DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 18

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 64

Đoạn lớn thứ bảy, quyết định lựa chọn địa Văn, Tư (Địa Quyết Trạch Văn, Tư). Văn, có một quyển, trong đó, ban đầu, là kết trước, sinh sau; kế là, chính là nói; sau, kết giải thích không hiện.

– Văn trong chính là nói được chia làm năm:

  1. Giải thích quy y.
  2. Giải thích về sự khác nhau giữa Sa-môn, và Bà-la-môn.
  3. Giải thích ba cầu.
  4. Giải thích về nội minh.
  5. Nghĩa của Tạp Quyết Trạch văn tuệ địa, có mười bốn câu.

– Trong phần đầu có ba:

A/ Nói về năm chỗ quán sát đối tượng quy, chỉ quán Phật bảo.

B/ Hỏi, đáp để giải thích.

C/ Dùng sáu tướng Tam bảo khác nhau.

Trong phần đầu, ý nói là chín mươi sáu thứ đạo, mỗi đạo đều có chỗ trở về, nên quán đối tượng quy. Vì có năm nghĩa, nên xứng đáng quy y.

Đức Phật đã như thế, pháp Phật và các đệ tử cũng đáng quy y.

Pháp vô thượng, tức là lực, vô úy v.v….

Y cứ trong phần hỏi, đáp, trước là đặt ra năm câu hỏi:

1. Hỏi về số đầu của đối tượng quy?

2. Hỏi về đối tượng quy, vì sao chỉ có ba, không thêm không bớt?

3. “Ngang với thệ nguyện nào mà nói là chủ thể quy y?”

4. Hỏi về hạnh năng quy?

5. Hỏi về quy y được công đức gì?

Đáp câu hỏi đầu, rất dễ hiểu. Trong phần đáp câu hỏi thứ hai, tánh điều phục thiện, nghĩa là phiền não đã hết, tập khí cũng dứt rừ.

Như người luyện vàng điều luyện rất khéo.

2/- Dùng phương tiện khéo léo đối với tất cả đối tượng điều phục. Nghĩa là vì khéo nhận biết căn cơ của chúng sinh, nên có phương tiện khéo léo đối với đối tượng điều phục, vì cho thuốc thích ứng với chứng bệnh, nên chủ thể điều phục có phương tiện giỏi khéo.

3/ Có tâm Đại bi trong suốt thời gian dài, thường vì chúng sinh mà không có mõi mệt.

4/ Cúng dường tài vật, chưa phải làm điều thiện, vì khởi hạnh cúng dường mới hoan hỷ.

Đáp câu hỏi thứ ba, thể của chủ thể quy y lấy năm uẩn làm tánh. Bà-sa cũng nói là thể của chủ thể quy y, có thuyết nói là ngữ nghiệp, có thuyết nói là khởi tâm, ngữ nghiệp.”

Bình luận: “Quy y là tánh của năm uẩn, vì quy y là môn thọ luật nghi.

Nói bốn duyên:

  1. Biết quy y, sinh công đức lớn.
  2. Biết tà, đối tượng quy y có chánh khác nhau.
  3. Tự thệ nguyện: Từ hôm nay, cho đến mai sau bỏ tà về chánh.
  4. Ngoài Phật ra, không có Đại sư nào khác.

Đáp câu hỏi tư, có bốn hạnh của hai thứ, như văn. Đáp câu hỏi thứ năm về công đức của quy y:

1. Do quy y, có thể thọ luật nghi.

2 Do vâng giữ luật nghi, nên tâm hoan hỷ, cho nên thứ hai, được đại hoan hỷ. Do hoan hỷ, nên lần lượt sẽ được định, vì thế, thứ ba là được Tam-ma-địa. Do định phát tuệ, dứt “hoặc”, được thanh tịnh, cho nên, thứ tư, là được đại thanh tịnh.

Lại được bốn đức:

1. Đại hộ viên mãn, do thọ quy y. Được Tam Bảo che chở, gọi là Hộ viên mãn.

2. Khiến cho niềm tin bất chính của tâm mình trở nên mỏng nhẹ.

3. Nhập vào số chúng thông minh.

4. Giúp cho đức tin được thanh tịnh, các vị trời đều vui mừng.

Thứ ba, trong dùng sáu tướng để nói về sự khác nhau, nên lấy tướng khác tùy niệm Phật Bảo v.v…. Pháp sư Cảnh nói: “Phật là bậc tri thức chân thiện y vương, bực đạo sư vượt qua biển khổ, bạn lành tên con đường đầy nguy hiểm.

Pháp là vị thuốc hay. Lại dụ cho nhờ vào chiếc thuyền mà thoát qua dòng khổ, lên bờ vô úy.

Tăng, như người khám bệnh, bảo cho phương thuốc thoát khỏi đau khổ. Lại, dụ cho ruộng tốt, ứng cúng của người, trời.”

Pháp sư Thái, Pháp sư Cơ đồng nói: “Phật do niệm tướng riêng, tức tất cả công đức như mười lực, bốn vô úy v.v…, là niệm Phật Bảo.

Do diệt hết, lìa dục, được tướng Niết-bàn vô dư, là niệm Pháp Bảo.

Do tướng công đức vô tránh v.v…, là niệm Tăng Bảo. Còn lại tức Tam Bảo đối với nhau là còn lại. Nghĩa là ngoài pháp, tăng, tướng còn lại là Phật Bảo.

Niệm danh hiệu Phật khác nhau như thế: còn lại nghĩa là Thế tôn v.v…, đây là phát ra tướng còn lại như Phật Bảo v.v… ”.

Thứ hai, trong giải thích về sự khác nhau giữa Sa-môn, Bà-lamôn. Lại, Bà-la-môn đã có giới pháp tùy thọ giới nào? Tùy thuộc chi phần nào? Tùy sự khác nhau của họ mà khai, cho, dứt v.v…. Cho nên về sự thấp kém, văn còn lại rất dễ hiểu.

Thứ ba, trong giải thích về ba cầu:

Cầu dục: Cảnh năm dục, có năm:

1. Cầu nhiếp thọ, cho đến năm gọi là cầu thanh, nghĩa là như vợ, con vì nhiếp thọ nên cầu. Như của, gạo vì thọ dụng nên cầu. Như nhạc cụ, vì vui đùa, nên cầu. Ba sự mong cầu này rất dễ hiểu.

4/ Cầu thiếu hiểu rõ, nghĩa là vì thiếu hiễu rõ, nên cầu hiểu biết, gọi là cầu thanh, nghĩa là cầu tiếng tăm. Có đến cũng có năm v.v… : Pháp sư Cảnh nói: “ 1- Cầu pháp nhĩ, tức nhậm vận cầu thân cõi trên, cũng có thể lìa dục pháp nhĩ vào cuối kiếp, cầu có thân cõi trên.

2. Cầu kỳ nguyện, tác ý nguyện cầu, cũng có thể trừ thời kỳ cuối kiếp, cầu nguyện lìa dục sinh lên cõi trên.

3. Cầu ngu si, nghĩa là không hiểu rõ địa trên là pháp vô thường, nên mong cầu có thân cõi trên.

4. Cầu nhàm chán tai họa, chán cõi dưới, cầu cõi trên.

– Cầu xét chọn, xét chọn Địa trên, lìa uế nhiễm của địa dưới, nên cầu địa trên.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Cầu “hữu”, tức là cầu thân ba cõi, không đồng với Tiểu thừa.

5. Cầu pháp nhĩ, nghĩa là chúng sinh vào cuối kiếp, cầu pháp nhĩ sinh lên cõi trên.

Luận sư Đại nghĩa nói: “Tức pháp nhĩ, tất cả chúng sinh cầu thân “hữu” đời sau.

1. Cầu kỳ nguyện nghĩa là mong cầu sinh lên cõi kia, được cõi kia v.v….

2. Cầu ngu si, nghĩa là ngoại đạo v.v…, vì chấp cõi trên là Niếtbàn nên cầu.”

Luận sư Đại nghĩa nói: “Vì ngu si nên nên cầu sinh lên cõi trên.”

3. Cầu nhàm chán tai họa, vì tai họa của cõi dưới.”

Luận sư Đại nghĩa nói: “Nhàm chán thân này, cầu thân sau.”

Cầu tư duy lựa chọn, nghĩa là người có trí tuệ, cầu sinh lên cõi trên, không chấp là Niết-bàn.”

Luận sư Đại nghĩa nói: “Tư duy lựa chọn chỗ đáng sinh mà cầu sinh.”

Cầu phạm hạnh có năm v.v…. Pháp sư Cảnh nói:

  1. Cầu chỉ cầu, tức chỉ khởi tâm cầu Niết-bàn, không tu phạm hạnh.
  2. Cầu thú hướng chứng đắc, là thú hướng Niết-bàn, thô tu phạm hạnh.
  3. Cầu hiện chứng đắc, nghĩa là cầu Niết-bàn hiện tại mà tu phạm hạnh.
  4. Cầu chứng đắc về sau: Cầu Niết-bàn ở đương lai, mà tu phạm hạnh.
  5. Cầu tư duy lựa chọn, nghĩa là mỗi thứ tư duy lựa chọn mà tu phạm hạnh, đây là có cả tà, chánh.

Lại có sự khác nhau: nghĩa khác nhau từ cầu phạm hạnh, nghĩa là người cầu giả danh, đó là ngoại đạo.

Cầu đệ nhất nghĩa, nghĩa là đệ tử của pháp Phật. Cầu không có phương tiện, nghĩa là giải thích về cầu giả danh. Cầu có phương tiện, nghĩa là giải thích về cầu nghĩa đệ nhất.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Cầu chỉ cầu, nghĩa là người muốn tu phạm hạnh.”

Luận sư Đại nghĩa nói: “Tướng chung là cầu phạm hạnh”, Lại chỉ tâm có cầu, chưa năng phát thú hướng, vì phạm hạnh khó cầu, nên chưa thể tu hành.”

Cầu hướng đến chứng đắc, nghĩa là khởi tu hành, do đó gọi là thú hướng chứng đắc.

Luận sư Đại nghĩa nói: “Cầu riêng một việc, gọi là cầu hướng đến chứng đắc, nên cầu.

Cầu hiện được, nghĩa là cầu tu phạm hạnh, hiện được quả. Cầu được về sau, là cầu sẽ được quả sau.

Cầu tư duy lựa chọn, nghĩa là người có trí cầu chứng được Niếtbàn mà tu phạm hạnh v.v….

Cầu phạm hạnh, vì dùng nhân của đạo, nên lại có cầu đệ nhất nghĩa giả danh trong khác nhau.

Luận sư Đại nghĩa nói: “Cầu giả danh là một, tức ngoại đạo v.v…. Cầu đệ nhất nghĩa là một, nghĩa là phạm hạnh tà giả nếu cầu đệ nhất nghĩa, thì chính là phi phạm hạnh.

Cầu quán sát, nghĩa là phạm hạnh chân thật, vì quán sát pháp đáng bỏ, đáng ưa thích nên cầu.

Cầu không có phương tiện, nghĩa là cầu giải thoát tà. Cầu có phương tiện, nghĩa là cầu giải thoát chân thật.

Thứ tư trong giải thích về nội minh, văn được chia làm hai:

1/ Nêu chung, trước là nói lược, nêu lên nội minh là hơn. Sau nói rộng để giải thích kinh. Do môn sáu lý, nên tùy qyết định rõ.

Trong phần trước, nói là do bốn nghĩa, nên đối với xứ các minh, nội minh là hơn:

  1. Vì gồm thu bốn đế.
  2. Tức nghĩa của bốn đế, chẳng bị ngoại đạo hàng phục.
  3. Tức nghĩa bốn đế, vì Noãn v.v… dễ hiểu.
  4. Đã nhập đế lý, vì tám chánh không hư hoại, hoặc bốn niềm Tin không hư hoại, thanh tịnh.

Thứ hai, trong phần nói rộng về môn lý, văn chia làm hai: Trước lược nêu, sau giải thích rộng.

Trong phần trước, ban đầu là nêu chung, kế là chia riêng. Sau nói về danh, nghĩa.

Trong phần chia riêng, trước là nêu môn lý có sáu. Sau giải thích rộng.

Y cứ văn trong giải thích rộng, được chia làm ba:

Theo thứ lớp giải thích riêng về sáu thứ môn lý. Kế giải thích ba môn trước do ba môn sau, nên tùy theo quyết định rõ. Sau, là hỏi, đáp để chọn lựa.

Trong phần đầu chia làm sáu:

1. Giải thích về môn lý chân nghĩa. Pháp sư Thái rằng: “Nói thế tục chứng đắc. Nghĩa là an lập quả Dư lưu v.v….

Chỗ sở y kia, bốn quả là đối tượng chứng của người; bốn đế là thế tục chứng đắc.

Nói “Lại nữa, an lập, cho đến “Cho nên giả lập”, nói là Thắng nghĩa đế, nay là giả an lập. Do nghĩa đế này không thể an lập thắng và không thắng, chì vì thuận theo chúng sinh mà phát sinh tri chứng Thắng nghĩa này. Cho nên, giả lập danh từ Thắng nghĩa đế.’

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đại nghĩa: “hoặc ba lớp tục đế, hoặc bốn lớp tục đế, đây là môn hai đế, nghĩa là tục đế có bốn; Thắng nghĩa cũng thế. Trong thế tục:

  1. Giả danh vô thật đế.
  2. Tùy sự sai khác đế.
  3. Chứng đắc an lập đế.
  4. Giả danh vô tác đế.

Nghĩa là giả an lập, gọi là Thắng nghĩa đế, mà không có thể của pháp, vì thể của pháp là không thể nói. Theo văn này thì chỉ có bốn lớp tục đế, không có Thắng nghĩa đế. Trước kia lập ba lớp, vì có pháp nghĩ định thích nghi. Sau này lập bốn, nghĩa là vì giả gọi là an lập. Phương Tây có lập bốn lớp thắng nghĩa, sự đối nhau cũng vậy.

2. Thắng nghĩa đế thế tục, tức thể là đạo lý thế tục, ở trước là thế tục đế vượt hơn thế tục, nên gọi là thắng nghĩa. Vì lập ra pháp y tha tánh v.v… của nhân, quả khác nhau, nên gọi là thế tục.

3. Thắng nghĩa đế của đạo lý, tức thể là thế tục chứng đắc ở trước, vì có nghĩa được quả dứt trừ “hoặc”, nên gọi là đạo lý. Vì vượt qua đạo lý ở trước, nên gọi là Thắng nghĩa.

4. Địa vị Thập v.v… địa hạnh là thắng nghĩa chứng đắc, tức thể là thắng nghĩa của thế tục ở trước, do an lập mà được tên gọi, gọi là thắng nghĩa, có thể có nghĩa chứng đắc, vì vượt hơn thế tục chứng đắc trước, nên gọi là thắng nghĩa.

5. Thắng nghĩa của thắng nghĩa, tức là phi an lập đế, vì thể chân như là pháp không thể an lập, nên gọi là thắng nghĩa, vì vượt qua thắng nghĩa của thắng nghĩa thế tục ở trước, nên gọi là thắng nghĩa.

Thứ hai, là giải thích môn chứng đắc lý. Pháp sư Thái nói: Trí chứng đắc, nghĩa là chín Trí giả. Trí tha tâm là quán khắp chốn, vì tu riêng công đức, nên chẳng phải trí chứng.

Nói chứng đắc của Độc giác thừa có hai:

1. Trước đã được thiện căn quyết trạch phần của Thanh văn. Lúc đắc quả, không có thầy, một mình giác ngộ.

2. Trước đã được kiến đạo, gọi là chứng đắc của chứng đắc. Khi trước, nhân đức Phật vì nói Bốn đế, được nhập kiến đạo, thành tựu Dư lưu. Về sau, khi chứng đắc quả thứ tư, không có thầy, giác ngộ một mình. Hai người trước này, trước là Thanh văn. Về sau tự giác ngộ một mình, không có thầy, gọi là Độc thắng, là chúng Xuất Bích chi. Sau cùng, dụ như Lân Giác, xuất hiện một mình.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hai người trước trong ba người Độc giác, trở thành xuất chúng, vì trước đó đã được Noãn v.v… của Thanh văn. Khi chứng quả, vì ngắn ngũi không thể tu tập trong nhiều thời gian nên thành xuất chúng, nếu chưa quyết định sinh thời gian ít trong Quyết Trạch phần, tức nhập kiến đạo, ở vị Quyết trạch phần hồi tâm trở thành Độc giác. Và người chưa được thiện của Quyết trạch phần, mà hồi tâm cũng thế, vì còn phải trải qua thời gian dài để tu tập, rèn luyện căn cơ nhạy bén. Ở đây đều gọi là chứng đắc của chưa chứng đắc.

Trong đây nói chứng đắc, tức thiện của quyết trạch phần, gọi là chứng đắc. Vì đã chứng đắc chân vô lậu, nên kiến đạo v.v…, tức là chứng đắc của chứng đắc. Như người chưa đắc quả, gọi là chưa chưng đắc của chứng đắc, lại nói là chưa đắc quả.

Thứ ba, là hoàn toàn ở phần vị giải thoát, cho nên khác với hai phần trước. Trong giải thích môn lý giáo đạo, trước, nói lược về ba xứ; sau nói rộng về mười hai.

Trong phần trước nói Ma-đát-lý-ca, Hán dịch là Bản mẫu. Trong giáo này sinh ra các nghĩa là tướng mạo căn bản của các pháp, gọi là Bản mẫu. Mười bảy địa là Bản địa phần và bốn thứ nhiếp tức là bốn phần sau. Phật nói Tạng Ma-đát-lý-ca, lược nêu mười bảy địa và bốn thứ nhiếp làm môn Giáo đạo. Về sau Bồ-tát Di-lặc lại vì Ngài Vô Trước nói rộng ra. Lại, các Luận sư phương Tây còn giải thích rằng: “Di-lặc tức là Phật, nên đức Di-lặc vì Bồ-tát Vô Trước nói mười bảy địa và bốn thứ nhiếp, tức là Đức Phật nói Ma-đát-lý-ca.

Hai pháp nhiếp, nghĩa là hợp chung hai thứ trước, có mười thứ này, tức tạng và Bản mẫu. Mười thứ là:

1) Giáo đế tướng, tức nói tướng của bốn đế, hai đế: Biết khổ, dứt; Chứng Diệt, Tu đạo, bốn hợp với năm trên. Phẩm loại sai khác cuả bốn đế là thứ sáu. Sở y năng y là thứ bảy. Ở đây có hai giải thích.

2) Đối tượng nương tựa sở y, nghĩa là nhân, tức tập, đạo đế. Năng y (chủ thể nương tựa) nghĩa là quả, tức hai đế Khổ, Diệt.

Có chỗ giải thích: “Lý bốn đế là sở y (đối tượng nương tựa) Dựa vào lý này nói giáo, giáo là năng y, tức giáo tương xứng “năng thuyên” (chủ thể giải thích). “Sở duyên” (giáo lý thuyết giải).

Giáo thứ tám của pháp chướng biến tri v.v… : Tức nói pháp chướng của khổ đế, Tập đế.

Thuận với pháp là thứ chín: Tức là nói giáo của hai đế: Đạo, Diệt. Giáo thứ mười của công đức, lổi lầm của Biến tri v.v…, không biến tri v.v…, nghĩa là nói chướng Biến tri v.v… ở trước, gọi là không biến tri, tức là lổi lầm. Trí nhẫn biết khổ v.v… gọi là biến tri, tức là công đức.

Dưới đây, trong phần nói về mười hai giáo đạo, nói giáo không liễu nghĩa, nghĩa là Khế kinh, ứng Tụng, Biệt Ký v.v…, đây là y cứ ở pháp nói rộng môn giản lược, nói về liễu, bất liễu.

Giáo của Thế tục đế, nghĩa là tướng, gọi là phân biệt.

Giáo của thắng nghĩa đế, nghĩa là bốn Thánh đế và chân như. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Trong đây không luận về chánh trí, vì là hữu vi, nên có thể là thế tục, vì là vô lậu như cảnh, nên gọi là Thắng nghĩa, do đó nên không luận.

Nay, giải thích chánh trí tức gồm thu trong đạo đế, cho nên không nói lại. Cung có thể chữ Đẳng (v/v) bao gồm chung Chánh trí.

Thắng Nhiếp ba, nghĩa là tên cây, tức xưa nói Giới Lâm là sai; là cây hồ Bá của xứ này. Đức Phật ngự ở rừng cây Hồ Bá để nói pháp, Ngài nhặt một chiếc là để thí dụ. Như pháp mà Ta đã nói cho A-nan, nghe như một chiếc lá, pháp mà ta biết nhiều như lá cây trong rừng.

Thứ tư, trong giải thích về sự xa lìa hai bên, là nói tăng ích, tổn giảm: tăng ích là biến kế sở chấp; Tổn giảm là y tha, viên thành.

Thứ năm, trong giải thích về không thể nghĩ bàn, nói “hoặc dựa vào kiến, tư để bàn; hoặc không dựa vào kiến, tư để bàn v.v….”. Pháp sư Thái nói: “hoặc người khởi ngã kiến, thì dựa vào ngã kiến để bàn bạc về ngã. Hoặc tức khởi ngã kiến, lại không dựa vào ngã kiến để nghĩ bàn về cái ngã.”

Có chỗ giải thích: “hoặc người khởi ngã kiến, thì dựa vào ngã kiến để tư duy, bàn luận về ba thứ trước; hoặc người không khởi ngã kiến thì không dựa vào ngã kiến để nghĩ bàn về ba thứ trước “

Thứ sáu, trong giải thích về môn lý của ý thú. Pháp sư Thái, Pháp sư Khuy Cơ đồng nói: “Ý thú lấy Dục và Thắng giải làm thể. Vì Dục và Thắng giải của Phật nên khiến ý thức có sự thú hướng, nên lấy dục và thắng giải làm ý thú, lược có mười sáu:

  1. Thị hiện ý thú.
  2. Khiến nhàm chán sinh, tử, gọi là trái lìa.
  3. Đối với người chưa phát tâm, khuyên bảo, dìu dắt sao cho họ phát tâm là Giáo.
  4. Dùng thứ giải thoát phần, nghĩa là khen ngợi, khuyến khích sao cho họ không lùi bước, là lợi.
  5. Với người đã được quyết trạch phần, thì chúc mừng cho họ.
  6. Giúp họ nhập kiến đạo.
  7. Chánh thức nhập kiến đạo, dứt nghi.
  8. Được quả học thành thục.
  9. Được quả xong, khiến họ tu các định.
  10. Giúp họ được quả Vô học.
  11. Như ý nghĩ riêng của Nhiếp Đại thừa, vì khiến chúng nhập dần.
  12. Giúp cho người chứng được đạo lý của nghĩa riêng, phát sinh ý thú vui mừng công đức.
  13. Khiến người nghe được nghĩa riêng, đối với người giảng nói, sinh tâm tôn trọng.
  14. Pháp giáo có công năng dẫn đường cho chúng sinh, gọi là pháp nhãn. Thường chuyển pháp giáo, gọi là pháp nhãn hằng chuyển.
  15. Khuyên tu các điều thiện.
  16. Nói giáo Đại thừa vô tướng,.

Dưới đây là thứ hai, giải thích ba môn trước, do ba môn sau nên tùy quyết định rõ ràng, trong đó, trước nói về môn lý chân nghĩa. Do xa lìa môn lý hai bên, nên tùy quyết đoán rõ ràng. Sau so với giáo đạo chứng đắc, do hai thứ sau.

Trong phần trước, đầu tiên là hỏi, kế là, giải thích, sau, là kết.

