ, nên nhiếp thọ không quyết định.
2. Đối với tin hiểu không quyết định. Việc mà các vị trời làm, hoặc khiến sinh niềm tin, hoặc bất sinh niềm tin.
3. Đối với sự tin hiểu không quyết định; hoặc có chứng nghiệm, hoặc không chứng nghiệm.
4. Do cúng dường, nên sinh lên cõi trời không quyết định.
5. Được giàu sanh, vui vẻ không quyết định.
6. Kẻ thù oán phá hoại, tiêu diệt không quyết định.
7. Đối với sự chết mất không quyết định.
Hoặc có người tránh khỏi cái chết và không tránh khỏi, nên Bản Phạm nói “Chết là luống mất”.
Luận sư Bị cho rằng: “Dù cầu người khác cúng dường mà “duyên” không quyết định trở nên toại ý, không toại ý, nên nói rằng: “duyên cúng dường”.
1. Đối với người nhiếp thọ tin hiểu, không quyết định. Hoặc có người theo giáo của trời, hoặc có người không theo.
2. Đối với duyên tin, hiểu cũng không quyết định, vì đối với trời, có tin và không tin.
3. Về việc tin, hiểu không quyết định: với sự mong muốn của chúng sinh, hoặc cho, hoặc không cho.
4. Trời có hơn kém. Cầu thân trời vượt hơn, nhưng không được kết quả theo ý muốn.
5. Có người tham sinh lên cõi trời, cầu được giàu sanh, vui vẻ, cũng không được toại nguyện.
6. Đối với phi thiên, kẻ thù oán không thể hoại diệt, cũng không khiến từ chết mất.
4. Nói về bốn thanh tịnh, cách hành văn rất dễ hiểu.
5. Nói về ba tánh giả, thật.
“Thế nào là phải biết cho đến chẳng phải vật thật có?” Ý hỏi: “Thế nào là phải biết tùy sự đã gọi là Danh, sắc v.v…, biến kế sở chấp chẳng phải có vật thật?”
Phần đáp, trước lược đáp, sau đáp rộng.
Trong phần trước, nói là các danh, ngôn cho đến chẳng phải có Thắng nghĩa, nghĩa là do chấp danh, nghĩa huân tập thành hạt giống. Lại, sinh các pháp danh, nghĩa, sắc v.v…, về sau duyên chấp chấp kia là có thật, chỉ có phát họa lờ mờ, chẳng phải thật sự có vật, chẳng phải Thắng nghĩa có.
“Cho nên, trở xuống, là kết đối tượng chấp là giả có. Nếu bỏ đi tưởng huân tập anh ngôn mà kiến lập thức, nghĩa là y cứ vào thức năng biến kế”, dứt trừ đối tượng chấp kia, thì sự tưởng sắc v.v… nọ mới là cái có tài vật thật, là cái có của thắng nghĩa. Pháp cộng tướng của Viên thành thật, y tha dù có thể nói năng, nhưng pháp của tự tướng tức lìa danh, ngôn, tự tướng cộng tướng của Viên thành đều lìa ngôn thuyết.”
Dưới đây kế là đáp rộng: “Theo lý trong đây, ngôn luận được thành lập, như địa Bồ-tát, nên biết, nghĩa là nêu chung ngôn luận, chỉ cho Bản địa phần.
Nói “Nếu tưởng huân tập các danh ngôn mà kiến lập thức thì có thể phát họa lờ mờ thức, “duyên” tự tánh biến kế sở chấp làm cảnh, là tánh bị chấp, tức nói tánh này cho đến tự tánh Niết-bàn, nghĩa là do tánh “sở chấp” rốt ráo không có pháp, chỉ là đối với cái “không” mà “chấp có”, nên chẳng phải sẽ sinh và sẽ diệt v.v…. Nếu chủ thể biết được hai trần đã chấp chẳng phải là pháp khởi, diệt, thì tức là đồng với chân như, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn.
“Vì sao? Trở xuống, giải thích lại có “sở chấp”, chỉ có giả danh, chứ chẳng phải có thắng nghĩa. Do không biết rõ, nên theo danh ngôn, chấp có quyết định.
Nói: “Nếu lìa tự tánh các pháp danh, ngôn, thì phải biết rằng với tánh này, phàm phu phát sinh tà chấp là duyên đã sinh và đã diệt v.v…. Nghĩa là nếu lìa tùy tánh danh, ngôn mà có các pháp, tức là y tha có sinh, diệt.
Nói “Nếu chưa dứt trừ hẳn v.v… ” đến “tưc là trở thành thanh tịnh”, nghĩa là pháp nhiễm của Y tha, tức là Khổ, Tập. Nếu chưa vĩnh viễn đoạn trừ tập, chưa biết khắp khổ, thì sẽ trở thành sinh tử. Nếu biết khổ, nếu dứt tập, thì sẽ trở thành pháp thanh tịnh của Diệt, Đạo.’
6. Nói về bốn pháp chính là có thể thuộc về học rộng. Có hai thứ bốn pháp sau để giải thích; bốn pháp trước, nghĩa là do nguyện của Bồđề, gánh vác, giữ gìn học rộng. Do sự là bạn lành đã chứng học rộng, tức được Văn, Tuệ. Vì được năng lực tư duy lựa chọn của tư tuệ, nên gọi là hiệu quả của việc học rộng. Do ở chỗ rảnh rang, nên gọi là tịnh học rộng, tức là tu tuệ”.
7. Nói về bảy pháp như Ý lạc v.v… của Bồ-tát. Luận sư Cảnh nói: “Dưới đây có hai chương là: Phẩm Quyết trạch, Ý lạc. Nay, lại không nương tựa, vì vượt ngoài thứ lớp, trong bảy pháp được chia làm hai: Ba pháp đầu, y cứ vào tín để nói về ý lạc, bốn pháp sau, là nói về sự khác nhau của trí tuệ.
Trong phần trước, ý cho rằng, Bồ-tát Địa tiền có ba thứ tín:
1. Tin hiểu có lý tánh của chân như kia có thể có tu chứng.
2. Tin Pháp Phật có công đức vô cùng đã hiển bày.
3. Tin công đức hữu vi, vô vi đều là nghĩa có thể được. Nhiếp luận cũng nói ba pháp này thứ lớp nhỏ khác.
Luận ấy nói:
- Tin thật có.
- Tin có thể được.
- Tin có công đức vô cùng.
Kế là, giải thích về bốn trường hợp thương xót v.v… văn kinh, rất dễ hiểu.”
8. Nói về tai hại lỗi lầm của ba thứ tư duy. Nói là tư duy không có rốt ráo, nghĩa là tư duy khổ hạnh v.v… là nhân của Niết-bàn, không thể rốt ráo được đến Niết-bàn.
Tư duy phi xứ, nghĩa là tư duy về ngã hữu biên, vô biên v.v….
Không nên tư duy về xứ, mà khởi tư duy gọi là phi xứ.
Tư duy điên đảo: Đối với khổ, vô thường, bất tịnh v.v…, tư duy thường, lạc, tịnh v.v…, gọi là tư duy điên đảo.
Dưới đây là thứ chín, quyết định lựa chọn sáu phẩm như Thí v.v… có giải thích dưới đây là nói về hai chướng của thí, giới, cũng là quyết định lựa chọn phẩm lực chủng tánh.
Từ câu “Lại nữa”, ở trước đã nói rộng về thí v.v… ” trở xuống, chính là quyết định lựa chọn sáu phẩm như thí v.v…. Tuy nhiên, nay vã dựa vào phán quyết trước, chia ra làm hai: Trước, quyết định lựa chọn riêng hai phẩm Thí, giới. Sau quyết định lựa chọn chung sáu phẩm như thí v.v….
Trong phần trước, trước là thí, sau là giới. Trong thí:
- Chia ra bảy thứ.
- Theo thứ lớp nói về tịnh vật của thí ban đầu có trong mười tướng.
- Thí hợp thời, nghĩa là thích ứng với điều người kia ưa thích mà cho họ.
Thứ bảy, Tùy lạc thí, nghĩa là thuận theo người cầu xin đã yêu lạc thí. Hai thứ thí này khác nhau nhau chỗ nào?
Giải thích: “Thứ ba, biết người có đói khát, bố thí thức ăn đúng vào lúc họ đang đói, cho họ thức uống khi họ đang khát. Không nói là người đói khát đến cầu xin, mới cho.
Thứ bảy, tức nói Tùy lạc thí, nghĩa là tùy người cầu mà ưa bố thí, là cho người đến cầu xin. Lại, thì thứ bảy không hạn chế về thời gian. Thuận theo điều mà họ ưa thích, về sau mới bố thí, cũng gọi là tùy nhạo.
Thứ sáu, như pháp thí, nghĩa là tương ưng với không có tội, nghĩa là không lìa ba thời điểm mong cầu đều cùng tịnh, tịnh giới thứ hai rất dễ hiểu.
Thứ ba kiến tịnh, năm trong mười, bố thí không quán sát, hoàn toàn không có hiệu quả, mà người thực hành tuệ thí, chẳng phải thực hành bố thí trong tâm tà kiến.
Thứ sáu, không quán sát thí, quả sẽ không giống nhau mà thực hành tuệ thí, nghĩa là về mặt lý, bỏ các vật như hương, sắc v.v…, chiêu cảm sắc, hương tốt, v.v… gọi là quán quả giống nhau. Nếu thấy xả sắc đẹp v.v…, cảm nhận sắc xấu v.v…, thì gọi là quán quả không giống nhau.
Thứ bảy, không quán sát bố thí, sẽ có quả điên đảo. Nghĩa là nếu nhận thấy do xả tài, vật, để cho người khác được yên vui, còn mình thì chiêu cảm cùng khổ, gọi là quán điên đảo.
Thứ tám, không quán kẻ sát hại là bè bạn lành mà thực hành tuệ thí, nghĩa là thực hành bố thí hữu vi là vì mưu cầu bè bạn, bèn giết dê v.v…, rồi nhóm họp các bạn lại để cùng làm việc bố thí, không thầy lợi ích này.
Thứ chín, không quán thấy hiện thần túc, nghĩa là đã có tướng tốt lành biến hóa kỳ diệu rồi, mới thực hành bố thí.
Thứ tư, là tâm tịnh, thứ năm, là ngữ tịnh (các hành văn rất dễ hiểu). Thứ sáu trong trí tịnh, gạn hỏi nêu ra mười tướng, giải thích riêng theo thứ lớp.
Thể tướng của của thí: Tức là ba nghiệp v.v… khởi tư duy, kể cà năm uẩn.
Nói: “hoặc do gốc lành của đời sau, nghĩa là ở đời trước, hoặc thọ hiện pháp v.v…, nghĩa là gốc lành là chung. Dưới đây phân biệt riêng. Hoặc do gốc lành đời trước chiêu cảm tài vật thực hành thí, hoặc hiện khởi gốc lành, cảm nhận tài vật thực hành bố thí, gọi là thọ hiện pháp. Hoặc phát khởi thần thông, nghĩa là do hiện sức thần, mưa châu báu để thực hành bố thí. Hoặc do pháp thọ đã gầy dựng lên tài vật mà dùng Tuệ thí, hoặc đời trước đã thực hành bố thí, đời nay, chiêu cảm của việc làm bố thí, cũng gọi là “pháp thọ”. Hoặc người khác chứa nhóm tài vật đã có mà vận dụng tuệ thí là nêu. Dưới đây là giải thích:
Dùng tài vật chứa nhóm của người khác, như khuyến khích dẫn dắt người, nghĩa là do khuyên bảo người khác, nên gọi là dùng giáo bố thí. Hoặc gánh vác công việc của người khác, như chủ kho được vua quan sai thực hành bố thí.
Nói “Người có của, tài vật nhiều trong số nghèo thiếu tức là ba phẩm, kẻ nghèo thiếu là phẩm hạ”.
Hai môn sinh phước: Luận sư Cảnh nói:
1. Muốn giúp cho người kia đối với ruộng Tam Bảo, làm các việc thiện.
2. Xả bỏ tài vật và dạy người kia thực hành bố thí. Do hai môn này sinh vô lượng phước. Pháp sư Thái nói: “ Phật Pháp hợp thành một môn và ruộng tăng v.v… là môn thứ hai.”
Có chỗ giải thích: “Tự mình làm, dạy người khác làm, gọi là hai môn. Hoặc nhận lãnh ơn của người dạy người thực hành tuệ thí, người không bằng lòng bố thí. Bồ-tát nói rằng: “Ta nhận ơn của ông, thời gian sau này, ta sẽ trả ơn. Với việc thiện như thế, ông chỉ nghe nói ta cố gắng thực hành bố thí. Hoặc vì lý do sinh”. Cũng có chỗgiải thích: “Vì muốn Bồ-tát tự sinh lên cõi trời, nên có thể tự tại bố thí. Hoặc có thể vì quán sát sự sinh vượt hơn của người khác, nên thực hành tuệ thí.”
Nay, giải thích: “Do sự sinh vượt hơn, như sinh vào dòng Sát lợi v.v…, dạy họ thực hành tuệ thí.
Nói năm thứ lổi lầm, sáu thứ, bảy thứ, tám thứ. Pháp sư Khuy Cơ nói: “phải xét Địa Trì Ký của Pháp sư Tuệ Viễn.”
Có Luận sư nói: “hoặc hiểu rõ sáu thứ, nghĩa là các dục này là “Tăng ngữ” sợ hãi v.v…. Tăng ngữ có hai:
1. Vì mừng vui mà khởi “tăng ngữ”.
2. Vì lo, sợ mà khởi tăng ngữ. Nhân sự lo mừng, càng thêm nhiều ngôn ngữ, gọi là “tăng ngữ”. Bồ-tát biết pháp ác là tăng ngữ sợ hãi. Do biết được tai hại lỗi lầm, nên dùng của năm dục tài để thực hành tuệ thí gấp (năm, sáu, bảy, tám thứ, phải xét A-hàm).
Lại có giải thích khác: “Những thứ này đều y cứ theo số văn của Tư sở thành địa, rất dễ biết, nghĩa là năm thứ tai họa lỗi lầm, tức tai họa lỗi lầm của sắc, thinh, hương, vị, xúc. Sau thứ tai họa, phải xét chỗ khác. Hoặc có thể tức là sáu thứ tai hại lỗi lầm của năm dục trước. như quyển mười tám nói có bảy thứ, cái gọi là các dục vô thường là (1), luống dối là (2), không có thật là (3); Pháp hư hoại là (4); giống như việc huyễn, người ngu mê lầm, lừa dối là (); Rất ít vị ái là (6); rất nhiều tai họa lỗi lầm là ().
Tám thứ nghĩa là các dục như bộ xương khô, cũng như cục thịt ấm, giống như đuốc cỏ, cũng như hầm lửa lớn. Ví như sắn độc, cũng như cảnh tượng thấy trong mộng. Như mượn dụng cụ trang sức. Như cây suông quả chín. Mười bốn nghiệp thiện, ác nhơ bẩn, bốn thứ người bạn che giấu.
Sáu phương: Đều xuất xứ từ kinh Thiện Sinh của A-hàm, như ở trước bốn mươi bốn quyển đã ghi nhận, giải thích. Ham vui, say đắm trong cấu tịnh, thứ bảy, nghĩa là mê đắm tài vật.
Quan sát quả, nghĩa là quán sát quả do bố thí được, nói là người nghèo thiếu đối với tôi tớ của mình v.v…, nghĩa là nếu Bồ-tát, là người nghèo, thì chỉ bố thí tôi tờ của mình v.v…. Nếu người có tài vật vừa thì bố thí tôi tớ và kẻ nghèo ở trước. Nếu là người nhiều tài vật, thì bố thí tôi tớ người nghèo khổ và người đến xin khác.
Nói xa lìa, nghĩa là diệt một ít nhơ bẩn. Pháp sư Thái nói: “Lẽ ra là chử giảm.”
Việc bố thí chỗ ở, nghĩa là bố thí giường, tòa ngồi v.v….
Lại giải thích: “Thì cho vườn, rừng v.v… :
1. Ý lạc không điên đảo trong nhân, nghĩa là hiểu rõ về nhân thực hành bố thí, chắc chắn chiêu cảm niềm vui.
2. Không mê đắm quả, nghĩa là đối với thọ lãnh quả bố thí, tâm không mê đắm, chấp mắc.
Quán sát ruộng có năm:
1. Ở chỗ này việc cầu xin có thể được. Nghĩa là quán sát người cầu xin kia, hoặc thực hành bố thí. Người khác đến xin có thể được. Nay ta bố thí.
2. Ở nơi này, đã có người cầu xin, còn thêm người nghèo thiếu, nghĩa là quán biết người ăn xin, đã từng bị cầu xin, nay vì thêm nghèo thiếu nữa, nên dùng tuệ để bố thí.
3. Người nghèo thiếu, không có nơi trông cậy.
4. Có, và không nương cậy nhau, đã bị sự nghèo khổ ép ngặt, lại còn làm hành vi ác; đây gọi là ruộng, nghĩa là đều có thể thực hành bố thí.
5. Ở chỗ này, dù không có những đối tượng này, nhưng có người tu hành, làm việc thiện có thể được, cũng lại bố thí.
Bảy tướng chẳng phải trong ruộng:
1. Người cầu xin rất bạo ác, đã từng làm kẻ oán hại. Nghĩa là kẻ đã từng gây thù oán, hảm hại thí chủ, với tâm hãm hại chưa bỏ, quy y với oán hại mà có mong cầu, nghĩa là dù người đó trước đây chẳng phải thù oán mà quy y ta, kẻ thù oán có điều cầu xin. Nay, họ đến xin, cũng không được bố thí.
Trong đây, phương tiện cho đến sinh và sức thần. Luận sư Cảnh nói: “Phương tiện trong đây, nghĩa là quán tập thí (thí theo thói quen). Không đoái hoài thân mạng mình, vì nghĩa chân thật, thương xót hữu tình, cũng là phương tiện.
Sức mạnh giáo hóa, dẫn dắt của Thắng giải Vô thượng Bồ-đề thôi thúc, nghĩa là do thắng giải Bồ-đề thúc dục tâm mình, khiến thực hành tuệ thí, cũng gọi là phương tiện.
Chịu ơn báo sinh và sức thần thông, nghĩa là hoặc người có chức vụ, đã có thế lực có thể thực hành ân tuệ, kể cả trả ơn, đều gọi là có đức phương tiện, hoặc sinh trong chỗ sinh tốt hơn như Sát-lợi, Bà-lamôn v.v…. Hoặc nhân sức thần thông hoá hiện nhiều của báu để thực hành Tuệ thí, cũng là có đức phương tiện mà thực hành tuệ thí”. Nay, giải thích:
Dùng thắng giải vô thượng Bồ-đề có trí, bi, nhằm giáo hóa dẫn dắt người, để họ thực hành tuệ thí. Hoặc dùng sức mạnh băt buộc người.
Hoặc nhận lãnh chỗ người thi ơn, chịu trách nhiệm trả ơn. Hoặc sinh vào nhà giàu sang. Hoặc dùng sức thần thông khiến người thực hành bố thí, gọi là phương tiện đầy đủ.
BẢN LUẬN QUYỂN 75
Trên đây, đã nói về bố Thí. Dưới đây sẽ nói về phẩm giới.
Đầu là nêu biểu chung. Tỳ-nại-da, Hán dịch nói là diều phục, là điều phục ba nghiệp. Kế là giải thích riêng có bốn:
1/ Chính nói về tướng.
2/ Nói về gìn giữ, chẳng gìn giữ.
3/ Nói về nhân duyên chuyển, xa.
4/ Lược giải thích về tướng phạm.
Trong phần đầu có chia ra ba tụ, tức ba đoạn:
1. Nói về giới luật nghi. Luận sư Cảnh nói: “Giới Luật nghi của Bồ-tát, tức là bảy nhóm mà Thanh văn lãnh thọ. Như Bồ-tát xuất gia, tức với Đại tăng của Thanh văn đã phán quyết, phần nhiều là đồng. Bồtát tại gia tức với năm giới đã phán quyết, phần nhiều đều đồng, nên nói là bảy nhóm đã thọ lãnh.
Về lý, thật ra là kỳ hạn vào thời gian có khác, tức tâm, phi tâm, giới thể cũng khác.
Pháp sư Bị nói “Lại, giải thích: “Bảy chúng Thanh văn, nếu khi thọ giới Bồ-tát, sẽ chuyển giới của bảy chúng trước khiến thành giới Bồ-tát, nên nói “Tức bảy nhóm”.
2. Nói về Nhiếp thiện Pháp Giới.
Giải thích lược về sáu tâm, nên khéo quán sát nói về tướng, như văn. Về ba tâm trước không nên sinh khởi. Nếu có khởi thì nên xả. Nhẫn thọ có tội, thứ tư có tội, không tội chẳn nhất định, rất dễ hiểu. Thứ năm, là bệnh ràng buộc thân, tâm không được tự tại tu thiện, nhẫn thọ này không có tội. Thứ sáu, chướng thuận theo hạnh tâm. Hoặc ngu thế tục, nói năng vô nghĩa, quán trong chúng có nghĩa lợi.
Nhẫn thọ không có tội, nhẫn khác thì có tội. Ba thứ trước như thế, hoàn toàn có tội, thứ năm, hoàn toàn không có tội. Thứ tư, thứ sáu đã sinh Nhẫn thọ, hoặc có tội, hoặc không có tội chẳng nhất định.
Dưới đây là nói về giới nhiếp chúng sinh. Phải quán sáu xứ:
1. Tự, 2. Tha, 3. Tài vật hao mòn, 4. Tài vật thịnh vượng, 5. Pháp suy đối, 6. Pháp hưng thịnh. Về tài vật hưng thịnh, như văn rất dễ hiểu.
Pháp suy đồi, nghĩa là đã vượt qua người đã thọ lãnh không được ba học. Trước kia chưa nghe, cho đến không được nghe. Trước đây chưa tư duy, chưa tu chứng, nghĩa là mất ba tuệ, tức là mất ba học, mất ba tuệ gọi là pháp suy đồi. Ngược lại thì gọi là pháp thịnh vượng.
Khiến cho tài vật người hưng thịnh, không nên làm, nghĩa là Bồ-
tát vì người khác, kinh doanh tài vật, đem cấp cho chúng sinh, tự mất ba tuệ và ba học, điều này không nên làm.
Như khiến cho tài vật dồi dào, pháp hưng thịnh cũng thế. Bồ-tát nói pháp cho người nghe để cho pháp khác hưng thịnh. Tự mất ba học để cho pháp mình suy đồi. Điều này không nên làm, cho đến lại các Bồ-tát làm cho tài vật của mình dồi dào, khiến tài vật người khác hưng thịnh, chính điều này nên làm. Không bỏ ba học, kinh doanh sự nghiệp tài vật tự đủ cho người, cũng tức nên làm. Như khiến cho tài vật dồi dào, pháp cũng vậy. Bồ-tát tự khiến cho pháp khác hưng thịnh không mất. Điều này cũng nên làm.
Lại, các Bồ-tát làm nên pháp của mình hưng thịnh, khiến tài vật người khác hưng thịnh, trở xuống rất dễ hiểu.
Thứ hai, trong nói về Hộ, chẳng Hộ, nghiệp đầu tiên như trước đã nói, khiến cho tu học. Kế chính là nói về tướng Hộ, chẳng Hộ (tướng chẳng giữ gìn không giữ gìn), trong đó trước nói thiếu một không giữ gìn. Nếu giữ gìn giới đầu thì có thể giữ gìn hai giới còn lại. Sau, là nói về việc ngăn ngừa giả, thật.
Do ba nhân duyên, nên gọi là giả, nghĩa là vì để cho người biết, nên chẳng phải giữ gìn thật. Vì tùy thuận người, nên chẳng phải tu thật. Do dẫn dắt người, nên không được thắng lợi và đây gọi là thật.
Thứ ba, nói về chuyển duyên Xả. Nếu có người không xả Luật nghi như thế, cho đến chẳng phải xả luật nghi kia, thì một phem thọ giới này, cho đến Bồ-đề.