Trong giải thích, trước y cứ vào an lập nghĩa chân, phân tích lìa hai bên. Sau, y cứ vào phi an lập, nhằm nói về lìa hai bên.

Trong phần trước có hai:

  1. Y cứ vào bốn đế, chính nói về lìa hai bên.
  2. Nói rộng về nghĩa môn khác nhau của bốn đế,

Trong phần trước, nói “Vì đối trị bốn điên đảo, nên nói bốn niệm trụ, đó là tu thân niệm trụ, đối trị tịnh tăng, thọ niệm trụ, trị lạc tăng, Tâm niệm trụ, đối trị thường tăng và pháp niệm trụ, đối trị ngã tăng.

Bốn trí định: Ngài tam Tạng nói: “ Trí tuệ tương ưng với bốn khổ hành phẩm hạ, gọi là trí quyết định. Dùng hạnh khổ đối trị đảo tịnh lạc; hạnh vô thường, trị đảo thường; không vô ngã, trị điên đảo ngã.

Nói vì sinh, nghĩa là lìa uẩn, pháp sinh có riêng “hoặc” ngã sinh.

Vì tướng, nghĩa là thể tướng, tướng trạng và nghiệp dụng v.v… của ngã, rất dễ hiểu.

Nói: “Sáu bất tịnh, như địc Thanh văn nói, nghĩa là: Ô uế bất tịnh, khổ não bất tịnh, hạ liệt bất tịnh; quán đãi bất tịnh, phiền não bất tịnh và tốc hoại bất tịnh.

Chấp cho là không có tánh, để chứng tỏ là không có tánh. Chứng tỏ là không có tánh, nghĩa là đối với các đế, tâm chấp là không, miện nói là không.

“Thế nào là khổ đế” trở xuống, là thứ hai trong phần nói rộng về

nghĩa môn sai khác của bốn đế, trước, nói về tướng đế, sau y cứ vào đế, để nói về người.

Phần trước, nói tám tướng như ở trước: Đây là nêu chung, chỉ cho sự đoạn diệt không có dục v.v… trước.

Dưới đây là tùy theo vấn nạn, mà giải thích lại.

Nói phương tiện tư lương, đạo thanh tịnh, lược chung, gọi là đạo đế, nghĩa là đồng với Đối Pháp quyển tám nói.

Lại, đạo Phương tiện của các Bồ-tát, đều bằng nhau, nghĩa là do đạo tư lương đồng với hạnh Thanh Văn, nên không nói riêng.

“Lại nữa v.v… trở xuống, là thứ hai, y cứ vào đế để nói về người, trong đó chia làm ba:

1/ Nói dựa vào đế, lập ra sự khác nhau của con người.

2/ Nói về người có mười ba pháp như tạo tác v.v….

3/ Y cứ vào pháp để nói cú nghĩa sai khác về người.

Trong phần đầu, nói các đế làm y cứ, làm nương tựa, làm chỗ kiến lập ra mười ba người. Pháp sư Thái nói: “Y cứ vào khổ đế làm y cứ; tập đế làm nương tựa; Đạo đế làm kiến lập. Y cứ vào ba đế này lập ra mười ba người.”

Pháp sư Khuy Cơ lại cho rằng: Những lời chung này là y cứ, nương tựa để kiến lập, tức một vật, không cần phối hợp riêng, tức ba đế đều phải. Hoặc bốn đế do chứng đắc vô vi v.v…, mới kiến lập sự khác nhau.

Bồ-tát cõi Dục, Bồ-tát cõi Sắc không thể nghĩ bàn đức Như lai: Ở đây Bồ-tát không sinh cõi Vô Sắc. Thân Như lai hoàn toàn vô lậu. Vì ra khỏi ba cõi, mà ở tại ba cõi, nên gọi là không thể nghĩ bàn.

Kế là, nói về mười ba pháp như tạo tác v.v…, có mười đoạn. Bốn thứ trước, trong mười hai thứ như tạo tác, rất dễ hiểu.

Tạo tác của dòng vượt hơn, nghĩa là người xuất gia kia tu hành thắng tấn, nhập Thánh đạo, nên việc ngăn ngừa, gìn giữ. Hoặc sinh, nghĩa là vì cầu sinh vượt hơn, cho nên tạo tác. Bậc Thánh là lìa dục, tạo tác. Tu tám giải thoát tạo tác. Rèn luyện căn tạo tác. Phát khởi vô lượng lợi tha tạo tác.

Nói mười một thứ chướng, tùy bất cứ một thứ chướng nào hiện ở trước, nghĩa là trong mười hai thứ chướng trước, sau, tùy một chướng hiện ở trước làm chướng ngại của chướng thứ sáu, lại không có tự thể riêng.

Nghiệp có hai: Tư và Tư xong. Nghĩa là ý nghiệp gọi là Tư, thân và ngữ gọi là Tư xong.

Nói sai khác trong đây, nghĩa là đến ý lạc, là tánh quả. Pháp sư Thái nói: “Tu thành tánh quả là căn. Khi tu chưa thành, nhân tánh là giới. Như thứ lớp, hiện hành, hạt giống, tín, giải và ý lạc, đều lấy dục, thắng giải làm tánh. Nhưng ngay từ lúc đầu khởi nhân, gọi là tín giải. Về sau, lúc khởi quả, gọi là dục lạc.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hai thứ căn, giới, hoặc nhiễm, hoặc tịnh, tùy thích hợp thông dụng năm căn như tín v.v… và năm thọ căn, ý căn làm thể, chỉ hiện hành gọi là căn, hạt giống gọi là giới. Luận sư Đại nghĩa nói: “hoặc mới tu chưa mãn, gọi là giới là nghĩa tăng thượng, đã thành tựu viên mãn, gọi mỗi căn là nghĩa tăng thượng vì gọi là quả nên nói là nhân quả, mà thể không khác.

Giải thích về ý lạc, như các luận, đều lấy hai pháp dục và Thắng giải làm thể. Hoặc nhiễm, hoặc tịnh đều đồng, cũng không khác nhau, chỉ có Tín giải này là nhân, ý lạc là quả, tức hạt giống gọi là tín giải, quả gọi là ý lạc. Đây chính là văn của các luận”. Đại nghĩa nói: “Tức khi mới khởi tín v.v…, gọi là tín giải, cho nên là nhân. Thời gian sau sinh khởi tín v.v…, gọi là ý lạc, cho nên là quả, chứ chẳng phải y cứ ở hạt giống v.v… để giải thích. Nghĩa này như thế.

Tùy miên có hai: Có thể hại, chẳng thể hại, nghĩa là người có chủng tánh đã có tùy miên, gọi là có thể hại; người không có chủng tánh, gọi là không thể hại.

Sinh, đại khái có hai: Không có rảnh sinh và có rảnh sinh.

Hỏi: “Không có rảnh sinh với xứ tám mạn, rộng hẹp thế nào?” Ngài Tam Tạng nói: “Thân thọ tám nạn, không thể tu, khởi nhập phương tiện của bậc Thánh, đều gọi là không có rảnh sinh.

Tập khí có hai: Tập khí Vô gián sinh và tập khí trước sanh. Pháp sư Cảnh, Bổ Khuyết: “Đời hiện tại huân tập tập khí của ba tánh, gọi là tập khí Vô gián sinh. Đời quá khứ hun đúc tập khí của ba tánh. Tam Tạng Pháp sư nói: “Hạt giống phiền não gọi là tập khí đời trước, dứt trừ hạt giống hoặc xong, tất cả loại khí, gọi là Vô gián sinh”.

Có chỗ giải thích: “Kế là thân trước đã sinh tập khí, gọi là Vô gián sinh. Thân thứ ba trở đi, gọi là tập khí sinh trước.

Nhóm có ba thứ, cho đến phương tiện bất định. Bổ Khuyết: “Tà Định có hai:

1- Tà định bản tánh, nghĩa là người không có tánh Ba thừa, thành nghiệp Vô gián.

2- Tà định phương tiện, nghĩa là người có tánh Niết-bàn, gặp được ở địa vị phàm, duyên khởi nghiệp năm tội nghịch ở trong Ba thừa.

Chánh định cũng có hai:

1- Định Chánh tánh của bản tánh, thành tựu chủng tánh Nhất thừa.

2- Định chánh tánh của phương tiện, nghĩa là nhập Kiến đạo trở lên.

Bất định cũng có hai:

1- Bất định bản tánh: Người này ở phàm, thành tựu chung chủng tánh Ba thừa.

2- Bất tịnh phương tiện, nghĩa là gặp duyên, hoặc thực hành tà định; hoặc thực hành tạo chánh định. Trong chánh định, hoặc làm Thanh Văn, cho đến làm Phật.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “ Tà định có hai: Bản tánh, và phương tiện: 1) Là người không có chủnh tánh. 2) Là người cắt đứt gốc lành; đều có tánh, không có tánh”. Đại Nghĩa nói người: “Cắt đứt điều thiện, rồi nối tiếp trở lại, chưa chắc là nhóm tà kiến. Người gây ra nghiệp năm nghịch, quyết định là tà định”.

Luận sư Đại Nghĩa nói: “Định chánh tánh có hai: Bản tánh, và phương tiện. Ban đầu, tức bản hữu của Nhị Thừa đều có tánh quyết định riêng. Kế là, chính người này đã nhập Thánh đạo là phải”.

Luận sư Đại nghĩa nói: “Bất định cũng có hai thứ:

1) Bản tánh. 2) Phương tiện.

Người đầu tiên, là người vốn có chủng tánh của ba thừa. 1) Trong thân người có chủng tánh của ba thừa. 2) Phương tiện bất định, nghĩa là giải thích nhập Thánh đạo xong, nhưng vì bắt đầu nhập phương tiện hồi hướng Đại thừa v.v… nên mới không nhất định, gọi là phương tiện bất định.

Người trước là người lúc còn là phàm phu có chủng tử của ba thừa; hoặc tức hồi tâm, hoặc đều là người định, bất định, không nhất định địa vị kia. Kế là, định cũng thế. Một người tánh bất định này hoặc đủ hạt giống của ba thừa; hoặc chỉ có hai hạt giống ”

Có chỗ giải thích: “ Ba nhóm đều có pháp nhỉ mới huân tập hai hạt giống, gọi là bản tánh, phương tiện”.

Dưới đây, là nói về sự khác nhau của cú nghĩa.

“Lại nữa v.v… cho đến câu” như điều kiện thích hợp kia”, nghĩa là giải thích mười ba pháp ở trước xong, lẽ ra cũng dựa vào pháp đó để lập mười ba người. Về phần kết khuyến nên biết. Mười ba người đối với trong mười ba, tùy thích hợp “có” không có”nên nói rằng: như điều kiện(Đối tượng) thích hợp kia. Bốn trường hợp của hai lượt, nghĩa ấy rất dễ hiểu.

Dưới đây, kế là thứ hai, trong y cứ phi an lập, nói về lìa hai biên, đầu tiên, là nêu chân thật phi an lập làm cảnh của Thánh trí, đây là Trung đạo. Kế là, nói về bên tăng ích:

Nói “Do ba nhân duyên là hoàn toàn không hợp lý v.v… ”

1- Nếu danh ngôn có tánh nghĩa, nghĩa là như danh có nhiều nghĩa, lẽ ra thể cũng nhiều.

2- Nếu lìa nhiều danh ngôn dài, ngắn v.v… thì nghĩa dài, ngắn v.v… kia vì biết là bất sinh, nên nghĩa đã lấy nhất định chẳng phải có thật. Hai nhân này lấy danh bỏ nghĩa.

3- Nếu như nghĩa lấy danh, thì khi thấy sắc v.v… lẽ ra sinh biết danh. Vì sao? Vì đã giải thích danh nghĩa nương vào nhau mà chuyển, vì danh nghĩa tương xứng, thì khi biết nghĩa, nên biết danh. Một nhân này lấy nghĩa để bỏ danh, có thể dẫn văn Nhiếp Luận.

Dưới đây là thứ ba, hỏi đáp để phân biệt, trong đó có ba:

1) Hỏi: “Như trong mười sáu ý thú trước, nói nghĩa riêng tương ưng với ý thú, điều này có nghĩa gì nên hiểu rõ môn lý giáo đạo thứ ba chăng?”

Đáp: “Chẳng phải như nghĩa ngôn giáo tương ưng với ý thú, chỉ là trừ bỏ nghĩa kém của như ngôn. Ngoài ra, Thắng nghĩa gọi là ý thú của nghĩa riêng, nên ý thú rất dễ hiểu rõ môn lý của giáo dắt; có thể tạo ra văn này cũng là Nghĩa ngôn giáo dẫn đạo; có thể tạo ra văn này cũng là nghĩa ngôn giáo của thời gian riêng tương ưng với thú. Vì ý thay đổi nhau với nghĩa của thời gian riêng, nên gọi là ý thú của nghĩa riêng. Do thắng nghĩa khác dứt rừ ý nghĩa của thời gian riêng. để nói về giáo dẫn dắt.

Trong đây tùy theo vấn nạn; vì giải thích khác nhau, cho nên mười lăm pháp còn lại, không phân biệt nữa.

Kế là, giải thích về môn ba lý ở trước; do ba môn sau nên tùy theo nghĩa quyết định rõ ràng, trong đó; 1) Nói về nghĩa chân quyết định rõ là căn bản; môn lý khác cũng tùy quyết định rõ. 2) Nói về môn lý của Nghĩa chân tùy quyết định rõ, nghĩa là có thể nhập năm thứ ly sinh. Luận sư Thái, Khuy Cơ cũng nói: “Phiền não của kiến đạo cũng như thức ăn qua đêm trong thân không tiêu hóa, mà người phương Tây hay gọi là thức ăn đêm là “sinh thực”. Sinh thực (Thức ăn sống) ở trong thân, thường hay gây nên tai họa chết, phiền não kiến đạo tồn tại, có thể tạo nên tai họa trầm trọng. Nếu dứt bỏ kiến hoặc như lìa sinh thực, nên là lìa sinh, tức xưa nói là “vượt lên ly sinh, chính là nhập kiến đạo”.

Người lìa sinh có năm hạng:

  1. Là Sơ quả.
  2. Là vượt qua Nhất Lai.
  3. Là vượt qua Bất Hoàn.
  4. Là Độc giác.
  5. Là Bồ-tát.

Dưới đây, là nói về lý do kiến lập hai đế an lập, phi an lập, có ba lượt hỏi, đáp:

Hai ràng buộc của đạo lý trong hỏi, đáp từ đầu đã được cắt đứt ngay một lúc. Luận chủ y cứ ở nghĩa để nói dứt rừ trước, sau. Có Luận sư dùng nghĩa này để chứng minh cho Hậu trí của người Nhị thừa, tức chẳng phải đạo đoạn, vì có tướng, nên như trí gia hạnh v.v…. Hai giải thích của Duy thức mà không có lấy.

Trong hỏi, đáp thứ hai, gia hạnh có hai:

  1. Gia hạnh xa, tức gọi là đạo tư lương.
  2. Gia hạnh gần, tức gọi là đạo phương tiện.

Vì muốn cho hai đạo gia hạnh được thanh tịnh, dẫn phát đạo chánh đoạn, nênlại nói an lập.

Ý hỏi trong lượt hỏi, đáp thứ ba rằng “Nếu quán, giải của Tiểu thừa dứt trừ hai phược ở bốn đế thì se có lỗi gì? Lại nói là phi an lập ư?” Có hai nghĩa trong phần đáp:

1. Nếu có người chứng Bất hoàn một cách siêu việt, thì se dựa vào định thứ tư khi khởi Noãn v.v…, tạo nên mười sáu quán hạnh vì an lập đế, lẽ ra như Thánh đạo dứt trừ hai phược, rất thanh tịnh, nhưng đàng này thì không thừa nhận như thế, nên tâm có tướng không cắt đứt phược.

2. Nếu đạo có tướng kia có thể dứt trừ hai phược ấy, thì lẽ ra so với đạo xuất thế không có gì khác nhau, nhưng vì có sai khác, nên không hợp lý!

Trên đây, trong chính phần nói có năm đoạn. Bốn đoạn trước đã nói xong.

Dưới đây là đoạn thứ năm, về nghĩa của tạp Quyết Trạch Văn Tuệ Địa, có mười bốn trường hợp.

1. Nói về tính thô nặng không có khả năng. Nay, sự thô nặng ở đây không có tính kham năng, tức là nương gá nới năm uẩn nối tiếp nhau. Về loại khí có năm tướng:

a- Thân, tâm, nặng nề. b- Ngang bướng, không điều hòa nhu thuận. c- Chướng ngại cho việc thực hành điều thiện. d- Khiếp nhược, yếu hèn, không có khả năng gánh vác công việc. d- Không chuyển biến tùy theo điều mình mong muốn.

2. Nói về phương pháp nuôi lớn căn đại. Từ xưa việc nuôi lớn có bốn, thêm tránh xa Bất bình đẳng, là năm. Ở đây lược có hai:

a- Nhậm trì trưởng dưỡng (gìn giữ sự nuôi lớn), tức là bốn cách ăn.

b- Không gây tổn hại sự nuôi lớn, tức là bốn thứ sau, nghĩa là mộng tránh khỏi bất bình đẳng, phạm hạnh, đẳng chí.

Gìn giữ, nuôi lớn có bốn:

a- Gìn giữ, biến hoại là đoạn thực. b- Gìn giữ mừng, vui là xúc thực. c- Hy vọng là tư thực. d- Nhiếp thọ, chấp lấy là thức thực.

3. Nói về năm hành:

a- Thân hành: Hơi thở ra vào. b- Ngữ hành: Tầm, từ.c- Ý hành: Tưởng, thọ v.v…. d- Nghiệp hành: Hành của thể nghiệp. đ- Thọ hành: Do sức định bờ mé chuyển biến tuổi thọ làm cho dài ra, gọi là thọ hành. Hoặc nói rằng, tức thể của Mạng căn.

4. Nói năm thứ không buông lung.

5. Nói về Danh, Sắc, đều có năm thứ Danh. Năm thứ là: a/ Tâm; b/ Tâm sở. Hai thứ này phát ra thể; nghĩa của ba thứ sau là khác.

Sắc có năm thứ: a- Các đại. b- Đại chủng sở tạo, nghĩa là y cứ ở thể.

Nghĩa của ba thứ sau, là khác.

6. Nói về phiền não, được chia làm ba: Trước nói về năm thứ ngu. Kế là, nói về năm thứ hữu ái. Pháp sư Khuy Cơ nói: “1/ Ái Pháp tánh, vào thời kỳ cuối kiếp, pháp nhĩ ái sinh lên cõi trên. Như pháp nhĩ v.v…. 2/ Ái thệ nguyện: mà chẳng phải ngoài này, thệ nguyện khác sinh lên cõi kia. 3/ Ái ngu si, tức ngoại đạo v.v… chấp cõi trên kia là Niết-bàn. 4/ Ái chán lìa, tức nhàm chán cõi dưói, ưa thích cõi trên. / Ái tư duy, lựa chọn, nghĩa là bực thanh sinh vào con người thượng lưu của định tuệ kia.”

Luận sư Đại nghĩa nói: “Nay, nói “hữu ái’ chưa chắc là “duyên” hai cõi trên, chỉ “duyên” có thân bên trong là phải.

Ái Pháp tánh: Tức ái nhậm vận như thức thứ bảy chỉ ái Lại-da.

Ái thệ nguyện, như phát phát nguyện là ta. Nguyện nhất định được như thế, như thế v.v….

Ái ngu si, tức vô minh thêm ái, hoặc sinh tử, cũng như ngoại đạo cầu sinh lên cõi trời v.v….

Ái nhàm lìa: như luận rằng: “Đối với pháp xả, người thọ không có xấu hổ, tức bỏ đi pháp thọ giới không có sự xấu hổ, tức người xả giới ngày nay, chính là nhàm chán việc này, yêu thích việc kia.

Ái tư duy lựa chọn, nghĩa là như xét chọn rằng: “Người, trời là hơn ta, nên quyết định sinh lên cõi đó”. Lại, hạt giống của thế lực ái, dưới đây là nói do năm thứ lập ra vô tàm quí, trước, là nói về tướng mạo của Vô tàm quí, sau, làm rõ Tàm, quí, cũng có năm tướng.

Nói: “Ba người đối với pháp xả, thọ không có xấu hổ. Pháp sư Thái nói: “Người này là đối với pháp xả, thọ giới, không có hổ thẹn.

7. Nói về người nói pháp xấu ác và tướng mạo của bạn ác. Trước nói về bạn ác, nói xấu ác. Sau chứng tỏ trái lại, bạn thiện, nói điều tốt lành.

8. Nói về chỉ, quán: Pháp sư Thái nói: “Cùng tận tánh sở hữu, nghĩa là nhận xét tự tánh của tất cả pháp. Như tánh sở hữu, nghĩa là biết rõ sự khác nhau của các pháp.

Luận sư Chân Đế giải thích là trí như lý, trí như lượng, không thuận với bản phạm.

9. Nói về ba lậu. Pháp sư Cảnh nói: “Dục, lâu có năm tướng “duyên” phiền não của năm dục ngoài cõi Dục, gọi là dục lậu. Năm tướng hữu lậu: Ba tướng đầu nói là “duyên” ba tướng trong, nghĩa là “duyên” thân ba hữu, sinh ra lậu, đều cùng gọi là hữu lậu, hữu lậu là nói chung. Luận Tiểu thừa vì y cứ ở lậu tăng, nên chỉ nói là “hoặc” của hai cõi trên, gọi là hữu lậu. Bốn tướng sinh không có dục lạc, có các phiền não: “Hoàn” là phiền não của diệu giới cõi giữa; sinh ra có dục lạc, có các phiền não: “Hoàn” là phiền não cõi kém. Đại khái do năm tướng lập ra tà giải thoát.

Dục vô minh lậu, nghĩa là Hữu tưởng luận v.v… ” Luận này nói nhân năm luận trong tà kiến của kiếp cuối mà sinh ra vô minh, gọi là vô minh lậu, cũng có khắp cả ba cõi. Pháp sư Thái nói: “Nội Căn khắp ba cõi là ba lậu trước, chung cho năm dục là hai lậu sau. Cõi ác có thể sinh không có Dục lạc, có các phiền não. Người, trời sinh dục, lạc, có các phiền não”.

Pháp sư Khuy Cơ cho rằng: “Đại Nghĩa nói: “Hai cõi trên được gọi là không có dục lạc, phiền não, cõi Dục, gọi là có dục lạc. Phiền não. Vô minh lậu trong đây chỉ lấy sáu mươi hai kiến tương ưng với vô minh, chỉ ở cõi Dục. Vì sáu mươi kiến này gọi là che lấp giải thoát v.v…. Nên như quyển tám mươi chín lấy vô minh làm chính. Ở đây nói rằng vô minh thật ra, kiến cũng là vô minh, như quyển tám mươi chín nói. Nhưng trong đây, chỉ nêu kiến phân biệt của bờ mé sau, không nêu kiến của mé trước, bởi vì luận nói: “Nếu dục vô minh lậu, dục là nghĩa mong muốn, “duyên” ở bờ mé sau, khởi mong muốn vượt hơn, chứ chẳng phải “duyên” kiến của mé trước, nên không gọi là vô minh lậu, tức như quyển tám mươi chín nói.

10. Nói về sự khác nhau của các pháp. Pháp sư Cảnh nói:

a/ Do tướng, nghĩa là mười tám giới đều có tướng trạng. Sở y (đối tượng nương tựa) là tướng căn, hành là tướng thức; sở trụ (đối tượng trụ) là tướng trần, cũng có thể sở y là nhân duyên của các pháp. Hành là hữu vi; trụ là vô vi.

b/ Do thể, nghĩa là các pháp nhân có thể của sắc, tâm v.v…, tức dựa vào tự tướng sai khác khác để nói về thể của pháp.

c/ Do nghiệp các pháp đều có nghiệp dụng, nghĩa là đều có tác dụng và tà hạnh, chánh hạnh đều có tác dụng trái nhau.

d/ Do pháp, tức là pháp của hai đế v.v… nhiễm tịnh.

đ/ Do nhân quả: Ba thời gian gần, xa là nhân, vì nghiệp riêng và ái, phi ái là quả. Pháp sư Thái nói: “Nói tướng, nghĩa là do sở y và vì hành, trụ, như nhãn thức vì do sở y, nên nhãn căn làm tướng và trụ tự phân biệt rõ, tức là tướng.

11. Nói về ba thứ, ba luận.

Nói: “Thinh văn rốt ráo luận”, nghĩa là các chú thuật ác: Rộng là lời chú, nghĩa không muốn cầu, chỉ được lắng nghe tức là rốt ráo.

Tranh tụng rốt ráo luận. Nghĩa là nhân minh của các ngoại đạo. Pháp sư Cảnh nói: “Không có ý ra khỏi, chỉ tìm kiếm lỗi sai.

Pháp sư Hiểu người Tân-la nói: Sự hưng khởi của Nhân minh vốn bắt đầu từ ngoại đạo về lý, thật sự chun cho nội, Luận chủ y cứ ở gốc là ngữ, nên nói là luận Nhân Minh của ngoại đạo. Luận sư Trần-na v.v… vì muốn hàng phục ngoại đạo, nên soạn luận Nhân minh, gọi là Nội luận. Nay, giải thích:

Nhân minh của nghĩa tà, gọi là nhân minh ngoại nhân minh của nghĩa chánh, vốn do Phật nói. Thật ra, vì tất cả luận ngoại đều có ra từ giáo.

12. Nói về nghi thức soạn luận có bốn:

a- Trước hết quy lễ hai sư. Đại sư của luận này, tức là Chư Phật. Sư mở rộng nghĩa, đó là các Bồ-tát.

b-  Đủ sáu nhân mới có thể soạn luận.

c- Đủ bốn đức mới có thể soạn luận.

d-  Nói soạn luận, gọi là trang nghiêm kinh.

13. Nói về bảy thứ thông đạt. Pháp sư Cảnh nói: “Lời chữ thông suốt: Thông suốt là thường, nghĩa là như nghĩa của âm, chử suy A v.v… thường cố định, nên gọi là thường. Nghĩa cố định của khuôn ghép là nghĩa của chữ.

Nghĩa của chữ thông đạt: đạt là vô thường, nghĩa là đối với nghĩa thể của một pháp, vì nói bất định, nên gọi là vô thường. Lại, thấu rõ đối tượng giải thích không có tánh quyết định, vì không đồng với biến kế, nên gọi là vô thường.

“Nếu vậy, chữ không có tánh cố định, sao lại nói là thường? Do lý này nên không bằng giải thích trước. Thông đạt pháp tánh, nghĩa là chủ thể thông đạt. An trụ pháp tánh, nghĩa là quả của thông đạt này; an trụ pháp giới, đây là nhân thông đạt. Về lý nhân quả, có Phật, không Phật, vì lý ấy tất nhiên, nên gọi là pháp tánh. Pháp giới không đồng với pháp chân như thường trụ, nên gọi là pháp giới của pháp tánh.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Thông đạt nghĩa chữ, đạt là vô thường, tức chữ được nghĩa giải thích, có thể đổi thay tùy thuộc vào địa phương, nơi chốn, nghĩa tức tập nên gọi là vô thường. Như nhãn gọi là mắt, cũng gọi là soi rõ, dẫn đường v.v…, túc chữ sở nhân nghĩa là vô thường. Vì cho nên biết được chính danh, cú v.v… cũng là vô thường, vì chúng có thể được thay đổi. Lại, nghĩa vô thường của các hành nhân v.v… của chữ này, nên gọi là nghĩa của chữ là vô thường.”

14. Nói do mười tướng, nên đầy đủ học rộng. Năm thứ trước là đức, năm thứ sau là đức nói.

BẢN LUẬN QUYỂN 65

Thứ tám của đoạn lớn, là địa Quyết trạch Tư tuệ, có văn của hai quyển. Đầu tiên là kết trước, sinh sau. Kế là, chánh quyết trạch; sau là kết giải thích không hiện.

Y theo chánh quyết trạch, trước dùng năm môn tạp Quyết trạch. Kế là dùng hai mươi chín môn để phân biệt.

Trong phần trước. 1/ Nói về bốn thứ nghĩ bàn, có chẳng có nghĩ bàn, như Bản địa phần đã nói. Nghĩa là hữu vi, vô vi, gọi là “hữu”. Không có ngã, ngã sở, gọi là “phi hữu”.

Nhân, quả nghĩ bàn, như địa Tầm, Từ, nghĩa là nhờ nghĩ lường mười nhân, năm quả.

1. Nói về hai thứ nghĩ bàn (tư duy bàn luận) tư duy xấu ác, nghĩ bàn, như bản địa phần nói, nghĩa là so lường sự việc, tư duy xấu ác của tác ý phi lý. Nếu dựa vào phẩm “hắc”, cho đến mới khởi sự tư duy, bàn luận, thì không nên nghĩ bàn về ngã, hữu tình v.v….

2. Nói về “hữu” “phi hữu”, trong đó trước nêu kinh làm câu hỏi, sau đối với câu hỏi để nói, chia làm ba:

a- Chánh nói về tướng “hữu” “phi hữu”. b- Phá ngã. c- Kết, chỉ bày chánh nghĩa.

Trong phần đầu, trước nói tướng “hữu”; sau, nói giả, thật.

Ban đầu nói rằng:

“1- Nếu sinh, đã sinh, vì hiện tại, nên biết là “có””. Pháp sư Cảnh nói: “Vì phân biệt quá khứ, vị lai là “không” để giải thích:

Nếu sinh, là tướng sinh; Đã sinh: tức tướng trụ, Dị; ở đây, y cứ vào hiện tại để nói về ba tướng, cho nên là “có”.

2- Nếu vì vật thật, vì sự, vì nghĩa v.v… Pháp sư Cảnh cho rằng: “Nói “nói xấu vì vật thật”, nghĩa là nói chung hai tánh y tha, viên thành là thật có.

Nói sự: Đây là nói sắc v.v… từ sự duyên sinh. Nói vì nghĩa: Đây là nói viên thành “có”. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Có chỗ giải thích:

1/ Nhân chứng Y tha ơ đây.

2/ Nhân chứng viên thành là “có”. Vì những lý do này, nên gọi là danh nghĩa riêng của chân như, không còn gọi là riêng nữa.”

Lại giải thích: “Ba chữ “vì” này cũng chứng minh Y tha: Vì vật thật, nên phân biệt với sự tợ pháp nên thuộc về sự thể và vì nghĩa nên nghĩa khác nhau đều là Y tha khởi.

Kế là, nói về thật có, nói là nếu các pháp không đối đãi với cái khác là tướng thật có v.v… Pháp sư Cảnh nói: “Như pháp thật thể của sắc, hương v.v…, không còn đối đãi (chờ đợi) với pháp khác, mơi bắt đầu đặt ra danh từ sắc, hương v.v…. Sắc, hương này là có thật. Nếu có pháp nào phải đối đãi với cái khác, nương tựa cái khác, mới đặt ra tự tướng, nên biết là giả có, như bình, chậu v.v…, đối đãi với sắc khác v.v…, nương tựa vào sắc khác v.v…, mới đặt tên bình, nên là giả có. “Như đối với sắc v.v… v.v… cho đến “Như thế, tức đối với sự tưởng sắc v.v… giả lập sắc v.v… ”, như Độc đầu ý thức tìm kiếm tên của sắc v.v… mà lấy sắc. Sắc như thế v.v…, ở đây gọi là thật giả từ nhân duyên sinh, gọi là pháp thật. Do nhờ tên sắc, mới sinh tri giác về sắc lại gọi là giả.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đối đãi, không đối đãi với pháp khác, gọi là giả, thật v.v…, như Đối Pháp quyển ba nói: “Đầu tiên như tức đối với sắc v.v… làm nương tựa, vì đối đãi với ngã v.v… là giả, cũng đối đãi vào uẩn như sắc v.v…, gọi là uẩn như sắc v.v… cũng là giả có,vì đối đãi với sắc v.v… khác mà thành uẩn.”

Hỏi: “Trong nhân thành đạo lý ” trở xuống, kế là, phá chấp ngã, trước nói đại khái, sau nói rộng. Hỏi, đáp trong đơn giản thì khó thông suốt?”

“Nếu nói trong, ngoài, khoảng giữa, nếu lìa các uẩn, thì sẽ không thể được” ấy, là ông đã chấp ngã trong sáu thức, mười tám giới: Căn trong, trần ngoài, khoảng giữa, mỗi chỗ tìm kiếm “ngã” không thể được.’

Lại, giải thích: “Tự nối tiếp nhau, gọi là trong: nối tiếp nhau của người khác và khí thế giới bên ngoài, gọi là ngoài; chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, gọi là khoảng giữa, nên lập lượng rằng:

“Ngã ông lập, quyết định là không.

Vì không thật có.

Như hoa đốm trong hư không v.v….”

Nói là “như nhãn v.v… cho đến “đều không thể thấy”, nghĩa là như nhãn v.v… thật có, nghiệp dụng chấp ngã đều không thể thấy. Lập lượng rằng:

“Ngã ông chấp, thể, dụng đều là không.

Vì không thể thấy.

Giống như sừng thỏ.”

“Làm sao biết được ngã v.v… trở xuống, phá rộng, trong đó, trước hỏi, sau đáp. Trong đáp, đầu tiên, nêu bốn thứ chấp ngã đều cho là sai trái.

“Vì sao v.v… ? trở xuống, là phá riêng bốn chấp.

Trong phần đầu, nói “Rất xa bờ kia không ngoài bốn thứ: Pháp sư Thái nói: cho đến rất xa bờ kia, không ngoài chỉ có bốn thứ này: một là ngay nơi uẩn mà chấp là Ngã, hai là khác uẩn là Ngã, ngã trụ trong uẩn. Ba là đều chẳng phải hai thứ trước, chẳng phải tức các uẩn mà khác các uẩn: không đồng với chấp đầu. Chẳng phải tức các uẩn: chính là chẳng phải chấp đầu. Mà khác các uẩn: là lập tông. Chẳng phải trụ trong uẩn, nghĩa là chẳng phải chấp thứ hai, mà trụ trong pháp “khác” với uẩn, “lìa” uẩn, là lập Tông, nghĩa là trụ trong vô vi, là pháp lìa uẩn.

Theo giải thích của Luận Thành Thật, cái giả kia, nghĩa là chẳng phải năm uẩn thật, gọi là pháp lìa uẩn, như các luận kia, kinh La Địa đã nói. Chấp ngã thứ tư không đồng với ba chấp trước. Đầu tiên là nói không đồng với ba chấp ở trước.

Kế là, nói “Mà không có uẩn, tất cả pháp uẩn đều không tương ưng”, là lập Tông.”

(Hỏi: “Chấp thứ nhất trong bốn chấp là “tức” uẩn; ba chấp sau, là “khác” uẩn, chỉ là hai câu đầu. Chấp thứ ba vừa một, “vừa khác.

Chấp thứ tư “chẳng phải một”, chẳng phải khác, đâu có thuộc ư? “tức” là khác với trước; “chẳng phải khác” tức là một chấp trước, nên không khác với chấp trước sau.”

Luận sư Trắc nói: “Ba chấp ngã sau đều là chấp “khác” với uẩn, cho nên, luận Duy thức nói: “Là thuộc chấp “lìa uẩn” thứ hai trong ba chấp ngã.

Bốn chấp của luận này hẹp, chỉ thuộc về ngoại đạo; ba chấp của luận kia rộng, vì cũng bao gồm Tiểu thừa. Lại giải thích: chấp thứ ba của luận kia thuộc về chấp thứ hai của luận này, cả hai luận không có rộng, hẹp.”

Pháp sư Khuy Cơ cho rằng: “Nói là chấp xa lìa không ngoài bốn chấp này, chấp sau chẳng phải chấp trước. Mỗi chấp đều khác nhau, xét ra chẳng phải chấp trước, rất dễ hiểu.

Vì bốn trường hợp phân biệt tường tận, nên y cứ vào phá riêng tức là bốn đoạn:

1- Phá “tức” uẩn chấp “ngã”, văn rõ ràng rất dễ hiểu, chỉ lập lượng rằng:

“Ngã ông chấp “chẳng phải một”, “chẳng phải thường”, vì không lìa uẩn, giống như “uẩn”.

Kế là, phá chấp thứ hai:

Nói: “Nếu vô thường, tức chấp ngã sát-na, sát-na khởi khác, diệt

khác. Nghĩa là “ngã” lìa uẩn, nếu là vô thường, thì mỗi niệm diệt.

Chỗ này tử khác, nơi kia sinh khác, nghĩa là nếu “ngã” vô thường, thì “ngã” sẽ chết trong loài người, “ngã” sinh lên cõi trời. Làm khác, thọ khác: Đây là đối tượng chấp ngã. Nếu mỗi niệm vô thường, tức “ngã” của thân này có thể tạo nghiệp mà không cảm thọ quả báo. “Ngã” của thân khác thọ quả, báo kia mà không tạo nghiệp. Nên lập lượng rằng:

“Ngã” mà ông chấp, làm khác, thọ khác.

Vì là vô thường

Như Đề-Ba-Diên, hoặc làm khác, thọ khác.

Lại, các uẩn khác có một ngã riêng có sinh, có diệt, đều không thật có, dùng lý để trách cứ thẳng, nên lập lượng rằng:

“Ông chấp ngoài uẩn, có một ngã riêng, nhất định không có tự thể. Vì không thật có. Như hoa đốm trong hư không.”

Nếu “ngã” là thường v.v… đến không hợp lý”, nghĩa là nêu chung hai nhân, nhằm quở sự không thay đổi của hai nhân ấy.

Dưới đây sẽ nêu ra hai nhân chẳng phải ở đương lai, cũng chẳng phải pháp hiện tại.

Nếu ở đương lai “ngã” không thay đổi, thì lẽ ra sẽ không có sống, già, bệnh, chết và trôi lăn trong năm đường. Vì sao trong tông chỉ của ngoại đạo các ông, thường tự nói: “rằng “ngã” ở vị lai sẽ cảm thọ sinh tử, luân hồi trong năm đường?” Ở đối với pháp hiện tại, nếu:ngã” không thay đổi thì lẽ ra đối với mỗi thứ cảnh giơi ái, phi ái kia, sẽ không có khổ, niềm vui, và các thứ phiền não tham, giận v.v…, sao trong hiện tại, lại gặp phải các duyên trái, thuận v.v… ?

Nói là “ngã” thọ khổ, đôi khi cảm thọ vui, sinh, tham, giận v.v…, đã là duyên thay đổi, làm sao là thường? Nên lập lượng rằng:

“Ngã” mà ông lập, nhất định chẳng phải thường.

Vì hai duyên thay đổi.

Như sữa thành lạc.

“Như thế, “ngã” đối với pháp đương lai, hiện tại” trở xuống, nhắc lại cả hai “duyên”, để nói về “ngã” có thay đổi.

Dưới đây là phá chấp thứ ba:

“ Pháp đã chấp kia cho đến “huống chi là an trụ ngã sở, nghĩa là pháp lìa các uẩn còn không có, làm sao chấp pháp an trụ của “ngã”? Như nói: “Con của cô gái bất dục trên đầu có đội tràng hoa đốm trong hư không? Sự giả dối là chất chồng lên cái giả, nên lập lượng rằng:

“Ông lập “ngã” lìa uẩn, quyết định là không vì không có pháp nào được trụ lìa uẩn. Như tràng hoa đốm hư không đội trên đầu đứa con của cô gái bất dục!

Dưới đây là phá chấp thứ tư:

(Nếu không có uẩn thì sẽ không có sắc, chẳng phải tương ưng với thân, uẩn giả mà ông chấp không tương ưng, làm thân thọ của ngã, tức lẽ ra không có sắc, cũng chẳng phải khổ, vui v.v… thì lẽ ra không có thọ. Cũng chẳng phải số nhiều, lẽ ra cũng không có tưởng. Cũng chẳng phải thiện v.v…, tức lẽ ra không có hành. Cũng chẳng phải ý phân biệt thọ dụng cảnh giới sắc v.v…, tức là lẽ ra không có thức. Nếu như thế, thì nghĩa này đáng lý ra là không có sắc, thọ, tưởng, thức đã nương tựa.

Nếu các pháp này không do công dụng, tự nhiên giải thoát!?

Dưới đây, kế là, kết thứ ba, chỉ bày nghĩa đúng:

“Lại nữa v.v… cho đến “chẳng phải vật thật có, tổng kết “ngã” chẳng thật. Dưới đây là chỉ bày nghĩa đúng.

(Do “ngã” chẳng thật có, vì chỉ có uẩn, nên tất cả đạo lý nhiễm, tịnh đều thành tựu. Đây là chia ra hai môn nhiễm, tịnh.

“Được thành v.v… ”trở xuống, là giải thích riêng về hai môn trước nhiễm, sau tịnh.

Thứ tư, là nói về giả lập hữu tình, trong đó chia làm hai:

1. Dùng ba duyên để lập chín hữu tình, cách hành văn rất dễ hiểu.

2. Phá chấp của ngoại đạo, được chia làm ba: Trước, nêu chấp ngoài. Kế là, phá, sau kết Phương Tây có ngoại đạo lỏa thể không mặc y phục, để bày tỏ vì lìa ràng buộc, nên gọi là ly hệ. Ngoại đạo kia chấp cỏ, cây có mạng, do tăng trưởng, nên trong phần phá được chia làm ba:

  1. Y cứ ở nhân tăng trưởng, để có phá mạng.
  2. Y cứ vào thuyết nói nhân “có” “không” để phá.
  3. Y cứ vào yếu tố giống nhau, không giống nhau để phá.

Trong phần đầu hỏi: “Sự tăng trưởng là do mạng làm nhân, hay là có nhân riêng?(Nếu mạng làm nhân, thì khi chưa xả mạng đến nay, vì sao có lúc vẫn không tăng trưởng, như trời nắng hạn v.v….

E rằng biết không có mạng, nếu mạng có là thường, thì sẽ ra khỏi tăng trưởng. Nếu còn có nhân tăng trưởng khác, nghĩa là tự tại vì nhân riêng nên được tăng trưởng, thì đâu cần phải lập mạng?

Thứ hai, là y cứ trong thuyết nói về nhân. Luận sư Cảnh nói: “Ngoai đạo lại lập các cây cỏ này chỉ khi có mạng, nhất định tăng trưởng. Về sau, lúc không có mạng, thì sẽ không tăng trưởng, nên lại phá rằng:

(“Các vật không có mạng, không có tăng trưởng là vì có nói nhân, hay không nói nhân? Vì có nhân duyên của tỷ lượng nên nói là vật không có mạng, không có tăng trưởng ư? Hay vì không nói có nhân ư?(Nếu nói có nhân, thì vì nhân duyên của thuyết này không thật có, nên không có đồng pháp dụ. Như nói: “Tất cả các vật ngại không có mạng, đều không tăng trưởng, vì không có mạng kia làm nhân của sinh, không có đồng pháp dụ, nên nói: “Vì nhân duyên của pháp này không thật có. Nếu không nói nhân, không có nhân, mà tất nhiên là như vậy thì không hợp vớo đạo lý. Nghĩa là lập tỷ lượng không thành, mà nói là vật không có mạng, không tăng trưởng, nhất định đều như thế, là không hợp lý.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nói nhân, nghĩa là nói nhân, nói lý do, tức nói là người ngoài nói: “Vì nói là có lý do, nên không tăng trưởng hay vì không có lý do, nên không tăng trưởng? Tức là thành lập lý do nhân của Tông.

Trong đây là tỷ lượng, suy nghĩ sẽ hiểu.

Thứ ba, là y cứ trong yếu tố giống nhau, không giống nhau, trước quyết định, sau vấn nạn, cách hành văn rất dễ hiểu.

Dưới đây, trong phần nêu kết, theo thứ lớp, nêu ba đoạn trên, để kết luận chung không có lý.

Thứ năm, là nói về sự giả của sắc, v.v…, thật, trong đó, trước nói về tướng giả, thật của bốn trần như uống, ăn v.v…. Sau, là nói về phẩm loại khác nhau của giả có.

Trong phần trước, vì là pháp thật không biến đổi cho nên giải thích pháp giả có thay đổi, không chung với nhau, v.v… kế nói rằng: y theo các hữu pháp lập vật tướng, v.v… Bốn trần như sắc, v.v… là thật pháp, có khả năng làm thành các pháp giải như bình, v.v… gọi là Hữu pháp. Y theo hữu pháp này lập ra vật có tướng giả, chẳng phải một chẳng phải nhiều, nói lược có hai: một là y chỉ một nhóm, hai là chỉ chẳng phải một nhóm, chia làm hai môn, nói thức ăn uống khác nhu cho đến “gọi là nương tựa một nhóm: Như bánh, cơm v.v… chỉ là một vật bằng bột, gạo. Xe cộ cũng chỉ là một vật bằng gỗ, rừng; áo là vật bằng gai, vải, gọi là dựa vào một nhóm.

Nói: “Các nghiệp dụng bức họa sặc sỡ v.v… cho đến “gọi là nương tựa chẳng phải một nhóm, nghĩa là bức họa sáng rỡ là do dùng lẫn lộn các màu, màu sắc xanh, vàng, tía, lục v.v… cho đến bốn binh gọi là quân. Tụ hoa, quả xen lẫn cây, trúc, gỗ v.v… gọi là rừng, được gọi là chẳng phải dựa vào một nhóm.

Dưới đây là thứ hai, dùng hai mươi chín môn nhằm quyết định các nghĩa. Trước giải thích riêng, sau là tổng kết.

Trong phần trước có hai mươi bảy đoạn:

1. Giải thích pháp có sắc, không có sắc. Trước, là phân tích đúng có sắc, không có sắc; sau, tùy theo vấn nạn, mà giải thích lại.

Trong phần trước, trước, là nói về năm tướng có sắc khác nhau. Sau, làm rõ ngược lại, không có sắc cũng do năm tướng khác nhau mà kiến lập.

Trong phần trước, trước là hỏi, sau, là giải thích. Trong phần giải thích có hai:

  1. Nêu chung có sắc, liệt kê năm tướng của sắc đó.
  2. Giải thích riêng năm tướng.

Trong phần trước nói: “Do các sắc kia có đủ tự tướng của sắc, tức dùng việc này trở lại nói về sự này v.v…, nghĩa là vì sắc lại là tướng có sắc, nên gọi là có sắc. Luận Đối Pháp chép: “Vì tánh có sắc, nên gọi là pháp có sắc. Nay nói rằng: “Tự tướng có lý do gì?”

(Giải thích: Tướng là thể tướng. Thể cũng gọi là tánh, nên không trái nhau. Y cứ trong giải thích riêng năm tướng, về môn của sự đầu, rất dễ hiểu.

Tự tướng của sắc có ba:

  1. Sắc thanh tịnh, là năm căn.
  2. Sắc bị chấp là năm trần.
  3. Sắc bị ý chấp lấy, nghĩa là sắc trong pháp xứ (lĩnh vực pháp)Bỏ giả, nói thật, chỉ nói cảnh định.