Lại, “nhân duyên xả lược có bốn thứ, cho đến phải biết xả luật nghi của Bồ-tát”. Pháp sư Cảnh nói lại lời Tam Tạng Pháp sư: “Hỏi: “Trong Bản Địa phần ở trước, đã nói về xả giới Bồ-tát chỉ có hai duyên:
- Lui sụt tâm Bồ-đề.
- Khởi phẩm tăng thượng.
Nay, ở đây vì sao nói Xả có bốn duyên?
Giải thích: “Khai, hợp thành khác. Trong đây, hai duyên trước đều là lui sụt tâm Bồ-đề, trong đó có ba phẩm. Nếu khởi phẩm thượng lui sụt tâm Bồ-đề, cái gọi là quả Phật khó mong cầu, chúng sinh khó hóa độ. Khổ hạnh trong thời gian dài, không thể thực hành. Từ đây trở đi, không thể thực hành cầu đạo Bồ-đề nữa! Khởi tâm này, không đợi phát ngôn, tức là xả giới, chính là duyên thứ nhất trong đây. Cái gọi là phát khởi tâm trái với thọ. Nếu khởi tâm phẩm trung hạ, lui sụt như trước, tức lại nói rằng: “Nay, ta bỏ xứ sở học, bấy giờ tức là xả, chính là “duyên” thứ hai trong đây, nói là đại trượng phu có thức, trước kia phát ra lời xả, hai duyên trong đây đều là khởi phiền não tăng thượng, trái phạm mà xả giới, trong đó có hai:
- Phạm bốn trọng căn bản.
- Phạm bốn trọng tùy thuận.
Phương tiện trước, sau, tức hai duyên sau trong đây.
Nói tha thắng, nghĩa là do trái phạm bốn giới trọng bị người phá giới vượt hơn gọi là pháp tha thắng. Pháp sư Thái nói: 1/ “Tâm thọ giới gọi là tâm thọ. Phát khởi tâm trái với giới đã thọ, gọi là tâm không đồng phần, tức là xả giới. 2/ Tâm dù chưa quyết định đối với người có nhận thức riêng thốt ra lời nói xả giới ở trước, nhưng ở đây cũng là xả giới. 3/ Khởi phiền não nhẹ mỏng, hoặc phạm chung bốn tội trọng, hoặc phạm riêng một, hai, cũng được xả. 4/ Khởi phạm chung riêng, phiền não tăng thượng bốn trọng, dù chưa phạm bốn trọng mà đã xả giới.
Có chỗ giải thích: “Bốn giới sau trong mười giới trọng, được gọi là bốn pháp người khác vượt hơn. Sáu giới trước gọi là tùy thuận pháp người khác vượt hơn.
Nói “Nếu có tâm lại được thanh tịnh thọ, lại nên thọ trở lại, không đồng với Thanh văn, hễ phạm thì như cục đá đã nứt ra, không thể dính liền lại được.
Thứ tư, trong giải thích đại khái về tướng Trì. Phạm, trước giải thích, sau kết.
Trong phần trước có hai:
- Vật thí thông bít.
- Nhiếp chúng thông bít.
Trong phần trước, nói “Nếu có người chép chánh pháp tên lá, giấy, có trẻ con, chúng sinh trí tuệ đến xin v.v…, chúng sinh ngu si đến xin quyển kinh, hoặc bán, hoặc trước tác, người bố thí có tội. Vì muốn khuyên rằn người kia mà bố thí thì không tội.
Theo nhiếp chúng thông bít trước dựa vào người trong oán thân để nói. Sau, là dựa theo xuất gia y chỉ để nói. Văn kết rất dễ hiểu.
Trên đây, nói riêng về nghĩa quyết định lựa chọn hai phẩm thí, giới.
Dưới đây là giải thích chung về sáu phẩm, trong đó trước nhắc lại trước nói rộng. Kế là lược nói. Sau chính là giải thích, trong đó có hai:
1. Y cứ năm đức, biên minh chung về sáu độ.
2. Y cứ riêng thanh tịnh bố thí, là giải thích sáu độ, trong phần trước nói không có chấp mắc, nghĩa là vì trừ sáu che lấp, nên không có lưu luyến, vì không có trói buộc chấp mắc trong nhân, quả của ba cõi, nên không có tội, vì xa lìa chín môn tùy hoặc của sáu độ. Không có phân biệt, nghĩa là không quán ba luân, hồi hướng nghĩa là hướng về Bồ-đề.
Như thế, Bồ-tát do năm đức này, cho đến gọi là Tuệ v.v… khó khăn.
Trong Bản địa phần ở trước nói về sáu độ, đều có một tụng, tụng về chín môn. Rằng, tất cả môn tự tánh, tất cả môn Thiện sĩ, tất cả thứ theo đuổi, tìm cầu. Hai đời ưa thanh tịnh. Nay, văn này nói Bồ-tát bố thí v.v… tức môn tự tánh. Tất cả bố thí v.v… tức môn thứ ba. Nói rộng, tất cả tụng Ốt-Đà-Nam, đều thuận theo quyết định rõ ràng, nghĩa là nói thuộc về sáu môn còn lại, rộng, tùy thích hợp, mà quyết định rõ.
Y cứ vào bố thí thứ hai, trong giải thích sáu độ thanh tịnh.
1.Trong giải thích bố thí, nói do thêm một thứ lớp, nghĩa là duy nhất trong tự tánh bố thí đầu tiên của môn thí.
2.Trong tất cả thí có hai.
3. Bố thí khó thực hành, tức có ba. Cho đến có mười trong thí thanh tịnh thứ chín.
Thứ hai, nói về phẩm giới đã nói mười tịnh, tức giới thanh tịnh có mười trong môn thứ chín, trong đó một giới đầu là ý lạc thanh tịnh. Chín giới còn lại là gia hạnh thanh tịnh. Bản địa Quyển bốn mươi hai chép: “Thế nào là giới thanh tịnh của Bồ-tát? Phải biết, giới này lược có mười thứ:
1. Giới khéo thọ đầu tiên, chỉ vì ba Bồ-đề của Sa-môn, chứ chẳng phải mạng.
2. Giới không hôn trầm thái quá. Lúc trái phạm xa lìa vì mỏng, sinh ăn năn e thẹn và không nên nêu giới, vì xa lia phi xứ, sinh ăn năn e thẹn.
3. Giới lìa tâm lười biếng, đối với thùy miên (ngủ) ưa nương tựa, ưa nằm, ưa không đam mê chấp mắc. Ngày đêm siêng tu các phẩm thiện.
4. Lìa các thọ giới thuộc về buông lung. Tu tập năm chi không buông lung đã nói như trước.
5. Giới chánh nguyện, vì xa lìa tham lợi dưỡng, cung kính. Không nguyện sinh lên cõi trời, mà tự mong cầu tu phạm hạnh.
6. Giới đã nhiếp thọ đầy đủ phép tắc.
7. Giới đã nhiếp thọ đầy đủ chánh mạng.
8. Giới trừ hai bên khổ, vui.
9. Giới xuất ly hẳn, vì xa lìa tất cả kiến chấp của ngoại đạo.
10. Giới ở trước đã thọ không có tổn thất, vì ở trước đã thọ không có thiếu kém. Phải biết rằng thọ thiện đầu tiên chỉ vì ba Bồ-đề của Samôn, chẳng phải vì mạng, nghĩa là ý lạc thanh tịnh. Chín giới còn lại là gia hạnh thanh tịnh. Gia hạnh có năm với chín thanh tịnh thuộc nhau, tức không hôn trầm, điệu cử thứ hai, lìa lười biếng thứ ba là vô gián đầu tiên thiếu gia hạnh. Xa lìa buông lung thứ tư đã nhiếp thọ, hoặc là gia hạnh khắp tu trị thứ hai.
Giới chánh nguyện thứ năm là gia hạnh hồi hướng thứ ba, thứ sáu là phép tắc đầy đủ. Thứ bảy là chánh mạng. Thứ tám là xa lìa hai bên. Thứ chín là xuất ly hẳn, đều là gia hạnh giúp đỡ thứ tư. Thứ mười, trước đã thọ giới không có hao hụt, không có thiếu sót là gia hạnh giữ gìn thứ năm.
Thứ ba, nói về Nhẫn. Nhẫn có chín tịnh trước trong mười tịnh, gọi là sức tư duy lựa chọn thanh tịnh, thứ mười kia, gọi là sức tu tập tịnh, nghĩa là như quyển bốn mươi hai chép: “Nhẫn thanh tịnh của Bồ-tát, lược có mười thứ:
1. Gặp việc không lợi ích, không bao giờ trả đũa lại.
2. Không có ý căm phẫn.
3. Thường hiện tiền muốn làm việc lợi ích.
4. Trước, sau không khác, chẳng phải một khi có lợi ích rồi bỏ, mà không làm việc lợi ích.
5. Đối với kẻ có thù oán, tự đến, ăn năn, hối lỗi.
6. Cuối cùng không để cho người khác sinh mỏi mệt, nhàm chán, sau đó nhận hối lỗi.
7. Thành tăng thượng hổ thẹn mạnh mẽ, nhạy bén.
8. Trở nên yêu kính trên hết đối với Đại sư.
9. Thương xót tăng thượng đối với hữu tình.
10. Tất cả bất nhẫn và pháp giúp đỡ đều được dứt trừ, cho nên nói sức tư duy lựa chọn ở trước thanh tịnh, thứ mười, gọi là sức tu tập thanh tịnh.
Nói sức tư duy lựa chọn thanh tịnh lại có bốn thứ như văn. Một thứ, hai thứ nghĩa là một thứ ban đầu gồm một thanh tịnh, nên nói một thứ, nghĩa là đầu tiên xa lìa tội sinh thanh tịnh, gồm thanh tịnh thứ nhất ban đầu là gặp phải việc không lợi ích, không bao giờ trả đủa lại.
Thứ hai, không hiện hành thanh tịnh kia, vì thuộc về hai thanh tịnh, nên nói hai thứ, nghĩa là ý thứ hai không phẫn nộ, thứ ba thường làm lợi ích. Hai thứ sau vì mỗi thứ gồm có ba thứ, nên nói ba thứ, nghĩa là không có tội thứ ba sinh thanh tịnh, gồm thu thứ tư kia, trước, sau không khác. Thứ năm, đối với kẻ thù oán, tư đi đến ăn năn, hối lỗi. Thứ sáu, cuối cùng không khiến người khác sinh mỏi mệt, sau đó nhận hối lỗi.
Thứ tư, xa lìa nhân thanh tịnh kia, thuộc về thành hổ thẹn trên của thứ bảy, thứ tám, là thành yêu kính trên dưới đối với Đại sư. Thứ chín là thương xót tăng thượng đối với hữu tình.
Do chín thanh tịnh trước, gọi là sưc tư duy lựa chọn thanh tịnh.
Trong sức tư duy lựa chọn thanh tịnh, rộng thì có chín, lược chỉ có bốn, nên được thuộc về nhau. Thanh tịnh thứ mười gọi là sức tu tập, nên với bốn thứ tánh thanh tịnh trong sức tư duy lựa chọn, riêng không nhiếp thọ nhau.
Nhân duyên bất nhẫn có ba: Đây là bị trị. Thứ tư nói về tinh tấn có mười thanh tịnh:
1. An xứ (chỗ yên ổn), trong bản địa phần gọi là thuộc về nhau.
2. Thuần thục, Bản địa phần gọi là quán tập.
3. Sách phát, kia gọi là không thong thả.
4. Phương tiện, kia gọi là nhiếp thiện.
5. Trụ thời gian không luống dối kia gọi là tu tập hợp thời.
6. Trụ gian khổ, kia gọi là thông suốt các tướng.
7. Xuất ly, kia gọi là không lùi bước yếu hèn.
8. Nhiếp thọ giúp đỡ, kia gọi là không xả ách.
9. Thần thông nhanh chóng, kia gọi là bình đẳng.
10. Tánh vô tận, kia gọi là hồi hướng Đại Bồ-đề.
Thứ năm, là nói về tĩnh lự có mười thanh tịnh:
1. Thanh tinh, thanh tịnh, Bản địa phần gọi là thế gian thanh tịnh.
2. Vô lậu thanh tịnh, luận kia gọi là xuất thế thanh tịnh.
3. Phương tiện căn bản, luận kia gọi là gia hạnh.
4. Chứng đắc tịnh căn bản, đồng với luận kia gọi là.
5. Phương tiện tự tại, luận kia gọi là tịnh thắng tấn căn bản.
6. Trụ tịnh tự tại, luận kia gọi là tịnh tự tại nhập, trụ, xuất.
7. Dẫn phát thần thông tự tại, luận kia gọi là xả tịnh lự xong, lại chứng nhập tịnh tự tại.
8. Thành tựu tịnh tự tại của hữu tình, luận ấy gọi là thần thông biến hiện tịnh tự tại.
9. Hàng ohục tịnh tự tại của ngoại đạo, luận ấy gọi là xa lìa tất cả tịnh kiến thú.
10. Vô thượng lìa tịnh trói buộc, luận kia gọi là lìa hai chướng tịnh.
Thứ sáu, tuệ có năm thanh tịnh. Theo Bản Địa phần quyển bốn mươi hai nói: “Thế nào là tuệ thanh tịnh của Bồ-tát?” Lược có mười thứ. Về nghĩa chân thật có hai thứ, nghĩa là tánh tận sỡ hữu và như tánh sỡ hữu, vì lấy nghĩa chân thật. Hai thứ này đồng với thứ nhất thông đạt các tướng. Về nghĩa lưu chuyển có hai thứ Tuệ, nghĩa là vì lấy chánh nhân quả, nên hai thứ này đồng với thông đạt duyên khởi thứ hai.
Về nghĩa chấp thọ có hai thứ tuệ: vì như thật hiểu rõ điên đảo, không điên đảo, nên đồng với thông đạt giáo đạo thứ ba.
Đối với tuệ của nghĩa phương tiện, nghĩa là tất cả những gì nên làm, vì hiểu rõ như thạt, đồng với thông suốt sĩ dụng thứ tư.
Về nghĩa rốt ráo có hai thứ tuệ, nghĩa là tạp nhiễm, vì biết như thật tạp nhiễm, thanh tịnh, như thật biết thanh tịnh, đồng với thông đạt chứng đắc thứ năm.
Có chỗ giải thích: “Tấn, Định mỗi thứ đều có mười Tuệ. Năm thanh tịnh là ngoài chín môn, lại lập riêng”, không bằng giải thích trước.
Dưới đây là thứ mười, phẩm quyết định lựa chọn pháp Bồ-đề Phần, trong đó chia làm ba:
- Nói về ba mươi bảy phẩm, chủ thể trị.
- Nói về mười bốn thứ ràng buộc.
- Nói về nương theo định, tu quán tưởng giải thoát ràng buộc.
Trong phần đầu có hai:
- Tùy vấn nạn, giải thích riêng.
- Nói về thứ lớp.
Trong phần trước, đầu tiên, là nói Bốn Niệm trụ, trước hết, dùng Trí như lượng quán riêng về Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Kế là dùng Trí như lý để quán chung về chân như như thân v.v…. Kế đến là nói về bốn chánh đoạn.
Thế nào là Bồ-tát khiến cho, pháp ác bất thiện chưa sinh thì bất sinh, nên sinh dục cho đến sinh tư duy, sinh xả.
Tu bốn chánh cần, mỗi pháp đều có tám đoạn hạnh, như trước đã nói rộng. Nghĩa là đối với cảnh chân như, trói buộc tâm, khiến nó dừng lại: Bốn hạnh của bốn chánh cần, quan1 trở lại chân như.
“Vì khiến tất cả đến, cho đến nói rộng”, nghĩa là vì khiến cho hai phược bất sinh.
Sinh ra tán, đoạn hạnh như dục v.v…, “khiến cho” trở xuống, là so sánh như hạnh của ba chánh cần sau.
Dưới đây là nói về trìnhtự. Luận sư Cảnh nói: “Trong đây không nói về hành tướng khác, đối với vị niệm trụ, trước hết, buộc tâm, gắn vào cảnh sở duyên, là ở vị Thập tín. Kế là khiến tâm an trụ nơi sở duyên, siêng tu chánh đoạn. Là ở Thập giải. Kế là, được bốn ý túc như định v.v.v…, ở Thập hạnh, Thập hồi hướng. Năm căn ở Noãn, Đảnh. Năm lực ở Nhẫn và thế đệ nhất. Bảy giác ở kiến đạo của Sơ địa. Tám chánh ở Nhị địa trở đi trong địa vị tu đạo.”
Có chỗ giải thích: “Bốn niệm trụ của vị thiện ở giải thoát phần. Bốn chánh đoạn ở pháp Noãn, bốn như ý túc ở Đảnh. Năm Căn ở Nhẫn, năm lực ở pháp Đệ nhất. Bảy chi giác ở kiến đạo của Sơ địa. Tám chánh đạo ở địa vị Tu đạo của Nhị địa trở lên.
Nay, y cứ ở luận Duy Thức v.v…, bảy chi giác ở nhập tâm của Sơ địa. Kế là nói về mười bốn thứ phược bị đối trị. Luận sư Cảnh nói: “Nói thô nặng ràng buộc nhau, có hai chỗ nói:
1. Văn trong Du-già nói Mạt-na là tướng Phược (tướng ràng buộc). Do chấp lấy tướng ngã không giải thoát. Phiền não của sáu thức, gọi là ràng buộc thô nặng. Tâm thô của sáu thức khởi phiền não buộc ràng, chướng ngại giải thoát.
2. Luận Hiển Dương chép: “Tướng phần bị chấp, gọi là tướng ràng buộc, vì không nhàm bỏ tướng kia, nên kiến phần, chủ thể chấp, gọi là ràng buộc thô nặng, do lỗi năng chấp lấy ràng buộc thô nặng. Và ràng buộc thô nặng tức là thế của tập khí thừa của phiền não, tùy miên. Như A-la-hán dứt trừ hết hạt giống “hoặc”, vẫn còn có tánh điều hòa, như thuận của tập khí (thói quen), khiến cho thân ngữ ý có lỗi đối với duyên, gọi là ràng buộc thô nặng.
Với những nghĩa như thế, luận đều có văn nói.
Nói ràng buộc căn, nghĩa là do sáu căn, sinh ra phiền não buộc ràng, nên gọi là ràng buộc căn. Cũng có thể chấp mắc các căn, không thể nhàm xả, gọi là ràng buộc căn. Như ở đây khi do căn bị trói buộc, thì có phiền não thô nặng, với tánh không điều nhu khắp ở thân, tâm, không được yên ổn, gọi là ràng buộc thô nặng.
Hai cảnh ràng buộc: Đối với cảnh trái thuận, sinh tham giận người kia, điều này có hai nghĩa.
1. Vì bị cảnh ràng buộc, tâm không thể lìa bỏ.
2. Bị tham, giận buộc ràng cảnh ở trước, đều gọi là ràng buộc cảnh.
3. Hữu tình lần lượt trải qua sự ràng buộc ái luyến nhau. Vẫn là kinh nói nam vì nữ sắc, nữ vì nam sắc, lại luyến ái ràng buộc nhau.
4. Kiến lập ràng buộc cho đến, nên gọi là kiến lập, nghĩa là năm căn như mắt v.v… khi từ nghiệp sinh, tất nhiên nhận lấy năm trần. Do năm căn khởi thế lực tăng thượng, dẫn khởi năm trần, qua đó chấp lấy, gọi là ràng buộc kiến lập.
5. Ràng buộc vô trí đối với cảnh sở tri, nghĩa là không hiểu rõ sở tri, thì gọi là ràng buộc.
6. Ái ràng buộc thân (hữu) sau, nghĩa là bị tham ái của hữu sau buộc ràng.
6. Không có ái ràng buộc: Vì chấp dứt trừ bị ràng buộc bởi ái.
7. Chấp mắc nhân bất bình đẳng và ràng buộc của không có nhân, như chấp tự tại làm nhân, hoặc chấp ngã v.v… làm nhân. Vì trái với lý chánh nhân, nên gọi là bất bình đẳng, hoặc chấp các pháp tự nhiên mà có, không có nhân duyên, do dựa vào tà giáo, chấp mắc nhân bất bình đẳng và chấp không có nhân đã buộc ràng, không ngộ chánh nhân.
8. Ràng buộc chứng đắc tăng thượng mạn, nghĩa là ràng buộc tăng thượng mạn chưa chứng, cho là đã chứng.
9. Chấp mắc ràng buộc của tự tánh biến kế sở chấp.
10. Chấp mắc ràng buộc của tự tánh ràng buộc, tức chấp tâm là ràng buộc.
11. Bổ-đặc-già-la biết khắp ràng buộc tăng thượng, nghĩa là thật sự chưa biết khắp các số chấp lấy hướng về mà cho rằng mình đã biết khắp là ràng buộc tăng thượng mạn.
12. Biết khắp pháp ràng buộc tăng thượng mạn, nghĩa là thật sự chưa biết khắp các pháp, mà cho rằng biết khắp là ràng buộc tăng thượng mạn.
Có Luận sư nói rằng: “Trong mười bốn thứ ràng buộc bốn thứ trước y cứ vào tướng để nói về ràng buộc, mười thứ sau dựa vào thô nặng, để nói về phược.
Dưới đây, là nói dựa vào “không” để tu quán ràng buộc trong tướng giải thoát trong đó có hai:
- Nói về sự buộc ràng của tướng giải thoát.
- Nói về sự ràng buộc của tưởng sau của mười một giải thoát.
Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói: “Chỉ quán thân, thọ, tâm, pháp của thân mình, chấp lấy tưởng nội, gọi là ràng buộc tưởng đầu tiên, chỉ quán thân, thọ, tâm, pháp của thân người, chấp lấy tưởng ngoại, là ràng buộc thứ hai. Quán chung thân, thọ, tâm, pháp của mình, người, khởi tưởng trong, ngoài là ràng buộc thứ ba, thấy có chúng sinh đáng hóa độ, nguyện họ được giải thoát, là ràng buộc thứ tư, do nguyên cho người được giải thoát, nên chấp thân v.v… tu quán trụ, là tưởng ràng buộc thứ năm, thấy có người tu quán trụ, là ràng buộc tưởng thứ sáu.” Pháp sư Bị nói: “Trong đây nói về lìa chướng ngại phẩm đạo đã được thắng lợi. Lại y cứ vào tưởng, thường thuận theo cảnh, nói là sáu. Dưới đây nói về ràng buộc tưởng sau sau của mười một giải thoát, tức là quán tuần hoàn trong đây, nên lại có mười một ràng buộc của tưởng sau sau. Từ bắt đầu được niệm trụ, lúc chuyển tu của chuyển sau đã khởi tưởng ràng buộc, nên nói là sau sau. Nghĩa là đối với Đẳng Chí của thân, gọi là ràng buộc ban đầu:
Khởi tưởng đệ nhất nghĩa trong pháp nhiễm, tịnh của bốn đế kia, gọi là ràng buộc đầu tiên, tức khởi tưởng tạo tác trong nghĩa đệ nhất của tạp nhiễm khổ, tập.
Thứ hai tức khởi tưởng không có tạo tác trong nghĩa đệ nhất của Diệt Đạo thanh tịnh.
Thứ ba, đối với Diệt đế khởi tưởng là thường.
Thứ tư, đối với tạo tác của khổ tập, khởi tưởng lưu chuyển.
Thứ năm, khởi tưởng không có đổi khác trong đạo đế diệt đế.
Thứ sáu, khởi tưởng đối với lưu chuyển.
Thứ bảy, do tự tướng của sinh, diệt, trụ, di trong khổ, khởi tướng đổi khác.
Thứ tám, trong đệ nhất nghĩa của diệt đế ở trước không có thay đổi, Khổ, Tập có đổi thay, khởi tưởng có thể gồm thu tất cả pháp của nhiễm ô thanh tịnh.
Thứ chín, tức trong nhiễm tịnh ở trước, khởi tưởng không có nhiễm tịnh củavô ngã.