2. Giải thích về tướng chung (cộng tướng) có ba: Cái gọi là năm căn, năm trần, là vì có đối. Vì y cứ phương hướng nơi chốn, nên gọi là cộng tướng đầu tiên, tức đối với giải thích về sắc cũng gọi là y cứ vào nghĩa của xứ tướng để giải thích sắc. Lại, tức thể của mười xứ ở trước là đối ngại. Vì có tăng, giảm, nên giải thích về sắc, gọi là tướng chung của sắc là thứ hai. Lại, tức tất cả sắc này đều bị xúc xúc chạm, tức là đổi thay hư hoại. Hoặc hư hoại tay chân v.v…, hoặc hư hoại lạnh nóng v.v…. Đây là thứ ba, giải thích về sắc đổi thay hư hoại, gọi là tướng chung của sắc.

3. Giải thích về môn giới (cõi).

Nói: “Lại, ở trước nói v.v… đến “Trừ Thiên biến của cõi Dục, còn thì tất cả, nghĩa là y cứ trực tiếp trong cõi Dục, trừ sáu Thiên biến, ngoài ra là các đường.

Nói: “Trong các tầng trời cõi Dục, chỉ có tay, chân v.v… bị thay đổi, hư hoại bởi đụng chạm, không có bị đổi thay hu hoại bởi gặp phải thời tiết lạnh, nóng v.v…, nghĩa là trong trời kia, chỉ có A-Tố-Lạc (ATu-La) hữu vi. Tay chân bị biến đổi hư hoại khi xúc chạm dao, gậy. Các sắc của cõi Sắc không có tay, chân bị tổn hại v.v…, vì cõi Sắc, không có thay đổi, hư hoại. Giải thích về sắc, chỉ có y cứ vào nghĩa phương hướng, nơi chốn có nghĩa thêm bớt.

– Giải thích về nghiệp rất dễ hiểu.(Tùy theo trong vấn nạn, giải thích lại pháp sư Cảnh, Bổ Khuyết rằng: “Nói tụ đại chủng bất cộng, nghĩa là ở trong đây, chỉ có một loại đại chủng có thể được, như ở chỗ núi rừng chỉ một đại địa, các chỗ sông biển chỉ một thủy đại, như sức nóng của ánh sáng mặt trời chỉ một hỏa đại. Như gió trong không gian, chỉ một phong đại, không còn có đại khác, gọi là không chung. Tùy có bất cứ một đại nào khắp với sắc của thể sở tạo nhập vào nhau.

“Chẳng phải tu đại chủng không chung cho đến “hoặc nhiều chủng loại đại chủng có thể được, nghĩa là tùy vật thế gian đủ đại nhiều ít, đồng một nơi chốn với sắc tạo, thể chúng cùng khắp, nhập nhau mà không có tăng, giảm, chỉ hai thể trong đồng loại ngăn ngại nhau, không được nhiếp nhập nhau. Như hai địa đại. Hai sắc, hương v.v… cũng thế. Lại, ở trong nhóm đại chủng không chung cho đến “không có một chỗ nào mà sắc của các đại chủng không lìa nhau, nghĩa là trong đây, phải biết rằng. Đại chủng không chung: chỉ nói về đại chủng, không nói về sắc tạo. Trong tụ đại chủng không chung, vả như nhóm gỗ, đá chỉ một đại địa thật, thì không có việc đó. Giả sử chỉ có một vi khởi, tức chẳng thuộc ba thứ không lìa nhau. Nếu có hai vi trở lên, nhiều vi trụ lẫn lộn, tức là lìa nhau, không lìa nhau, vì hai đại địa không nạp thọ nhau, không có nghĩa đồng một chỗ không lìa nhau. Hai đại địa vi đồng thời vi khít khao khó phân tích, không đồng với nhóm lúa, đậu v.v…, nên chẳng phải thuộc về hòa hợp không lìa nhau.

Đối với cực vi của đại chủng không chung, như sắc sở tạo và đại chủng khác, phải biết rằng, cũng có đồng một nơi chốn không lìa nhau, nghĩa là như tay con người có đủ bốn đại: Cứng, chắc là đất, thấm nhuần là nước; ấm áp là kửa; lay động là gió. Bốn đại chủng này tạo chung một tay. Việc làm là đồng thể, dung nạp nhau, thuộc nơi chốn không lìa nhau cho nên đây là thuộc về đồng xứ, không lìa nhau. Tướng ấy chưa được sáng suốt, là nêu dụ để làm rõ: Tướng mạo của bốn đại cùng khắp giống như cái gì? Nên nói rằng: “Như sắc sở tạo, thể khắp với đại chủng kháv nhiếp thọ nhau. Bốn đại khắp nhau, nghĩa ấy cũng thế. Phải biết rằng, cũng có đồng xứ không lìa nhau: Kế là, hàng phục vấn nạn, nạn

rằng: “Thể của đại tạo khắp nhau có, lẽ ra có “năng tạo” và “sở tạo”.

(Vì giải thích mối nghi ngờ này, nên nói: “Nhưng đại chủng kia chẳng phải sắc sở tạo, vì không nương tựa nhau mà vẫn được chuyển, nên đều có công năng, vì y cứ vào nơi chốn riêng. Giải thích rằng: “Nếu là sắc tạo, thì cần phải dựa vào đại chủng, mới bắt đầu được khởi. Không có công năng riêng khởi, y cứ vào nơi chốn. Vì nơi chốn dung hợp nhau với đại chủng, nên là sở tạo, còn bốn đại thì không như thế, không nương tựa lẫn nhau mà có thể tự chuyển, đều có công năng khởi, y cứ vào nơi chốn. Dù thể dung nạp nhau, nhưng kia đây đối nhau chẳng phải “năng tạo”, “sở tạo”.

Lại, Một xứ không lìa nhau v.v… trở xuống, là nói lại ba thứ tướng không lìa nhau.”

Pháp sư Thái nói: “Như Cựu vi trong một nhóm đại chủng của địa không chung trở lên, đại chủng của các địa hòa hợp liên kết nhau, phải biết rằng, phương hướng có sắc đại chủng của các địa xen lẫn nhau, không lìa nhau, nhưng vì đại địa không tự dung nạp đại địa, nên không có một chỗ, sắc đại chủng của các địa không lìa nhau, vì đại địa không nhân đại địa mà tạo ra các sắc, vì không có công dụng, nên không tự dung nạp. Cực vi đại chủng ở trong nhóm đại chủng không chung, như lượng của sắc sở tạo, lại nhiếp nhập nhau, đồng một nơi chốn, như đại chủng của đất, đồng một sắc tạo với đại chủng nước, lửa v.v… khác. Phải biết rằng, cũng có đồng một nơi chốn không lìa nhau, nghĩa là nếu đại đối với nhau tạo sắc riêng, tức lìa nhau. Đai chủng kia đồng một nơi chốn không lìa nhau, chẳng phải sắc sở tạo, vì không nương tựa lẫn nhau mà được chuyển. Nếu nói đều có công năng y cứ vào nơi chốn riêng, vì phân biệt được chuyển, nên biết đồng xứ không nương tựa lẫn nhau.”

Nói: “Lại, một xứ không lìa nhau cho đến “không lìa nhau”, nghĩa là như ánh sáng của viên ngọc xanh, vàng, đỏ, trắng, thể của các thứ ánh sáng đều riêng, nhưng lại quan hệ nhau, vào khắp dung lượng của rương không lìa nhau. Các đại chủng và thể của sắc sở tạo, siêng đồng với lượng, lại liên quan nhau, cũng giống như thế. Các đại còn lại đồng tạo cũng giống như thế. Nói rằng nếu có nhóm cho đến nên biết các chỗ còn lại là tướng của một nhóm. Mè đậu v.v… là các thứ keo, v.v… thuộc về một nhóm đây chẳng phải pháp liên quan nhau một chỗ không lìa. Cũng chẳng phải pháp đồng thể, liền nhau, xen lẫn nhau, không lìa nhau. Nhưng có tự thể riêng, không liên quan nhau. Nhưng vì keo, v.v… giữ gìn hòa hợp không lìa nhau. Là tướng nhiều nhóm tụ tập, chẳng phải một nhóm, nên biết rằng, một xứ khác không lìa nhau và lìa nhau.

Không lìa nhau là tướng của một nhóm. Trong văn này có ba thứ không lìa nhau:

1/ Xứ không lìa nhau như “năng tạo” đối với “sở tạo” và khác với đại, đồng với sở tạo, hoặc khác với tạo, đồng với bốn đại; hoặc đồng vơi tạo, đồng với bốn đại, không có khác với đại, khác với sở tạo, làm một xứ không lìa.

2/ Lẫn lộn nhau, không lìa nhau, như pháp tư loại trong một nhóm.

3/ Hòa hợp không lìa nhau. Cây gai, đậu v.v… là sự gìn giữ thuộc về keo v.v….

Nói: “Lại, lẫn lộn nhau, không lìa nhau, nương tựa một chỗ không lìa nhau.

Không như thế thì không hợp với đạo lý, nghĩa là lấy lý mà nói, cung có một chỗ không lìa nhau, y chỉ lìa nhau, không lìa nhau như khác với tạo, đồng với đại. Nay, trong văn lược y cứ vào một tướng để nói, cũng có lẫn lộn nhau, không lìa nhau, không nương một chỗ, không lìa nhau. Như cảnh giới định, sắc không nương vào đại chủng và không có hương, vị.

Tam Tạng Pháp sư cho rằng: “Lẫn lộn nhau, không lìa nhau, chỉ y cứ cực vi giả trở lên, dù nhiều cực vi, nhưng không thể dùng sự phân tích, mới nói là lẫn lộn nhau, không lìa nhau, Hai cực vi ở giữ đều khác loại mà đồng chỗ, cho nên lẫn lộn mà không lìa nhau tất nhiên dựa vào đồng xứ không lìa nhau. Giả lập một, hai cực vi, lúc khác biệt nhau được có các vi khác loại, đồng xứ tự loại chỉ một vi, nên đồng xứ không nương tựa lẫn lộn nhau. Nếu tự loại hoặc một sắc lớn, nhỏ chẳng phải lẫn lộn nhau.”

Luận sư Trắc nói: “Ba thứ này khác nhau:

1/ Đồng xứ cũng một đại tạo.

2/ Lẫn lộn nhau, dù chẳng phải đồng xứ, mà là cùng một nghĩa đại tạo, được chia ra các phương. Như trong các nhóm sắc của một đại sở tạo, nghĩ định giác, phân tích có nhiều cực vi, với trú xứ đông, tây, nam, bắc đều khác mà vì trụ lẫn lộn gần, nên gọi là lẫn lộn nhau.

3/ Xứ hòa hợp khác, đại cũng khác. Lại, giải thích: “Bảy pháp loại đồng xứ đều khác nhau, dù ở đồng xứ mà không lìa nhau, nhưng với nghĩa không lìa nhau của ba thứ này, có giải thích rằng “Tùy theo nghĩa của Kinh bộ, chứ chẳng phải nghĩa của Đại thừa.”

Có chỗ giải thích: “Là nghĩa của Đại thừa.”

Tam tạng Pháp sư nói rằng: “Là nghĩa Đại thừa, là vượt hơn. Hai hợp giải thích về pháp có kiến, vô kiến và pháp có đối, không đối, trong đó có ba: Đầu tiên giải thích có kiến, không có kiến. Kế là, giải thích môn có đối vô đối. Sau giải thích môn vô kiến, vô đối.”

Pháp sư Cảnh nói: “Rằng Tam-ma-địa có các oai đức đều có thắng giải của các sắc, đây gọi là nhân duyên: trong văn dưới đây sẽ nói là định căn bản, gọi là oai đức.

Người kia đã sinh xong, nơi chốn có thể được: Giải thích này y cứ vào nơi chốn không có kiến, không có đối, thật ra chẳng phải phương hướng nơi chốn, chỉ do người tu hành, tâm đã quán sắc, kỳ hạn ở trong một phòng màu Xanh hiển hiện. Nguyện đã nhập quán, lúc quán màu xanh, đã hiện sắc xanh đầy khắp một phòng làm duyên tăng thượng, làm cho nhãn thức của người khác ở chỗ một phòng nhìn thấy màu xanh, nên nói “Nơi chốn có thể được”.

Nói “Dù không cùng với người kia đến, “nhưng được giống như tự tánh kia thể hiện rõ ràng. Đây là giải thích sư hiển hiện. Văn này tức nói lúc tâm định đã hiện ra năm căn như nhãn v.v…, ảnh tượng của năm trần như sắc v.v…, gọi là sắc của định tự tại, tùy quán ảnh tượng của sắcnào trong mười sắc lúc hiện ra, dù chẳng phải bản chất, nhưng giống như sự thể hiện của sắc kia, đối với nhóm sắc khác, chấp nhận thọ nghiệp qua, lại v.v… “Chẳng phải chướng ngại trụ” trở xuống, giải thích không có biến đổi khác. Người tu hành bấy giờ quán màu xanh trong một thất đều đầy khắp, nhưng không bỏ con người qua lại, gọi là không đối khác.”

Lại, “Chẳng phải tất cả sắc thanh tịnh, nghĩa là giải thích tên gọi không có kiến v.v… ; tay, chân v.v…” trở xuống, là giải thích không có nghĩa đổi khác. Lại, định căn bản gọi là Tam-ma-địa đủ oai đức, sắc này là đối tượng duyên (sở duyên) của định kia: Đây là giải thích “sở duyên”, tức vì phương tiện vượt hơn của định căn bản, nên gọi là đủ oai đức.

“Thí như chẳng phải tất cả tâm đều có thể biến hóa” trở xuống, là nêu tâm của định căn bản, mới có thể khởi tác, huống chi tâm của định căn bản mới có thể hiện ra sắc vô kiến kia.”

Pháp sư Thái cho rằng: “Như thần thông đã hiện ra sắc giống như mười sắc nhập v.v…, chủ yếu là định căn bản khởi, thần thông có thể sinh. Định phương tiện của các sắc vô đối, vô kiến này và tâm tán, chỉ tâm tưởng dường như có, nhưng vì hạnh quán chưa thành, nên không như định căn bản khởi lên quán này.”

Pháp sư Khuy Cơ cho rằng: “Nói: “Lại, chẳng phải tất cả sắc v.v… thanh tịnh”, nghĩa là vì sắc định này nhỏ nhiệm, nên chẳng phải đối tượng mà năm thức chứng đắc. Nhưng nếu biến chuyển để cho thọ dụng thì cũng được thấy, như cách giải thích của quyển năm mươi lăm ở trước. Ở đây có hai giải thích:

1/ “Do tự tâm định thứ sáu, dẫn sinh từ sắc hữu lậu thứ tám biến hiện, để cho người khác nương gá vào đó mà thọ dụng, nên là hữu lậu. Nếu không như thế, thì vì từ đệ lục là vô lậu, làm sao khiến người khác thọ dụng?”

2/ “Chính do từ thức thứ sáu làm duyên tăng thượng giúp cho người khác gá vào cũng biến thành hữu lậu, không nhờ từ thức thứ tám biến hiện, như Chư Phật há có biến chuyển, tịnh độ v.v… từ thức thứ tám?” giải thích này là hơn, vì không đồng với chỗ khác, vì tâm tán “duyên” chỉ vì cảnh của tâm định, nên gọi là không có kiến, không có đối, chứ chẳng phải người khác không thấy.

Thứ ba, là giải thích pháp hữu lậu, vô lậu, trước là nói về hữu lậu, trong đó, đầu tiên là nêu, lên năm tướng. Kế là, giải thích riêng. Sau là kết.

Y cứ trong giải thích riêng. 1- Giải thích về sự hữu lậu, nói là thanh tịnh sắc trong, nghĩa là năm căn bên trong và tướng căn ấy nương tựa hay không nương tựa sắc ngoài, nghĩa là phù căn năm trần gọi là nương tựa nhau, núi, sông v.v… bên ngoài, gọi là không nương tựa nhau.”

“Nếu các tâm nhiễm” trở xuống, là nói về pháp của ba tâm tánh. Ở đây là nêu chung năm căn, năm trần và tâm, tâm sở của ba tánh là sự hữu lậu, tùy điểu kiện thích hợp với sự hữu lậu đó, do bốn nhân duyên như Tùy miên v.v…, nên gọi là hữu lậu.

2/ Giải thích Tùy miên. (Nói “Nếu đối sắc thanh tịnh v.v… cho đến “Do tùy miên nên gọi là hữu lậu” đây là dựa vào môn lý tùy miên, hạt giống phiền não được huân tập ở năm căn và trong các tâm, chưa dứt trừ về trước, thường có hạt giống “hoặc”, gọi là “do tùy miên, nói là hữu lậu.”

3/ Giải thích tương ưng.(“Nếu các tâm, tâm pháp nhiễm do tương ưng, gọi là hữu lậu ”. Đây là nói vể tâm nhiễm ô trong tâm của ba tánh ở trước, chứ chẳng phải trực tiếp do tùy miên lậu, cũng do tương ưng với lậu, nên gọi là hữu lậu.

4/ Giải thích đối tượng Duyên (sở duyên). (“Nói nếu các sự hữu, hoặc hiện lượng đã hành, tăng thượng đã khởi sở duyên của tất cả lậu như thế, nên gọi là hữu lậu”, nghĩa là trong đây lấy chung năm trần.

Dưới đây sẽ giải thích về sự “có”.

(Hiện tại có tự Thể, gọi là sự “có”, chẳng phải quá khứ, vị lai Quá khứ, vị lai là “không”, không gọi là sự “có”. Nếu dựa vào thức đã hiện hành sắc thanh tịnh, thì gọi là “sở hành” (hoạt động) của hiện lượng, chính là chấp năm trần tương ưng với phiền não, duyên với năm trần kia gọi là sở hành của hữu lậu, nên gọi là hữu lậu. Trong đây chỉ có năm trần gọi là hiển lượng thật ra ý duyên với ngũ câu cũng phải, nhưng phân biệt thì. “Sở hành” của hiện lượng, là phân biệt với pháp trần và ba tánh tâm. Như văn dưới đây cũng chấp“sở hành” là năm trần, cho nên không nêu ý căn, như các sở hành còn lại gọi là “sơ hành” phi hiện lượng, nghĩa là ý thức câu kết, vẽ với, đạt ra “duyên” năm trần, không gọi là “hành hiện lượng”. Đây là giải thích về “hành hiện lượng”.

“Nếu các xứ trong cho đến “Phải biết hữu lậu”, nghĩa là do sức tăng thượng của năm căn dẫn khởi năm trần. Năm trần là cảnh, khởi các phiền não. Đây, là do “sở duyên” hữu lậu, nên gọi là hữu lậu. “Nếu việc hiện tại chẳng phải đối tượng hoạt động (sở hành) của hiện lượng, cho đến “chẳng phải các pháp kia vì là cảnh sở hành rõ ràng này”, nghĩa là muốn nói về phiền não của ý thức. Khi lập ra “duyên” năm căn hiện tại và tám thức, ý thức tự biến chuyển giống với tướng của năm căn, giống như tướng của tám thức kia, đương tâm mà khởi. Phiền não của ý thức đối với năm căn kia, tâm của tám thức v.v… không trực tiếp “duyên” chấp mắc, nên năm căn v.v… vì không do đối tượng duyên hữu lậu, nên gọi là hữu lậu. Vì “duyên” phiền não này chỉ do tướng tự phân biệt khởi, khởi các phiền não. Các Pháp thiện này v.v… chính là về sau, do sinh khởi trở thành hữu lậu.”

(Hỏi: “Phiền não của năm thức cũng “duyên” năm trần, tướng phần của A-lại-da, không chấp mắc, chỉ “duyên” ảnh tượng năm trần của tự tâm biến chuyển khác, làm sao đối với năm trần, tướng phần của A-lại-da kia, được gọi là sở duyên của phiền não, nói là hữu lậu ư?

(Giải thích: “Dù không “duyên” chấp mắc, nhưng vì năm thức kia không có phân biệt, nên năm trần được biến ra, gọi là bản chất kia, được gọi là cảnh giới “sở hành” rõ ràng. Làm sở duyên của lậu, gọi là hữu lậu. Nếu ý thức này do lúc “duyên” năm căn hiên tại, tám thức v.v…, câu kết, phát họa điên đảo, không xứng với bản chất kia, nên nói rằng: “Chẳng phải các pháp của năm căn kia là sự rõ ràng này.” (“Nếu vậy, thì năm thức, bảy thức sao gọi là hữu lậu?

(Giải thích: “Hoặc do tùy miên theo đuổi, hoặc tương ưng với hữu lậu, nói là cảnh sở hành của hữu lậu.”

– Giải thích sinh khởi. (“Nói rằng các tùy miên cho đến “do sinh khởi, nên nói là hữu lậu”, đây là nói về phiền não của sáu thức, do ba nhân sinh khởi, nên gọi là hữu lậu. Lại, từ các quả Dị thục của tất cả phiền não bất thiện, có nghĩa là năm uẩn của căn bên trong do phiền não hữu lậu bất thiện sinh ra, nên gọi là hữu lậu. Và tăng thượng của quả Dị thục đã dẫn phát sự bên ngoài sinh khởi, nghĩa là do căn trong, nên trần ngoài sinh khởi xa từ lậu sinh, nên gọi là hữu lậu. Lại, do không có sắc của sắc vô ký trói buộc tất cả phiền não ở lậu kia tiếp tục sinh v.v…, nghĩa là do phiền não vô ký của hai cõi trên phát nghiệp, chiêu cảm sinh cõi trên, cũng gọi là sinh từ hữu lậu, gọi là hữu lậu.

Trong năm môn hữu lậu này, thứ nhất là môn chung. Thứ hai là hạt giống phiền não. Thứ ba là tâm, tâm sở nhiễm ô. Thư tư là năm trần. Thứ năm là tất cả năm căn bên trong, tâm vô ký, thiện và ngữ nghiệp, thân nghiệp giới biệt giải thoát, khí thế giới bên ngoài đều là do phiền não dẫn phát. Hoặc ở trong đây vì chính lúc đang sinh, đã sinh, sẽ sinh v.v…, nên gọi là hữu lậu. Tất cả pháp sắc, không có sắc cũng thế, có quả Dị thục thiện cũng thế. Văn trong đây lược chỉ nói quả Dị thục bất thiện.

Kế là, giải thích vô lậu. Pháp sư Cảnh nói: “1/ Vì có các pháp lìa ràng buộc (triền), nên gọi là vô lậu, nghĩa là tất cả các sắc “sơ duyên”, “sở y” của tâm, tâm sở thiện, vô ký, nếu là các sắc sở duyên, sở y của tâm, tâm sở nhiễm, thì tức là sinh ra hữu lậu, nên gọi là hữu lậu. Vì ở đây chỉ nêu các sắc sở y duyên của tâm vô ký thiện và nhóm của tâm vô ký thiện, do lìa trần nên gọi là vô lậu. 2/ Vì tùy miên đã dứt trừ, nên gọi là vô lậu, cho đến “Nếu các pháp tâm, tâm sở thiện của thế gian”, các các pháp này đều y cứ vào nghiệp thân, ngữ thiện trong thân La-hán, nên nói là các sắc tạo thiện. Lại có tự thể của nghiệp thân, ngữ của oai nghi công xảo, không thuộc về nghiệp vô ký thiện của người học phàm phu, nên nói một phần tạo sắc vô ký. Nếu các sắc uẩn vô ký của năm căn, năm trần, hoặc bốn uẩn vô ký; hoặc gia hạnh thiện của ba tuệ thế gian, sinh tâm đắc thiện và tâm sở. Các pháp như thế, đều do dứt trừ tùy miên, nên nói là vô lậu.

3/ Chấp Niết-bàn hữu lậu dứt hết.

4/ Chấp kiến đạo.

5/ Chấp tu đạo và Vô học đạo làm vô lậu.

Hai pháp trước trong năm, tùy nghĩa nói vô lậu. Ba pháp sau căn cứ ở thể để nói là vô lậu.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Trong giải thích năm thứ vô lậu, y cứ vào năm nghĩa chưa hẳn gồm thu hết, tức giới v.v… biệt giải thoát thuộc vô lậu.

Thứ hai, là nói “vì tùy miên đã dứt, nên gọi là các việc thiện trong vô lậu v.v…, tức nghiệp thân, ngữ thiện và giới.

Một phần vô ký, tức nghiệp thân, ngữ vô ký của vô học. Do trong thân lậu và sức dẫn phát của vô lậu sinh, nên gọi là vô lậu, vì không chấp pháp khác, nên gọi là một phần. Các vô ký, nghĩa là bốn tâm vô ký.

Các người ở đây cũng tức năm căn, nghĩa là nếu không như thế thì chẳng phải do sức hữu lậu dẫn phát, vì chủng loại xưa, cho nên không đồng với nghiệp thân ngữ. Thứ tư, giải thích về pháp hữu tránh, vô tránh. Năm thủ uẩn, gọi là sự của pháp hữu tránh, tức nghĩa khổ vô thường trên thể của sự đã được tranh luận, trái với thường lạc, gọi là tự tánh của tranh luận. Năm thủ uẩn là pháp “có”, có thể có pháp tranh luận về vô thường, khổ v.v…, nên gọi là có pháp tranh luận. Do ái nhiễm thân mình, ham vui, chấp mắc ngoại cảnh, chiêu cảm khổ, vô thường, gọi là nhân duyên tranh luận, nếu vô thường, khổ, v.v… là tự tánh của tránh thì vô minh thường cùng có với nhân, quả của tranh luận, gọi là giúp đỡ cho cuộc tranh luận.

Về Đẳng khởi có năm thứ phẩm hắc, như văn, trong đó.

  1. Nói về năm thứ phẩm hắc.
  2. Nói phẩm hắc hay có năm thứ quả không an trụ. Vô tránh trái với hữu tránh, rất dễ hiểu.

Thứ năm, là giải thích về pháp hữu nhiễm, vô nhiễm. Sự hữu nhiễm, tức năm hữu thủ uẩn. Nhân duyên, nghĩa là trong đây, chính thức lấy tham tương ưng với hai thọ hỷ, Lạc, gọi là thể có nhiễm, vì hỷ, lạc kia sinh tham nhiễm, nên vị ái là tham, là nhân duyên của giúp cho tham nhiễm kia, tức là pháp tương ưng khác và cảnh giới thuận.

Tự tánh: Tức lấy hai thọ hỷ, lạc. Giúp đỡ: Tức là tham ái tương ưng với hỷ lạc.

Đẳng khởi, nghĩa là năm phẩm hắc, vô nhiễm trái với hữu nhiễm ở trước.

Thứ sáu, là giải thích dựa vào ham vui, thèm khát, dựa vào pháp xuất ly, tác ý không đúng như lý tương ưng với tà nguyện:

1. Giải thích: “Tư nhiễm là tà, vì sao Luận Tiểu thừa nói rằng, tương ưng, nghĩa là tư dứt trừ v.v…, cũng có thể tuệ nhiễm thường là dứt trừ bất chính. Chánh trí là chánh đoạn, cũng có thể lấy tác ý không đúng như lý làm tà đoạn.”

Thứ bảy là giải thích pháp thế gian, xuất thế gian. Luận sư Cảnh nói: “Bốn, tất cả tâm, tâm pháp thiện sẽ dứt trừ, đã dứt trừ: Nếu người học phàm phu sẽ dứt trừ. Nếu người học đã dứt trừ thế gian, thì tức là phân biệt tâm vô lậu, cho nên, phải nói là sẽ dưt trừ, đã dứt trừ.

Năm, “sở hành” Tam-ma-địa của tất cả thế gian, thế gian của sắc không có thấy, không có đối, nghĩa là nếu là người Nhị thừa, thì thể của sắc do tâm định của Hậu trí thể hiện là hữu lậu, gọi là thế gian. Nếu ở Thập địa và Phật, thì sắc nhất định do Hậu trí thể hiện, thật ra là vô lậu, vì đối với trí chứng, gọi là thế gian. 1/ Kiến đạo trong xuất thế. 2/ Tu đạo đều lấy trí vô phân biệt. 3/ Do chỗ giải thoát v.v… của tưởng giải thoát. Tưởng là danh, nghĩa là người ba thừa đã chứng lý chân như không có hý luận, nên tâm pháp tương ưng với hậu trí kia mà không chấp mắc.

Bốn, sắc vô đối, vô kiến, sở duyên kia, trí Hậu đắc của Thập địa và Phật, hiện ra thể của sắc, là vô lậu, gọi là xuất thế gian. Thể hậu trí của hàng nhị thừa dù hữu lậu, nhưng do chứng trí giúp đỡ dẫn dắt đạo, phân biệt hiện ra sắc này, cho nên, sắc này được gọi là xuất thế gian.

Năm, một phần, nghĩa là “hoặc” do kiến dứt trừ, lấy Diệt, Trạch diệt làm thể. Tất cả nghĩa là kiến, hoặc tu hoặc, lấy diệt, trạch diệt làm thể.”

Pháp sư Thái nói: “Chưa dứt trừ tùy miên, nói là sẽ dứt. Nếu đã dứt tùy miên, thì nói là đã đoạn. Tâm thiện đã thế, vô ký cũng thế. Hai quán “không” “hữu” của ba thừa, với vô ký dứt trừ tưởng nhiễm ô, gọi là tưởng giải thoát không có hí luận, vì tuệ chung cho hữu lậu, vô lậu, nên có sắc xuất thế gian không có kiến, không có đối của sở duyên kia.

Thứ tám, giải thích pháp đọa, phi đọa, rất dễ hiểu.

Thứ chín, là giải thích pháp hữu vi, vô vi. Văn chia làm ba:

  1. Nói hữu vi.
  2. Nói về vô vi.
  3. Nói về bốn trường hợp diệt rồi của Niết-bàn.

Trong phần đầu, do năm tướng nên kiến lập hữu vi. Ba đời là ba. Bốn nhân duyên nối tiếp nhau, nghĩa là hạt giống. Năm quả nối tiếp nhau, nghĩa là Thức A-lại-da. Thể của quả sắc tâm còn lại là có, không chẳng nhất định. Kế là, do năm tướng lập pháp vô vi, trái với hữu vi trên, rất dễ hiểu. Thứ ba, là nói về bốn trường hợp của Niết-bàn xong.

Nói “Nếu cho rằng Niết-bàn là có khác, thì phải biết rằng, đây là các câu hỏi không đúng như lý, tức hữu vi kia về lý diệt gọi là Niết-bàn, không được nói là khác: nếu cho rằng không khác. Nếu chấp hữu vi Niết-bàn không khác thì không đúng, vì nhiễm, tịnh đã khác, thường, vô thường khác nhau, nên “có” “không”, nghĩa là trường hợp thứ ba chấp “cũng có khác”, “cũng không có khác”.

Chẳng phải có chẳng phải không có khác, nghĩa là trường hợp thứ tư chấp chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Phải biết đều là hỏi, đáp không như lý, đây đều là phi.

“Vì sao” trở xuống, giải thích bốn trường hợp đó:

Vì Niết-bàn kia chỉ do hữu vi diệt hiển bày: đây là nói không khác. Với pháp hữu vi, thì tướng của chúng khác, nghĩa là nói chẳng phải không khác. Dựa vào hai nghĩa này là gốc. Nói lìa bốn chấp, chỉ do hữu vi diệt làm rõ, nói là có khác, cho đến tức là hý luận, chẳng phải đối tượng của hý luận, nghĩa là Niết-bàn của hữu vi kia vì không nhất định tướng đó khác, nên nói Niết-bàn chẳng phải hý luận. Nay, nói nhất định khác, tức là pháp hý luận chẳng phải hý luận. Với pháp hữu vi, vì tướng của chúng khác, nên cho là không có khác, tức là hý luận, chẳng phải đối tượng của hý luận. Rất dễ hiểu.

Tóm lại, như trước đã nói, vì hai thứ nhân, nên cũng khác, không khác là không hợp lý, nghĩa là chẳng phải chấp thứ ba “do hữu vi diệt, chứng Niết-bàn nên đến “không hợp với đúng lý” nghĩa là chẳng phải chấp thứ tư. Vì ông chấp Niết-bàn đều không có sở hữu, nên nói là “ chẳng phải có khác” “chẳng phải không khác”, tức là chê bai “không “ không hợp với đạo lý.

Dưới đây, là giải thích nghĩa Niết-bàn. Nghĩa Niết-bàn, nghĩa là tất cả vì pháp bạch đã phát rõ ràng, tức do pháp bạch của đạo đế phát huy rạng rỡ là nghĩa Niết-bàn. Tướng Niết-bàn, nghĩa là cho đến tướng sở chứng bên trong: chứng vắng lặng bên trong không có tướng hý luận là tướng Niết-bàn.

Thứ mười, giải thích pháp sở duyên (đối tượng duyên) trong đó trước nêu. Chung, gạn hỏi năm tướng. Sau, giải thích riêng theo thứ lớp.

Trong giải thích riêng có hai 1) Giải thích bốn tướng trước.

2) Giải thích tướng thứ năm.

Trong phần trước, lại có hai: Trước chính là nói về sở duyên (đối tượng duyên). Sau, nhân luận, sinh luận, giải thích khế kinh.

Trong phần trước, nói “Cõi Dục trói buộc tác ý thiện, nhiễm, vô ký, chủ thể “duyên” tất cả pháp v.v… của ba cõi. Luận sư Cảnh nói: “ Vô ký tức lấy Lại-da “duyên” hạt giống của ba cõi, vô ký “duyên” pháp của ba cõi, nghĩa là thuộc về sở duyên, (đối tượng duyên) của hành giả. Cõi Sắc trói buộc tác ý thiện, cũng “duyên” tất cả pháp của ba cõi, giản lượt không nói cõi Sắc. Tác ý vô ký của A-lại-da thức”duyên” hạt giống của ba cõi.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tâm thiện trong đây rất dễ hiểu. Nhiễm ô:

Tức gồm nói Hữu Phú vô ký”.

(Hỏi: “Hữu Phú “duyên” ba cõi ra sao?”

(Đáp: “Hữu phú của cõi Dục chỉ thân, biên câu sinh, chỉ ở ý thức thứ sáu, như văn luận quán ba cõi là một, đồng một loại v.v…. Vì là ngã nên pháp khác không có khả năng này. Lại, không có tâm hữu phú”duyên”.

Vô ký “duyên” ba cõi: Tức tâm Dị thục sinh, độc đầu khởi: Và “duyên” Đẳng lưu dẫn sinh, sau của tâm oai Nghi công xảo, cũng gọi là tâm oai nghi, tâm công xảo duyên “duyên” rộng khắp, không mông cầu, không nhiễm. Lại, thức thứ tám cũng là “duyên” pháp hạt giống của ba cõi.

Nói “Tác ý thiện của cõi Sắc “duyên” với pháp ba cõi: Trong đây nên nói là vô ký của tâm nhiễm, cũng tức tâm nhiễm, vì sao quyển năm mươi chín nói: “Cõi Sắc đối với hành phiền não cõi Dục, nghĩa là cõi trên duyên phiền não và “duyên” mạn của cõi dưới. Và, như quyển sáu ở trước nói: “ Ta thấy sắc vì nhỏ nhiệm và, tâm vô ký Dị thục sinh, lược qua không nói.

“Trong cõi Vô Sắc” trở xuống: Luận sư Cảnh nói: “Phàm phu của cõi Vô Sắc; định thiện của ngoại đạo và tâm sinh đắc, chỉ “duyên” Địa mình. Nếu Bồ-tát mới phát tâm, tu riêng trí tuệ, gọi là Bồ-tát Tỳ-bà-xána. Lại, có Thanh văn học rộng, nghe nhiều, gọi là tuệ rộng, có cả hữu học, Vô học. Những vi này lìa dục của hai cõi dưới, được sinh Vô Sắc. Tác ý của Vô Sắc có thể “duyên” tất cả Pháp của địc dưới. Văn này nói rõ rằng, cõi Vô Sắc “duyên” khéo tất cả pháp của cõi dưới. Pháp sư Thái nói: “ Đại Bồ-tát Địa trở xuống, vì chưa có thể làm lợi ích chúng sinh một cách sâu rộng, nên có vị sinh lên cõi Vô Sắc, nhưng trong đó, tu tuệ riêng, “duyên” tất cả pháp của cõi dưới. Nếu Thanh văn tu tuệ rộng, có cả Hữu học, Vô học, sinh lên cõi Vô Sắc, cũng “duyên” địa dưới. Nếu người tu tuệ rộng của địa dưới, thì đồng với phàm phu không “duyên” địa dưới. Bồ-tát Sơ địa trở lên, gọi là được tự tại, không sinh Vô Sắc”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “ Bồ-tát Tỳ-Bát-Xá-Na trong đây, gọi là địa tiền, cũng “duyên” địa dưới, nghĩa là vì nói là tâm thiện không kể cùng cực, nên được “duyên” địa dưới. Không nói “duyên” địa trên, vì sinh cõi trên. Như Hữu học, chỉ vì quán đế lý, không dùng sáu hạnh ưa thích cõi trên, cho nên lược qua mà không luận đến Bồ-tát, mà theo đa số Thanh văn để luận, cũng không nói sự thật được “duyên” địa dưới, trong đây không luận. Các tâm nhiễm này lẽ ra cũng nghiên cứu để hỏi. Lại, phàm phu của xứ kia cũng không nói và đều không nói “duyên” vô lậu, vì giới là pháp. Dưới đây, trong nhân luận sinh luận, giải thích nghĩa kinh, đầu tiên, là dẫn tụng để hỏi. (Sau, là đối với câu hỏi để giải thích:

Nói “Nhân sở duyên của tư. Nghĩa là nhân sở duyên của tác ý tư duy thiện v.v… có thể giải thích bài tụng này. Lại, giải thích: “Nhân tư duy về sở duyên của hai chấp Nhân, pháp nên nói bài tụng này, gọi là phản ánh đối với tất cả v.v…

Luận sư Cảnh nói: “Danh có hai thứ:

1/ Danh của bốn uẩn, do tâm của bốn uẩn chấp có Nhân, pháp, chấp khắp đối tượng chấp, có thể phản ảnh tất cả lý của hai vô ngã, nên nói rằng: “phản ảnh đối với tất cả”.

2/ Nói là chúng sinh không có trí. Tìm kiếm ngôn thuyết, gọi là chấp có nhân, pháp, nhóm họp thành sinh tử, nên nói là phản ảnh với tất cả. Danh không có lỗi, nghĩa là do một pháp của danh này đều theo hành tự tại, có thể do chúng sinh chấp chặt một danh, khiến cho pháp tạp nhiễm tự tại tùy hành. Nếu tỏ ngộ lỗi tập khởi của danh này, thì phát ra pháp tịnh quan trọng, cũng tự tại tùy hành”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “1) Danh từ bốn uẩn tức là ở dưới nói do quán biết nên dứt trừ trời người, pháp. 2/ Danh từ tên gọi tức ở dưới nói biết tên gọi này nên trừ pháp chấp. Nói danh từ bốn uẩn có công năng “duyên” khắp tất cả, sinh khởi khắp tất cả, pháp, nên gọi là phản ảnh tất cả, ý nói danh ngôn có thể phản ánh tất cả, danh ngôn có công năng gọi khắp tất cả danh, phản ánh tất cả.

Y cứ trong đối với câu hỏi giải thích, được chia làm hai: Đầu tiên, chính là giải thích bài tụng của kinh; sau, dẫn thuyết để chứng minh lại.

Trong phần trước chép: “Nếu nói tóm lược nhân thanh tịnh, nên bình đẳng. Pháp sư Cảnh nói: “Nếu hiểu rõ hai danh sanh, khởi các tai hại lỗi lầm, tức là chứng nhập đạo lý “hai không” gọi là nhân thanh tịnh. Quán sát hai danh, khéo biết tự tướng, nghĩa là dùng bốn uẩn, và âm thanh làm tánh, gọi là quán tự tướng. Mê chấp hai danh, khởi rộng phiền não, phát nghiệp được quả báo, gọi là nhân tạp nhiễm. Do quán nhân này, nên gọi là quán nhân tạp nhiễm.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Vì quán sát nhân thanh tịnh, tức dưới đây nói: “duyên” danh ầy nên rất dễ hiểu được các nhân vô ngã, vì làm sáng tỏ lý kia, nên gọi là nhân thanh tịnh. Quán sát tự tướng: tức dưới đây nói: “Vì duyên” hai thứ danh, nên tướng ngã không thể được, chính là tướng phần của hai chấp.

Nay, biết sự kia, quán sát nhân nhiễm, tức dưới đây nói” không khéo biết rõ”. Danh ấy tức nhiễm ô sinh khởi, tức là vì kiến phần kia sinh khởi, nên tất cả pháp sinh.

Lại giải thích: “Nói hai thứ danh, vì có ba nghĩa, nên gọi là phản ảnh tất cả:

  1. Quán danh này, nghĩa là được thanh tịnh, là nhân của tịnh kia.
  2. Biết hai danh, “duyên” Tất cả pháp của mình.
  3. Biết hai danh là pháp nhiễm. Vì ba nghĩa này, gọi là phản ảnh tất cả.

Nói “Trong đây chỉ rõ Bổ-Đặc-già-la Vô. Ngã, nghĩa là bình đẳng v.v… Pháp sư Thái nói: “ Vì phần nhiều chấp bốn uẩn làm ngã, nên nói riêng lượng rằng: Nói là rất dễ hiểu rõ do tên của bốn uẩn, chấp giả dối Thần ngã vốn không có tánh, chỉ ở trong các cảnh như sắc v.v… khởi chấp so đo giả dối, nên nói “dứt trừ tất cả tướng của tự cảnh giới”, cho nên nói là phản ảnh tất cả.

Lại, nhân ngôn thuyết, gọi là chấp các pháp, khiến tỏ ngộ danh này chỉ là giả lập, không có pháp thật riêng, nhập vào “pháp vô ngã”. Đây là giải thích câu đầu.

Nói “Nếu quá khứ như thế cho đến” cũng không thể được, nghĩa là giải thích câu thứ hai.

“ Nếu đối với danh này cho đến” sinh khởi tùy chuyển”, là giải thích chung.

“Nếu không khéo biết rõ hai danh,” nghĩa là với cảnh, khởi chấp hai Trần Nhân, pháp sinh tử tạp nhiễm, sinh khởi tùy chuyển.

“ Tất cả cảnh tướng và các tạp nhiễm đều do năng lực tăng thượng kia sinh ra “Nghĩa là cảnh giới hai trần Nhân, pháp và, với sinh tử tạp nhiễm, đều nhân sức tăng thượng của hai danh mà khởi. Đây là giải thích hai câu sau. Dưới đây sẽ dẫn thuyết để chứng minh lần nữa.

Nói “Dựa vào mật ý này để nói lên lời này”. Nghĩa là dựa vào mật ý của bài tụng trên, để nói bài tụng sau đây.

“Vì chấp tự tánh pháp, nên chấp tánh ngã mà chuyển”, nghĩa là do chấp pháp có, nêu chấp ngã mới sinh.

“Vì Giác biết đây, nên giác biết kia, “Nghĩa là vì giác biết “ pháp không này, nên giác biết Nhân không kia. Cũng do Giác biết hai trần nhân, pháp này là “không” nên lại diệt hạt giống của hai chấp.

Trên đây, là giải thích bốn tướng trước đã xong. Dưới đây, sẽ giải thích tướng thứ năm, hệ thuộc “sở duyên” của Tác ý Du-già, trong đó. 1) Nêu chung, bày danh, chỉ ra như Địa Thanh văn để nói. 2) Theo vấn nạn để giải thích lại, được chia làm hai: Đầu tiên, nêu chung “ sở duyên” của “hoặc” tịnh: Sau, là nói riêng.

Trong phần trước nói bốn Thánh đế và Chân Như: vì rộng nên bốn đế; vì lược, nên chân như.

BẢN LUẬN QUYỂN 66

Trong phần tùy vấn nạn giải thích, nêu chung “sở duyên” của “hoặc” tịnh ở cuối quyển trước.

Dưới đây, nói riêng: Trước giải thích riêng về bốn đế; sau, nói chung để lập.

Trong phần trước, đầu, tiên là giải thích khổ đế tức là ba khổ có pháp, dụ, hợp. Tuy nhiên, với ba khổ, này lại dựa vào một chỗ Du-già và Đối Pháp. Y cứ ba thọ kia trong văn và thuận với các pháp của ba thọ, nhằm phân tách về tướng mạo của ba khổ. Nói rộng như luận Đối Pháp.

Nay, trong văn này, thế nào là tánh của khổ hành? (Nghĩa là nghiệp phiền não của “hữu” sau đã sinh ra các hành: Trong cảm nghiệp phiền não của ba thời gian, nêu lên nghiệp của “hữu” sau. Và, phiền não sinh ra các hành, là loại thể của khổ hành, như “hoặc”, nghiệp của hiện đời đã sinh các hành, đều là Khổ hành. Hoặc có thể khổ hành này, do y cứ vào nhân trước, quả sau, nên gọi là sau. “Hoặc” nghiệp của ba thời gian đã sinh ra các hành đều gọi là “hữu” sau, cho nên nói các hành do nghiệp phiền não hậu hữu sinh ra. Nói cụ thể, thì chủ thể sinh “hoặc” nghiệp đã sinh ra các Hành, đều là tự thể của khổ hành.

Hành này do kèm theo tính chất thô nặng, vì không điều hòa, nhu thuận, nên thể của hành không yên ổn, vì dù khởi hết phần vị, vẫn không được tự tại, nên gọi là khổ hành. Vì sao biết được thông suốt?(Vì y cứ vào “hoặc”, nghiệp để nói về khổ hành. Như văn dưới đây nói: “Chỉ là tập đế đều là khổ đế. Tự mình là có khổ đế mà chẳng phai là tập đế, nghĩa là A-la-hán đã thành tựu pháp hữu lậu thiện và pháp vô ký. Và thân phàm phu đã thành tựu các pháp vô ký v.v… của Dị thục.

Nói: “Đối với trong tự thể của hành, khổ kia, sinh ra phiền não và các khổ”, nghĩa là thể của hành ba tánh thuận sinh khổ “hoặc”.

Nói: “Tất cả an lập thuộc về tính thô nặng của tất cả biến hành, cũng gọi là sự thô, nặng là tánh chất của khổ hành, nghĩa là đối với các hành ba tánh của hành, khổ kia, cùng các phiền não và các khổ làm chỗ sở y, tức có tánh không điều hòa, nhu thuận của phiền não. hành khắp ba tánh theo đuổi không bỏ, khiến cho hành không yên, thành tánh của hành, khổ. Lại, các hành kia lúc sinh khổ khổ, khổ hoại kia, còn có tánh không điều hòa nhu thuận của hai khổ, theo đuổi hành nọ, khiến hành không yên, cũng gọi là khổ hành. Lại, khổ hành này hoạt động khắp (hiện hành) trong tất cả ba thọ, nghĩa là lúc hành ba thọ, bị tính thô nặng kia theo đuổi, đều là khổ hành kia ư?”