Thứ mười, Tiểu thừa y cứ vào pháp phi đế của nhiễm tịnh để nói về vô ngã. Pháp vô ngã không lìa nhiễm tịnh, do Đại thừa nói về hai thứ vô ngã là sáu pháp kia, nên chẳng phải nhiễm tịnh. Cho nên Bồ-tát Địa nói: “Hữu vi, vô vi gọi là hữu, vô ngã, ngã sở, gọi là phi hữu. Nếu khởi tưởng này, thì chính là tưởng hợp pháp.
Thế nào gọi là ràng buộc?
Giải thích: “Dù thuận với kinh, giáo, khởi tưởng như thế, nhưng vì tâmkèm theo chấp lấy, nên gọi là ràng buộc. Tức đối với các pháp nhiễm, tịnh, khởi nghĩ không có tướng của tự tánh, là thứ mười một, chỉ biết các pháp không có tánh quyết định. Cũng do tính kèm theo chấp lấy, gọi là ràng buộc. “Do các Bồ-tát cho đến “đều được giải thoát”, chính là nói dựa vào “không” để tu tập giải thoát, ràng buộc.
Dưới đây là thứ mười một, phẩm quyết định lựa chọn công đức. Nếu theo Luận sư Cảnh giải thích thì dưới đây là cho đến Tám thù thắng, cũng là quyết định lựa chọn, là phẩm Bồ-đề phần pháp. Văn kinh Thâm Mật kia hoàn toàn là phẩm quyết định lựa chọn công đức. Dù có phán quyết này, nay lại dựa vào sự phán quyết kia. Pháp sư Huyền Trang thân thừa ba tạng, có lời truyền phán này, trong đó chia làm hai:
- Thuận theo nghĩa, vấn nạn, đả phá.
- Dẫn kinh Thâm Mật, để nói về bảy nghĩa.Trong phần trước có bốn:
- Phá ác thủ không của Đại thừa mới học.
- Thành lập giáo Đại thừa khởi nhân duyên.
- Nói về tự tướng, công tướng, quán chủ thể, chứng pháp Phật.
- Nói do tám thù thắng chuyển các Địa.
Trong phần đầu: 1. Nêu chấp tà; 2. Chính là gạn, phá. Luận sư Cảnh nói: “Trong Đại thừa, cho đến tất cả đều không”, nghĩa là người Sơ học kia nói thế này: “Y tha, Viên thành dựa vào môn thế tục, tất cả đều có. Theo Thắng nghĩa đế, tất cả đều không, vì y tha là vô sinh, Viên thành là vô tánh.”
Kế dưới đây, Luận chủ gạn lại, quyết định nên bảo người kia: “Cho đến mà khởi thuyết”. Người ngoài đáp: “Y tha, Viên thành đều không có tự tánh, là thắng nghĩa đế. Đối với pháp không có tánh, giả gọi là kiến lập, vì khởi ngôn thuyết, lại chỉ bảo nhau, gọi là Thế tục.”
Dưới đây, Luận chủ gạn: Danh ngôn thế tục vì từ nhân có tự tánh có thể được, vì chỉ danh ngôn thế tục nói có. Lại y cứ vào các pháp như sắc, tâm v.v… của y tha, thế tục nói có, vì từ nhân sinh, tự tánh có thể được. Vì vô nhân sinh, chỉ trong danh ngôn, thế tục nói là có, là đáp lại hai câu hỏi này.”
Dưới đây là chính là phá:
Nếu danh ngôn thế tục từ nhân có, thì rất không hợp lý, vì chủ yếu là pháp có, mới từ nhân sinh. Nếu lập thế tục từ nhân mà sinh, thì là pháp có, mà nói chẳng phải có là không hợp lý. Nếu nói là Phật nói: “Pháp do nhân duyên sinh, ta noi tức là không”, dù từ nhân sinh nhưng đâu phế không tức là nêu hỏi ngược lại là từ thân sinh “không” hay từ nhân sinh “có”. Sinh không lông rùa, sừng thỏ lẽ ra từ nhân sinh, vì đều không co. Nếu sinh có, tức là có pháp, sao gọi là không? Phải biết rằng, pháp duyên sinh của ý kinh, tức là y tha, tên pháp y tha không có, quyết định không có tánh tự nhiên sinh. Cho nên nói: “Ta nói tức là “không”.
Nếu chỉ danh ngôn thế tục có, thì danh ngôn thế tục vô sự mà có, là không hợp lý.
Nếu nói thế tục không từ nhân sinh, thì sẽ không có nhân quả.
Pháp không có nhân quả là “không”, thử hỏi y cứ vào cái gì để lập ra danh ngôn thế tục? Cho nên nói: “Sự danh ngôn thế tục vô sự mà có, là không hợp với đạo lý. Lại nên bảo rằng: “Này Trưởng lão! Vì sao các pháp có thể được, pháp này không có tự tánh?” Đây là hỏi vặn lại rằng, pháp hiện có thể được, vì sao không có tánh?” Nếu người kia đáp: “Vì sự điên đảo”. Người ngoài đáp: “Dù hiện có thể được, nhưng vì điên đảo, nên đều vô tự tánh”. Lại nên bảo: “Sự điên đảo này là “có” hay “không”? là Lặp lại hai câu hỏi đáp: “Nếu nói “có”, nghĩa là nói tất cả pháp do thắng nghĩa đều không có tự tánh, thì không hợp lý, nếu ông chấp nhận có sự điên đảo kia, tức có tánh của pháp nhân, quả Khổ, Tập, mà nói là do thắng nghĩa nên đều không có tự tánh là không hợp lý. Nếu nói “không”, nghĩa là vì sự điên đảo, nên các pháp có thể được, pháp này không có tự tánh, thì không hợp lý. Nếu sự điên đảo rốt ráo không có thì lẽ ra không thể được, giống như sừng thỏ. Hiện nay có thể được mà nói là không, thì không hợp lý.
Pháp sư Thái nói: “Đây là chấp của Thanh Biện v.v…, đã bị Bồtát Từ Thị phá bỏ. Nhắc lại, giải thích nghĩa văn, như quyển ba mươi bảy ở trước đã ghi nhận.”
Pháp sư Bị nói: “Luận sư Thanh Biện chấp như vậy: “Tánh y tha khởi do thế tục nên “có”, vì thắng nghĩa nên “không”, tức là trái với giải thích của Trung đạo. Bồ-tát Di-lặc nói y tha, viên thành “có”. “không”, tức nghĩa”.
Lại giải thích: “Tông của Trung luận, Bách Luận gọi là “ác thủ không”. Cách giải thích trước là hơn. Do Bồ-tát Hộ Pháp giải thích Bách Luận đã nói về nghĩa Trung đạo. Tông của Bồ-tát Hộ Pháp y cứ ở Du-già, luận ấy nếu trái với Du-già thì đâu dùng để giải thích?”
Kế là, thành lập giáo Đại thừa, khởi nhân duyên. Luận sư Cảnh nói: “Do các bộ Tiểu thừa của các nước phương Tây kia đều không tin có giáo lý Đại thừa. Thấy người học Đại thừa, gọi là hoa đốm trong hư không: ông lập chân như xưa nay là có, bất sinh, bất diệt, so với ngoại đạo kia lập ngã vốn có, bất sinh, bất diệt, có khác gì đâu? Lại, ông đã dựa vào môn giáo của Đại thừa, Đức Phật đã nói ở nơi nào? Vì người nào thỉnh? Ai thỉnh Phật nói? Có nói lược rộng gì? Cho nên môn giáo của Đại thừa mà ông đã lập, không đáng tin theo, thà rằng tôi dựa theo ngoại đạo bôi tro kia.”
Do việc như thế, nên khởi sự lập giáo của Đại thừa:
Do năm tướng, nên tư duy lựa chọn kinh Đại thừa khởi thuyết nhân duyên, nghĩa là vì đối với người nói, sinh cung kính, nên khởi thuyết thứ nhất: Trong các kinh nói là đức Thế tôn nói trụ ở đó, khu rừng đó để nói pháp vì nhiếp hóa chúng sinh, nên khởi thuyết thứ hai, tức trong các kinh dẫn chứng đồng nghe cùng với một ngàn hai trăm năm mươi chúng Đại Bí-sô, đều cùng với ba muôn hai ngàn vị Bồ-tát đồng nói là vì chánh pháp sinh tôn trọng, nên khởi thuyết thứ ba, tức trong kinh nói Giải thoát Nguyệt v.v… thỉnh người nói kinh. Không thỉnh mà nói, đồ chúng nghe pháp sẽ bất nghĩ là khó gặp. Vì sinh tôn trọng, đợi thỉnh mới nói, vì nêu lên sự việc, nên khởi thuyết thứ tư, tức trong các kinh, Phật vì chúng đương thời mà lược, nêu chương. Vì muốn nói rộng nghĩa chân thật và vì đa số công việc đã làm, nên khởi thuyết thứ năm, chính là lời nói rộng trong các kinh một cách thông suốt rằng:
- Ta nghe như thế v.v…
- Nêu chúng.
- Như vì Phạm Vương thỉnh, nên nói bài tựa phát khởi.
- Lược nói việc đã nói trong phần chánh tông.
- Thỉnh vì muốn duyên nói lý do chân thật, nghĩa là phân biệt rộng về nghĩa. Và vì nhiều việc đã làm, là chúng đúng thời được lợi ích, y giáo, vâng làm.
Thứ ba, là nói về hai quán tự và cộng của mười hai xứ có mười đạo không có điên đảo, có thể chứng tất cả thật pháp bất cộng: sáu là quán tự tướng, bốn là quán cộng tướng:
1. Biết rõ tùy miên v.v…, gọi là sự lờ mờ của biến kế, chỉ có trên danh ngôn, tức hạt giống tự tánh của mắt v.v… không thể nói năng.
2. Biết rõ về Biến kế sở chấp của mười hai xứ, nhiếp thọ giả dối, tức làm rõ sự tướng của xứ ngoài.
3. Biết rõ y tha từ nhân chuyển sinh.
4. Biết rõ y tha tự nhiên mà diệt, gọi là làm hư hoại tướng chuyển.
5. Biết rõ tướng chuyển thanh tịnh, cho đến phải biết tướng này dựa vào hai nghiệp:
- Sinh khởi thanh tịnh là đạo.
- Vắng lặng thanh tịnh là diệt.
6. Biết rõ hữu vi có thể làm chỗ yên ở đây đủ của danh ngôn. Trên đây là tự tướng, dưới đây là cộng tướng.
7. Biết rõ vô thường, “không” và vô ngã.
8. Biết rõ đã chứng vô phân biệt, khởi lý đã hiện hành.
9. Biết rõ đối tượng chứng chỉ là pháp đã hiện hành của trí xuất thế gian.
10. Biết rõ Thánh đạo là nhân của Niết-bàn. Thứ tư, là nói do tám thù thắng đối với các trụ địa sau sau, chuyển biến vượt hơn. Đây là chung cho đức của các địa.
Dưới đây là thứ hai, dẫn kinh Thâm Mật để nói về bảy nghĩa, tức là bảy đoạn:
1. Bồ tát thưa hỏi như lý v.v…, là hỏi về nghĩa vượt hơn.
2. Bồ-tát Quảng Tuệ hỏi về nghĩa tâm, ý, thức.
3. Bồ-tát Đức Bản hỏi về nghĩa ba tánh.
4. Thắng nghĩa sinh, Bồ-tát thưa hỏi về nghĩa của ba vô tánh.
5. Bồ-tát Từ thị thưa hỏi về nghĩa của Xa-ma-tha, Tỳ-Bát-XáNa.
6. Bồ-tát Quán Tự Tại hỏi về nghĩa các địa.
7. Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi thưa hỏi về nghĩa ba thân.
Y cứ trong thân thắng nghĩa Đế của câu hỏi đầu tiên, trước, là chia ra năm môn, sau, là dựa vào môn để giải thích, có bốn đoạn: Đầu tiên, là giải thích hai môn ly ngôn của “hai không”, trong đó trước là nhắc lại chung chỉ cho kinh. Sau, là dẫn riêng văn kinh kia.
Trong phần trước, nói về kinh Giải Thâm Mật, kinh này có bốn nhà phiên dịch:
- Lưu Chi dịch là kinh Thâm Mật Giải Thoát.
- Cầu Na Bạt Đà La dịch là kinh Tương Tục Giải thoát.
- Chân Đế dịch là kinh Giải Tiết.
- Pháp sư Huyền Trang dịch là kinh Giải Thâm Mật.
Một âm của Bản Phạm, Câu-xá ba nghĩa:
- Nghĩa nối tiếp nhau của hai vật.
- Nghĩa nối tiếp nhau của đốt xương.
- Nghĩa Thâm Mật.
Ba Tạng trong các đời, đều theo một nghĩa, nên tên dịch khác nhau, y cứ trong dẫn riêng văn kinh, trước văn xuôi nói rộng, sau, dùng bài tụng để nêu, y trong văn xuôi có ba lượt hỏi đáp.
Nói Tối Thắng Tử trong hỏi đáp ban đầu, Đức Phật là đấng Tối Thắng, nói Bồ-tát kia là con của đấng Tối Thắng, gọi là Tối Thắng Tử. Xưa nói là Phật tử.
Đáp: ý Phật vì chúng sinh giả nói hữu vi, vô vi mà không tùy theo danh. Vì thể của pháp chân thật của hữu vi, vô vi, nên nói không có hai. Đáp rằng: “Tất cả pháp có hai: 1. Hữu vi; 2. Vô vi, nghĩa là chia ra hai môn. Là chính giữa hữu vi; chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, đây là đáp câu hỏi đầu tiên.
Hỏi, đáp thứ hai: Hữu vi, chính là câu mà đức Bản sư giả đặt ra, nghĩa là các pháp vốn lìa danh, ngôn, Đức Phật vì chúng sinh giả nói hữu vi, gọi là giả đặt ra.
Lại, giải thích: “Vào kiếp sơ, Phạm Vương v.v… đã đặt ra tên các pháp, gọi là Bản Sư.”
Hỏi: “Nếu về sau nói, thì vì sao kinh Giải thâm Mật nói là danh tự Như lai?”
Giải thích: “Ngoại đạo gọi thầy mình, là Như lai nên không có lỗi. Kinh Giải Thoát nói là Đại sư. Nếu nói là Bản Sư, thì câu giả đặt ra tức là Biến kế đã nhóm hợp ngôn từ mà nói v.v…, nghĩa là chỉ vì chúng sinh thuận theo danh, mà khởi chấp. Đối với câu mà Đức Phật giả đặt ra,chấp có pháp nhất định, nên nói là Biến kế nhóm họp, cho đến không thành thật, nên chẳng phải hữu vi. Nói vô vi, cũng rơi vào ngôn từ giả đặt ra câu, rơi vào danh khởi chấp, thì chẳng phải vô vi.
Nếu lìa hữu vi, vô vi, có một ít đã nói về tướng mạo của hữu vi cũng thế, nghĩa là giả thiết như Độc Tử bộ lập ra pháp Tạng thứ năm, gọi là “không thể nói”. “Không thể nói” là hữu vi, vô vi, cũng là giả lập ngôn thuyết đặt ra.
Trên đây, cứ theo biến kế sở chấp để đáp câu hỏi ở trước, nhưng chẳng phải vô sự mà có thuyết nói v.v…, nghĩa là do đã có pháp nhân duyên y tha như huyễn v.v… “duyên” vào pháp ấy để khởi nói.
“Nói vô vi, cũng là câu mà đức Bản sư đã giả đặt ra, cho đến tướng của vô vi ấy cũng vậy”, nghĩa là cũng phá Độc Tử bộ nói “không thể nói Pháp tạng cũng chỉ có danh ngôn. Nhưng chẳng phải không có việc, mà có thuyết đã nói v.v…, nghĩa là do chứng pháp tánh lìa lời nói, vì người khác giả nói, cho là vô vi.
Hỏi, đáp thứ ba, làm sao đối với việc này, các bậc Thánh kia chứng pháp ly sinh vì người khác giả nói. Hoặc nói là hữu vi, hoặc cho là vô vi.
Trong phần đáp, trước dụ, sau hợp. Trong thí dụ trước, là nêu người ngu chấp việc huyễn là thật, vì chưa tỏ ngộ, nên trước, sau lại tư duy. Kế là, nói bếit rõ việc huyễn chẳng phải thật. Về sau không còn tư duy nữa.
Trong hợp cũng có hai:
- Hợp với phàm ngu.
- Hợp với Thánh trí.
Trong bài tụng, người kia hoặc bất định, hoặc tà định, tức là nhóm bất định và nhóm tà định, do con người khởi giả dối chấp trước.
Thứ hai, trong giải thích vượt ngoài tướng sở hành của Tầm, Từ: trước, là nhắc lại nêu chung chỉ cho kinh. Sau, dẫn riêng văn kinh đó.
Đầu tiên, Bồ-tát Pháp Dũng thưa hỏi. Kế là, đức Như lai đáp.
Trong câu hỏi của Bồ-tát nói số cát sông Căng-già, tức xưa nói là số cát sông Hằng.
Các thứ ý giải, nghĩa là sâu, cạn, thô, tế, chẳng phải một.
Ý giải riêng, khác, nghĩa là hai người tranh luận chung, không được như nước với sữa.
Ý giải đổi khác, nghĩa là lấy, bỏ, hướng trái, trước, sau đổi khác.
Trong Như lai phần đáp, trước, là văn xuôi, sau là tụng. Trong văn xuôi thì pháp và dụ hợp.
Trong pháp, trước nêu, sau giải thích.
Trong giải thích có năm lần “lại nữa”. Trong dụ, có năm lượt như thứ lớp dụ năm pháp ở trước, hoặc thí dụ chung. Hợp, chỉ có hợp chung.
Nói “không thể tầm, từ v.v… :
Một giải thích khác: “Vì hiện lượng không thể tư duy, tỷ lượng không thể đo lường. Thánh ngôn lượng không thể khiến cho tin.”
Lại giải thích: “Vì các thứ ý giải, nên nói “chẳng thể Tầm, Từ. Vì ý giải khác nhau, nên nói không thể so sánh. Vì ý hiểu biết nên nói không thể tin, hiểu.
Trong bài tụng, đầu tiên có ba câu, tụng riêng năm pháp. Một câu sau, kết luận về danh nghĩa.
Thứ ba, trong giải thích vượt qua tánh, tướng một, khac của cac pháp, đầu tiên là nhắc lại ý chỉ kinh nói. Kế chính là dẫn văn. Trước, Bồ-tát Thiện Thanh tịnh Tuệ hỏi.
Thứ hai, là Phật đáp.
Trong phần trước, nói có chúng Bồ-tát v.v… là hạnh thăng giải.
Đồng một hội tòa v.v…, nghĩa là Bồ-tát Địa tiền chưa chánh chứng chân như, chỉ tác ý, nói phân biệt hạnh quán, nên nói Bồ-tát Thắng hạnh địa.
Dưới đây, trong phần pháp, dụ hợp trong văn xuôi. Trong pháp, trước là nói thành thuyết chung. Sau, giải thích riêng về nghĩa của thuyết đó. Trong đó có ba lần “lại nữa”.
1/ “Nói chẳng phải đối với các hành, lúc thực hành như thế, gọi là năng thông đạt, v.v…. Nghĩa là chẳng phải quán các hành với thắng nghĩa quyết định kia, khi quán hạnh khác của nhất định, thì gọi là năng thông suốt. Vì sao? Vì nếu Thắng nghĩa đế với các hành là một thì tất cả phàm phu hiện nay đang nhìn thấy các hành, lẽ ra đã chứng thắng nghĩa, đều đã kiến đế, đều đã được phương tiện vô thượng, Niết-bàn yên ổn, cho đến Bồ-đề. Nếu Thắng nghĩa đế khác với hạnh, thì người đã thấy chân như, kiến đế, sẽ tương ưng với các hành, không trừ bỏ, vì các hành kia hoàn toàn khác với thắng giải nọ. Vì sao? Vì nếu tức hạnh, nói về thắng nghĩa đế, thì do chứng thắng nghĩa tức dứt bỏ các hành. Nay, thể đã khác, thì cho dù thấy thắng nghĩa, vẫn không dứt bỏ các hành. Vì các hành không loại bỏ, nên không thoát khỏi sự ràng buộc nhau, cho đến không được Bồ-đề, đây là vấn nạn ngược lại.
“Do thời nay trở xuống” là giải thích thuận.
“Lần lại nữa” thứ hai, nếu thắng nghĩa và hạnh là một, thì lẽ ra đồng với tạp nhiễm. Nếu khác với hạnh, thì lẽ ra chẳng phải là cộng tướng của các hành.
“Lần lại nữa” thứ ba, nếu hạnh và thắng nghĩa là một, thì lẽ ra đồng với thắng nghĩa, không có khác nhau.
Nếu vậy, đã thấy các hành, tức là rốt ráo, chẳng lẽ thời gian sau, lại mong cầu thắng nghĩa, vì thắng nghĩa không khác với hành là. Nếu hoàn toàn khác hẳn, thì không nên y cứ ở hành để nói tánh vô ngã là Thắng nghĩa. Lại lẽ ra đều cùng lúc, tướng riêng được thành lập, nghĩa là tướng tạp nhiễm và tướng thanh tịnh, vì thắng nghĩa với hạnh siêu nhiên có khác, là tức khi thấy thắng nghĩa, lẽ ra không xả bỏ nhiễm? Lúc thấy hạnh nhiễm, lẽ ra không che lấp tịnh? Giải thích thuận, rất dễ hiểu.”
Kế là, trong phần nói về dụ, nêu mười bốn thí dụ để chỉ bảo như văn.
Dưới đây trong hợp dụ, trước hợp, sau kết, quy về Tông gốc.
Nói, vi tế, cựa vi tế, đây có hai giải thích:
1. “Vì phàm phu không thể nhìn thấy, nên nói là vi tế. Người Nhị thừa vì không thể cùng tận đáy, nên nói rất sâu, cùng cực rất sâu, cùng cực rất sâu.
Hiểu rõ địa, vì đều có thể thông suốt, rất khó thông suốt.”
2. Tuệ, Văn, Tư, Tu của thế gian, như thứ lớp phối hợp, giải thích.”
Trong bài tụng nói về hành giới, nghĩa là loại tánh của các hành hữu vi vì khác nhau, nên gọi là giới hành. Văn khác rất dễ hiểu.
Thứ tư, giải thích về tướng một vị của khắp tất cả thứ năm, trong đó, đầu tiên, là nhắc lại chỉ ra thuyết của kinh. Kế là, chính thức dẫn văn kinh kia. Trước, là văn xuôi, sau là tụng.
Văn trong văn xuôi được chia làm ba:
1. Phật hỏi Bồ-tát Thiện Hiện: “biết có bao nhiêu hữu tình có ngạo mạn?
2. Bồ-tát Thiện Hiện nêu lên sự kính mến, hỏi han mà hữu tình kia đã nhìn thấy, có bốn:
- Nói về chung Trung, Tiểu, đại vô lượng.
- Nói chung Tiểu, Đại vô lượng.
- Giới hạn ở đâu gọi là chứng đắc?
- Nói về thông suốt và chứng đắc.
Trong phần đầu, Luận sư Cảnh, Bị đồng nói: “Kinh nói pháp chỉ, quán riêng. Lại nói “duyên” chỉ, “quán” của pháp chung, nghĩa là duyên riêng về mười hai bộ kinh, mỗi bộ đều thuận theo chân như v.v…, tu chỉ quán gọi là duyên theo pháp riêng, nếu gồm mười hai bộ kinh tư duy pháp này thuận theo chân như, v.v… gọi là duyên pháp chung.”