(Vì giải thích nghi ngờ này, nên nói: “Nhưng đối với xả thọ, tánh thô, nặng này biểu hiện rõ ràng, chỉ nói khổ hành của xả thọ, nên nói: “Đối với hai thọ yêu, giận dữ khác, gây nhiễu loạn nỗi khổ thô nặng này, chẳng thể hiểu rõ một cách dễ dàng, nghĩa là lạc thọ do ái nhiễu loạn, nói là khổ hoại. Khổ thọ do sự giận dữ gây nhiễu loạn, nói là khổ khổ, dù là khổ hành, nhưng tướng của nó khó biết.

Kế dưới đây nói thí dụ, thí dụ này như văn”.

(Hỏi: “Như đối với mình, ưa sinh ra ái, đối với người khác, ưa nổi cơn giận dữ. Cả hai sự ưa thích của mình, người đều sinh vô minh. Như đối với khổ thọ, chẳng phải chỉ sinh ra tức giận, cũng sinh ái. Xả ái đầu cuối mà còn sinh ba “hoặc”, sao lại nói riêng về lạc thọ bị ái nhiễu loạn; khổ thọ bị giận dữ nhiễu loạn ư?”

Văn dưới đây có hai lần “Lại nữa”. Vì giải thích vấn nạn này, đầu tiên nói rằng: “Dù mỗi thọ đều sinh ba “hoặc”, nhưng niềm vui thuận với tình, sinh ra nhiều tham ái; nổi khổ trái với tình, thường sinh giận dữ. Đối với trong khổ hành của xả thọ, thường sinh ra vô minh, khởi bốn điên đảo.

Lại, “các kẻ ngu v.v… ” trở xuống, là lần “lại nữa” thứ hai, nói phần nhiều nhân lạc thọ sinh ra ái làm ba ác hạnh, đọa Na-lạc-ca. Lại, thường do vui sinh ái. Sinh ái khắp cả các đường, thọ lãnh tám khổ, thường do khổ, thọ sinh giận dữ, gây ra ba ác hạnh đọa vào các đường ác. Trong xả thọ, phần nhiều sinh ra vô minh điên đảo như trên.

Nói: “đối với hai thứ khổ, nghĩa là dực vào lạc thọ tham, sinh ra “khổ hoại” và dựa vào khổ thọ sân, sinh ra “khổ khổ”, cũng do vô minh sinh ra tư không xả, sinh ra “khổ hoại”, nghĩa là do vô minh khởi tham, không thể nhàm bỏ, sinh ra “khổ hoại”, khởi hành bất xả, khởi lên “khổ khổ”, cũng do vô minh khởi sân, sinh ra hành không xả, khởi lên “khổ khổ”.

“Cho nên v.v… ”trở xuống, là kết: Phật, Thế Tôn chỉ lập ba thứ phiền não căn bản.

Nói: “Dựa vào mật ý này v.v…” trở xuống, hội ý, giải thích lời chú, nói là quán tướng mạo của ba thọ.

“Nếu có thể quán tánh vô thường chân thật như thế trở xuống, nghĩa là quán quán các hành vô thường, dứt dần điên đảo. Các hành như thế, là sự Thánh đế khổ của nghĩa thứ nhất, nghĩa là kết khổ hành kia là sự khổ Thánh đế của nghĩa thứ nhất.

“Tất cả Thánh Hiền v.v… ” trở xuống, là nêu trên, so sánh dưới.

Trong khổ đế, không khởi ưa vui. Kế là, nói về tập đế. Về lý, đế tức là chân như, chỉ do giải thích tướng, an lập nghiệp, “hoặc”, gọi là Tập Thánh đế, nên nói rằng: “Do đạo lý của tướng. Hoặc có thể tập, khởi đạo lý của danh tướng chung, trong đó y cứ vào sự vượt hơn, gọi là đạo lý vượt hơn.

Dưới đây, là nói về Diệt, Đạo, như văn. Kế là, nói về ý kiến lập bốn đế:

Vì muốn cho người tu hành biết khổ; dứt tập; chứng diệt và tu đạo, nên lược kiến lập các tướng của Thánh đế; rộng, thì vô biên. Lại, “khiến cho biết rõ cho đến “Về sau, mới chỉ bày khổ của năm thủ uẩn: khổ Sinh trong tám khổ thô nhất, kế là, lão, bệnh, thứ đến là chết, cho đến khổ hành của năm thủ uẩn. Vì năm khổ trước là “khổ khổ” kia. Kế là hai khổ hoại, một khổ sau là khổ hành rất nhỏ nhiệm.

Dưới đây, là quyển mười một giải thích “Pháp gìn giữ, trong đó chia làm bốn:

  1. Nói về năm tướng, lập trách nhiệm gìn giữ.
  2. Nói về phế lập.
  3. Nói về tướng của đoạn thực.
  4. Nói về bốn cách ăn, với bốn trường hợp phân biệt.

Trong phần đầu, trước là nêu, lên, 2/ Y cứ vào đường để nói về “có”, “không”. Thể của bốn cách ăn là đoạn thực. Văn dưới nói rằng: “Phải nói là thuộc về nơi chốn của hương, vị, xúc”. Luận Thành Duy Thức nói: “Rằng ba hương, vị, xúc thuộc về cõi Dục”. Ý lời nói này chứng tỏ chỉ cõi Dục quan hệ ba thứ hương, vị, xúc. Có sự giúp đỡ nuôi nấng khi đổi thay hư hoại, nói là thức ăn, chứ chẳng phải thứ khác.

Về xúc thực, quyển chín mươi bốn cho rằng: “Các xúc hữu lậu đem đến mừng, vui làm thức ăn”. Duy thức cũng nói: “Khi hữu lậu vừa lấy cảnh, nhiếp thọ hỷ, lạc và thuận ích xả, có thể làm sự ăn”.

Lời nói này chủ yếu chỉ rõ tám thức hữu lậu của ba cõi đều có xúc nhiếp thọ hỷ, lạc và thuận ích xả, nhiếp ích cho thân, là thể của xúc thực. Nếu dẫn khổ, ưu, thì chẳng phải ích xả, thể của xúc chẳng phải thức ăn, vì chẳng phải giúp ích, cho nên Thành Duy Thức chép: “Xúc này dù tương ưng với các thức, thuộc về sáu thức, nhưng về nghĩa thức ăn vượt hơn riêng, tức chứng tỏ xúc thực chung cho tám thức đều có.

Mật hội, Nhiếp luận quyển ba của Bồ-tát Thiên Tân nói: “Trong đây, xúc thực thuộc sáu thức TCảnh thô hiển của thân xúc, vì tư cách nuôi nấng vượt hơn, nên không nhóm xúc khác.

Có nghĩa: “Chỉ lấy sáu thức đều có xúc dùng làm thể của ăn”. Ý của Luận sư này nói: “Do chủ thể dẫn tự đều sinh hỷ, ái v.v… mới gọi là ăn, vì chẳng phải thức thứ bảy, thứ tám. Nhưng so với các văn thì giải thích thứ hai là vượt hơn.”

Tư thực. Luận Thành Duy Thức chép: “Rằng, tư hữu lậu đều cùng chuyển biến với dục”. Lại nói: “Tư này dù tương ưng với các thức, nhưng thuộc về ý thức, thì nghĩa ăn là hơn riêng”. Ý này chính thức chỉ rõ tám thức hữu lậu của ba cõi đều cùng với cảnh hy vọng đáng ưa của Tư, nhiếp ích thân, đều là thể của Tư thực. Mật Hội quyển năm mươi bảy và Nhiếp Luận của Bồ-tát Thiên thân nói: “ “Duyên” cảnh vị lai, nhiếp ích cho thức, gọi là Tư thục, ý tứ ở cảnh, vì hy vọng là hơn.” Do quyển chín mươi bốn này nói: “Nếu ở ý địa, thì tư có thể hội ý cảnh, gọi là ý hội tứ, có thể chuyên chú ở tất cả cảnh đã yêu thích, với hy vọng làm thức ăn.”

Lại, có nghĩa nữa: “Sáu thức đều tư duy các hữu lậu, nghĩa là cảnh hy vọng, giúp ích cho thân, đều là thể của Tư thực. Thức thứ bảy, thứ tám thì không như thế, vì không có hành tướng.

Các chỗ chỉ nói đều có ý, nghĩa là “duyên” khắp ở vị lai, vì ý thức kia là hơn hết. Cũng có Tư hy vọng ở cảnh hiện tại, nên chấp nhận chung cả năm thức.”

Có nghĩa: “Tư thực chỉ thức thứ sáu cùng có, vì các chỗ khác chỉ nói là “duyên” vị lai”.

Trên đây dù có ba giải thích, nhưng giải thích thứ hai là hơn.

Thức thực. Luận Thành Duy Thức chép: “Nghĩa là thức hữu lậu. Thức này dù chung cho tự thể các thức, nhưng nghĩa ăn của thức thứ tám thì hơn riêng. Việc này chứng tỏ Thức thực lấy chung tám thức hữu lậu của ba cõi.

Kế là, y cứ vào đường để nói về “có”, “không”

“Nếu đoạn thực thô, cho đến “Chẳng phải Đại-Na-Lạc Luận sư Cảnh nói: “Rằng Tiểu địa ngục ở trong núi non, nơi hoang vắng, có thức ăn thô. Ở trước nói địa ngục không có đoạn thực, là vì y cứ vào thọ khổ cùng cực trong đại địa ngục, nên không có đoạn thực.”

Pháp sư Thái nói: “Đoạn có thô, tế, thô nghĩa là khắp năm cõi, như văn này nói: “Chỉ trừ Đại na-lạc. Trong Đại Na-lạc cũng có đoạn thực tế, như Bản địa quyển năm chép: “Trong địa ngục có đoạn thực tế, nghĩa là vì gió nhỏ nhiệm, nên đoạn thực khắp các địa ngục.”

Thứ hai, trong phần nói về phế lập, trước là hỏi, đáp để nói về bốn cách ăn, phế lập.(Trong câu hỏi: “Bốn cách ăn do tâm tự tại thông, nghĩa là do thế lực của Thần cảnh trí thông dẫn phát, chiêu cảm thế lực của nghiệp tuổi thọ, khiến mạng được sống lâu thêm, hoặc có thể tâm tự tại thông, chính là sức định bờ mé, kéo dài nghiệp tàn ác kia, để cho công năng lôi kéo vượt hơn mạng sống lâu.

Sáu thức do tác ý v.v… thiện, bất thiện, vô ký. Luận sư Cảnh nói: “Do tác ý của ba tánh dẫn phát sáu thức, thường khởi không diệt, do nghiệp ngoài, trong, cộng, bất cộng mà chiêu cảm năm trần.”

Pháp sư Khuy Cơ cho rằng: “Nói là nghiệp của khí thế gian, như Bản địa quyển ba nói: “Hoặc cảm một kiếp v.v…, lúc tạo nghiệp này, do tác ý ba tánh làm phương tiện dẫn nghiệp này sinh khởi, hay lôi kéo các pháp khí thế gian, khiến trụ không dứt. Như núi, sông v.v… gọi là cộng sinh nghiệp không chung của ruộng, nhà v.v… sinh, tức Đại sư nói có hai thứ cộng, bất cộng. Hai thứ cộng là:

  1. Cộng (chung) trong cộng, như núi, sông v.v….
  2. Bất cộng trong cộng (không chung trong chung), như nhà cửa v.v….

Bất cộng có hai:

a/ Bất cộng trong bất cộng, như nhãn căn của mình, người khác không dùng để “duyên”. b/ Cộng trong bất cộng, như phù căn trần trong thân vì duyên người khác, vì giống nhau.

Trong đây tức hai trong cộng:

Văn đáp dù do các hành của bảy thứ nhân dyên như thế mà được trụ, cho đến “khiến hành nối tiếp nhau mà trụ: đây tức là đáp chung. Lại như đoạn thực, hoặc có người ăn rể thuốc, hoa, quả, bùn, đá, lửa, sắt v.v…. Do các thứ môn khiến hành được trụ. Do đoạn thực nên thức thực vui vẻ. Vì thức thực vui vẻ, nên thêm hỷ, lạc. Hỷ, lạc tương ưng với xúc, là xúc thực Tư, là Tư thực. Cho nên, bốn cách ăn đều do các thứ môn, khiến các hành trụ. Lại, bốn cách ăn này, như thứ lớp nhiếp thọ nghĩa riêng:

  1. Sức khí.
  2. Hỷ, Lạc.
  3. Đối với cảnh đáng yêu, chuyên chú, hy vọng.
  4. Tức đại chủng của các căn của ba sở y và Thọ, Noãn an trụ không hư hoại,

Dưới đây phân biệt có năm, tức giải thích lý do các môn, được trụ:

1. Các cách ăn này để cho hữu tình trụ dễ dàng, vì lấy nhập ngu, trí đồng biết, nên lập riêng cách ăn.

2. Giúp cho căn suy yếu, hao hụt được thêm lợi ích lớn, nghĩa là lợi ích bằng cao sống v.v….

3. Khiến cho tật bệnh được lành, nghĩa là cỏ thuốc v.v….

4. Có hữu tình sống lâu, Trung, Yểu không ăn, cũng có thể uống thuốc tiên. Hữu tình sống lâu trong thời gian dài, phải thường xuyên uống thuốc, nhằm giúp đỡ cho thế lực ở trước, thuốc là đoạn thực. Nếu không uống thuốc nữa thì chẳng phải thời gian Trung, Yểu.

5. Cách ăn này sẽ giúp cho nhập đạo dễ dàng để tu bốn niệm trụ, nghĩa là do đoạn thực, nên có thể tu thân niệm trụ. Do xúc thực, nên có thể tu Thọ niệm trụ. Do thức thực, nên có thể tu Tâm niệm trụ. Do Tư thực, nên có thể tu Pháp niệm trụ.

Kế là, nói về mạng căn phế lập:

“Nói là có chỗ này v.v… cho đến lượng tuổi thọ mà trụ”, nghĩa là các tầng trời cõi sắc v.v… không do uống, ăn, như trụ ở lượng tuổi thọ mà cõi trời kia đã chiêu cảm. Đây là y cứ vào đường thiện chỉ do mạng căn hoặc có đường ác chỉ nhờ thế lực của mạng căn mà trụ, như ngạ quỷ v.v….

Thứ ba, là nói riêng tướng mạo của đoạn thực, trong đó, trước, siêu chung, sau giải thích riêng lý do, trong đó có ba:

1- Dùng bốn trần đối nhau để nói về thức ăn, chẳng phải thức ăn.

2- Y cứ vào đoạn vật khi nuốt vào, sinh ra vui vẻ, để nói về thức ăn, chẳng phải thức ăn.

3- Y cứ vào vật từng đoạn, khi nuốt vào, không cảm thấy vui để về thức ăn, chẳng phải thức ăn.

Đầu tiên nói rằng: “Hương, vị, xúc đang tiêu hóa, tức là có thể nuôi lớn v.v…”. Luận sư Cảnh cho rằng: “Hỏi: “Thể của bốn trần như sắc v.v… phổ biến, tương nhập, tức là pháp đồng xứ không lìa nhau, đến phần vị tiêu hóa, thay đổi, cả bốn đều tiêu hóa, biến đổi: Xưa trắng, nay vàng, ở trước thơm, bây giờ hôi, xưa ngọt nay đắng, xưa cứng nay mềm, vì sao siêng sắc chẳng phải thức ăn? Lại khi rơi vào thục tạng chính là lúc tiêu hóa, bốn trần như ắc, v.v… bốn thức như nhãn, v.v… đều không biết rõ, vì sao chấp riêng hương, v.v… mà không chấp sắc? Giải thích: chính khi thuần thục biến đổi, tuy ba thức không được ba trần, dùng trước nghiệm sau, biết chỉ có hương, v.v… là đoạn thực. Vì sao? Vì như đem cơm đến, khi chưa vào miệng, mắt thấy sắc cơm, cơn đói khát vẫn cồn cào mãi không ngừng, nên sắc chẳng phải thức ăn. Sau khi cơm đã vào miệng, ngốn ngấu nhai nuốt khỏi cổ họng, thức tỷ, thiệt, thân đã nhận được hương, vị, xúc, dù chưa tiêu, hóa, nuôi lớn căn đại, nhưng ngay từ bấy giờ, cơn đói khát có thể dứt, chính là do khi nuốt qua khỏi cổ họng, là ba trần kia lại chận đứng được cơn đói khát. Do đó, nghiệm biết sau, đến phần vị tiêu hóa, chỉ hương vị, xúc nuôi lớn căn đại, trở thành công dụng của thức ăn kia, chứ chẳng phải sắc trần ”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Ba trần tế có nghĩa thêm bớt. Thể của Trần sắc thô, nên không thể thêm, bớt.” Kế là nói: “Nếu các đoạn vật cho đến” chỉ gọi là xúc, thực”. Luận sư Cảnh nói: “ Tam tạng nói: “Khi nhận được ba Trần, mỗi ba thức kia là thể của xác thực, cũng có thể lấy tâm số tương ưng với ba thức nọ làm thể của Xúc Thực. Bấy giờ, ba trần chưa thể giúp đở, nuôi nấng nên không gọi là đoạn thực.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Vì sự nhận lấy ở đây đã khiến tâm sở vui vẻ, tức tâm số xúc là thể của xúc thực, không lấy trần làm thể của xúc thực văn còn lại rất dễ hiểu.

4) Trong phần nói về bốn trường hợp, trong xúc cho đến thức, tùy thích hợp, mà tạo nên bốn trường hợp:

a- Hoặc có khi là xúc mà chẳng phải thức ăn, nghĩa là xúc xả thuận với một phần ưu khổ.

b- Hoặc có khi là thức ăn mà chẳng phải xúc, nghĩa là ba đoạn, tư, thức có thể nuôi lớn đại chúng của các căn.

c- Hoặc có khi là xúc mà cũng là thức ăn, nghĩa là xúc bao gồm giúp ích. Hai thọ hỷ, lạc và một phần xả, giúp ích căn đại v.v…

d- Hoặc chẳng phải xúc mà cũng chẳng phải thức ăn, nghĩa là ba thứ đoạn tư, thức chẳng phải thức ăn.

Hoặc có khi là tư mà chẳng phải thức ăn, nghĩa là “duyên” quá khứ và đời vị lai, hiện tại, không thể nhiếp ích các căn đại.

Hoặc có khi là thức ăn chẳng phải tư, nghĩa là ba cách ăn còn lại, có khi là tư, cũng là thức ăn, nghĩa là tư với dục, đều cùng “duyên” đời vị lai, giúp ích căn đại.

Trường hợp thứ tư, nghĩa là ba cách ăn còn lại, chẳng phải thức ăn.

Hoặc có thức mà chẳng phải thức ăn. Nghĩa là ba cách ăn còn lại giúp đỡ thức, không thể nuôi lớn căn đại.

Hoặc là thức ăn mà chẳng phải thức, nghĩa là ba cách ăn còn lại.

Trường hợp thứ ba, nghĩa là đã nuôi nấng thức có thể giúp ích căn đại.

Trường hợp thứ tư, nghĩa là ba cách ăn trước chẳng phải là thức ăn.

Thứ mười hai, là giải thích về pháp có Dị thục, không có Dị thục, trong đó, 1) Nói có Dị thục. 2) Y cứ vào Thọ, để nói về pháp Dị thục. 3) Đối với nghiệp để nói về Dị thục.

Trong phần đầu có hai:

a- Nêu chung ba trường hợp.

b- Giải thích riêng về ba trường hợp trong đó, đầu tiên là nói về pháp có Dị thục, chia làm hai:

  1. Nói về pháp có Dị thục
  2. Nói về pháp không có Dị thục.

Trong phần trước, Luận sư cảnh cho rằng: “Nói lược thì, có pháp Dị thục, nghĩa là lậu và Hữu lậu, là nêu ra thể của pháp, phải có đủ ba nghĩa mới có Dị thục.

  1. Phải có sức.
  2. Không bị tổn hại.
  3. Thọ dụng chưa hết.

Dưới Đây, là giải thích ba nghĩa. Pháp khác trong hữu lậu, gọi là không có sức, nghĩa là chẳng phải phiền não trong hữu phú, vô ký, nghĩa là Thọ, tưởng v.v… và, pháp vô phú, vô ký, đều gọi là không có sức”.

Pháp sư Thái nói: “ Pháp bất thiện vì dùng thể đoạn, nên không có Dị thục, thiện hữu lậu do dứt trừ lậu, nên không có Dị thục, không do thể đoạn, lẽ ra phải nói là lậu đã dứt trừ, cũng có thể lậu cũng gọi là hữu lậu, nên nói là hữu lậu dứt trừ.

Thứ hai, trong phần nói về pháp Dị thục, Luận sư Cảnh cho rằng: “Nói. “Lại khi sắp chết, tâm niệm sau cùng là pháp Dị thục, nghĩa là tâm Tử Hữu chỉ là Dị thục vô ký củA-lại-da.

Nói “tâm Vô gián của Kiết sinh”, tâm này có hai lúc:

1- Tâm đầu tiên của Trung hữu là kiết sinh ban đầu, phương tiện của báo sau.

2- Sinh hữu tâm, là kiết thứ hai, sinh căn bản của báo sau.(Hỏi: “Sau khi chết rồi thọ sinh, có ý thức hay không?” (Phương Tây có hai phương pháp tranh luận:

a- Không có. Nếu vậy, thì vì sao trong Địa vô tâm chỉ nói sáu vị ư?”

(Đáp: “Vì chết đi, thọ sinh, bị nổi khổ cùng cực ép ngặt, vì tâm tưởng nhỏ nhiệm, nên gồm thâu trong trạng thái ngất xỉu của vô tâm, cho nên không nói khác.

b- Chết đi thọ sinh đều có ý thức, nhưng ở đây nói chết đi, thọ sinh, chỉ là Dị thục, vì ý thức trong phần vị này nhỏ nhiệm, từ A-lại-da, nói là Dị thục.

Thuyết đầu tiên là khéo hợp vơí Đối Pháp. Lại, luận Du-già quyển tám mười chép: “tất cả La-hán sắp vào vô dư, trước nhập diệt định, diệt trong chuyển thức, sau, trụ trong tâm vô ký Dị thục, rồi mới diệt độ.

Nói: “Và trừ tâm vô ký gia hạnh, nghĩa là bốn thứ tâm vô ký đều tác ý dẫn đến, đều gọi là vô ký gia hạnh.”

Pháp sư Thái nói: “Theo Thích Luận của Tối Thắng Tử và Luận sư Giới Hiền v.v… rằng: “Một tâm niệm sau cùng khi qua đời là Dị thục Lại-da, tâm cuối trung ấm khởi kiết sinh nối tiếp nhau. Theo thứ lớp, tâm sau của trung ấm Vô gián sinh, gọi là kiết sinh tâm Vô gián nối tiếp nhau, cũng là Dị thục Lại-da, do lúc sinh, phần ngất xỉu, nên sáu thức không hiện hành, lúc chết, thọ sinh chỉ có Lại-da. Tử hữu chết đi, tâm không muốn cầu báo. Lại, vì nhậm vận diệt, nên chỉ là Dị thục. Tâm cuối cùng của trung ấm là phương tiện thọ sinh,, cầu thọ sinh hữu, vì chẳng phải nhậm vận diệt, nên là tâm nhiễm ô. Hoặc trung ấm, Niếtbàn, qua đời, không cầu sinh hữu. Lại, vì dứt trừ “hoặc” hết, nên cũng Bản thức qua đời.

Lại, Luận sư Giới Hiền cho rằng: “Ý thức thứ sáu, hoặc dựa vào năm thức, nên “duyên”.

Theo quyển năm mươi rằng: “Hoặc nương tựa giáo, nên “duyên” quá khứ, vị lai v.v…. Lúc thọ sinh đầu tiên, không có năm thức và không “duyên” giáo, nên không có ý thức. Cõi Vô Sắc vào lúc khác, dù không dựa vào năm thức và giáo, nhưng vì ở trước lúc còn ở cõi Dục, thường tu tập, dựa vào sức danh, nên ý thức sinh riêng vào thời gian khác của cõi Vô Sắc. Đầu tiên thọ báo, sẽ khởi tâm báo, tâm báo của bản thức vì nhậm vận khởi, nên được sinh. Tâm báo của sáu thức gá vào “duyên ” khác mà khởi. Lúc mới sinh, vì không có “duyên” khác, nên tâm báo của sáu thức bất sinh. Từ lúc mới thọ sinh này về sau đã có tâm trụ tự tánh của tất cả nhậm vận khởi, đều là tâm Dị thục của bản thức, trừ thiện, nhiễm ô của sáu thức và bốn tâm vô ký gia hạnh của sáu thức khác. Tâm báo sinh của sáu thức do duyên khởi khác chẳng phải nhậm vận thường sinh, cũng là tâm vô ký gia hạnh. Bảy thức nhiễm ô cũng ở trong đó. Trừ bảy thức này, thức còn lại, đều gọi là tâm trụ tự tánh của bản thức. Nếu tâm lìa dục, tâm trụ tự tánh của bản thức, vẫn cố tùy chuyển, trừ điều thiện của địa dưới và bốn tâm vô ký gia hạnh. Phải biết rằng tâm bản thức này cũng là Dị thục. Khi lìa dục, Dị thục đồng với Dị thục lúc chưa lìa dục ở trước, nên nói “cũng vượt hơn”.

Hữu Thích Luận cho rằng: “Bản thức thường hiện hành, không cần phân biệt. Tâm vô ký báo của ý thức thứ sáu, gọi là tâm Dị thục. Lúc qua đời thọ sinh và tự tánh trụ, ba thời thường hành. Lúc qua đời thọ sanh không sáng suốt rõ ràng, nên là tâm Dị thục. Trong bản địa, trong sáu phần vị sáu thức không hiện hành, không nói là lúc qua đời, thọ sinh không hiện hành, cho nên biết lúc qua đời thọ sanh có báo của ý thức. Từ sau khi thọ sinh tâm nhậm vận khởi tất cả tự tánh sau, đều là Dị thục của sáu thức. Ba vô ký còn lại và gia thiện, nhiễm ô đã khởi phi tự tánh, vì tự nhiên khởi, nên cần phải dứt rừ.

3- Nói về pháp Dị thục sinh: “Nếu từ Dị thục của tất cả hạt giống cho đến “gọi là pháp Dị thục sinh” thì hạt giống của ba tánh từ thức sở y, đều gọi là Dị thục. Từ hạt giống này sinh ra pháp của ba tánh, đều gọi là pháp Dị thục.”

Luận sư Cảnh nói: “Lại nữa, tâm mất sau cùng của tất cả chỗ và tùy theo tâm nối tiếp nhau của ban đầu, thứ hai, nghĩa là tử hữu gọi là tâm mất sau cùng. Tử Hữu mất rồi, Trung hữu mới khởi sự nối tiếp. Tử Hữu kia gọi là tâm liên tục ban đầu. Sinh hữu khởi nối tiếp Trung hữu kia, gọi là tâm nối tiếp thứ hai, đều chỉ có xả thọ.”

Nói “Trừ tâm nối tiếp nhau ban đầu cho đến “thuộc về Dị thục”, nghĩa là trừ tâm nối tiếp nhau ban đầu của Trung hữu kia và tâm sinh hữu, do thọ trong tâm này đối với tất cả chỗ là thuộc về Dị thục.”

Nói “Khổ, lạc thọ còn lại nên biết rằng đều do Dị thục sinh ra”, nghĩa là trừ tâm đầu tiên của trung hữu kia. Tâm trung hữu của tâm niệm thứ hai. Trở lên thì có cả khổ, vui là Dị thục sinh, trừ tâm sinh hữu. Niệm thứ hai trở đi, thì thuộc về Bản hữu, trong đó, lại lẫn nhau được khởi ba thọ là Dị thục sinh. Dưới đây, là giải thích nghĩa Dị thục sinh.

Nói “Như hạt giống của ba tánh kia thuộc về Dị thục cho đến “từ Dị thục sinh”, nghĩa là hạt giống của ba tánh đồng với thức sở y, nói là Dị thục. Từ hạt giống này lúc sinh hiện hành, gọi là Dị thục sinh.

Nói: “Sinh Na-Lạc-Ca cho đến “Có ưu khổ nối tiếp nhau của Dị thục sinh, nghĩa là sinh hữu của địa ngục nhất định không có ý thức, chỉ xả thọ của A-lại-da. Từ niệm Vô gián thứ hai trở đi, có ưu khổ nối tiếp nhau của Dị thục sinh, chỉ nói về khổ địa ngục trong hai mươi hai căn trước, rất lo, cũng gọi là khổ, nếu y cứ theo thuyết bản hữu. Nay, nói ưu khổ nối tiếp nhau Vô gián của Dị thục, nghĩa là từ sinh hữu nhập một phần bản hữu.

Nói: “Như đọa Na-Lạc cho đến cũng thế, nghĩa là mới sinh, thọ khổ vui lẫn lộn trong các loài quỷ, bàng sinh cũng từ xả ưu khổ nối tiếp nhau Vô gián.

Nói: “Nếu sinh trong loài người cho đến “không có quyết định” trở xuống, là nêu ra Dị thục Vô gián của tưởng không quyết định. Có khi ưu khổ v.v…, nghĩa là có người, trời cõi Dục khi mới thọ sinh, từ sau khi xả thọ. Hoặc nhập khổ ưu; hoặc nhập hỷ, lạc, hoặc lại nhập xả.

Nói: “Nếu sinh định thứ tư trở lên, chỉ có Dị thục thọ không khổ, không vui”: đây là nói chung Hỷ, lạc, vì xả thọ này có thể giúp ích thân tâm.

Nói: “Các nghiệp thiện kia cho đến “Cũng gọi là Dị thục đáng ưa thích, nghĩa là tĩnh lự thứ tư trở lên, nghiệp ý tứ thiện chỉ tương ưng với xả, chiêu cảm quả báo hiện ở trước, cũng gọi là Dị thục đáng ưa thích. Cho nên, ở trước gọi là Hỷ, lạc rộng lớn. Pháp sư Thái nói: “Tâm nối tiếp nhau thứ hai tùy theo nối tiếp nhau ban đầu khởi, nên nói “Và tâm tùy nối tiếp nhau ban đầu, thứ hai. Nếu như Thích Luận của Tối Thắng tử v.v… chỉ có bản thức là Dị thục, thì ba tánh của sáu thức đều là Dị thục sinh. Nếu theo giải thích của Thích luận của Luận sư Thắng Hữu thì tâm quả báo của sáu thức cũng là Dị thục, lại là Dị thục sinh.

Nói “Sinh định thứ tư trở lên v.v… cho đến” cũng gọi là Dị thục đáng ưa thích”, nghĩa là giải thích rằng, dùng Hỷ, lạc của Thiền cõi dưới làm phương tiện nhiếp thọ xả thọ của định thứ tư. Các nghiệp thiện không khổ, không vui, của định thứ tư, lúc thọ hiện ở trước, cũng gọi là Dị thục đáng ưa thích.

Lại, giải thích: “Nói ỷ (khinh an) lạc trong định thứ tư, là hỷ, lạc rộng lớn. Bị Luận sư nói: “y theo văn trên của luận, lại không có ưu, Hỷ lạc trong địa ngục, Vì sao trong đây khổ ưu sinh?”

Giải thích: “Theo văn đoạn thực, ở trước vì y cứ ở Đại Na Lạc Ca, nên không có ưu v.v…. Nay, vì y cứ vào địa ngục biên, nên nói là “có ưu”. Cứ theo địa ngục đó đã có riêng thì đâu có trái nhau.

Tam Tạng Pháp sư nói: “Ở chỗ thuần khổ, ý địa có khổ, gọi là ưu căn, như định thứ ba, vì niềm vui ở ý địa, nên không trái lý. Dưới đây, đối với nghiệp, để nói về Dị thục.

Nói “Nghiệp Dị thục Bạch bạch đã được quả Dị thục vô phú, vô ký: “Câu này là chung.

Nói “Hoàn toàn đáng yêu, thọ thuộc về hạt giống của thọ”: Đây là nói về nhân bạch.

Nói “Phải biết rằng, hoàn toàn đáng ưa thích, hoàn toàn vừa ý”: Đây là nói về quả bạch. Vấn nạn này dù không chỉ cho riêng nghiệp thiện của ba cõi, phát ra thể của nghiệp bạch, nhưng ngụ ý tức lấy chung nghiệp thiện của ba cõi làm thể. Y theo ở dưới đã nói về nghiệp hắc bạch lẫn lộn, lấy chung hai nghiệp thiện, ác làm nghiệp lẫn lộn hắc bạch, tức biết cõi Dục khi chưa lìa dục, đã khởi phương tiện căn bản của nghiệp thiện không có ác lẫn lộn. Và, khi lìa dục, đã khởi nghiệp thiện, đều là thể của nghiệp bạch bạch. Luận Đối Pháp dựa vào văn chỗ này nói chung nghiệp thiện của ba cõi là thể của nghiệp bạch bạch. Trong văn của một chỗ Du-già chỉ nói nghiệp thiện của cõi Sắc, Vô Sắc là nghiệp bạch bạch.”

Nói “Nghiệp hắc hắc trái với đây”, nghĩa là lấy nghiệp thuần bất thiện, phương tiện căn bản bất thiện, lấy cảm hai báo chung riêng của đường ác, cũng lấy nghiệp khổ thọ, báo riêng của người, trời làm thể. Văn chỗ khác của Du-già nói: “Lấy cảm nghiệp bát thiện của đường ác, làm nghiệp hắc hắc.

Nói “Hắc, bạch đều cùng có nghiệp Dị thục, cũng có hai thứ. Thọ Dị thục: Như tạo nghiệp thiện, dùng thiện làm phương tiện, gồm thâu chung hai phương tiện này để làm nghiệp lẫn lộn. Sau khi được quả. Lẫn lộn khổ, vui. Đối Pháp nhận lấy ý văn này, ổ chỗ kia nói rằng: “Đôi khi có phương tiện, vì ý ưa thích hắc, cho nên bạch; hoặc có phương tiện, vì ý ưa thích bạch, cho nên hắc. Gồm thâu chung để làm nghiệp lẫn lộn hắc bạch. Trong văn một chỗ Du-già chỉ lấy thời gian chưa lìa dục mà khởi nghiệp phước làm thể của nghiệp hắc bạch. Có nghiệp bất thiện vì bị oan đối, tức dựa vào cảnh đã lìa dục của văn kia, nghiệp thiện cõi Dục chẳng phải bao gồm bốn nghiệp. Lần “Lại nữa” thứ ba dưới đây nhằm giải thích nghiệp lẫn lộn:

Nói “Lại, nghiệp hắc, bạch cho đến lập chung hắc, bạch:” Tam Tạng Pháp sư nói: “Sát-na, Sát-na trước sau sinh nhau, gọi là loại sinh, nghĩa là Sát-na trước sinh ở tâm thiện, tức đối với niệm sau, khởi tâm bất thiện làm quyến thuộc, nghĩa là đối với xứ nghiệp của tâm thiện ở trước, bất thiện làm bạn hắc bạch đều cùng có, nên gọi là nghiệp lẫn lộn”.

Luận sư Cảnh cho rằng: “Trong một loài chúng sinh, trước làm phiền não, sau làm lợi ích; hoặc trước làm lợi ích; sau làm phiền não, gồm chung một nghiệp lẫn lộn thứ ba”. Luận sư Bị nói: “Nhân xa đẳng khởi có hai nghiệp, nên lúc đẳng khởi Sát-na dù có nghĩa một nghiệp, nhưng vẫn nói là nghiệp lẫn lộn. Lại, nhân sự sai khác để kiến lập v.v…. Giống như có một người giáo hoá người khác tạo cùng kinh, tượng. Đối với vật kinh, tượng lại hành động xâm phạm gây hư hại, hoặc chiếm đoạt tài sản của người khác mà thực hành tuệ thí. Những hành động này đều nhân sự sai khác để kiến lậo ngôn ngữ. Lại, do tự tánh kiên lập v.v… nghĩa là tánh thiện ác khác nhau, hợp lập một quả; tùy theo ở một chỗ cho làm lợi ích, tức do sự khác làm việc không lợi ích”.

Dưới đây, chỉ sự, nghĩa là như đối với người đều làm ác, vì đã ngờ vực nên nổi giận rơi vào phần hắc. Không mừng về điều ác của người kia, và nẩy sinh nhàm chán là thiện, rơi vào phần bạch.

Thứ mười ba, là giải thích có pháp nhân, quả, trước nói về pháp có nhân, có quả, sau, trái lại, làm sáng tỏ pháp chẳng có nhân và pháp chẳng có quả.

Trong phần trước, trước nói pháp có nhân; sau phân tích pháp có quả.

Phần trước nói rằng: “Lại, trụ, nhiễm ô sinh tà tinh tấn, không có hiệu quả, cần cù khổ nhọc v.v…, gọi là pháp có nhân: Tức nói rằng ngoại đạo kia nương thầy bất chính, tà giáo v.v…, gọi là nhiễm ô trụ. Lấy đây làm nhân, khởi tà tinh tấn không có hiệu quả, trụ khổ ưu tư, cần cù vất vả v.v…, tức nói tà tinh tấn v.v…, gọi là pháp có nhân. Đệ tử của pháp Phật nương tựa chánh pháp của Phật, gọi là nương tựa trụ không nhiễm ô, có chánh tinh tấn siêng năng khổ nhọc có hiệu quả, sinh ra hỷ, lạc, trụ tức là nói chánh tinh tấn v.v…, gọi là pháp có nhân.

Lại, đạo thế gian hướng đến lìa dục và hay dẫn phat tĩnh lự Vô Sắc v.v…. Đây tức là nghĩa nói đạo thế tục hàng phục dục địa dưới làm nhân dẫn phát, được lìa quả trói buộc của trạch diệt kia. Lại do lìa dục, dẫn phát được tĩnh lự căn bản của Vô Sắc. Những việc này tức là nói Trạch diệt, tĩnh lự Vô Sắc là pháp có nhân.

Kế là, trong phần nói về pháp có quả, nói ba pháp của hai thứ:

Như trong có nhân ở trước, nói là thiện, ác đều có ba pháp:

  1. Chi.
  2. Nghe pháp.
  3. Tư duy thắng giải.

Mười bốn, giải thích pháp duyên sinh, chỉ ra như ý địa.

Mười lăm, là giải thích pháp nội.

Nói: “Nếu do năng lực tăng thượng của pháp này, nên xứ sắc, thanh v.v… bên ngoài, sinh ra khác nhau v.v… ”: Tức nếu do tăng thưọng của năm căn, nên sinh ra năm trần bên ngoài.

Nói “Nếu vì hay nhiếp thọ hạt giống, nên đều là pháp nội”, thì đây là môn lý tùy chuyển, gieo trồng ở sáu căn thức, gọi là nội.

Nói “Nếu năm thứ sắc v.v… thanh tịnh v.v… cho đến “gọi là pháp nội”, nghĩa là năm căn như nhãn v.v… và thể tánh của tâm, ý thức là nội. Lại, có giả gọi là kiến lập pháp khác là nội, có thể được v.v…”, nghĩa là vì phù căn năm trần ở tự thân, nên gọi là nội.

Mười sáu, là giải thích pháp thuộc về Danh, Sắc. Luận sư Cảnh nói: “Do xứ kia tăng trưởng có thể được, nghĩa là dùng “có thể tăng trưởng” để giải thích nghĩa sắc kia. Y cứ riêng sắc có kiến, để giải thích về nghĩa sắc: Sự va chạm của tay, khối đất v.v…, tức trở nên thay đổi, hư hoại, nghĩa là lấy cái có thể đổi thay, hư hoại để giải thích sắc kia. Ngoài ra, bốn uẩn cho đến gọi là tên bốn uẩn, nghĩa là do đặt ra các thứ Danh cho các pháp. Bốn uẩn nương tựa danh, thú hướng các pháp. Từ chỗ nương tựa đó mà nói là danh, nên bốn uẩn bao gồm danh.

Dựa vào văn trên, có hai thuyết:

1- Như vì dựa vào lời nói để nói danh, nên tìm kiếm được các pháp; dựa vào bốn uẩn kia để lấy được các pháp. Cho nên bốn uẩn từ thí dụ đặt tên.

2- Bốn uẩn dựa theo lời nói, nói danh để lấy các pháp, từ đối tượng nương tựa đó nói là danh, nên gọi là bốn uẩn. Nay đối với nghĩa này, tương đương với thuyết sau. Pháp sư Thái nói: “Do mỗi thứ danh, vị, câu, nói là thế lực lập bày. Do mỗi thứ danh, vị, câu làm đối tượng nương tựa cho bốn uẩn, nên trừ năm thức, phần nhiều ý thức lưu chuyển, thú hướng cảnh giới sở duyên của bốn uẩn kia, đa số dựa vào thế lực của danh, vị, câu mới có thể “duyên” cảnh, nên mới nói bốn uẩn là Danh. Từ đối tượng nương tựa, tiếp nhận tên gọi là, năm thức, bốn uẩn dù không dựa vào danh “duyên” cảnh, nhưng vì từ nhiều ý thức để nói, nên đều gọi là danh.

Mười bảy, là trong giải thích về pháp chấp thọ, chẳng phải chấp thọ, đại khái do năm tướng kiến lập chấp thọ. Ba tướng trước rất dễ hiểu. Từ “Do bốn nhân duyên đã đổi khác, cho đến “cảnh v.v… “sơ duyên’ của phẩm tà, chánh phan lự ” là tướng thứ tư. Lại, bị tổn hại, hoặc được lợi ích, gọi là đổi khác, đều là tướng thứ năm. Do có thể tổn hại, lợi ích, gọi là đổi khác, nên gọi là chấp thọ.

“Như thế ” trở xuống, là kết năm tướng ở trên, nếu là sắc, thì kết tướng đầu; nếu nội là kết tướng thứ hai; nếu tâm, tâm sở, là kết tướng thứ ba.

“Nếu như thế ” trở xuống, là kết tướng thứ tư, thứ năm.”

Mười tám, trong giải thích pháp đại tạo, trước quyết định lựa chọn đại tạo, sau kết pháp khác không hiện.

Trong phần trước có tám “Lại nữa”:

1- Nêu chung pháp có sắc.

2- Nói về nghĩa Đại tạo.

Nói “Nếu khi các đại chủng đã có hạt giống có thể sinh ra quả, thì hạt giống tạo sắc cũng sinh ra quả của mình”, nghĩa là dù là một “câu sinh”, nhưng chủ yếu là do hạt giống của bốn đại sinh ra quả, nên hạt giống của sắc tạo mới sinh quả, nói là bốn đại tạo ra sắc.

Nói “Theo đuổi hạt giống của đại chủng sắc căn, gọi là có phương sở”, nghĩa là dù không có tự thể riêng, tùy đối tượng mà căn nương tựa, gọi là phương sở.

3- Nói về sự khác nhau của hạt giống và hiện hành: Đại chủng hiện hành, tạo ra các sắc, chẳng phải hạt giống đại.

4- Nói về đại tạo không rời lẫn nhau, vì nhân chủng loại đại chủng kia mà thành sắc tạo, không đồng với biện luận rộng lìa nhau mà trụ, không được quan hệ với nhau.

5- Y cứ vào nhóm, để nói về nhiếp có khác nhau:

Nói “Lại, trong nhóm sắc hoàn toàn cứng chắc v.v… cho đến “Như thứ lớp được thích ứng với sắc đó cũng thế. Luận sư Cảnh nói: “Do xúc sở tạo lìa ngoài đại chủng, không có tự thể riêng, nên không luận riêng.

Nói “Nước, lửa v.v… còn phải chở đợi “duyên” khác, mới có thể tạo nghiệp, nghĩa là như được lửa, sắt, lậu là nước. Hoặc gặp thế lực, tức như đối với nước v.v…. Pháp sư Thái nói: “Chỉ có nhóm sắc cứng, chỉ có cõi này có thể tạo nên sắc tạo của nghiệp dụng. Nếu đối với nhóm sắc rắn chắc của cõi Dục, thì cũng có sắc sở tạo của ba xứ sắc, hương, vị đồng với một đại tạo của đất. Đối với nhóm sắc kiên cố của cõi Sắc, chỉ có cõi Sắc nương tựa nghiệp dụng không có hương vị. Trong nhóm sắc cứng, trừ nước, lửa, gió và thanh giới, chỉ có hạt giống đã theo đuổi.

Nếu theo giải thích của Kinh Bộ, thì chính nhóm sắc cứng có sinh nước, lửa, gió và tiếng, với công xảo có thể làm hạt giống. Nay theo Đại thừa y cứ điểm tương đồng với cách giải thích của Kinh Bộ. Nếu y cứ vào nghĩa thật, thì nhóm sắc cứng không lìa bản thức. Bản thức có sinh hạt giống của nước, lửa, gió v.v…, nên cũng nói là nhóm sắc cứng có hạt giống. Đối với nước, lửa, gió, gọi là trong nhóm giả tưởng, như đối tượng thích hợp của nhóm ấy, theo thứ lớp của cõi Dục, sắc cũng đồng với thuyết nói về nhóm đại địa của sắc cứng. Nhóm nước, lủa của cõi Dục có sắc, hương, vị. Cõi sắc chỉ có nhóm lớn sắc, gió. Cõi Dục hoặc chỉ có hương, gió của cõi Sắc hoàn toàn sắc hương.

Nói “Trong nhóm sắc nội cho đến “Nói rộng như kinh”, nghĩa là chẳng phải cho là một lân hư có đủ bốn đại. Trong một thân, máu là nước; lay động là gió; nhiệt là lửa, chất rắn là đất. Tạng Luận nói trong vô minh quyết, có dẫn văn kinh đồng với luận này.

6- Nói về tạo xúc đều là giả có.

7- Giải thích về mật ý của kinh. (Đức Thế tôn lại nói Xúc, nghĩa là xứ ngoài, hoặc bốn đại chủng, hoặc sắc sở tạo có trái nhau, là mật ý gì?”

(Đáp: Các Đại chủng này, cho đến nói mỗi thứ khác nhau nhau nhám, trơn v.v…. Nghĩa là như nói “Vì đất, gió tăng, nên nhám v.v…, chỉ y cứ vào thời gian thế dụng của bốn đại, giả gọi là nhám v.v…, gọi là tự loại của tạo, sinh loại khác, nghĩa là năm căn như nhãn v.v… bốn trần khác trừ xúc: Ngoài bốn đại này có chín xứ riêng và một phần pháp xứ. Loại khác tạo nhau, vì đối với sắc tạo của loại khác, nên nói “năng tạo”, “sở tạo” của tự loại.