Nay, giải thích: “Trong mỗi bộ, chỉ “duyên” phần tiểu, nói “duyên” pháp riêng. Nếu “duyên” toàn bộ, cho đến “duyên” đủ mười hai bộ kinh, gọi là “duyên” pháp chung nói thuận theo thú hướng tu nhập, như thứ lớp phối hợp văn, tư, tu tuệ, nếu ý cứ vị mà nói thì thuận theo là hồi hướng trở xuống, thú hướng là Noãn, Đảnh, nhẫn, tu nhập là pháp Thế đệ nhất, tu nhập là đầu tiên. Kế nói Tiểu, Đại vô lượng, nghĩa là duyên một bộ giáo pháp nhận chân như quán chung gọi là duyên tiểu pháp chung. Nếu duyên mười hai bộ kinh trong một giới hạn gọi là Duyên Đại pháp chung. vì mười hai bộ kinh có rất nhiều nghĩa, tức như kinh Pháp Hoa tự nói một thứ pháp của mười hai bộ, Trong kinh Niết bàn lại nói một thứ giới của mười hai bộ, kinh Hoa nghiêm lại nói một việc của mười hai bộ. Nên nói rằng, nếu “duyên” vô lượng giáo pháp của Như lai v.v…, thuận theo quán chân như, gọi là “duyên” vô lượng chỉ, quán của pháp chung.
Thứ ba, nói ngang đâu được gọi là “duyên” chỉ, quán của pháp chung? Ý hỏi: Ngang đâu, được gọi là “duyên” chỉ quán, pháp chung của chân như kia?
Dưới đây là đáp: “Do năm duyên, nên phải biết gọi là chứng đắc, tức nêu năm tu trong Thập địa đã chứng được năm quả, dùng làm năm duyên. Do đủ “duyên” này, nên gọi là được “duyên” pháp chân như chung.
Bồ-tát Vô Trước lấy văn chỗ này để nói trong Nhiếp Luận: “Những gì là năm tu? Thế nào là năm quả?
1/ Chung Tập; 2/ Tu vô tướng; 3/ Tu không có công dụng; 4/ Tu tu rất thịnh vượng: 5/ Tu không có hỷ túc.
Với năm tụ như thế, nói vể thể không khác. Tùy ý trong một niệm, nói có năm, nghĩa là nhóm hợp tất cả cái chung thành một nhóm, chọn cốt yếu tu tập chỉ quán chân như, tức tu chung tập, vì phân biệt của vòng xích xương, quán chung đức Thế tôn. ba Phật hiện Tông gốc, đầu iên nói rằng Thiện Hiện, xưa nói Thiện Cát, tức Tu-Bồ-đề. kế là, trong kính ngưỡng thăm hỏi Đức Thế tôn của Thiện Hiện, Pháp sư Cảnh nói “Nói vì chứng được uẩn là đắc uẩn quán hành. Câu này là chung. Được tướng uẩn, quán chủ thể được nhân uẩn, tức là quán tập. Hai câu kế là, quán uẩn khởi tận (diệt), tức là sinh, diệt, tức quán hành khổ được uẩn diệt, là quán thường diệt.
Được uẩn diệt tác chứng: Quán đạo năng trị của uẩn. Vì chứng được đế, nghĩa là được hạnh quán đế, câu này là chung. Kế là có hai câu quán khổ. Được đế, dứt trừ hẳn là Tập, tác chứng là Diệt. Được đế, tu tập là Đạo.
Vì được cõi, nghĩa là được hạnh quán của cõi. Câu này là chung. Được tướng mạo của cõi, nghĩa là quán chủ thể được nhân của cõi, tức là quán tập. Hai câu kế là, tức quán cõi lá khổ. Các thứ tánh, nghĩa là cõi có mười tám v.v…. Chẳng phải một tánh, nghĩa là trong mỗi cõi có nhiều khác nhau. Hai câu dưới, tức quán diệt, đạo. Do được niệm, trụ, nghĩa là được chung niệm trụ, được tướng niệm trụ, nghĩa là quán nhân của niệm trụ.
“Năng trị”, “sở trị”: Niệm trụ là “năng trị” (chủ thể trị), bốn điên đảo, gọi là “sở trị” (đối tượng trị). Luận sư Cảnh nói: “Vì chứng đắc uẩn, nghĩa là hiện có uẩn, phân biệt với giới, xứ v.v… Vì được tướng uẩn, là nghĩa chứa, nhóm, nghĩa phần đoạn v.v… là nghĩa uẩn.
Được uẩn khởi: Khổ đế từ nhân khởi, được uẩn tận: Pháp quả của Tập đế lúc sinh, nhân liền tận. Do chứng đắc đế, nghĩa là phân biệt thiện xảo còn lại. Được tướng đế, nghĩa là bốn đế, mười sáu hành tướng v.v…
Bốn câu duới đây, như thứ lớp là bốn đế, do được giới, phân biệt với uẩn v.v… Được tướng của giới: nghĩa dòn họ, nghĩa tánh riêng là nghĩa cõi v.v…
Được tu niệm trụ, nghĩa là lúc thừa đầu tiên, chưa sinh thì được sinh: đã tập hạnh. Sinh xong trụ vững chắc v.v…, nghĩa là tác ý siêu việt, văn còn rất dễ hiểu.
Dưới đây, trong Phật hiện Tông gốc là pháp, dụ, hợp.
Trong pháp trước nêu, sau giải thích. Trong giải thích có ba lần “lại nữa”.
1. Trong lần “lại nữa” đầu, nói về Thắng nghĩa đế, tức là duyên sinh đế thực của uẩn, giới, xứ, tướng chân như một vị của nhà ba mươi bảy phẩm, không có tướng riêng khác.
2. Trong lần “lại nữa” thứ hai, thấu suốt chung một uẩn chân như thắng nghĩa vô ngã tánh xong, chẳng còn tìm cầu uẩn riêng khác, cho đến Thắng nghĩa vô ngã tánh của tám chi Thánh đạo.
3. “Lần lại nữa” thứ ba, nói về uẩn, giới, xứ, cho đến lần lượt tướng khác của chi đạo. Chân thắng nghĩa của tất cả pháp cũng là tướng khác: tức thắng nghĩa cũng có nhân duyên từ nhân mà sinh v.v… rất dễ hiểu.
Dưới đây là dụ và hợp: Như hư không khắp các sắc loại, dụ cho chân như kia khắp các pháp loại văn tụng rất dễ hiểu.
(Phần Cuối)
BẢN LUẬN QUYỂN 76
Trong bảy đoạn, dưới đây là thứ hai, Bồ-tát Quảng Tuệ thưa hỏi về tâm, ý, thức, trong đó trước hỏi, sau đáp. Ban đầu là ý hỏi: “Đức Phật nói về bí mật của tâm, ý, thức, Bồ-tát khéo hiểu có thể khéo léo trong tâm, ý, thức, Bồ-tát một phen hỏi?
Đức Như lai ngang đâu thiết lập? Ngài vì Bồ-tát khéo léo đối với bí mật của tâm, ý, thức; đây là câu hỏi thứ hai.
Trong hai câu hỏi này, trước y cứ Bồ-tát Địa tiền, sau, y cứ Bồ-tát Địa thượng. Về nghĩa của tâm, ý, thức tự có chung riêng.
Gọi là riêng tâm, ý, thức: Lại-da là tâm, vì năng tập khởi các pháp sắc tâm sinh tử của ba cõi. Mạt-na gọi là ý, vì làm căn đồng thời cho sáu thức, sinh ra sáu thức, vì phân biệt mạnh mẽ đối với sáu cảnh.
Hai, gọi chung là tâm, ý, thức nghĩa là trong tám thức, mỗi thức đều có tập khởi, gọi là tâm, năng sinh, gọi là ý, phân biệt rõ gọi là thức.
Trong đáp; 1. Văn xuôi; 2. Trùng tụng. Văn xuôi lại có hai: Trước, là giải thích, sau, là kết.
Trong phần trước, trước khen câu hỏi của Bồ-tát kia, răn bảo, lắng nghe, cho nói.
2. Chính là giải thích: trong giải thích có bốn:
- Y cứ Lại-da để giải thích tâm, ý, thức.
- Giải thích các danh.
- Nói về thức A-Đà-Na vì dựa vào đó kiến lập sáu thức.
- Nói Bồ-tát có khéo léo, không khéo đối với tâm, ý, thức.
Trong phần đầu nói về sanh tử của sáu nẻo, cho đến trước hết, tất cả hạt giống thức thành thục v.v…, nghĩa là hạt giống thức thành thục dẫn dắt sinh hữu khởi trụ nơi Yế-la-lam, lần lượt hòa hợp với phần vị thai tăng trưởng.
“Dựa vào hai chấp thọ trở xuống” là nói về Lại-da kia kia có hai chấp trì. Y cứ ở giới để nói về trì, rất dễ hiểu. Lại-da dù duyên khí thế gian bên ngoài, mà không thuộc về chúng làm nhiếp thọ nội tại, nên nay không nói.
Kế là nói về các danh v.v… Luận sư Cảnh nói: “Thức này cũng gọi là A- Đà-Na, Hán dịch là chấp trì (gìn giữ). Gìn giữ sắc căn và các hạt giống, cũng gọi là Lại-da. Hán dịch là Ái tàng, chấp thọ nơi thân. Lại cất giấu ở thân, đồng yên ổn hiểm nguy, nên cũng gọi là tâm vì sao? Do thức này chứa nhóm, thấm nhuần, tăng trưởng sắc, thinh, hương, vị, xúc v.v…. Đây có hai nghĩa:
1. Khả năng nhóm họp sắc v.v…, hay gom góp thấm nhuần nuôi lớn. Pháp sư Thái nói: “Nhóm họp là nghĩa tâm. Tâm có thể chứa nhóm, thấm nhuần, nuôi lớn sáu trần như sắc v.v…, sáu căn, sáu thức là tướng chung, thuộc về pháp trần, chỉ nêu sáu trần.
2. Pháp sư Bị nói: “Từ nơi sáu đường cho đến nghĩa yênổn, nguy khốn, nên có chung ba tên để giải thích về nghĩa Thức, “cũng là tâm trở xuống”, mới bắt đầu giải thích về nghĩa tâm, lược qua, không giải thích về ý.”
Thứ ba, nói về kiến lập sáu thức. Đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau hợp.
Trong pháp. Pháp sư Thái nói: “Trong văn xuôi này, dù nêu chung ba danh, nhưng Tông lại nói về A-Đà-Na, nên chỉ nêu Đà-Na là y chỉ chuyển thức. Trong bài tụng sau, chỉ tụng tên Đà-Na, ý là ở đây. Luận sư Bị nói: “Về nghĩa sắc tâm đã nói xong. Vì muốn nói về nghĩa lý, nên dùng nghĩa “sở y” để làm rõ chung về nghĩa khởi thức. Trong đây “có thức, cho đến có phân biệt ý thức chuyển””, Pháp sư Thái nói: “Vì có nhãn căn, đồng phần với nhãn căn, nên nói nhãn và sắc v.v… ”.
Có năng thọ Đà-Na thức, kế là có thức. Trong dụ, đại khái dẫn hai thí dụ, có gì khác nhau? Có vị Cổ Đức nói: “Thí dụ gương soi, dụ cho môn chân như tâm. Thí dụ nước, sóng, dụ cho môn tâm sinh diệt. Nay Pháp sư Huyền Trang nói: “Các Luận sư phương Tây giải thích về hai thí dụ đã nói là đồng, chỉ vì muốn cho hiểu rõ nghĩa gốc, nên cần hai thí dụ. Về hợp dụ như văn.
Thứ tư, là nói về Bồ-tát có khéo léo, không khéo léo đối với tâm, ý, thưc.
Do Pháp Trụ trí: Trụ trí ở trong nhân, biết quả hạ, trung, thượng của ba cõi. Nay theo Đại thừa hoặc dựa vào kinh giáo, biết rõ nghĩa của tâm, ý, thức, nên nói là do “Pháp trụ trí”. Hoặc dựa vào lý nhân quả của thế tục mà biết được tâm, ý, thức, gọi là Trí pháp trụ. Dù có hai giải thích, đều dựa vào trí như lượng mà biết tâm, ý, thức, vị ở Địa tiền, nhưng các đức Như lai không cho sự thi thiết ở đây là khéo léo.
Dưới đây, sẽ nói về Bồ-tát Địa thượng, lập làm khéo léo: Nếu các Bồ-tát đốivới nội tại đều phân biệt như thật, không lấy A-Đà-Na, nghĩa là không thấy tác dụng của nó, không thấy thức A-Đà-Na, là không thấy thể của nó. Câu còn lại so sánh như thế, tức khi chứng chân như, không thấy các pháp, là gọi là Bồ-tát thắng nghĩa xảo. Đức Như lai kiến lập, kết như văn.
Trong tụng Ngã kiến Câu sinh không dựa vào giáo khởi, nói và không nói đều có thể hiện hành. Nay, vì muốn phân biệt với Câu sinh, nên nói Phân biệt, câu còn lại, như thường.
Luận chủ Vô Trước dẫn tụng này, để giải thích luận Nhiếp Đại Thừa. Thế Thân dẫn văn xuôi, để giải thích nghĩa của tụng này (đủ, rộng như luận ấy).
Dưới đây là đoạn lớn thứ ba, nói Bồ-tát Đức Bản thưa hỏi về nghĩa ba tánh, nên nói “Khéo léo về các pháp tướng. Trước là hai câu hỏi, y cứ theo trước.
Trong phần đáp, trước là văn xuôi, sau là trùng tụng. Văn xuôi có hai: Trước, là giải thích, sau là kết.
Trong phần trước, trước khen hỏi, hứa nói, sau chính là giải thích. Trong phần giải thích có sáu lần “lại nữa”. Đầu tiên, là nói tướng các pháp có ba:
1. Biến kế, 2. Y tha, 3. Viên thành.
Nói “Biến kế sở chấp v.v… cho đến “Vì khiến thuận theo khởi ngôn thuyết, là nói về ý của thuyết kia. Chúng sinh ngu si, theo danh chấp thật, tức là biến kế sở chấp. Y tha nghĩa là pháp sinh nhiễm. Viên thành tức là chân như của các pháp. Các Bồ-tát đều lấy tinh tấn làm nhân, mới có thể thông suốt, dần dần chứng thấy trong các địa, đến địa vị Phật mới viên mãn. Một phen giải thích xong.
“Lần lại nữa” thứ hai, y cứ dụ màng che mờ mắt để nói về kiến chấp. Luận sư Cảnh nói: “Như tai hại lỗi lầm của màng mắt che mờ, sở chấp cũng thế.”
Hỏi: “Màng mắt che mờ là pháp nhân duyên, sao lại đem dụ cho Biến kế sở chấp ư?”
Giải thích: “Không lấy sự che mờ của màng mắt, mà ý nói do màng mắt che mờ, nên trong thấy giả dối vừng lông, thí dụ cho biến kế sở chấp, nên nói rằng tai hại lổi lầm của màng mắt che mờ.
Như người bị màng mắt che mờ, thấy vừng lông v.v…, y tha cũng thế, nghĩa là vừng lông v.v… chính là Biến kế sở chấp. Không muốn lấy vừng lông để thí dụ cho y tha, mà muốn nói nhân màng mắt che mờ này, chấp là vừng lông, nên huân tập thức thành hạt giống, sinh y tha ở thời gian sau. Như người mắt sạch, nhìn thấy bản tánh của pháp, thí dụ như trí căn bản chứng Viên thành thật.”
Pháp sư Thái nói: “Tai hại lỗi lầm của màng mắt che mờ, nghĩa là chấp là tóc, lông v.v… nhất định là thật, gọi là tai hại chung, dụ cho biến kế sở chấp nhất định là pháp có tánh.
Nếu che mờ nhãn thức, biến thành tóc, lông v.v… thì từ nhân duyên sinh không có tánh cố định, du cho tánh Y tha. Dùng thí dụ này để chứng minh rằng, người nhìn thấy mặt trăng thứ hai, cũng xuất phát từ nhãn thức loạn, hiện ra mặt trăng tương tự, là pháp nhân duyên, có thể sinh ra nhãn thức. Nhưng tư duy trần, luận y cứ ở chấp có tánh cố định, vì mặt trăng thứ hai không có tự thể, không thể sinh ra thức, nên chẳng phải “duyên, duyên”.
Lại giải thích: “Luận kia y cứ tông Tiểu thừa, để phá tà chấp đó. Tông Tiểu thừa cho là mặt trăng thứ hai không có tự thể, nên nhãn thức không được “duyên”. Luận sư Bị nói: “Tai hại lỗi lầm của màng mắt che mờ, dụ cho hai chấp Nhân, Pháp, vừng tóc, lông v.v…, trần của biến kế, đồng lấy mặt trăng v.v… thứ hai, tức là tánh y tha. Cho nên luận Đối
Pháp nói: “Sắc của Biến kế sở chấp, nghĩa là sắc của ảnh tượng.” Hỏi: “Nếu thừa nhận sắc y tha, thì vì sao cũng làm biến kế ư?”
Đáp: “Tất nhiên do biến kế khởi, nên thuận theo đối tượng duyên (sở duyên), gọi là biến kế. Y cứ vào y tha thật, như tương tự dựa vào gương soi thấy mặt mình. Mặt tự có bốn:
- Tưởng phần của bản thức.
- Nhãn thức biến ra.
- Đồng “duyên” mặt do ý thức khởi.
- “Duyên” mặt do ý thức độc đầu đã biến hiện.
Trong bốn mặt này, mặt thứ nhất là bản chất. Mặt thứ hai, thứ ba vì giống với bản chất, nên gọi là y tha khởi. Một mặt sau, lìa chỗ bản chất, hiện ở trong gương soi, vì chỉ do biến kế đã khởi, nên nói là biến kế. Y cứ vào sự thật mà nói, trong đó có hai;
- Tướng phần của Y tha.
- Biến kế sở chấp.
Có luân sư giải thích “Nhãn thức một phen nhìn thấy có hai tướng phần, nghĩa là mặt trăng của bản chất và mặt răng thứ hai.”
Giải thích này không đúng! Vì không nên gọi là hiện lượng.”
Lại, Trí Luận nói: “Vì năm thức không thê lừa dối.”
Nay, giải thích “Dựa vào mặt trăng gốc (mặt trăng của bản chất) mà khởi nhãn thức, chỉ là trong tâm ý thức cho là hai mặt trăng.
Trong lần “lại nữa” thứ ba, trước nêu thí dụ “Phả-chi-ca” kế là pháp so sánh. Trong phần trước nói Phả-chi-ca, Pháp sư Tam Tạng nói “Xứ này không có từ ngữ để dịch. Giống như thủy tinh, ngọc trắng không có sắc cố định, kết hợp với bốn sắc, tức giống với ảnh tượng của bốn sắc. Hữu tình mê hoặc rối loạn, với tà tâm chấp thật.
Nói Đế Thanh, Đại thanh, Mạt Ni, tượng báu. Tiếng Phạm là Nhân-Đà-La, Hán dịch là Đế-thích, đây tức là ngọc Ma-ni xanh của Đế-thích. Phương Tây có ngọc xanh của Đế-thích, nên lấy nó đặt tên, đây là sắc xanh thừa trong màu xanh. Tiếng Phạm là Ma-ha Ni-la, Hán dịch là thanh, tức là màu xanh biếc. Mạt-Ni, là tiếng phạm, là tên chung của ngọc.
Mạt-la-yết-đa. Luận sư Cảnh nói: “Xứ này không có từ ngữ để dịch.”
Pháp sư Thái nói: “Là báu sắc sát của xứ này, sắc nó là lục.”
Luận sư Cảnh nói: “Sắc này gọi là xà cừ, so sánh trong pháp nói như trênPhả-chi-ca thanh tịnh kia, tất cả lục nhiễm sắc tương ưng, cho đến tập so sánh cũng thế, nghĩa là ý nói “Năng chấp” chấp “sở chấp”, là tập khí cũ.
Nói “như tà chấp có Đế thanh, Đại thanh v.v… trên Phả-chi-ca thanh tịnh kia, dựa vào khởi đối tượng chấp trên tướng, chấp tướng cũng thế”, nghĩa là bản thân của báu Phả-chi-ca hợp với tánh y tha.
Nói “Như thanh tịnh kia, cho đến tướng định của Viên Thành cũng thế” rất dễ hiểu.
Hỏi: Báu phả-chi-ca dụ cho tánh y tha, nghĩa này rất dễ hiểu. Ngọc báu Phả-chi-ca hợp với bốn sắc, tức có ảnh tượng của bốn sắc mà khởi thí dụ cho y tha. Y tha và chấp thật trên Viên Thành Thật, tức có Biến kế sở chấp. Cảnh của Biến kế sở chấp không có tánh, để làm rõ Viên Thành thật, điều này cũng rất dễ hiểu. Trong luận vì sao không kết hợp pháp nhân duyên của ảnh tượng bốn sắc?”
Giải thích: Về lý, thì báu Phả-chi-ca dụ cho y tha, bản chất tướng phần của A-lại-da, ảnh tượng của bốn sắc, nhân Phả-chi-ca hiện ra, dụ cho tướng phần của sáu thức, tức là ảnh tượng của tướng phần Lại-da, cũng là Y tha. Nếu phân biệt chín chắn thì pháp, dụ không bằng nhau, nên lược qua không nói.”
“Lần lại nữa” thứ tư, nói “do chấp danh tướng cố định, chấp mắc hệ thuộc nhau làm duyên cho tướng bị chấp rất dễ hiểu. Do chấp biến kế huân tập hạt giống, có thể sinh y tha khởi sau, nên nói “sở chấp” làm “duyên” cho Y tha, rất dễ hiểu. Tướng biến kế sở chấp vô vi “duyên” Viên thành rất dễ hiểu.
Theo luận Hiển Dương, tự có năm tướng:
- Tướng bị chấp.
- Tướng năng chấp.
- Tướng chấp mắc hệ thuộc nhau của danh tướng.
- Tướng chấp mắc.
- Tướng không chấp mắc.
Hai tướng đầu, có cả ba tánh. Tướng thứ ba, tức chấp biến kế. Tướng thứ tư là tướng y tha khởi. Tướng thứ năm, là Viên thành thật.
Nay, Luận chủ giải thích “Do tướng sở chấp của tướng thứ ba, rất dễ hiểu rõ v.v….”
“Lần lại nữa” thứ năm, nói biết thắng lợi của ba tánh. Biết rõ Viên thành, tức biết tất cả thanh tịnh, nghĩa là vì y tha của phần tịnh thuộc Viên thành.
“Lần lại nữa” thứ sáu, nói về thắng lợi của đoạn, chứng. Nếu rất dễ hiểu rõ không có tướng ở trên y tha thì sẽ có thể dứt trừ nhiễm và chứng tịnh.
“Như thế, Đức Bản trở xuống”, là nhắc lại ba lần “lại nữa” sau, kết đáp hai câu hỏi ở trước, lược qua không nhắc lại nêu ba lần “lại nữa” trước.
Hai câu sau cuối trong hai bài tụng khó giải thích.
Pháp sư Tam Tạng giải thích: “Biếng nhác không tu gốc định, trụ pháp là định, động trong pháp là tán loạn.
Không có mất hoại, không thương xót, nghĩa là do biếng nhác, nên pháp trụ vô thượng, gọi là “không”, pháp động hữu thượng, gọi là “có”. Do kia không có định chỉ có tán loạn, nên mất đi chánh pháp ở trong thân người kia, gọi là mất hoại, nên đáng thương xót.
Pháp sư Thái nói: “Trụ pháp là định, động pháp là loạn. Sự mất hoại có hai:
1. Vì không trụ nơi pháp nên mất hoại.
2. Vì pháp có động nên mất hoại. Khi mất hoại đều do biếng nhác, cho nên như thế! Vì lý do này, nên đáng thương xót. Luận sư Cảnh nói: “Tánh chân thật bất sinh, bất diệt, nên gọi là pháp trụ. Biến kế y tha có sinh, diệt, nên gọi là pháp động. Pháp trụ biếng nhác trong pháp động, nghĩa là mất, không hoại có, nên nói là không có mất hoại. “không” tức là lý “không” của tánh chân thật. “Có” chính là “pháp có” giả dối của y tha,biến kế sở chấp. Người này đã mất hoại lý của ba tánh, nên đáng thương xót!.
Lại giải thích: “Đây là lời nói lôi kéo dài, nghĩa là pháp trụ của biếng nhác không có mất, hoại trong pháp pháp động, thật đáng thương xót.”
Đoạn lớn thứ tư, Bồ-tát thắng nghĩa sinh thưa hỏi nghĩa ba vô tánh, trong văn có bốn:
- Hỏi, đáp, nói về nghĩa của ba vô tánh.
- Nhận hiểu, ngợi khen.
- Nói về giáo, công đức trì kinh hơn kém.
- Khi thỉnh đặt tên kinh, chúng được lợi ích.
Trong phần trước có hai: a. Bồ-tát nêu lời hỏi. b. Phật đáp.
Trong phần trước Ý hỏi: “Trong kinh, chỗ nào đức Thế tôn cũng đều nói các thứ các pháp uẩn, giới, xứ v.v… sinh, diệt, nhiễm, tịnh, biết, đoạn, chứng, tu. Thời gian sau Ngài lại nói: “Tất cả pháp đều không có tự tánh, vô sinh, vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn.” Hai thuyết trước, sau há không trái nhau?”
Dưới đây là sẽ đáp: Trước là đức Thế tôn khen câu hỏi là hay và răn dạy hãy lắng nghe, hứa nói. Sau đó là chính đáp.
Trong đáp, là trước văn xuôi, sau là trùng tụng. Thứ lớp văn xuôi có năm đoạn:
- Giải thích các pháp đều không có tự tánh, không có sinh diệt v.v….
- Giải thích nhân duyên kiến lập ba thứ vô tánh.
- Giải thích quán căn cơ, nói ba vô tánh.
- Nói bốn hạng hữu tình có hiểu rõ, không hiểu rõ về mật thuyết của Phật.
Trong phần đầu có hai:
- Nói không có tự tánh.
- Nói không có sinh diệt.
Phần trước nói: “Ta dựa vào ba thứ tánh của không có tự tánh, với mật ý nói rằng, tất cả các pháp đều không có tự tánh, nghĩa là bày tỏ chung ý nói. Nói là “tướng không có tự tánh” trở xuống, là nêu tên của ba Vô tánh.
Hỏi, đáp, giải thích. Trong đó trước là pháp thuyết, sau là thí dụ so sánh.
Trong pháp thuyết, tánh của tướng vô tánh của Biến kế sở chấp. Y tha đủ cả hai. Rất dễ hiểu. Nghĩa là sinh vô tự tánh, thắng nghĩa vô tự tánh. Pháp sư Thái nói: “Vì tánh y tha không có tánh thắng nghĩa của chân như, nên gọi là thắng nghĩa không có tự tánh (Thắng nghĩa vô tự tánh).
Luận sư Bị có hai giải thích:
1. “Nếu dùng đạo lý Thắng nghĩa để giải thích y tha, thì chỉ là “duyên” giả cho nên “có”, chứ chẳng phải có tự tánh thật, cho nên nói rằng: “Thắng nghĩa vô tánh, chẳng phải cho rằng vì trong y tha không có thắng nghĩa Viên thành thật, nên gọi là Thắng nghĩa vô tự tánh.”
Dù có giải thích sau, nhưng không bằng giải thích trước. Viên thành chỉ do thắng nghĩa vô tự tánh. Vì sao tánh vô ngã của tất cả pháp, gọi là Thắng nghĩa v.v…?” Luận sư Cảnh nói: “Không do vô ngã tức là thể của viên thành thật. Thể của Viên thành thật chính là chân như. Nhưng vì môn vô ngã nhập, nên từ nhập môn nói rằng vô ngã gọi là Thắng nghĩa. Chân như là thể thắng nghĩa đế của các pháp, do môn vô tướng tánh làm sáng tỏ, nên nói thắng nghĩa gọi là vô tánh. Luận sư Bị nói: “Muốn nói về thể chân như, tánh của pháp vô ngã cũng gọi là thắng nghĩa. Do ở trước đã nói về ba thứ, mỗi thứ vô tánh được hiển bày, nên gọi là không có tánh của tự tánh (vô tự tánh tánh). Dụ so sánh rất dễ hiểu.
“Này người thiện nam” trở xuống, là kết đáp câu hỏi trước.
Kế là, nói về không có sinh diệt v.v…, đầu tiên y cứ Biến kế sở chấp để giải thích, thứ hai y cứ Viên thành thật để giải thích.
Trong phần trước, Cảnh, Pháp sư Thái đồng nói: “Vì biến kế kia đều không có tự thể, nên không có sinh. Nếu không có tánh, thì không có diệt. Do không có sinh diệt, tức xưa nay vắng lặng, nghĩa vắng lặng, tức tương tự Niết-bàn, gọi là Niết-bàn, chứ chẳng phải Niết-bàn của diệt đế.”
Luận sư Bị nói: Các vị cổ Đức xưa v.v… giải thích: “Vì muốn nói về Niết-bàn chân thật đối trị biến kế, nên nói rằng Niết-bàn bản tánh.”
Nay, giải thích: Tức là Niết-bàn của Biến kế sở chấp, chứ chẳng phải Niết-bàn chân thật.
Dưới đây là y cứ Viên thành để nói không có sinh diệt v.v…
Ở trước y cứ tánh của biến kế, là không, nên gọi là không có sinh diệt. Nay, y cứ thể Viên thành, vì là thường nên gọi là không có sinh diệt. Nhân duyên y tha huyễn có sinh diệt. Cho nên không được y cứ để nói không có sinh diệt v.v…. Ở đây y cứ loại ba tánh để thực hành phân biệt này. Trước kia y cứ vào ba tánh để nói về vô tánh, nghĩa là về mặt đạo lý, chỉ là biến kế không có tướng, tức gồm thâu hết nghĩa vô tánh. Như thứ lớp văn dưới đây sẽ nói. Sau đó, lại y cứ ở chỗ đã mê chấp kia để nói, nên nói “về sau, lập sinh không có tự tánh của y tha.
Thắng nghĩa không có tự tánh, Viên thành thật là thắng nghĩa không có tánh tự tánh (Thắng nghĩa vô tự tánh tánh).
2. Nói về lập nhân duyên của ba vô tánh. Nói “chẳng phải do trong cõi hữu tình, cho đến ta lập ba vô tánh v.v… ”, Luận sư Cảnh nói: “Về lý ba vô tánh đều là tướng của Biến kế sở chấp không có tự tánh, chỉ vì nói sự tính toán, so lường của Biến kế sở chấp. Y cứ ở y tha và Viên thành thật, nhằm nói về sinh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh. Nếu y cứ chỗ sở chấp để nói sinh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh nếy y cứ chỗ sử chấp để nói về sanh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh thì cũng gồm thu hết vô tánh. Nếu nói tướng của biến kế sở chấp là vô tự tánh thì cũng nhiếp hết vô tánh. Nếu y cứ tánh y tha, Viên thành thật, để nói là sinh vô tự tánh, thắng nghĩa vô tự tánh thì cũng bao gồm hết vô tự tánh (không có tự tánh). Một kết hợp với hai, tức có ba vô tánh, nên văn này nói: “Chẳng phải nhân quán riêng ba tánh, mà ta lập ba vô tánh. Nhưng do hữu tình đối với tánh y tha và Viên thành thật, thuận theo lời nói chấp mắc mà ta lập ba vô tánh. Pháp sư Thái nói: “nếu đối với y tha, quán không có bờ mé là đã tăng ích tánh, tức là tánh vô tướng của Biến kế, cũng là tánh vô sinh của y tha, cũng đối với tánh Viên thành thật, quán cũng không có Biến kế sở chấp tánh cũng thế, là tánh vô tướng của Biến kế sở chấp, cũng là tánh vô tướng của Viên thành thật.
Dựa vào văn này quán tánh y tha đối với tánh Viên thành thật, nên Biến kế sở chấp của ba vô tánh không có tự thể, nênnói là vô tánh. Y tha Viên thành không có tự thể của Biến kế sở chấp khác, nên nói là vô tánh.
Nói “Hoặc do ngôn thuyết tùy giác, tức là phân biệt rõ danh ngôn, chúng sinh, khởi chấp Biến kế. Hoặc do tùy miên của ngôn thuyết, tức là trẻ con và bò, dê v.v… không hiểu rõ danh ngôn chúng sinh. Dù không hiểu rõ danh ngôn, khởi phân biệt. Nhưng do sức tùy miên hạt giống của ngôn thuyết, nên tướng chung là tính toán so lường.
3. Giải thích: “Quán căn cơ, nói về ba tánh, trong đó trước y cứ bốn mươi tâm, nói về ba vô tánh. Kế là dựa vào bốn vị gốc lành để nói.
Sau y cứ Địa thượng để nói.
Đầu tiên nói: “Các hữu tình v.v… cho đến “Do nhân duyên này, phần nhiều tu thắng giải, phần nhiều cũng chứa nhóm hai thứ tư lương. Luận sư Cảnh nói: “Đầu tiên vì chưa gieo trồng gốc lành v.v… đến “Chứa nhóm hợp tư lương”, nghĩa là nói các pháp đều từ duyên sinh, chứ chẳng phải tự nhiên khởi, gọi là sinh vô tánh. Người kia nghe nói, tùy từng phần, hiểu rõ các pháp vô thường, cho đến chứa nhóm tư lương.” Pháp sư Thái nói: “Thập tín trở xuống gọi là gieo trồng gốc lành. Bốn thứ như tịnh chướng v.v… là bốn mươi tâm.”
Luận sư Bị nói: “Địa vị thứ nhất, tức Thập tín trở xuống, nghe có giáo, vì đã gieo trồng gốc lành, nên địa vị thứ hai, tức Thập tín có khả năng tịnh chướng. Địa vị thứ ba, tức Thập giải, có khả năng thành thục. Địa vị thứ tư, l2 thập Hạnh, Tu thắng giải. Địa vị thứ năm, là Thập hồi hướng, cũng chứa nhóm nhiều tư lương.”
Kế là, y cứ địa vị bốn gốc lành, để nói về ba vô tánh. “Rằng người kia dù như thế, cho đến ở trong y tha, có thể không chấp mắc tánh sở chấp”, nghĩa là dù đối với địa vị này, đã chứa nhóm gốc lành, cho đến chứa nhóm hai thứ tư lương, tùy khả năng mà hiểu rõ về duyên sinh. Nhưng trong sinh vô tự tánh, chưa thể biết rõ như thật về tướng vô tự tánh và hai thứ thắng giải vô tự tánh tánh. Đối với tất cả hạnh chưa thể nhàm chán cho đúng, là đạo Gia hạnh chưa chính lìa dục, là đạo Vô gián. Chưa chính giải thoát là được giải thoát. Chưa giải thoát khắp ba nhiễm tạp nhạp này là đạo Thắng Tấn.
Đức Như lai lại nói pháp yếu người kia nghe. Người ấy nghe pháp xong, có thể tin hiểu chính đáng.
Nói “Lựa chọn tư duy”, ấy là bốn Tầm, Từ ở địa vị Noãn, Đảnh.
Thông đạt như thật, là địa vị bốn trí như thật, ở pháp nhẫn đệ nhất.
Dưới đây, y cứ Địa thượng, để nói ba vô tánh:
“Rằng, do ngôn thuyết vì không huân tập trí. Do không chấp mắc danh ngôn, nên không có danh ngôn huân tập trí. Do ngôn thuyết không thuận theo giác trí, nghĩa là không thuận theo danh, khởi giác trí phân biệt.
Do ngôn thuyết lìa trí tùy miên, nghĩa là do đoạn tùy miên ngôn thuyết, nên trí không chấp mắc, có thể diệt tướng y tha v.v….
4. Y cứ vào ý bí mật nói Nhất thừa, trước ý nói Nhất thừa, sau nói về căn tánh khác nhau, chẳng phải là không.
Phần trước, Cảnh, Luận sư Bị đồng nói: “Đây là nói về người của Ba thừa đồng nương đạo vô tánh, chứng đắc Niết-bàn. Người Nhị thừa ngộ về chấp người, Biến kế sở chấp không có tánh, biết pháp hữu vi từ nhân duyên khởi, không có tự nhiên sinh, tánh của sinh vô tánh, cũng biết y tha không có tánh tự tánh thắng nghĩa kia, cũng có thể Nhị thừa, tức là do nhân không được sáng tỏ, môn vô tánh chân như rõ ràng, gọi là thấu suốt thắng nghĩa không có tánh tự tánh. Bồ-tát tức do dứt trừ cả hai chấp, biết Tướng vô tánh, cho đến do “hai không” đã làm sáng tỏ chân như và do môn vô tánh làm rõ thắng nghĩa không có tánh tự tánh, cho nên nói rằng: “Tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát đều chung một đạo thanh tịnh mầu nhiệm này, lại không có ngã thứ hai. Vì dựa vào lý này, nên mật ý nói chỉ có Nhất thừa.”
Dưới đây, là nói về sự khác nhau về căn tánh. Pháp sư Thái nói: “Chẳng phải trong tất cả cõi hữu tình, đều không có các thứ căn thượng, trung, hạ khác nhau của ba thừa.”
Luận sư Bị nói: “Chẳng phải đối với hữu tình không có năm thứ khác nhau. Nói “Nếu hoàn toàn hướng về vắng lặng, cho đến cuối cùng không thể khiến sẽ ngồi đạo tràng, chứng được vô thượng Bồ-đề, thì lại đồng với kinh Giải Tiết bản dịch xưa. Chỉ thú của văn người xưa không thừa nhận tánh cố định.”
Luận sư Cát Tạng cũng giải thích văn này: “Nếu người Thanh văn lúc sắp vào vô dư, nhờ Đức Phật nói pháp, hồi hướng, phát tâm Đại thừa, là không có việc đó, cho nên nói rằng, sau cùng không thể được, không đồng với thuyết của Pháp sư Tam Tạng đã nói hôm nay. Bởi trong nghĩa này, có nhiều tranh luận dẫn chứng, nói về nghĩa và giải thích như thường.
Nói “Nếu hồi hướng Bồ-đề, thì chủng tánh Thanh văn Bổ-đặc-giàla ngã cũng có môn khác, nói là Bồ-tát v.v…, như Xá-Lợi-Phất v.v….
5. Nói về bốn hạng hữu tình mê có, ngộ có đối với kinh có thể rõ nghĩa, Mật giáo của Đức Phật, trong đó có ba:
- Nêu chung.
- Giải thích riêng ba giải thích đã kết.
Trong phần trước, nói “Như thế đối với ta cho đến “trong giáo pháp thiện”. Pháp sư Thái nói: “Nhắc lại giáo bốn đế, kể cà Bát-nhã, Thâm Mật v.v… ”
Luận sư Bị nói: “Nhắc lại giáo vô tướng như Bát-nhã v.v….”
“Này người thiện nam tử! Cho đến “Niết-bàn tự tánh. Cảnh Pháp sư nói: “Về đạo lý, đối với tất cả pháp, Y tha Viên thành là “có”, chỉ Biến kế sở chấp là “không”. Nhằm đã phá quan niệm chấp có kia của chúng Bồ-Tát, lần đầu tiên hướng về Đại thừa, nên đã mật ý nói chung rằng “Tất cả các pháp đều không có tự tánh, “không có sinh” “không có diệt” v.v…, gọi là kinh không liễu nghĩa.
Pháp sư Thái nói: “Hỏi: Có phải Mật giáo này nói ba vô tánh hay không? Nếu ngôn thyết, thì ý giáo Bát-nhã cũng nói là tánh vô tánh chân thật ư?
Giải thích: “Giáo rõ ràng chỉ nói rằng “không có tất cả” mà không phân biệt. Nếu lấy ý dưới của giáo, thì làm rõ chung lý của tánh vô tánh, cho nên, kinh Thâm Mật v.v… đã chỉ rõ mật ý kia, chính là làm sáng tỏ ba vô tánh.”
Luận sư Bị nói: “Ý giáo của Bát-nhã chỉ nói rõ Biến kế không có tướng. Làm sao biết được? Vì như luận trên nói: “Tất cả các pháp đều không có tự tánh, không có sinh, không có diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn v.v…. Mật ý nói tướng giáo không có tự tánh, nên biết rằng, chỉ nêu rõ tánh vô tánh của tướng.”
Trong kinh này trở xuống, là giải thích riêng có bốn hạng người; Luận sư Cảnh nói: “Hai người trước không mê; người thứ nhất cho rằng, các hữu tình đã gieo trồng gốc lành phẩm thượng, nghe pháp như thế, hiểu rõ như thật, cho đến hiện Đẳng Chánh giác”. Người thứ hai nói: “Các hữu tình đã gieo trồng gốc lành phẩm thượng, cho đến chưa thể chưa nhóm tư lương của phẩm thượng, tánh họ chân thật ngay thẳng. Du không có sức tư duy lựa chọn, mà không an trụ trong kiến thủ của mình, cho đến chỉ là trí sáng suốt xem xét rõ ràng về sở tri”. Ta đâu thể hiểu, tư khinh mà trụ.
Người thứ ba cho rằng: “Các hữu tình, cho đến “chưa có thể chứa nhóm tư lương của phẩm thượng, chẳng phải tánh chân chất ngay thẳng. Dù có sức hay tư duy lựa chọn phế lập mà trụ trong kiến thủ, nhưng nếu người đó nghe pháp như thế xong, đối với ngôn thuyết mật ý rất sâu kín của ta. Dù sinh tín giải, thuận theo lời nói chấp mắc, nghĩa là tất cả pháp quyết định, không có tánh, bất sinh, không diệt. Do đây mà đạt được không có kiến, không có tướng, kiến, bác bỏ tất cả tướng là vô tướng, bác bỏ biến kế sở chấp Y tha, thật tướng của Viên thành, dựa vào tánh đó để lập ra Biến kế sở chấp.
Đã bác bỏ không có hai tánh, nên cũng bác bỏ không có Biến kế sở chấp. Ở đây như người học của Tam luận chấp mắc về không kiến, gọi là “ác thủ không”. Dù đối với ngã, pháp, khởi lên tướng pháp, nhưng vẫn tin giáo pháp vô tánh. Mà chẳng phải trong phi nghĩa, khởi lên tướng nghĩa, nghĩa là đều dứt trừ hai tánh còn lại là bất “không” của Biến kế sở chấp, nhưng trong nghĩa bất không của hai tánh còn lại, khởi lên tưởng không. Cho đến dù đối với giáo, vì sinh niềm tin, nên phước đức tăng trưởng. Nhưng đối với phi nghĩa, vì khởi chấp mắc, nên lùi mất trí tuệ.
Kế là, nói người kia có hai đệ tử:
1. Người thứ nhất kia đồng với kiến chấp của thầy.
2. Đệ tử thứ hai, vượt hơn kiến chấp của thầy. Đối với giáo pháp kia, cũng bác bỏ không tin, cho là nghe pháp đều không có tự tánh, không có sinh diệt v.v…, bèn sinh sợ hãi, nói là chẳng phải lời Phật nói, mà là ma nói! Hiểu như thế rồi, họ chê bai, mắng nhiếc v.v… sách vở của các dòng họ.
Người thứ tư cho rằng: “Nếu các chúng sinh chưa gieo trồng gốc lành, cho đến tánh chẳng phải chân chất, ngay thẳng, trụ trong kiến thủ của mình, thì người ấy khi nghe pháp này bất sinh tin hiểu, nghĩ là phi pháp, nghĩ là phi nghĩa, thậm chí còn bác bỏ cho là giả dối.”
Luận sư Bị nói: “1. Nói về người tin và hiểu; 2. Nói về người có tin mà không hiểu; 3. Nói về người có sức tư duy lựa chọn; 4/ Nói về người tà chấp. Có chỗ giải thích: 1/ nói về người bốn thiện căn, 2/ Nói về người có bốn mươi tam, 3/ nói về người bác không. 4. Nói về kẻ chê bai, bác bỏ. Hai người sau này đều là Thập tín trở xuống. Luận sư Cảnh nói: “Trong đây có sáu hạng người căn tánh:
- Người có năm lợi, ba tuệ, mau chóng chứng rốt ráo, sinh tịnh tín.
- Người có bốn lợi, thiếu tuệ, tánh người ấy chân chất, nhay thẳng, không an kiến.
- Người có bốn lợi, thiếu tuệ, tánh chẳng phải chân chất, ngay thẳng, an kiến.
- Từ người khác nghe pháp, đắc pháp, mất nghĩa kiến đồng, lùi mất gốc lành.
- Người nghe pháp từ người khác, không theo kiến của người kia, tức là sinh sợ hãi, chê bai.
- Người không có lợi, thiếu tuệ, trôi lăn sinh tử, khởi che bai.
Dù nghe giải thích này, nhưng nay lại theo giải thích của Luận sư Cảnh.
Dưới đây, là kết như văn, trùng tụng. Nghĩa trước có năm bài tụng. Luận sư Cảnh nói: “Bài tụng đầu, tụng lại lần “lại nữa” đầu:
“Các pháp vô tánh
Bất sinh diệt thảy.”
Bài tụng thứ hai, tụng lần “lại nữa”, thứ ba: nghĩa là thứ hai lập
nhân duyên vô tánh. Thứ ba là quán cơ, nói ba vô tánh.
Thứ năm, đối với Mật giáo của Phật, có mê, có ngộ.
Dưới đây có ba bài tụng, tụng mật thuyết thứ tư kia về Nhất thừa. Người có trí nào nói không mật ý? Nghĩa là người của bốn trí đều tin Đức Phật nói các pháp không có sinh diệt v.v… đồng là mật ý kia. Dù nói các pháp vô tánh, nhưng ý nói các pháp Biến kế sở chấp không nói y tha, viên thành vô tánh, cảnh giới vô lậu, trong đó, giải thoát bình đẳng không có khác nhau, nghĩa là lý vô tướng, hoặc chẳng phải phàm phu có thể hiểu rõ, gọi là khó tư duy cõi vô lậu.
Bậc thánh ba thừa đồng tỏ ngộ lý này, nên nói rằng, trong đó giải thoát đồng đẳng không khác nhau.
Tất cả nghĩa thành, lìa hoặc khổ, nghĩa là do chứng Viên thành thật, nên gọi là “tất cả nghĩa thành”. Dứt trừ y tha kia, gọi là lìa hoặc khổ.
Hai thứ thuyết khác Thường, Lạc, nghĩa là Viên thành này tức là thể Niết-bàn của hai thứ Hữu dư, Vô dư. Do lìa hoặc nên là thường, do lìa khổ nên vui, hai tên gọi thường lạc, gọi là hai thuyết khác.
Nay, giải thích: “Tụng đầu, là tụng đoạn thứ nhất. Kế là có câu tụng đoạn thứ hai. Kế là có hai câu tụng đoạn thứ ba. Kế là, có hai câu tụng rưỡi đoạn thứ tư. Sau, có hai câu tụng đoạn thứ năm.
Trên đây, là hỏi đáp để nói về nghĩa ba vô tánh xong. Dưới đây là thứ hai, nhận hiểu, khen ngợi: Trước Bồ-tát nhận hiểu, sau, đức Như lai khen ngợi.
Phần trước, trước khen ngợi Đức Thế tôn, sau đó là nhận hiểu. Trong nhận hiểu, trước là pháp thuyết, sau là dụ so sánh. Trong pháp Bồ-tát chỉ nhận hiểu về nghĩa ba vô tánh mà Đức Thế tôn đã nói, trong đó, trải qua pháp, nói, giải thích. trước hết là nêu sắc uẩn, giải thích ba vô tánh. So sánh bốn uẩn và các pháp khác. Kế là, là nêu ba vô tánh của khổ đế, so với ba đế còn lại, cho đến trong tám chánh đạo. Sau y cứ vào chánh định thứ tám, để nói, giải thích ba thứ vô tánh.
Trong dụ so sánh có bốn:
1/ Nêu thuốc Tỳ-thấp-phược. Tất cả thuốc tán thuốc tiên, trong phương đều là chỗ thích ứng, yên ổn. Thuốc này bình yên, ổn thỏa, điều hòa các thuốc, tất cả thuốc hoàn tán đều xếp vào một vị.
Như thế, Đức Thế tôn v.v… cho đến “đều là chỗ thích ứng, yên ổn, nghĩa là ở trước đức Thế tôn vì Bồ-tát mới học Đại thừa, nói chung các pháp đều không có tự tánh, chưa nói về Y tha, viên thành là có, gọi là không liễu nghĩa. Nay, nhận hiểu rằng, chỉ Biến kế sở chấp là “không”, hai tánh còn lại là “có”, là chân liễu nghĩa. Đem đạo lý “có” “không” liễu nghĩa này để giải thích về kinh không liễu nghĩa của thuyết ở trước, thì biết Đức Phật nói nghĩa không có tự tánh, tức không phải tất cả các pháp đều “không”, nên nói “Khắp đối với tất cả kinh không liễu nghĩa, đều là chỗ thích ứng, yên ổn.
Tỳ-thấp-phược: ở đây vì không có từ ngữ nào tương đương với danh từ này, nên vẫn giữ nguyên tiếng Phạm. Lại, giải thích: “Tiếng Phạm tỳ-thấp-phược, đời Đường dịch là có công năng.
2/ Nêu thí dụ sách. Như khi muốn vẽ, trước phải dùng đất nhuyễn rải khắp các màu sắc. Do đất nhuyễn này lại có thể phát rõ tướng mạo, sự nghiệp của sách, màu cho rõ ràng, dùng ngôn giáo liễu nghĩa của lý “không” bất “không” trong các pháp, nhằm làm rõ kinh không liễu nghĩa, noí là đối với các pháp đều không có tánh, nghĩa là chỉ y cứ ở Biến kế sở chấp.
3/ Nêu Dụ bơ chín, rất dễ hiểu.
4/ Thí dụ hư không. nghĩa là nói đủ nghĩa “không” bất “không” của ba tánh, kèm theo “hữu”, nói “không”, gọi là liễu nghĩa.
Khắp với tất cả kinh bất liễu nghĩa chỉ nói về không xứ, phân biệt, giải thích, không che lấp tất cả tác nghiệp của Trung đạo, như hư không đầy khắp tất cả sắc xứ, không chướng ngại tất cả nghiệp riêng đã tạo nên: dưới đây, là Đức Phật khen ngợi, thứ ba, trong phần nói về giáo, công đức trì kinhhơn kém, trước quyết định giáo thể hơn, kém của ba thời. Sau nói phước lợi trì kinh.
Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói: “Một thuở nọ, tại chỗ đọa của vị tiên Bà-la-ni-tư, xưa gọi là trú xứ của người tiên là “phi”. Vì xưa, nhà vua thưòng dẫn các thể nữ dạo chơi ở vườn thượng uyển. Bấy giờ có năm trăm vị tiên trong hư không sắp đi qua, vừa nhìn thấy các thể nữ liền rơi xuống, nên gọi là xứ đọa của các vị tiên.
Vì hướng đến Nhị thừa, nên nói riêng Bốn đế, an lập Đế “có”, là các giáo tranh nhau giữ lấy xứ an lập. Đây chính là ẩn mật vì nói hai tánh y tha, Viên thành là có. Vì e rằng sẽ thêm chấp “không’, nên chẳng nói tánh “không” của Biến kế sở chấp, gọi là bất liễu nghĩa.
Trong thời thứ hai, Đức Phật đã vì các chúng Bồ-tát phát tâm hướng về Đại thừa, nên đã phá chấp “có” kia, nói các pháp không có đại Bát-nhã, tức là ẩn mật vì nói tự tánh của Biến kế sở chấp vốn không. Vì e rằng sẽ thêm chấp có, nên chưa cho nghe nói hai tánh Y tha, Viên thành là “có”, nên gọi là chưa liễu nghĩa.
Đến nay trong thời thứ ba, vì Bồ-tát học sâu, nói kinh Giải Thâm
Mật, nói đã Biến kế sở chấp là “không”, hai tánh còn lại là “có”. Về nghĩa “có”, “không” là nói hai tánh “có”, tức là nghĩa sẽ vì người phát thú Nhị thừa mà nói, nói Biến kế sở chấp là không, chính là nghĩa sẽ vì người phát thú Đại thừa mà nói, nói đủ nghĩa “không” “hữu” của ba tánh, tức là sẽ vì Bồ-tát học lâu mà xoay bánh xe chánh pháp, là nói liễu nghĩa, nên nói khắp vì người phát tâm hướng về tất cả thừa, nghĩa là nói chân liễu nghĩa.
Pháp sư Thái nói: “Đầu tiên là xoay bánh xe pháp Bốn đế của Thanh Văn. Thời thứ hai, vì người phát thứ hướng một tánh “không” Đại thừa, mà nói các pháp không có tánh của tự tánh. Nhưng không y cứ vào ba tánh, ba vô tanh để phân biệt, nên gọi là tướng ẩn mật chuyển, chỉ nói tất cả đều “không’ chẳng nói y tha, viên thành là “hữu”. Như phẩm Đại v.v… là giáo kia.
Đến nay thời thứ ba, vì phát thứ hướng về tất cả Đại thừa. Vì rõ khắp, nói ba tánh, ba vô tánh, xoay bánh xe chánh pháp, lại không có trên. Như Hoa Nghiêm v.v… là giáo kia. Do nói là pháp chấp ngang trái không có nhân duyên và pháp Viên thành là “có”.
Trong giáo thứ hai, không nói ba thừa thành Phật, nên chỉ nói Đại thừa.
Trong giáo thứ ba, nói về ba thừa tánh bất định thành Phật, nên gọi là tất cả Đại thừa. Dưới là nói phước lợi trì kinh.
Ổ-Ba-Ni-Sát-Đàm phần là chỗ cùng cực (vô cực) của số.
Thứ tư, thỉnh đặt tên kinh. Trong thời gian chúng được lợi ích, trước thỉnh đặt tên, sau nói về thời gian được lợi ích.
Tam Tạng Pháp sư nói “Nói về được lợi có lợi của Ba thừa, tức là dẫn hai nhà của Thích Luận để giải thích.
1. Giải thích: “Giảng nói bằng một âm thanh, tùy theo từng loại đều được hiểu, như kinh Duy-ma nói.
2. Giải thích: Cái thấy dù khác, nhưng về nghĩa đã nghe thì đồng. Đây là nói đồng nghe một giáo, người nói thì khác, nên đại, Tiểu, ba thừa đều chứng được quả của mình. Như Phật Địa Trì chép “Cái thấy dù khác mà nghĩa nghe thì đồng. Việc này cũng như thế, dù nghe một giáo, mà Thanh văn thì hiểu về lý Nhân không. Bồ-tát hiểu “hai không”, cho nên kinh nói: “Ba trăm ngàn Thanh văn, Xa trần, lìa cấu v.v…, là lý ở đây. Việc xa trần v.v…, như luận sẽ nói.
BẢN LUẬN QUYỂN 77
Trên đây, trong dẫn kinh nói về bảy nghĩa, bốn đoạn trước đã nói xong. Dưới đây là đoạn thứ năm, Bồ-tát Từ Thị thưa hỏi về nghĩa Chỉ, Quán. Trong đó, trước nêu tông chỉ của kinh. Kế chính là dẫn văn kinh ấy.
Phần trước, pháp, là giáo pháp. Dựa vào giáo pháp đó, lập bày. giả lập mười hai bộ kinh, phân biệt, giải thích nghĩa tương ưng của chỉ quán hoặc là giải thích chỉ quán, đắc quả bồ đề, tức là nghĩa tương ưng của nhân quả, cho nên nói phân biệt giải thích đạo Xa-ma-tha, Tỳ-BátXá-Na. Thuộc về Du-già.
Trong phần chính dẫn văn kinh, trước, hỏi, sau đáp chính là nói về nghĩa chỉ quán. Sau là lúc thỉnh đặt tên kinh, được lợi ích.
Trong phần trước có hai:
- Văn xuôi.
- Trùng tụng.
Trong văn xuôi, trước là hỏi, đáp, nói rộng. Sau, là thuật lại lời khen, khuyên học.
Trong phần trước, lại chia làm hai mươi sáu môn:
1. Nói về môn Chỉ, Quán Y Trụ:
Hỏi: “Lấy gì làm y, Trụ những trụ nào mà tu chỉ quán?” Dưới đây, đáp: “Dùng giáo làm y, không bỏ nguyện của Đại Bồ-đề làm trụ.
2. Môn sở duyên (đối tượng duyên). Luận sư Cảnh nói: “1- Có phân biệt cảnh giới sở duyên của ảnh tượng, là lúc quán trí của Địa tiền y giáo tu, tức duyên tướng phần của ảnh tượng, tự biến ra tợ pháp của ảnh tượng gọi là có phân biệt sở duyên của ảnh tượng. 2- Là ảnh tượng sở duyên của vô phân biệt: cũng là tâm “chỉ” của Địa tiền đã biến ra cảnh nghĩa pháp tương tợ. Tâm “chỉ” gọi là tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt hiện ra ảnh tượng gọi là ảnh tượng vô phân biệt.
3. Sự cảnh sở duyên của việc bờ mé: Tức là chân như sở duyên của Chỉ, Quán trong Thập Địa. Chân như đầy khắp tất cả Pháp sự, nên gọi là cảnh của việc bờ mé. Cũng có thể pháp,vật sự có các pháp, gọi là chung là thể chân như khắp bờ mé danh, sự.
4. Cảnh sở duyên của việc làm đã thành xong, nghĩa là ở Phật Địa. Việc mà Phật địa đã làm, tất cả thành xong. Cho nên, sở duyên chỉ, quán của Phật địa, gọi là cảnh thành xong.
Pháp sư Thái nói: “Vì lấy chuyển Y công đức của hữu vi, vô vi làm cảnh, nên nói là thành xong.”
Luận sư Cảnh nói: “Một nói là đối với tất cả Địa đều có đủ bốn sở duyên. “Chỉ” gọi là vô phân biệt, “quán” gọi là có phân biệt. Chỉ quán song vận, gọi là việc bờ mé sự đã làm thành xong.” Luận sư Bị nói: “Quán thế của văn này, hai sở duyên sau đều là vô phân biệt, có phân biệt ảnh tượng làm duyên, cũng có thể hai sở duyên sau đều không dùng hai thứ ảnh tượng làm cảnh sở duyên.
Một nước phương Tây nêu ra cách giải thích như vậy: “Vì trí vô phân biệt “duyên” chân như, nên cũng gọi là ảnh tượng của vô phân biệt, và dẫn Đối Pháp để chứng minh.” Dù có giải thích này, nay dùng trí vô phân biệt lúc chứng chân như vô tướng là tốt.”
5. Môn tìm chỉ quán tốt. Luận sư Cảnh nói: “Về lý, dựa vào bốn cảnh này để cầu “chỉ”, cũng tìm kiếm ở quán. Nhà văn đổi câu, nên nói là cầu chỉ, có thể tốt hơn quán.
Nói “Vì các Bồ-tát an lập mười hai bộ kinh, người kia nghe khéo thọ v.v… là văn tuệ, tức như pháp đã tư duy, ở riêng một mình chốn rảnh rang v.v… là Tư, Tuệ. Tuê, Văn, Tư này khi duyên giáo pháp kia, khi tu phương tiện, tức “duyên” tướng phần do tự tâm biến ra. Nói “Lại, tức ở đây, hay tư duy nội tâm, kiến phần của tâm nối tiếp nhau, lấy tư duy làm cảnh. Chánh hạnh như thế thường an trụ, nên khởi thân khinh an và tâm khinh an, là gọi là Xa-ma-tha, vì phương tiện thành, nên được định kia.
“Như thế v.v… trở xuống là kết. “Người kia do được thân tâm khinh an làm chỗ nương tựa, nên đến bỏ lìa tướng tâm, nghĩa là do chứng được Tam-ma-địa bên trong kia, khi quán sát, tự biến ra tướng ảnh tượng, vì bỏ “duyên” kiến phần nối tiếp nhau của Văn, Tư, nên nói;à bỏ lìa tướng của tâm.
Nói: “Tức trong nghĩa sở tri của ảnh tượng Tam-ma-địa như thế”, là nhắc lại nêu nghĩa sở tri của tâm chỉ ở trước.
“Hay chánh tư duy lựa chọn, v.v… chính là giải thích Tỳ-Bát-XáNa khéo léo. Chỗ khác dùng bốn nghĩa để giải thích Tỳ-Bát-Xá-Na. Nay, trong văn này, dùng chín nghĩa để giải thích: Bốn nghĩa trước, như địa Thanh văn nói. Năm nghĩa sau là tên khác của kiến.
Pháp sư Thái nói: “Vì sao Sơ địa, nên lìa bỏ cảnh giới ảnh tượng của tướng tâm.”
Thứ tư, là môn phương tiện chỉ quán, ban đầu, hỏi, đáp, nói về cầu phương tiện “chỉ”, “duyên” kiến phần nối tiếp nhau của tâm văn tư. Bấy giờ, chẳng phải chỉ là thuận theo tác ý tương ưng với “chỉ”. Kế là, hỏi đáp cầu phương tiện quán. Hai tuệ văn tư, lúc tư duy tướng ảnh tượng của các pháp, chỉ thuận theo quán, chứ chẳng phải thể của quán, vì cầu phương tiện đã nói là tu tuệ.
Thứ năm, môn “một” “khác”, trong đó chia làm hai:
- Nói chỉ, quán là “một”, “khác”.
- Nói tướng kién “một” “khác”.
Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói: “Ý hỏi đáp ở đây là y cứ “duyên” cảnh bản chất đồng, nên nói chẳng phải khác, vì chỉ quán thường đi chung, đồng “duyên” bản chất kiến phần, tướng phần của văn, tư làm sở duyên.
Y cứ “duyên thuận theo ảnh tượng của tâm, thì chỉ, quán là “khác”, vì “chỉ” chỉ “duyên” ảnh tượng vọ phân biệt, “quán” duyên ảnh tượng phân biệt, nên thể của chỉ quán chẳng phải không khác.”
Pháp sư Thái nói: “Vì quán tức là đối tượng duyên của “chỉ”, nên y cứ tâm duyên kia đồng, nên chẳng phải “khác”. Quán cảnh tướng phần của ảnh tượng phân biệt, mà chẳng phải cảnh chỉ. Cảnh đã không đồng, nên chẳng phải không “khác”.
Dưới đây trong phần nói về kiến, tướng là “một” “khác”. Luận sư Cảnh nói: “Lìa thức lượng, thì không có ảnh tượng riêng, nên nói không có khác. Vì ngoài tâm không có pháp, nên không thấy chi khác. Khi thấy ảnh tượng, gọi là thấy tâm mình. Như dựa vào gương soi sạch, mặt mình làm duyên, nhãn thức thấy trở lại mặt bản chất của mình. Y thức tính toán so lường, phân biệt biến ra ảnh tượng, ngay tâm mình hiện, nghĩa là ở trong gương soi. Gương soi dụ cho thể định, bản chất dụ cho tâm vương tương ưng với định. Ảnh tượng dụ cho tướng phần của tâm. Do định thấm nhuần, lắng trong, để cho tâm có thể hiện ra tướng phần của tâm, tức đem định kia tương ưng với tâm vương làm gương soi, quyết định làm bản chất, quyết định cảnh đã sáng tỏ là ảnh tượng kia. Đồng thời như thế. Tâm số khác lần lượt đối nhau đều được làm ảnh tượng bản chất của cảnh. Tâm tán thế nào?
Đáp: “Trong tâm tán đều có tâm sở định. Theo tác pháp ở trước đều được có thể biết.
“Đức Thế tôn nói: “Nếu các hữu tình trụ tự tánh” trở xuống, là nói các kẻ ngu với tâm tán mà chấp cảnh, cũng không có “khác”, chỉ hiểu điên đảo, chấp có vật riêng.”
Pháp sư Thái nói trong đây không có chút pháp nào để quán chút pháp, nghĩa là theo lý Đại thừa, các pháp không có tác dụng, lúc tâm quán cảnh, không biết giữ lấy vật, nên không có pháp nào chấp chút pháp, tức tâm này lúc dựa vào cảnh sinh thì có ảnh tượng của cảnh như thế, hiện rõ trên tâm, nên giả nói tâm năng quán cảnh. Về lý, thật ra phải nói là không có nhiều pháp để quán nhiều pháp. Kinh nói “Một ít, nghĩa là nêu chút để phá nhiều. Như dựa vào, mặt, gương sạch lấy bản chất làm duyên và cho rằng, ngoài bản chất ảnh tượng sở tri có riêng ở gương soi, mặt được hiện rõ.”
Luận sư Bị, Khuy Cơ nói: “Nhiếp luận nói: “Không có pháp khác có thể chấp pháp khác. Thức này như thế và sinh hiện rõ”. Do giải thích xưa này, có thể “duyên” ngoài tâm, không có khả năng chấp nào khác và ngoài cảnh, không có đối tượng chấp khác.
Nay, luận này ý muốn nói Đại thừa thấy các pháp tướng đã không có tác dụng, ta là chủ thể duyên (năng duyên), ta là đối tượng duyên (sở duyên), chỉ vì tâm thanh tịnh, nên tất cả các tướng đều hiện rõ nơi tâm, nên gọi là chấp cảnh (rộng như luận Phật Địa nói).
Lại, ý văn luận này nói không có chút pháp nào có tác dụng, huống chi các tâm và tướng mà có tác dụng hay sao, thế nên khi các pháp sinh. Do đạo lý này, nên không đồng với cách giải thích này.”
6. Thứ sáu, môn đơn song. Luận sư Cảnh nói: “Hoàn toàn tu quán”, nghĩa là nếu tác ý nối tiếp nhau, thì chỉ tư duy kiến phần của tâm, là đúng. Hoàn toàn “tu chỉ”, nghĩa là nếu tác ý nối tiếp nhau, tư duy kiến phần của tâm vô gián diệt ở trước la đúng.
Chỉ quán hoà hợp cùng chuyển, nghĩa là nêu chánh tư duy một tánh cảnh của tâm, thì chỉ khi chỉ quán đều cùng lúc thông đạt, ảnh tượng chỉ là thức kia, hoặc thông suốt chỉ quán này rồi, lại tư duy tánh như. Dưới đây, theo thứ lớp giải thích ba cảnh trước rất dễ hiểu.” Pháp sư Thái nói: “tướng phần của tâm thì nhiều, kiến phần chỉ một. Tỳ Bát Xa Na, Hán dịch là quán sát, nên được tư duy tướng phần của tâm. Tu riêng quán, tu riêng chỉ rất dễ hiểu. Cả hai, nghĩa là nếu khi thực hiện quán Duy thức, tướng, kiến hợp “duyên”, nên định, tuệ hòa hợp cùng chuyển. Luận sư Bị nói: “Định, tuệ đồng hiện hành, tư duy một tánh cảnh của tâm.”
7. Có bao nhiêu môn? Đại khái có ba thứ:
- Có tướng thuần tư duy, phân biệt ảnh tượng.
- Tìm cầu riêng về chỉ, quán kia, người kia chưa khéo hiểu rõ đối với tất cả pháp. Vì khéo hiểu rõ, nên tác ý tự duy tất cả các pháp.
- Từ Sát, nghĩa là khéo hiểu rõ các pháp, vì muốn chứng đắc giải thoát, nên tác ý tư duy.
Ba quán như thế, vì tăng trưởng dần, nên có biện biệt hơn, kém. Trong “chỉ”, tức do thuận theo tâm ba quán vô gián ở trước, nên như thứ lớp có ba. Hoặc tám, hoặc bốn như văn.
8. Môn tùy Tín pháp hạnh. Như nói: “Dựa vào pháp chỉ quán, lại nói không dựa vào pháp chỉ quán.” Nghĩa này thế nào?” Phật đáp: “Tự nương theo giáo pháp, tư lương tu chỉ, quán, gọi là dựa vào lợi căn pháp hạnh. Nếu không theo kinh pháp, tin trực tiếp vào sự giáo huấn, truyền trao của thiền sư v.v…, để tu chỉ quán, thì gọi là không dựa vào pháp, là độn căn tùy tín hạnh.”
Trong đây, như Tát-bà-đa nói: Thanh văn kiến đạo, giai vị mười lăm tâm, lợi căn gọi là Pháp hành, độn căn gọi là Tín hành. Bồ tát hoàn toàn là pháp hành Độc giác cũng là Pháp hành. Bạt-ma nói: “Địa vị văn, tư, gọi là Tín hạnh, bốn địa vị hiện nhẫn, gọi là pháp hành. Kiến đạo trở lên, gọi là vô tướng hành. Nay y theo Đại thừa, tín hành pháp, hành của Nhị thừa, về nghĩa thì đồng với nhà sau. Nếu theo Đối Pháp, cũng chung, nên cũng không trái với thuyết của luận gia trước.
Hồi hướng trong địa vị Bồ-tát trở xuống gọi là tín hạnh. Bốn gốc lành gọi là Pháp hạnh. Sơ địa trở lên, gọi là Vô Tướng hạnh. Địa tiền cũng có Lợi (căn nhạy bén), Độn (căn chậm lụt) khác nhau, Đăng Địa trở lên, căn tánh đồng nhất.
9. Môn “Duyên” pháp chung, riêng, trong đó có bốn:
1- Nói “duyên” chung, riêng, nói vô tướng, tu xuất ly các tướng. Trong chân pháp giới, dứt trừ sự khác nhau của giới mà tu tập. Trong vô tướng tu, có công dụng và không có công dụng. Nay chỉ rõ tu này là không có công dụng. Sự hơn kém trong không có công dụng không nhất định.
Nói “Tu hưng thịnh hoặc”, dù hưng thịnh sở đắc chút ít liền sinh hỷ túc, nên sau cùng nói tu không có hỷ túc.
Nói năm quả, chính là năm duyên đã nói trong đây.
Năm tu quả, là trong thời gian tư duy, sát na, sát na, tiêu dùng tất cả đối tượng nương tựa thô nặng, là tu chung quả. Chính vì tu chung, nên mỗi niệm dứt trừ, bỏ đi “sở y” thô nặng. Sở y thô nặng tức là Thức A-lại-da.
2- Lìa các thứ tưởng được ưa pháp lạc, là quả của vô tướng tu. Lìa ngã, lìa pháp, tưởng tướng Phật v.v… chứng nơi pháp giới, trong đó, mừng vui gọi là pháp lạc. Trong nhiếp luận nói được pháp viên lạc.
3- Hiểu rõ vô lượng quang, tướng không có khác nhau của mười phương, là tu quả không có công dụng. Do chánh chứng được Hậu Trí không có công dụng, tu xuất quán, như trước soi rõ tướng không có khác nhau của thế giới mười phương, gọi là pháp sáng suốt.
4- Việc làm đã hoàn tất, tương ưng với tướng vô phân biệt của phần tịnh, thường hiện ở trước, là quả tu hưng thịnh. Quả Phật đương lai, gọi là thành mãn tương ưng với phần tịnh. Tu hưng thịnh này vì dẫn đến kia, tướng vô phân biệt thường hiện ở trước.
5- Khiến cho pháp thân được thành mãn nên nhiếp thọ nhân sau sau chuyển thắng nhiệm mầu, là quả không có hỷ túc. Địa thứ mười, gọi là thành, ở Phật gọi là mãn.
Cảm nhân này gọi là mầu nhiệm thù thắng. Các nhân trước ở trước đã chiêu cảm. Tập hợp, nên gọi là nhiếp thọ sau sau, chuyển nhân mầu nhiệm thù thắng.
Thứ tư, nói về thông đạt và từ địa cực hỷ đầu tiên, gọi là thông đạt. Từ Địa Phát, Quang thứ ba, cho đến “gọi là đắc”, đây là duyên pháp chung đã tu Chỉ, Quán. Do chứng lý cùng tận, nên nói “Từ Sơ địa trở đi, gọi là Thông đạt”.
Y cứ tướng mà nói là Tam địa được định. Nói “Từ địa thứ ba trở lên, mới gọi là đắc. “Bồ-tát Sơ nghiệp cho đến không nên lười biếng, nghĩa là Bồ-tát Địa tiền cũng học quán chân như, học quán ba vô tánh v.v… của Duy thức, dù chưa đáng khen, nhưng không nên lười biếng, bỏ tu Chỉ, siêng tu Quán.”
10. Môn ba địa, dùng hai lần “lại nữa” để giải thích. Luận sư Cảnh nói: “Đầu tiên giải thích Chỉ, Quán, như đã lấy hành tướng của pháp Tầm, Từ có thô tế làm hai thứ trước. Nếu tức đối với tất cả pháp tướng đều không có tác ý, lãnh thọ, quán sát thì gọi là không có tầm, không có từ. Đây là học quán chân như vô phân biệt quán, gọi là không có tầm từ. Ba pháp này đều ở Địa tiền. Y cứ ở hành, chia làm ba, không dựa vào Địa Sơ thiền v.v… của cõi Dục để nói.
Trong giải thích thứ hai, dùng bốn tầm, từ làm câu đầu, bốn trí như thật làm câu thứ hai, trí vô phân biệt làm câu thứ ba, cũng không y cứ ở địa để nói, chỉ y cứ ở hành để nói có ba.
Pháp sư Thái nói: “Lại nữa” ở trước là y cứ ở hạnh để phân biệt, nên có ở cả ba giới. “Lần lại nữa” sau, y cứ ở địa để phân biệt, lai đồng với nghĩa trong Bản địa phần.”
11. Môn ba tướng: Luận sư Cảnh nói: “Nếu nói tâm điệu cử cho đến “là gọi là tướng Chỉ, nghĩa là hoặc tâm điệu cử, hoặc khi đối với cảnh điệu cử khởi. Tác ý tư duy “duyên” theo pháp bị chán và tác ý tư duy duyên theo tâm nhàm chán tự loại nối tiếp nhau, đó gọi là tướng “chỉ”.
Nói “Nếu tâm hôn trầm, cho đến “gọi là nêu tướng, nghĩa là nếu tâm hôn trầm, hoặc khi đối với cảnh hôn trầm, e hôn trầm, tác ý tư duy “duyên” pháp đáng ưa thích, hoặc “duyên” tự loại nối tiếp nhau của tâm kia, gọi là nêu tướng.
Nói “Nếu hoàn toàn “chỉ” đạo cho đến “gọi là tướng “xả”, nghĩa là nếu hoàn toàn “chỉ”, hoàn toàn “quán”, và đạo song vận (vận dụng cả hai). Hai tùy phiền não v.v… đều che lấp Xả. Nay lìa chướng ngại kia mà có tác ý không có công dụng và trong nhậm vận (tự nhiên) chuyển đã có tác ý, gọi là tướng xả.
Pháp sư Thái nói: “Định, gọi là tướng “chỉ” duyên kia trước diệt và vô gián, đều không ưa quán cảnh của tướng phần, nên được điệu cử “chỉ”.
12. Môn biết pháp nghĩa, trước hỏi, sau đáp. Trong đáp trước nói về biết pháp, sau nói về biết nghĩa. Trong biết pháp Luận sư Cảnh nói: “Vì tự tướng của danh thuyên, nên luận trên nói: “Từ tánh thêm lời nói, câu, giải thích về nghĩa khác nhau như các pháp vô thường v.v…, nên luận trên nói rằng, câu, nghĩa là sự khác nhau, thêm lời nói, chử có, khả năng có thể luyến hòa danh với câu. Gọi là chỗ y chỉ, nghĩa là do tác ý của sở duyên khác nhau liền khởi gọi là tâm, nghĩa là do tổng hợp tác ý sở duyên; là tâm khởi câu. Hai thứ sau là tâm phát giáo pháp, danh của văn là pháp.”
Pháp sư Thái nói: “Nghĩa nhiễm, tịnh được giải thích, vì dựa vào danh, câu nên năng giải thích nghĩa lập, nên nói “y trì kiến lập”. Văn, tức là tục ngữ, nay đem chữ tục để làm rõ chữ giáo kia, nên tức là hai chữ sở y chỉ của danh, câu kia.”
Trong biết nghĩa, đầu tiên, do mười thứ tướng biết rõ về nghĩa. 2. Biết năm thứ, 3. Biết bốn thứ, 4. Biết ba thứ.
Trong biết mười thứ:
1- Biết tánh tận sở hữu, tức bờ mé riêng của phẩm nhiễm, tịnh pháp.
2- Biết tánh như sở hữu, tức các pháp như.
Dưới đây, sẽ nói về bảy thứ chân như. Pháp sư Khuy Cơ nói: “luận Trung Biên Phân Biệt cũng nói bảy thứ chân như này”.
Người xưa nói “Bảy chân như trong luận Trung biên, nghĩa là chánh chân như, thuận theo giải thích chân như kia, nói là khổ, nói là khổ đế v.v….” Nay giải thích ý của luận này do khổ đế v.v… gọi là chân như.” Gọi là thể của chân như chẳng phải chân như
Nếu theo luận này thì đều là chân như. Y cứ giải thích để nói có bảy thứ.
Có chỗ giải thích: “Bảy thứ với pháp, an lập lý thú, thuộc đương đạo lý, tức gọi là chân như. Đây lại có bảy thứ:
1.- Lưu chuyển như, nghĩa là tất cả hành không có tánh trước, sau, nên nói các hành không có tánh trước, sau. Nói về lý này tức gọi là chân như.
2.- Chân như tướng. Hai thứ vô ngã của nhân, pháp là tướng. Chân như, thể của tướng, gọi là chân như tướng, nên dưới đây nói là tám, nghĩa là biết rõ nghĩa chân như tướng.
Có tướng vô ngã của Bổ-đặc-già-la. Do rốt ráo là không v.v… làm đối trị.
3.- Liễu biệt như, nghĩa là tất cả hành chỉ là thức tánh, nghĩa là thể của thức liễu biệt (phân biệt rõ). Thức liễu biệt là thể tướng của các pháp, gọi là liễu biệt chân như.
4.- An lập như, nghĩa là khổ đế: Khổ thật không thể làm cho vui, tức gọi là chân như. Ba đế còn lại cũng thế. Bốn đế đều là an lập. Khổ rất ở đầu tiên được an lập tên. Ba thứ sau lại đặt tên gọi là riêng, rất dễ hiểu.
Dưới đây, là nói về cuộc hạn chung. Trong bảy thứ này, lưu chuyển an lập tà hạnh, ba như, chúng sinh đồng có hai thứ vô ngã như, và Duy thức như. Các pháp v.v… là có, vì chung cho các pháp. Thanh tịnh như, ba thừa đồng có. do ba thừa dứt hoặc, đồng chứng trạch diệt, trạch diệt chân như ba thừa đồng có. Do chánh hạnh chân như, chỉ quán bình đẳng. Ở đây tức chỉ rõ bốn thứ bình đẳng.
5.- Kiến lập nghĩa: Khí thế giới, trong đó có thể được kiến lập tất cả giới hữu tình v.v…, nghĩa là nhân khí thế giới thành thọ chúng sinh, gọi là kiến lập, tức giới chúng sinh là chỗ kiến lập. Trong đây, ý lấy khí thế giới năng kiến lập, nên văn nói là một làng ruộng, hoặc một trăm làng ruộng v.v…. Văn còn lại rất dễ hiểu. Biết khắp sự việc trong năm nghĩa, nghĩa là biết thể của các pháp. Biết khắp nghĩa, tức là biết nghĩa khác nhau. Duyên, là bốn duyên, đời là ba đời.
Nói “biết khắp nhân”, nên biết chính là người có thể lấy hai Bồđề phần pháp ở trước. Pháp sư Thái nói: “Bốn niệm trụ làm một. Bốn chánh đoạn và thần túc, lựa, giác, đạo, chung làm một. Vì hai chủ thể lấy được Bồ-đề, nên nói hai.
Lại giải thích: “Ba mươi bảy phẩm “duyên” hai cảnh trước, nên nói hai: Luận sư Cảnh nói: Trước nói Bồ- đề vô thượng và Bồ-đề nhị thừa, nên nói hai Bồ-đề ở trước”.
Biết được khắp quả, nghĩa là tham, giận, si, dứt Tỳ-nại-da: nghĩa là điều phục tham hẳn v.v…. Lại tham v.v… dứt trừ hẳn quả của các Sa-môn, là Trạch diệt, Đoạn đức.
Và Thanh văn, Như lai hoặc đức chung (cộng), không chung (bất cộng), thế, xuất thế, tức phẩm đạo trong đạo đế hữu vi, gọi là cộng. Mười lực v.v… gọi là bất cộng.
Đối với Giác liễu này, tức là đối với pháp tác chứng của diệt đạo này, các trí giải thoát đã tự giác liễu, vì người khác, khai thị giác liễu cho họ, gọi là giác liễu.
Biết trong bốn nghĩa, Luận sư Cảnh nói: “1. Nghĩa nhất tâm chấp thọ, nghĩa là biết tâm mình đã chấp lấy cảnh, như văn dưới đây sẽ nói. 2. Nghĩa lãnh nạp, nghĩa là biết nghĩa nhận lãnh của ba thọ. 3. Biết nghĩa liễu biệt, nghĩa là biết nghĩa liễu biệt (phân biệt rõ) của thức. Pháp sư Thái nói: “Tức cảnh của bốn niệm trụ, như thứ lớp bốn nghĩa.
Trong biết ba nghĩa: Một nghĩa văn là giáo, hai nghĩa của nghĩa là đối tượng giải thích: tức có mười thứ: 1. Tướng chân thật, tức của pháp chân như. Bốn thứ kế là bốn Đế. 6. Tức tướng khác nhau của phẩm sai biệt tướng như tướng chân thật, v.v… tức năm nghĩa trước, mỗi nghĩa đều có phẩm loại khác nhau.
6.- Tướng hệ thuộc nhau của sở y, năng y: Nghĩa là sở y (đối tượng nương tựa), gọi là năng y (chủ thể nương tựa), là tướng thuộc nhau.
7.- Tức biết khắp các pháp tướng chướng ngại: Tức hoặc dưới bốn đế.
3. Tức thuận theo pháp tướng kia, nghĩa là tức thuận theo các hình tướng “hoặc” dưới của bốn đế kia.
4. Không biết khắp v.v… và đức biết khắp v.v…. Nghĩa của ba giới, nghĩa là năm thứ giới:
- Khí thế giới là chỗ cư trú.
- Giới hữu tình, tức hữu tình năng ở.
- Pháp giới, tức là pháp môn đã nói, nghĩa là uẩn, giới, xứ v.v….
- Giới điều phục tức Niết-bàn diệt đế.
- Điều phục giới phương tiện, tức là đạo đế.
Lại, điều phục giới là Thánh đạo, điều phục giới phương tiện là phương tiện trước của kiến đạo (Dựa vào điều phục này, về sau sẽ giải thích).
Niết-bàn được xếp vào pháp giới.
5. Môn ba tuệ: Luận sư Cảnh nói: “Tuệ do văn thành dựa theo văn để so sánh, suy lường, chỉ vì như thuyết kia nói là chưa hiểu rõ ý thú dưới của văn, chưa hiện chứng biết, tức chẳng phải hiện lượng. Nhưng tỉ lượng chỉ thuận theo Niết-bàn, giải thoát. Tuệ do tư thành cũng dựa vào văn, không chỉ như thuyết, cũng là ý thú tốt lành, chưa hiện chứng biết vượt hơn văn tuệ ở trước, gọi là chuyển thuận, dù văn tuệ vượt hơn, cũng chưa hiện thọ nghĩa lợi giải thoát. Tuệ do Tu thành vừa dựa vào văn, vừa không dựa vào văn, vừa như thuyết vừa không như thuyết. Y cứ tu tuệ hữu lậu và trí hậu đắc duyên lý và tướng ảnh tưọng của sự, khởi hiện ở trước, nên nói rằng “ý thú khéo léo phần đồng của sự sở tri vượt hơn trong ba tuệ, ảnh tượng sở hành của Tam-ma-địa, gọi là rất thuận với giải thoát. Lại chủ thể lãnh thọ nghĩa lợi giải thoát không đồng với Tỳ-đàm. Văn Tuệ dựa vào giáo, hoặc lìa giáo. Tu tuệ hoàn toàn lìa giáo, như ba người học bơi : Người thứ nhất gần bờ. Người thứ hai, vừa bơi gần, vừa bơi cách bờ, người thứ ba hoàn toàn cách xa bờ. Luận Câu-xá phá rằng: Nếu Tư, dựa vào giáo, thì không khác văn tuệ. Nếu Tư lìa giáo, thì không khác với tu tuệ, nên nói “Văn tuệ dựa vào giáo mà không thể tư duy, dựa vào giáo, mà có thể phân biệt.”
Luận sư Bị nói: “Nay, ba tuệ trong văn này có thể “duyên” theo giáo, nhưng tu tuệ “duyên” phát là y cứ ở xa chẳng phải gần.”
6. Môn trí kiến khác nhau. Nếu “duyên” lý, tuệ mầu nhiệm của pháp chung, gọi là trí. Nếu “duyên” sự, diệu tuệ của pháp riêng, gọi là kiến. Vì thuận theo sự tìm cầu, nên được gọi tên.”
7. Môn bỏ tướng mới chấp, trong đó có ba: Đầu tiên là nói về tác ý trừ tướng. Kế là nói về chân như vô tướng, nên không có đối tượng bỏ. Sau giải thích văn kinh.
Đầu tiên nói: Bồ-tát Tu hành chỉ quán, do tác ý nào? Là câu hỏi thứ nhất. Do tác ý nào mà tu chỉ quán? Nói những gì? Là câu hỏi thứ hai. Câu hỏi thứ hai “Đối tượng bị dứt bỏ kia là pháp nào? Thế nào là trừ bỏ?” là câu hỏi thứ ba. Hỏi: “Có thể trừ bỏ thực hành quán hạnh nào? Dưới đây là đáp:
Do “duyên” tác ý chân như là đáp câu hỏi đầu. Do “duyên” tác ý chân như mà tu chỉ quán, nói là dứt bỏ pháp tướng và nghĩa tướng.
Câu hỏi thứ hai, trừ bỏ những gì? Nay, đáp: “khi Duyên Như, tu chỉ quán, nói là trừ bỏ pháp tướng và nghĩa tướng, tức trừ tướng phần.”
Văn này nói chính khi chứng biết, ảnh tượng bất biến giống với tướng chân như.
Nói “Nếu đối với danh v.v… kia v.v… ” trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba.
“Thế nào là quán hạnh trừ bỏ các tướng?” Nay, đáp: “Trước kia, ở Địa tiền, Tầm, Từ như thật, các thứ tìm cầu, biết danh v.v… là giả. Nay, khi nhập kiến đạo chứng chân như. Cảnh, Trí, Bình đẳng, Vô phân biệt hạnh, không được gọi là tánh, không được gọi là “sở y”.
Trong môn Duy thức, danh dựa vào thức, thức là chỗ nương tựa, cho nên nói: “Nếu đối danh và tự tánh của danh kia không có chỗ chứng đắc thì cũng không bị tướng sở y dứt trừ như thế”.
Nói “như đối với danh cho đến “cũng thế”, Đây là y cứ năm tướng trước để biết pháp nghĩa là biết danh, biết cú, biết văn, v.v… và mười tướng biết nghĩa, cho nên so sánh như đối với danh, cú, văn, đối với tất cả nghĩa nên biết cũng thế, nói cho đến với giới, cho đến dứt bỏ như thế. Trong văn trên, đầu tiên là dùng năm tướng để biết pháp. Mười thứ biết nghĩa, lại biết năm nghĩa. Lại biết bốn nghĩa, lại biết ba nghĩa. Ba nghĩa là:
- Nghĩa văn.
- Nghĩa nghĩa.
- Nghĩa giới.
Nghĩa của giới, tức là năm giới như khí thế giới v.v… Bồ-tát Địa tiền thực hành quán năm thứ giới này, cũng chỉ là thức, thức là chỗ nương nên nói: “Cho đến đối với giới và tự tánh giới lúc không có sở đắc, cũng không quán tướng nương tựa kia, trừ bỏ như thế.
Kế là, nói về chứng chân như vô tướng, cho nên không có đối tượng bỏ.
Ý hỏi: “Trí vô phân biệt chính là chứng chân như. Tướng chân như này có thể dứt bỏ hay không?”
Ý đáp: “Nếu ngay khi chứng, thấy có tướng như có sở đắc, tức có cái dứt bỏ, mà đối với trong nghĩa chân như được hiểu rõ, đều không có tướng, cũng không có sở đắc, thì sẽ bỏ cái gì? Văn này là nói chứng trí không có tướng phần. Vì tướng phần không có, nên cũng không có kiến phần.”
Lại giải thích: “Có kiến, không có tướng, nói là ta biết rõ v.v…
cho đến “Chẳng phải hiểu rõ này, tướng còn lại có thể điều phục, nghĩa là chưa chứng trở xuống, lấy tướng nghĩa của pháp, lúc chính chứng chân như, điều phục tướng của nghĩa pháp được lấy ở trước, chẳng phải ngay khi chứng liễu đạt chân như này, còn các tướng làm chủ thể điều phục khác nữa, nên nói “chẳng phải liễu đạt này là chủ thể điều phục khác. Dưới đây sẽ giải thích văn kinh:
“Thế tôn v.v… cho đến đây là nói những gì có thể quán sát tâm?
Hỏi: “Thể “năng quán” (chủ thể quán) dựa vào chân như nào mà nói lời này?”, Hỏi: “Chân như “sở quán” (đối tượng quán)?” Dưới đây là đáp:
Ba Tuệ là chủ thể quán sát. Dựa vào rõ biết chân như mà nói lời này. Trong thí dụ đã nói: “Khi nước trong, gương soi sạch, không khuấy động suối, ao, thì có thể ngắm xem các hình tượng. Trong biết hợp, nếu người khéo tu tâm thì sẽ có thể quán chân như. Biết là duy thức rõ biết chân như, vì tất cả cảnh giới của môn Duy Thức đều là ảnh của tâm. Đầu tiên, quán cảnh Duy thức. Sau, quán thức như, gọi là rõ biết chân như, nên nói như thế.”
16) Môn dựa vào “không”, trừ bỏ tướng, trong đó có hai: trước nói về mười tướng quán “không” trừ bỏ. Sau là nói tướng tánh đều là “không”.
Trong phần trước có ba: Đầu tiên, là nói về mười bảy “không” trừ bỏ mười tướng. Kế là nói về quả mà “không” đã được. Sau là nói đạo lý quán “không” bỏ tướng.
Phần đầu, trước hỏi, sau đáp: Trong câu hỏi, có mấy thứ tướng khó có thể dứt bỏ? Là câu hỏi thứ nhất. Ai có khả năng dứt bỏ, là câu hỏi thứ hai.
“Này người thiện nam! Có mười thứ tướng là đáp câu hỏi đầu, không có khả năng dứt bỏ, là đáp câu hỏi thứ hai phải biết mười tướng đều là Biến kế sở chấp, đều quán “không” để dứt bỏ:
8. Chấp nghĩa các hành quyết định là “có”, tức quán tất cả pháp “không” để trừ bỏ, vì nghĩa của pháp đã chấp gồm thâu tất cả pháp, nên quán tất cả pháp “không” để trừ bỏ.
9. Bốn đế như khổ v.v… đều là an lập. Vì khổ đế xếp vào đầu tiên, nên tiêu biểu an lập. Trong đây nêu như, lấy an lập khổ. Ở đây có hai chấp:
1. Chấp khổ có tánh sinh, diệt, trụ, dị. Đây là quán tướng không để trừ bỏ.
2. Chấp khổ có tùy chuyển nối tiếp nhau. Quán không có trước, sau, “không” thể chính trừ bỏ Biến kế sở chấp vốn là không nên chẳng có trước, sau.
3. Do biết rõ sáu căn là chủ thể lấy, tức có đoái tưởng, lưu luyến, chấp mắc trong thân, quán bên trong là “không” để trừ bỏ. Do chấp ngã, nên khởi ngã mạn. Quán không có sở đắc, có thể chính trừ bỏ, vô ngã có thể được. Thế nào là khởi mạn?
4. Như văn rất dễ hiểu.
5. Chấp có tướng yên vui bên trong. Do “không” bên trong trừ bỏ chấp trần tịnh bên ngoài. Do “không” bên ngoài trừ bỏ chấp có nam nữ, phụng sự tương ưng với tiền của, công cụ. Do bản tánh không trừ bỏ, cũng có thể do tánh không trừ bỏ chung các chấp vui trong, tịnh ngoài v.v….
6. Biết rõ khí thế giới kiến lập hữu tình, tức là chấp có tướng vô lượng mười phương. Do đại không trừ bỏ.
7. Bốn “không” của Chấp kia cho là giải thoát, do “không” hữu vi trừ bỏ.
8. Nếu chấp tướng của hai vô ngã, dùng rốt ráo “không” thể trừ. Nếu chấp tướng Duy thức, thì sẽ dùng chẳng có tánh không để đối trị. Nếu chấp y tha là tướng của Thắng nghĩa, thì sẽ do tự tánh của vô tánh, nhân tánh “không” để trị. Nếu chấp Viên thành thật là Thắng nghĩa khác, thì đây là do “không” thắng nghĩa để trị.
9. Như văn.
10. Chấp có chín chủ thể trị tánh “không” ở trước, tức quán “không”, “không” làm đối trị, nghĩa là quán chủ thể trừ tánh “không” cũng “không”. Kế là, nói về quả do “không” mà được.”
Ý hỏi: “Khi dứt bỏ mười tướng Biến kế sở chấp, trong tâm quán “không” vẫn có ảnh tượng “không” giống với Y tha, tùy tâm “không” biểu hiện. Từ “quán không” này nhâp vào chứng trí, tức trừ tướng phần giống với ảnh tượng “không”. Tướng phần đã trừ, tức từ tất cả tướng tạp nhiễm, hạt giống ràng buộc, được giải thoát. Tâm chấp giải thoát cũng đều xa lìa, nên nói “bị cũng trừ bỏ”.
Dưới đây là nói về lý quán “không” để trừ bỏ tướng. Mỗi quán không đều bỏ mười tướng. Mà nói “không” đầu tiên đối trị tướng ban đầu v.v…, nghĩa là y cứ vượt hơn mà nói. Đây tức là tướng, gần đối trị để nói, chẳng phải không mỗi quán đối trị tất cả tướng. Dùng thí dụ so sánh, rất dễ hiểu. Dưới đây là nói về tướng của tánh “không” chung, trước hỏi, sau đáp. Trong đáp, trước khen, hỏi, hứa nói. Sau, chính thức đáp câu hỏi trên.
Luận sư Cảnh nói: “Dùng mê y tha, Viên thành để khởi Biến kế sở chấp. Nếu tỏ ngộ y tha và Viên thành thật chẳng phải là pháp bị chấp, thì sẽ biết sở chấp là không, gọi là tánh “không” chung”.
Pháp sư Thái nói: “Nói riêng có mười bảy “không”. Nói chung, chỉ đối với Y tha và trong tánh tướng của Viên thành thật, rốt ráo xa lìa tướng Biến kế sở chấp và đây đều không có cái được. Vì tất cả “không” trong Nhiếp Đại thừa, đều cùng tận nên gọi là “tổng không”. Nếu hiểu rõ “không” này rồi, thì sẽ có hai điều lợi:
- Không mất chánh hạnh.
- Lìa tăng thượng mạn.
12. Môn nhiếp thọ rất dễ hiểu.
13. Môn nhân quả. Chỉ, Quán ở học địa dùng tịnh thi-la và Văn tư, chánh kiến để làm nhân. Đây là “duyên” nhân. Nếu hạt giống của Chỉ, Quán dùng làm chánh nhân, quả chỉ, quán thì dùng tuệ tâm thiện tịnh, của Phật địa để làm quả của chỉ quán kia. Lại tất cả pháp thiện xuất thế của Thanh văn Vô Học và Phật, đều là quả của Chỉ, Quán ở Hữu học.
14. Môn tác nghiệp. Nghĩa là có khả năng giải thoát, sự ràng buộc nhau và ràng buộc thô nặng. Ràng buộc thô nặng, là hạt giống kiến phần của các phiền não. Ràng buộc nhau tức là hạt giống của tướng phần phiền não. Lại hiện khởi tướng, kiến, cũng là hai ràng buộc.
15. Môn chướng Chỉ, Quán: Trước nói về năm trói buộc, sau nói về năm cái.
Trong phần trước, đoái tưởng, luyến ái thân, đoái tưởng, luyến tiếc của là che lấp chỉ. Đối với Thánh pháp không được thuận theo dục, chướng ngại quả quán. Ưa lẫn lộn nhau và thiểu dục hỷ túc, không ưa tu nhiều, đều chướng ngại chỉ. Quán. Do phược thứ nhất, nên không thể tạo tu, ưa ở lẫn lộn nhau. Do phược thứ hai, nên tu gia hạnh không đến rốt ráo, nghĩa là thiểu dục hỷ túc. Cái che lấp như văn.
16. Môn thanh tịnh viên mãn. Ở trước nói về hôn trầm, thùy miên che lấp quán. Nay, nói dứt trừ hôn trầm, ngủ nghĩ tâm đạo viên mãn, nhờ chỉ mà phát quán, chỉ là nhân ấy, quán là quả ấy. Nêu lìa quả chướng, hiển bày nhân viên mãn, cho đến tất cả điệu cử, ác tác, chánh thiện trừ bỏ, gọi là đạo quán viên mãn. Đây cũng là nêu lìa nhân chướng ngại thân, làm rạng rở đạo quả một cách viên mãn.
17. Môn tán, động. Chỉ quán hiện ở trước, có năm pháp của tâm tán động:
18. Tác ý tán động, nghĩa là các Bồ-tát xả bỏ Đại thừa, thuận theo tác ý của Đại thừa.
19. Tán động ngoài, nghĩa là tất cả lấy tầm, từ tùy phiền não của năm dục bên ngoài lấy tầm tư làm thể. Và đối với cảnh ngoài, tâm buông thả, lưu tán, lầy tâm vương tán.
20. Nội tâm tán động, nghĩa là người đã lìa dục, do hôn trầm v.v…, cho đến định khởi vị ái v.v…, gọi là tán động bên trong.
21. Tướng tán động, nghĩa là ảnh tượng đã hiện trong nội định. Tác ý tư duy, chấp ngoài nội định, đã lấy sắc tướng, gọi là tướng tán động.
22. Tán động thô nặng, nghĩa là chấp mừng, vui trong định, cho là “ngã sở”. Chấp thân thô nặng làm ngã, khởi mạn, gọi là tán động thô nặng.
23. Môn đối trị chướng. Sơ địa trừ nghiệp phiền não của đường ác, sinh chướng tạp nhiễm, nghĩa là trong quyển bảy mươi tám dưới, sẽ nói về hai mươi ba ngu si:
1- Chấp nhân, Pháp.
2- Đường ác tạp nhiễm, nghĩa là chung cả sinh nghiệp phiền não. Trong đây chỉ có ngu thứ hai. Địa luận nói: “Chướng ngã chấp của phàm phu, chỉ thích hợp với ngu thứ nhất. Địa thứ hai đối trị với chướng hiận hành của phạm sai lầm vi tế. Dưới đây sẽ nói về Nhị Địa có hai ngu si:
1/ Ngu phạm sai lầm vi tế.
2/ Các thứ nghiệp hướng đến ngu si, đây là ngu thấy ba hành khác nhau của ba nghiệp, trong đây chỉ có một ngu đầu tiên. Địa luận nói: “Tà hạnh che lấp các thân v.v…. Tức tương đương với ngu thứ hai.
3- Địa đối trị với chướng dục tham. Dưới đây sẽ nói vềba địa có hai ngu si:
1/ Dục tham che lấp định.
2/ Ngu về nghe viên mãn, văn trì Đà-la-ni, trong đây chỉ có một ngu ban đầu. Địa luận chép: “Tướng tối tăm tương đương với dục tham, chướng đố kỵ của pháp văn, tư, tu v.v… tức tương đương với ngu thứ hai.
Bốn Địa đối trị ái định và che lấp ái pháp. Ba địa cầu pháp, gieo mình vào hầm lửa v.v… nên có pháp ái.
Tương đương chung dưới đây là nói hai thứ, nên dưới đây luận nói rằng, Tứ Địa có hai cái ngu:
- Ái đẳng trì.
- Ái Pháp.
Địa luận chép: “Chướng mạn hiểu pháp, đều không tương đương với hai cái ngu, vì ái, mạn khác nhau. Lại có thể do định vượt hơn và vì pháp giải nên sinh ngã mạn. Định là pháp hạnh và pháp trì giáo, sinh ngã mạn, gọi là chung là chướng mạn của pháp giải thoát.
Ngũ địa đối với chướng sinh tử, Niết-bàn, hoàn toàn trái với thứ hướng, đồng với hai ngu dưới, hợp một trong đây. Dưới đây chia ra trái với thú hướng, thành hai Địa luận chép: “thân tịnh che lấp ngã mạn, vì dùng phẩm tâm đạo, thân tịnh, gìn giữ lấy, nên sinh nga mạn. Đối với sinh tử trái với hướng Niết-bàn, rất đồng với ở đây.
Lục địa đối trị chướng tướng, phần nhiều hiện hành chướng. Trong Ngũ địa, dứt trừ hai ngu trái với thứ hướng. Nay Lục địa dứt nhiều tâm nhàm chán trái, do quán tướng của mười hai duyên phần nhiều hiện hành, nên dứt trừ tướng phần nhiều hiện hành chướng. Dưới đây nói Lục Địa có hai thứ ngu, hiện tiền quán sát các hành lưu ngu si. Ngũ địa không thể duyên khởi hiện quán, gọi là ngu. Hai tướng thường hiện hành là ngu si. Năm địa dù đoạn trái với thú hướng, nhưng tâm của tướng nhàm trái phần nhiều hiện hành. Trong đây, hợp với ngu thứ hai. Địa luận chép: “Chướng tập vi phiền não Vi, tương đương chung với hai thứ, trước hình gọi là vi. Thất địa đối trị chướng hiện hành của tướng tế. Thất địa đã dứt trừ chướng, vẫn còn thấy sinh, diệt vi tế, gọi là chướng hiện hành của tướng tế. Dưới đây nói về thất địa có hai ngu:
- Hiện hành của tướng vi tế, tức tương đương với thuyết này.
- Ngu si về vô tướng tạo nên công dụng.
Thất địa đối với vô tướng dù có công dụng, mà vẫn nhập chân quán lâu dài. Vì Lục địa không thể chướng ngại thất địa, nên trong thất địa dứt trừ cái ngu vô tướng tạo ra công dụng, Địa luận chép: “Chướng tập tướng đế, cũng tương đương với một ngu đầu. Bát địa đối trị với công dụng của vô tướng và chướng đối với hữu tướng không được tự tại.
Dưới đây, nói rằng Bát địa có hai thứ ngu si. Bát địa đối với vô tướng không có công dụng. Đối với tướng tục, lợi người có công dụng,lợi mình không có công dụng. Thất địa không đồng với chưóng Bát địa. Dứt trong Bát địa: 1- Đối với vô tướng, tạo ra công dụng. 2- Ngu đối với tướng, được tự tại. Trong vô tướng kia với tướng này, khai, hợp là khác. Địa Luận chép: Đối với vô tướng có chướng hành, chỉ tương đương với một ngu đầu. Cửu địa đối trị với tất cả thứ ngôn từ khéo léo, chướng không được tự tại. Dưới đây, nói cửu địa có hai thứ ngu si.
1. Nói pháp vô lượng, vô lượng pháp cú, văn tự. Tuệ sau sau, nói về ngu Đà-La-Ni tự tại.
2. Ngu biện tài tự tại.
Trong ngu kia với ngu này khai, hợp là khác. Địa Luận chép: “Chướng không thể khéo léo làm lợi ích chúng sinh. Thập địa đối trị chướng không được chứng đắc pháp thân viên mãn. Dưới đây, luận chép: “Thập địa có hai ngu si:
1. Ngu si đại thần thông.
2. Ngu si ngộ nhập bí mật sâu kín. Trong cái ngu kia và ngu này cũng khai, hợp thành khác. Địa Luận chép: “Chướng Thập địa không được tự tại đối với các pháp, cũng đồng với ngu này. Ở Địa Như lai, đối trị với phiền não vi tế, rất vi tế và sở tri chướng, hai thứ này đều là pháp dứt hai chướng phẩm hạ hạ của Phi tưởng. Dục, chấp mắc là chướng phiền não, ngăn ngại là sở tri chướng. Văn này chứng minh cho khả năng dứt hẳn chướng như thế, nên rốt ráo chứng đắc tất cả tri kiến v.v… vô trước, vô ngại. Dưới đây luận nói: “Địa Như lai có hai ngu si:
1. Ngu si đối với tất cả cảnh sở tri, chấp mắc rất vi tế, cũng là phẩm hạ phiền não của Phi tưởng.
2. Ngu si ngại rất vi tế, cũng là phẩm hạ sở tri của Phi tưởng, nên đồng với ngu kia, khai hợp thành thác.
Địa luận dù không nói có chướng thứ mười một, nhưng ở địa thứ mười, chướng không được tự tại đối với các pháp, tức gồm thu chấp mắc vi tế và ngại vi tế của Phật, vì y cứ ở nghĩa rất tế trong chướng thứ mười, nói là Phật chướng. Luận thật lại là tâm Kim cương đoạn, nhưng đối với nghĩa này, có hai giải thích:
1/ “Theo Nhiếp Luận bản cựu dịch, đối với dứt trừ chướng của Sơ địa, nhập Sơ địa, địa khác so sánh như thế. Lại, như kinh bản nghiệp chép: “Qua địa thứ mười có trụ địa Đẳng giác. Học này trong muôn ba ngànkiếp, tức trụ đẳng giác trụ, dứt trừ chướng của Phật địa mới vào diệu giác.
2/ “Theo mười một chướng này, văn đồng nói là trí cũng dứt trừ chướng của mình.”
24. Môn tu chứng Bồ-đề: Nói “Nếu các Bồ-tát đã được chỉ, quán, dựa vào bảy chân như, cho đến chánh tư duy bên trong v.v…” nghĩa là trong địa vị gia hạnh ở trước, thuận theo giải thích, quát sát, bảy thứ chân như, khéo xem xét tư duy an lập bảy thứ chân như. Nội chánh tư duy trong tánh như, do tư duy nên tất cả tướng tế đều có thể dứt bỏ, nghĩa là thuận theo tướng phần ảnh tượng của các tâm. Đã dứt các tâm, cũng tức xả bỏ các tướng tùy tâm.”
Pháp sư Thái nói: “Bảy như trong đây chẳng phải Viên thành thật.”
Lại giải thích: “Người xưa dựa vào luận Trung Biên chép: “Bảy thứ chân như đều là chân như, mà nói chân như của khổ đế. Khổ đế nghĩa là từ chủ thể giải thích được tên gọi.
Nói tâm sở chấp thọ, lanh nạp, rõ biết tướng nhiễm, tịnh, tức là bốn niệm trụ. Khổ có tướng đổi khác, không có đổi khác khổ khổ, khổ hoại gọi là có đổi khác, khổ hành gọi là không có đổi khác. Lại giải thích: “Đổi khác là tướng khổ, không đổi khác là khổ, không có tánh thật. Tướng khác của hữu vi, nghĩa là sắc tâm v.v… khác nhau. Tướng đồng, nghĩa là đồng khổ vô thường v.v… là đồng, hoặc biết tất cả là tất cả đã có. Tất cả tướng, nghĩa là biết tất cả pháp. Đã là tất cả, tức có “tất cả tướng”. Người kia vì đã phần nhiều trụ hạnh như thế, nên khéo tu sửa tâm. Đối với bảy chân như có bảy, mỗi chân như đều riêng tự sở chứng nội tại, trí thông đạt sinh, gọi là kiến đạo, nghĩa là do ở bảy như đều tự chứng riêng làm phương tiện, nên về sau, nhập quán tưởng, quán các chân như, trí thông đạt sinh, gọi là kiến đạo, tức nhập Sơ địa. Do được Sơ địa này, nên gọi là nhập chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, là lỗi nhập vị. Sinh vào nhà Như lai, đây là nói về lỗi nhà. Lại năng thọ dụng đức vượt hơn của địa này, là sáu lỗi còn lại. Người đó, từ trước đã không có lúc nào do được chỉ, quán, nên đã được hai thứ sở duyên, nghĩa là có phân biệt sở duyên của ảnh tượng và sở duyên của ảnh tượng vô phân biệt. Văn này tự phán quyết hai thứ ảnh tượng là sở duyên chỉ, quán của Địa tiền. Người kia ở vào thời nay, vì được kiến đạo, nên lại chứng đắc sở duyên của việc bờ mé, nghĩa là tướng này nói tướng tu chứng sở duyên thứ ba. Nay, lại nói sở duyên của kiến đạo, tức nói chân như gọi là việc bờ mé, vì chân như kia ở khắp các pháp đế, gọi là bờ mé của đế. Văn này tức nói trí chứng “duyên” như, không biến ra ảnh tượng. Nếu biến hóa giống với ảnh tượng của chân như kia, tức là ảnh tưọng vô phân biệt đã gồm thu, sao lại phán quyết rằng sở duyên của hai ảnh tượng là Địa tiền ư? Lại, sở duyên của kiến đạo, sao chỉ gọi là việc bờ mé ư? Lại nữa, về sau, tiến tu, tu đạo trong tất cả Địa sau, tức tác ý tư duy sở duyên của ba thứ như thế, đây là nói về trí tu đạo “duyên” việc bờ mé. Hậu trí “duyên” biến đổi hai thứ ảnh tưọng, nên nơi tu đạo tác ý tư duy đối với ba sở duyên”.
Dưới đây là là dụ thuyết:
Dùng cái nêm tế để lấy ra cái nêm thô, dùng đạo vượt hơn để xả bỏ đạo kém, dần dần dứt bỏ tướng và thô nặng, cho đến chứng đắc A Nậu Bồ-đề. Đây gọi là chứng đắc Vô thượng Đẳng chánh giác. Lại được việc làm thành mãn sở duyên, tức phán quyết cảnh này ở nơi Phật địa. Việc của Phật địa làm, đều là cảnh của trí thành tựu viên mãn, gọi là sở duyên thành mãn của việc làm. Đã duyên pháp nào? không lìa ba pháp trước. Đức Như lai chứng lý đã có chỉ, quán “duyên” cảnh việc bờ mé đế. Đức Như lai “duyên” đế tất cả Chỉ, quán là hai ảnh tượng. Ba pháp này làm sở duyên chỉ quán của Phật, gọi là chung là sở duyên thành mãn của việc làm.”
25. Môn dẫn phát oai đức. Bồ-tát khéo biết sáu xứ, tức là có thể dẫn phát oai đức rộng lớn. Một/ khéo biết tâm sinh, nghĩa là biết như thật mười sáu thứ tâm hữu lậu, vô lậu sinh khởi khác nhau:
1- Không thể giác biết, nghĩa là hành tướng của A-lại-da khó biết, trụ vững chắc nối tiếp nhau, gọi là trụ vững chắc.
Khí Thức sinh, nghĩa là “năng biến”, năng duyên” khí thế giới bên ngoài, nói là thức A-Đà-Na, Hán dịch là chấp trì, chấp trì căn đại và hạt giống các pháp.
2. Các thứ hành thức sở duyên thức sinh, nghĩa là ý thức phân biệt, chấp ngay tất cả cảnh giới như sắc v.v…, tức là ý thức thứ sáu tùy tạo nên một thứ hạnh giải, chấp ngay các pháp, nên nói là các thứ hành tướng. Chấp ngay sắc v.v… và chấp ngay giác thọ của cảnh giới trong, ngoài nghĩa là tự thức chấp ngay cảnh xúc trong, ngoài mà sinh giác thọ. Hoặc một niệm tức khắc hiện nhập nhiều định, với ý thức phân biệt thấy nhiều cõi Phật, thấy nhiều Như lai. Đây là y cứ ở Hậu trí của Bồ-tát trong đại địa tại định thấy được nhiều Phật v.v…, vì chẳng phải chính chứng trí, nên gọi là phân biệt.
3- Bốn thứ sở duyên của tướng lớn nhỏ, sinh, nghĩa là thức trói buộc dục, sắc, nghĩa là y cứ “duyên” thân trong của hai cõi, nên có nhỏ, lớn. Ba tâm kế là “duyên” bốn Vô Sắc.
8. Thức vô tướng sinh, nghĩa là thức xuất thế: Thức vô lậu không có bảy thứ tướng, gọi là thức vô tướng và “duyên” thức diệt, nghĩa là chung cho tâm hữu lậu, vô lậu. “Duyên” cảnh vô tướng, gọi là vô tướng thức.”
Lại, giải thích: “Và “duyên thức diệt định”. (Có bản khác chữ “giảm”, đúng là viết lầm).
Kế là có năm tâm y cứ ở thức Câu hành của ba Thọ. Về sau có ba tâm nói về thức vô ký nhiễm, tịnh, văn còn lại rất dễ hiểu.
26. Môn Niết-bàn thọ: Như văn nói hai thọ trong hai vô dư y diệt hẳn:
1- Thọ thô nặng sở y, nghĩa là sáu căn trong sinh thọ, gọi là sở y, thể là hữu lậu. Do có phiền não thô nặng, tánh không điều hòa, nhu thuận đã theo đuổi, gọi là thô nặng, gọi là thô nặng của sở y.
2- Thọ cảnh giới của quả kia, nghĩa là năm thứ thô bên ngoài do thế lực của năm căn bên trong, dẫn sinh, tức là quả của căn bên trong. Cho nên nói là thọ của cảnh giới kia. Vì dựa vào sự sinh kia, nên gọi là thọ của cảnh giới của quả kia. Về lý, thể của hai thọ này chưa hẳn có riêng, chỉ y cứ vào căn cảnh để chia làm hai thọ. Trong thọ thô nặng sở y có bốn:
a. Sở y có sắc, tức thọ của năm thức.
b. Sở y vô sắc, tức thọ của ý thức, tức là hai thọ thân, và tâm.
c. Thọ thô nặng của quả đã thành mãn, nghĩa là thọ hiện tại.
d. Thọ của quả chưa thành mãn, nghĩa là thọ của nhân vị lai, tức là nghiệp phiền não, là nhân của thọ vị lai, gọi là nhân thọ. Thọ của cảnh giới của quả kia cũng có bốn thứ:
a/ Thọ của y trì, nghĩa là khí thế giới là pháp y trì. Duyên pháp đó sinh ra thọ, gọi là thọ y trì.
b/ Thọ của vật giúp cho trong cuộc sống hằng ngày, rất dễ hiểu.
c/ Thọ của thọ dụng, tức khí thế giới thọ dụng của hai thọ và vật giúp cho trong cuộc sống hằng ngày gọi là thọ của thọ dụng.
d/ Thọ của đoái tưởng, luyến mến, thọ của đoái tưởng luyến tiếc tài vật.
Dưới đây sẽ y cứ vào diệt thọ nhiều, ít trong cõi Niết-bàn hữu dư, vô dư. Luận sư Cảnh nói: “Thọ chưa thành mãn của quả trong cõi Niếtbàn hữu dư y, tất cả đã diệt, nghĩa là thể của nghiệp phiền não, lúc tâm kim cương đã dứt trừ xong, mới được hữu dư. Lãnh đối trị kia, để nói xúc sinh thọ. Lãnh thọ tận trí vô sanh tương ưng thọ, là nói xúc sinh thọ. Lãnh thọ chung, nghĩa là nhận lãnh thọ của khí thế giới có chung, tức thọ y trì. Lược qua không nói lãnh thọ tự cụ thọ dụng thọ chỉ trừ đoái tưởng luyến tiếc, vì tương ưng với tham. Hoặc thọ đã thành mãn của quả kia. Nghĩa là do trong thọ đã thành mãn, có chung có thô nặng, không có thô nặng. Nay, chỉ có thọ không có thô nặng trong thân Vô học, nên nói là “hoặc”. Lược qua không nói lãnh thọ của sở y có sắc, thọ của sở y không có sắc, vì Vô học vẫn còn khởi.
Văn thứ hai giải thích: “Lại, hai thứ thọ, tất cả đã diệt, nghĩa là đã dựa vào thọ báo thô nặng, thọ của cảnh giới quả kia đều đã dứt trừ, chỉ hiện lãnh thọ nói xúc sinh thọ. Đây là y cứ lậu hết, còn có các thọ đều gọi là nói thọ do xúc sinh ra. Khi Bát Niết-bàn trong cõi Niết-bàn vô dư y, thì thọ này cũng chưa diệt, nghĩa là thuận theo hai thuyết trước nói đã có các thọ trong hữu dư y. Nay, vào vô dư thọ nhiều ít đều diệt, như trước nên biết.”
Pháp sư Thái nói: “Báo vị lai trong hữu dư y không thọ, nhân vị lai cũng xả. Như Bậc thánh sinh cõi Vô Sắc xong, không thành tựu hạt giống của nhãn căn. Lại, như khi người Vô học sắp qua đời, không thành tữu hạt giống của mười tám giới, chỉ có người kia nhận lãnh vô lậu năng trị kia để nói về xúc, tự sáu thọ còn lại chung cho cả phàm và Thánh, nênnói rằng có chung. Người Vô học cũng lãnh thọ sáu thọ khác, có chung thọ, như nghiệp ác căn phải thọ, hoặc đôi khi chỉ người Vô học thọ, nên nói là “hoặc”.
Trong văn này, phương Tây có hai giải thích:
1. Giải thích thứ nhất: “Trước, diệt định trước, chỉ diệt một thọ, bảy thọ còn lại không diệt. Nay, y cứ khi sắp vào vô dư, vì qua đời trong diệt định, nên lúc ở diệt định, sáu thức, tám thọ đều diệt.”
2. Giải thích thứ hai: “Ở trước vì y cứ thô nặng mà theo, nên gọi là có chung, chỉ diệt một thọ. Về sau, vì y cứ Vô học mà vô lậu. Cho nên chỉ nói về Thọ, tám thọ diệt, giải thích là vô lậu. Tám thứ thọ trước hoàn toàn hữu lậu, nên nói rằng tất cả đã diệt. Nhưng vì phế bỏ chưa y cứ gốc, nên nói là một thứ. Một giải thích khác: Khi vào vô dư diệt, diệt tám thọ khác mà nói là có thọ vô lậu, là vì phương tiện gần của nhập định, lại không luận về diệt.
Trên đây, hai mươi sáu môn, hỏi đáp, nói rộng đã xong. Dưới đây là đức Thế tôn sẽ thuật lại, khen ngợi khuyên học, như văn rất dễ biết.
Trong bài tụng có năm:
- Một bài tụng đầu nói có trái, thuận tức chiêu cảm được, mất.
- Trong bài tụng thứ hai, dạy tu hạnh lợi mình vô tướng.
- Trong bài tụng thứ ba, dạy tu hạnh lợi người vô tướng.
- Trong bài tụng thứ tư, nói về nói pháp với tâm nhiễm, chỉ luống công vô ích.
- Trong bài tụng thứ năm, Đức Phật khuyên hãy bỏ hý luận, tu học Du-già.
Dưới đây là nói về thỉnh đặt tên kinh, chúng đương thời được lợi ích.
Y cứ trong lợi ích của chúng Thanh văn, Thích Luận nêu hai giải thích: Hoặc nói pháp bằng một âm thanh mà tất cả các trời đều được hiểu, hoặc nghe lý nhân vô ngã trong giáo pháp nên được giải thoát.