Lại, nếu Phật-Đà-Đề-Bà-lập tất cả sắc tạo, đều vin lấy đại mà thành, thì đều là tướng xúc, nay kinh này đã nói: “Xúc, nghĩa là đại chủng của xứ ngoài và sở tạo, không nói là ngoài xúc, có chín sắc thật riêng khác, thế sao Tông Đại thừa của Luận chủ nói trong một sắc chỉ xúc là bám lấy bốn đại mà thành, chín sắc thật khác không vin lấy mà thành ư?

Nay sẽ giải thích, kinh này chỉ nói là đồng với tự loại trong xúc xứ. Nếu xúc xứ tạo là giả, thì sẽ y cứ vào đại chủng kia mà giả kiến lập, chín sắc tạo khác không y cứ vào đại chủng để giả kiến lập, vì sao đức Phật nói Xúc, nghĩa là xứ ngoài? Nếu bốn đại chủng sở tạo, không nói ngoài xúc có sắc riêng khác, thì đây là câu hỏi của Phật-Đà-Đề-Bà.

Kinh kia lập ngoài bốn đại, không có sắc sở tạo riêng, vì đều là thuộc về xứ xúc.

8- Sắc cảnh của tướng định. (Hỏi: “Luận trên đã nói sắc của định tự tại là bốn đại tạo nào?”

(Đáp: “Tùy ở tâm dựa vào định nào khởi, tức bốn đại sở tạo của địa định đó. Nay, trong luận này, tức nói là tùy theo sắc ảnh tượng bốn đại tạo, bản chất của sở duyên kia. Luận trên lại nói: “Sắc ảnh tượng này là từ tâm định khởi, chứ chẳng phải từ bốn đại tạo”, ba chỗ trái nhau. Nếu vì hòa hội?

(Giải thích: “Ở trước nói chẳng phải bốn đại tạo” là lời nói tận lý. Sắc đã do định sinh, từ tâm khởi, chẳng phải là pháp đối ngại, nên chẳng phải đại tạo. Nay, nói: “Đại tạo từ bản chất của sắc sở duyên làm rõ một sắc của ảnh tượng, nghĩa là y cứ vào “duyên” xa mà nói. Do quán bản chất của sắc kia, nên ảnh tượng sinh, thành thử lập ra thuyết này. Văn ở trước nói: “Từ tâm định “năng quán” đồng với đại tạo của địa, là từ duyên gần ấy mà nói, nghĩa là do tâm định khởi bốn đại của đương địa, với nghĩa đồng xứ, đồng thời của sắc ảnh tượng, nói là tạo. Về lý, thật ra không tạo. Dù có ba thuyết, nhưng không trái nhau. Thứ mười chín, Trong giải thích về pháp “có”. (Nói hỏi như đức Thế Tôn nói cho đến “nói lời như vầy”, nghĩa là Phật nói: “Người phàm phu, người học pháp thế gian hữu lậu ba cõi chưa dứt, nên đoạn, nói là hữu lậu.

Thứ hai mươi, giải thích về pháp hữu thượng, vô thượng. Năm nghĩa để giải thích pháp kia là Niết-bàn, là pháp vô thượng. Nhân ban đầu, thứ hai trong năm nhân, như thừ lớp hữu dư. Hai nhân kế có cả hai, một vô dư kia.

Thứ hai mươi mốt, là pháp nên tu.

Nói: “Bốn tu nghĩa là phần nhiều y cứ vào nghĩa một thể để nói. Tam Tạng Pháp sư nói “Trừ bỏ như quán hai mươi người là tướng bất tịnh hiện ở trước. tướng định ảnh tượng của bản chất không hiện gọi là tu trừ bỏ. Lại, do sức quán, sức trừ, trừ bỏ sự thô, nặng của thân, tâm, được khinh an kia, gọi là tu trừ khử.

Trong văn chỉ y cứ vào tác ý bất thiện đã sinh, mà trừ đoạn, gọi là trừ khử tu. Trong đối trị tu có bốn đối trị. Nhắm vào dưới đây y cứ bảy tác ý để phối hợp: phải biết rằng, trong đây, từ “liễu” tướng cho đến Thắng giải”, gọi là đối trị tu nhàm chán tai họa, nghĩa là “liễu” tướng, quán sát, thắng giải, có ba.

Từ “lại lìa cho đến “phương tiện rốt ráo, gọi là đoạn đối trị tu, trong đó có ba tác ý: Xa lìa, nhiếp lạc, phương tiện rốt ráo.

Tác ý quả, gọi là trì đối trị tu. Từ đây trở lên, là tất cả bảy thứ tác ý này, thuộc về đọa vào địa trên của địa vượt hơn, nghĩa là bảy tác ý trước ở phương tiện địa. Nay, nói về bảy tác ý tiến tu tận cùng tùy trong địa căn bản. Phải biết rằng, tất cả gọi là đối trị tu phần xa, nghĩa là bảy thứ tác ý đối với đoạn trước, có ngăn ngừa xa, đều là đối trị phần xa.

Dưới đây, là gom bốn thứ tu chung thành hai thứ: Phòng hộ thọ trì tu và tác ý tư duy tu.

Dưới đây, là chia hai thành bốn, nghĩa là tu thân trong đây, gọi là phòng hộ tu, nghĩa là quán thân bất tịnh, gọi là tu thân, tức là trừ khử tu thứ ba trước. Tu giới, gọi là thọ trì tu, nghĩa là ngăn ngừa gìn giữ sáu căn, gọi là tu căn bản, là đối trị tu thứ tư ở trước. Nếu tác ý tu của địa tĩnh lự, thì gọi là tu tâm, là đắc tu thứ nhất ở trước. Nếu tu trí hiện quán đế, thì gọi là tu tuệ, chính là tập tu thứ hai trước.

Thứ hai mươi hai, là giải thích về pháp ba đời: Trong giải thích

quá khứ, đầu tiên là nói chung pháp quá khứ. Sau, chỉ rõ riêng về sự quá khứ kia.

Trong phần trước có sáu trường hợp:

  1. Nhân đã thọ lãnh hết.
  2. Thể của quả đã diệt.
  3. Pháp sau của duyên sinh, trừ bỏ uẩn sau cùng.
  4. Tac dụng của nhân không mất, giúp cho quả sẽ thành thục.
  5. Vì cảnh sinh niệm.
  6. Chỉ Diệt đã rõ ràng, lại không có vật riêng.

Giải thích vị lai rằng “đắc”, nghĩa là hạt giống, văn khác, rất dễ hiểu.

Thư hai mươi ba, là giải thích pháp trói buộc trong ba cõi. (Giải thích cõi Dục rằng, tâm không ở định, nghĩa là khi nhập định, cũng có căn, trần và bản thức v.v…, chẳng phải pháp của định địa, mà chẳng phải hoàn toàn, nên lược qua không nói. Hoặc có thể tâm định, gọi là ở định. Pháp khác của địa vị này không gọi là ở định.

Trong giải thích về cõi Sắc, nói “hoặc từ định khởi, nghĩa là như tâm biến hóa v.v… ”.

Thứ hai mươi bốn, trong giải thích về pháp ba tánh, trước, nói về danh nghĩa; sau lập sự khác nhau.

Trong phần trước, nếu thiện hữu lậu, hàng phục các điên đảo, đi đến cõi người, cõi trời. Nếu thiện vô lậu, thì dứt trừ các điên đảo, chứng nhập Niết-bàn, nên đều gọi là an ổn.

Trong kiến lập sự khác nhau, nói là trụ thanh tịnh, nên là bốn vô lượng.

Nói “Lại, cac pháp thiện, nếu do thí cho mà thành tựu, cho đến “tự tanh đều vượt hơn”. Ba vô lượng thành, hai vô lượng sau đối nhau. Hoàn toàn kém, vì ở địa dưới, vì giới ở giữa, đối với thí cho là vượt hơn; đối với tu là kém, vì tu rất vượt hơn, nên hai vô lượng ở trước hoàn toàn vượt hơn.

Nói tự tánh vô ký trong đây, nghĩa là các sắc căn v.v…. Luận sư Cảnh nói: “Nuôi lớn năm căn, năm trần phi tình. Năm trần phù căn đều thuộc về tự tánh vô ký.

Nói: “Chẳng phải thuộc về Dị thục v.v… ”, nghĩa là năm trần, đẳng, thủ, oai nghi, công xảo và biến hóa, đều chẳng phải ư tánh vô ký, cho nên dứt rừ. Pháp sư Thái nói: “trong tự tánh vô ký, chỉ chỉ ra sắc kia, nên biết được tâm chỉ thuộc bốn thứ vô ký, lại không có vô ký thứ năm.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Pháp chấp trong thức thứ sáu, thức thứ bảy cũng gọi là vô ký tự tánh, nên chung cho năm uẩn.

Thứ hai mươi lăm, là giải thích về pháp ba học. Về mặt đạo lý, bảy phương tiện thiện của kiến đạo về trước cũng thuộc về học. Nay, ở đây, phán xếp chung pháp ba tánh mà phàm phu đã thành, đều thuộc về “câu phi”.

Thứ hai mươi sáu, là giải thích về pháp ba đoạn, nói “và pháp qua đến nghiệp đường ác v.v…, tức lấy thân nghiệp của người nữ. Nghiệp “hữu” thứ tám, nghiệp Uất-Đơn-Việt và nghiệp trời vô Tưởng đều ở trong kiến đoạn nói rằng: “Tất cả vô phú”, (Hỏi: “Luận trên đã nói lúc kiến đạo, dứt trừ uẩn, giới, xứ của tất cả đường ác, sao trong đây lại nói rằng vô phú, vô ký đều do tu dứt trừ ư?”

(Giải thích: “Trước kia vì y cứ vào nhân mất, quả tiêu, nên nói uẩn, giới, xứ của tất cả đường ác đều do kiến đạo dứt trừ. Nay y cứ ở thể của Bộ có duyên ràng buộc kia. Lúc duyên ràng buộc, vì chủ yếu do tu đạo,nên không trái nhau.

Thứ hai mươi bảy, giải thích về pháp rất sâu xa khó thấy, ý nói là tự tướng của các pháp vì không thể nói năng, nên rất sâu sắc như tự tướng của sắc chỉ có nhãn thức chứng biết, cho đến chỉ, như uống nước lạnh, chỉ người chứng mới biết, không thể nói năng, vì nói sự lạnh ấy đều không đúng với sự thật. Vì muốn làm phương tiện dắt dẫn, nên khi nói các pháp chỉ nói cộng tướng, như khi nói sắc, như tên của sắc này, tức vì nêu tất cả các sắc, nên là cộng tướng. Âm Thinh v.v… cũng thế, nên pháp tự tướng không thể nói năng.

Trên đây, quyết định lựa chọn riêng đã xong.

Dưới đây là nhắc lại để kết, khuyên tư duy.

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 67

Đoạn lớn thứ chín, là quyết định lựa chọn địa Tu tuệ, trong đó, 1/ Kết trước, sinh sau. 2/ Chính thức quyết định lựa chọn. 3/ Pháp khác không hiện.

Trong Chánh Quyết Trạch đầu tiên là nêu mười sáu danh. Sau giải thích theo thứ lớp. Trong tu Thanh văn thừa, Trung, Luận sư Cảnh cho rằng: “Nói”Do môn Tác ý an lập đế, nội quán chân như, nghĩa là quán chung bốn đế, thực hành nhân vô ngã làm môn phương tiện, nhập chứng chân như. Đây là “duyên” Thắng nghĩa đế (chân lý thắng nghĩa) “duyên” pháp riêng có lượng, có phần làm cảnh, đây là “duyên” tục đế, biết cảnh hữu biên, gọi là hữu lượng, chưa lìa pháp chấp, gọi là có phân biệt.

Nay, để giải thích pháp này có năm câu:

1. Trụ chủng tánh.

2. Nói về hành vị. Nói: “Chưa nhập chánh tánh: bảy phương tiện; đã nhập chánh tánh: Kiến đạo trở lên.

3. Nói về ý nghiệp, chỉ cầu lợi mình.

4. Nói về môn Quán, dù khi chánh chứng, “duyên” phi an lập, mà đầu tiên tu phương tiện, phải quán bốn đế, nên nói rằng: “Do môn an lập, chánh trí thân chứng lý không vô tướng, nên nói “nội quán chân như”. Hậu trí “duyên” sai khác tục có phần giới hạn, nên nói rằng: “duyên” phân biệt có lượng”.

5. Nói về công việc đã làm vì dứt hết tham ái trở xuống.

Trong Đại thừa tu và do thú hướng dấu vết vô thượng, nghĩa là hành xử của Niết-bàn Bồ-đề bậc Thánh trước, gọi là dấu vết, tức thú hướng vào thời nay. Xưa nói đạo vô thượng. Đạo là dấu chân đi qua, cũng là tu ảnh tượng. Pháp sư Cảnh nói: “Tánh trí tìm kiếm, gọi là có phân biệt, đồng “duyên” với định, gọi là sở hành của Tam-ma-địa. Tâm Định vắng lặng, gọi là vô phân biệt.”

Pháp sư Thái nói: “Ảnh tượng của sắc, cảnh giới của định, giống với sắc ngoài của định, gọi là ảnh tượng sắc vốn xanh, vàng v.v… của định, gọi là “sư sở tri”. Màu sắc xanh, vàng của định vì mường tượng với sắc ngoài của định, nên gọi là phần đồng. Vì giống nhau, cho nên đồng loại. Định, Tuệ đều gọi là: “Tam-ma-địa”.

Việc bờ mé: Theo văn này, nhận biết cùng tận thế tục, gọi là “cùng tận tất cả tánh”. Xứng với như mà chiếu soi, gọi là “tánh như sở hữu”. Xưa nói rằng: “Biết như lý, như lượng, biết lý, cảnh.”

Đắc tu: Theo Tỳ-đàm, có pháp được trước, pháp được ở vị lai đều thuộc về mình, thêm nghĩa sáng suốt nói là tu, gọi là Đắc tu. Nay trong Đại thừa, như trong mười tưởng, tùy theo hiện hành của một tưởng, dẫn phát hạt giống của tưởng không hiện tiền khác đã có kia, làm cho chúng càng thêm tự tại thành thục, nên gọi là “Đắc tu”. Hoặc công hạnh của địa mình, tùy một hiện hành, huân phát, hạt giống, hiện hành của địa dưới, đều khiến tăng trưởng, cũng là “Đắc tu”. Hoặc hành động thế gian hiện khởi, có thể dẫn phát chung hạt giống, hiện hành của thế gian, xuất thế gian, khiến tăng trưởng. Đây là y cứ ở Bậc Thánh. Hoặc pháp xuất thế hiện khởi chung, có thể dẫn phát hạt giống thế gian, xuất thế gian, khiến chúng càng vượt hơn thêm, nghĩa là nhập kiến đạo, tu hạt giống của bảy phương tiện kia, khiến cho tăng trưởng, gọi là quyến thuộc của kiến đạo, khởi trong địa vị tu, không gọi là giải thoát phần v.v….

Tập Tu: Đôi với tưởng vô thường, một đạo hiện ở trước; hoặc pháp thiện khác hiện khởi tu tập, cũng gọi là Tập tu.

Trừ khử tu: Do quán thân bất tịnh, ảnh tượng bất tịnh hiện ở trước, dứt rừ tướng tịnh v.v….

Nói: “Như phương tiện tiết xuất tiết”, nghĩa là tác ý tu định có nhiều phẩm loại, tướng sở duyên cũng có thô, tế. Do tác ý sau bỏ đi thô trước, vì dứt rừ dần.

Nói: “Dùng thân khinh an để dứt rừ thân thô, nặng, nghĩa là khinh an của cõi Sắc mà ở thân, khiến thân người tu hành khinh an trừ bỏ hạt giống cõi Dục. Hạt giống thô nặng vì làm cho thân thô nặng, nên phải dứt rừ.

Trong đối trị tu, trị nhàm chan tai họa, nghĩa là tất cả đạo thiện của thế gian, trừ bốn vô lượng và thần thông, vì chẳng phải đối trị nhàm chán tai họa, cho nên dứt trừ.

Trì đối trị: Nghĩa là dưới đây, được đạo thế gian, xuất thế gian, hoặc đạo giải thoát: Ở đây có hai giải thích:

1. “Văn này chính là thừa nhận trí vô phân biệt là vô ngại đoạn “hoặc”; hậu Trí là giải thoát tu chứng, gọi là đối trị trì”.

2. “Nghĩa là đạo xuất thế gian của Hậu đắc này: Ở đây lấy hậu trí làm đạo giải thoát; ở đây lấy trí vô phân biệt làm quả giải thoát. Dùng trí Hậu đắc làm đạo giải thoát, dù có hai, nhưng giải thoát trước là hơn.

Lại, có điểm khác nhau, nghĩa là đạo văn, tư, tu được gọi là nhàm chán tai họa: Ba tuệ hiện hành chung cho ưa thích, nhàm chán: Nay, lấy hạnh nhàm chán, gọi là trị nhàm chán tai họa.

Chuyển y của quả này gọi là đối trị trì: ở đây có hai giải thích:

1. “Quả của đạo vô ngại này là đạo Giải thoát, là chuyển y chủ thể chứng đắc, nên gọi là chuyển y của quả này gọi là đối trị trì.

2. “Tức lấy chuyển y vô vi, chủ thể trì hoặc không khởi, gọi là đối trị trì. Bốn tu trong đây là bốn tu của quyển trước, hoặc đồng, hoặc khác, nên xét biết.

Tiểu phần tu, nghĩa là quán một tướng vô thường v.v… vì khởi sự tu.

Biến hành tu: Vì quán các pháp “như”

Có gia hạnh tu: Đối với phương tiện tu Vô tưởng kia, vì lúc quán chưa được nhậm vận tu.

Trên đây, trong phần quyết trạch có mười hai đoạn: chín đoạn trước đã nói xong.

Dưới đây, là đoạn mười, hợp với Địa Thanh văn quyết định và Độc Giác có văn của bốn quyển rưỡi, trong đó, chỉ có quyết định Thanh văn, không quyết định địa Độc giác.

Y cứ trong đó được chia làm ba:

  1. Kết thúc trước, sinh sau.
  2. Chính thức quyết định lựa chọn.
  3. Kết không hiện.

Nhưng trong chánh quyết trạch, đầu tiên dùng bảy môn để phân biệt. Kế là, dùng mười ba môn của một bài tụng để phân biệt. Sau, dùng sáu mươi bốn quyết trạch lẫn lộn.

Trong phần đầu, một giải thích về hữu tình vô tánh, có năm phen vấn nạn. Đáp rằng: “Mỗi thứ tánh giới, nghĩa là mỗi thứ lớp tánh. Vô lượng tánh giới, nghĩa sự khác nhau vô lượng.

Nói “Không có hữu tình không có căn”, nghĩa là không có chúng sinh không có hai mươi hai căn.

Nói “Vì tất cả giới ư? Hay vì có một giới riêng ư? Nghĩa là nếu có

ba tánh khác trong sát lợi, thì sẽ có bốn giới thú, bốn xứ khác trong địa ngục, là dụ không giống nhau, vì không có tánh Niết-bàn trong pháp đã thí dụ, nghĩa là vì không có cõi Niết-bàn. Nếu trong địa ngục có hạt giống giới của một đường, thì cũng như có riêng cõi không có Niết-bàn của pháp hữu vô Niết-bàn, nên biết thời gian sau của địa ngục không thích ứng, cho đến tạo thành Thú-Đà-La.

Nói “Nếu không trái nhau, thì tức Bổ-đặc-già-la này là pháp không có Niết-bàn, cũng là pháp có bát Niết-bàn, là không hợp lý. Vì tất cả chúng sinh lược có hai dạng:

  1. Rốt ráo dứt trừ hai chướng.
  2. Không thể dứt trừ hai chướng.

Hạng người thứ nhất là người có tánh Niết-bàn. Người thứ hai là người không có tánh Niết-bàn. Nếu ông nói hai người không trái nhau thì không hợp lý.

Nói “Nếu nói như thể, thì thiện căn bản thuận giải thoát phần lẽ ra không có quả v.v… Luận sư Cảnh nói: “nếu vậy, phần giải thoát của hạt giống ở trước”, lẽ ra là không có quả, vì trở thành vô tánh?. Lại, “Nếu vậy, thì không quyết định, tức tánh nhất định, là không hợp lý. Pháp sư Thái nói: “Như Luận Thành Thật chép: Được pháp chánh kiến của thế gian, trăm ngàn vị lai, cuối cùng sẽ không đọa vào đường ác, tức là người đã gieo trồng phần giải thoát, tất nhiên, sẽ chứng đắc Niết-bàn. Nếu người không có tánh Niết-bàn, thì Bồ-đề của giải thoát phần sẽ có sau Niết-bàn. Nếu người tạo nên Pháp không có Niết-bàn thì điều thiện của phần giải thoát tức sẽ là không, không có quả, không được Niết-bàn.

Nói: “Người kia sau khi gặp Phật, pháp, tăng rồi, trong hiện pháp, có thể khởi căn lành thuận giải thoát phần, mà nói là không có Bát Niết-bàn là không hợp lý! Vì, hễ đã gặp Tam Bảo rồi, người ấy có thể khởi thiện căn thuận giải thoát phần, nên biết không, bản hữu vô thỉ trong A-lại-da, có thể sinh ra hạt giống căn lành của thuận giải thoát phần. Nếu nói rằng, dù có khả năng sinh hạt giống thiện căn của thuận giải thoát phần mà lại nói là không có pháp Bát Niết-bàn thì không hợp lý. Nhưng về đạo lý của “có tánh”, “không có tánh” này, kinh luận đều nói không đồng nhau: Nếu theo luận Phật Tánh, trong phần phá chấp, để lập tánh “có”, “không”, nghĩa là vì đã phá, nên luận kia chép: “Đức Phật vì người Tiểu thừa nói “có” chúng sinh vì không trụ nơi tánh, nên không bao giờ nhập Niết-bàn.” Đối với lời nói này, sinh ra ngờ vực, khởi tâm không tin. Dưới đây, sẽ gạn, vấn nạn họ rằng: “Ông tin có các thứ cõi thô, diệu v.v… của chúng sinh, thì sẽ khiến cho tin có chúng sinh “vô tánh”, lẽ ra cũng tin có chúng sinh “không căn” ư? Vì sao? Vì chúng sinh do có “căn”, “không có căn”, nên mơi có các thứ xứ thô, diệu v.v…. Nếu ông không tin có chúng sinh không căn, thì làm sao có cõi thô, diệu? Nếu ông cho rằng có cõi thô, diệu v.v… thì sẽ không chia ra người có căn, không căn. Ta cũng tin có thế giới thô sơ, mầu nhiệm, không chia ra nghĩa “có tánh” “không tánh”. Nghĩa “có” có lỗi gì? Nếu ông nói “không có chúng sinh” “không có căn”, cho đến phá rộng người ngu lập phần giới hạn của giáo, chẳng màng đến việc so lường của hai cách nhìn.

2. Nói về sự khác nhau của Thanh văn, trong đó, được chia làm hai: Trước nói mười thứ; sau nói về hai loại.

Trong phần trước, nói “pháp đã nhập” ở đây gọi thứ hai, nghĩa là hàng Thanh văn đã gieo trồng thiện căn của giải thoát phần.

Nói “Thanh văn ở cõi thanh tịnh” nghĩa là sinh về tịnh độ, cũng có thể sinh trong thời kỳ thế giới hưng thịnh, như thời kỳ đức Di-lặc xuất hiện v.v….

Nói “Người keo kiệt v.v… ở nhà keo kiệt”, nếu theo luận Thành Thật nói, thì có năm thứ keo kiệt: chỗ ở keo kiệt, nhà keo kiệt, thí cho keo kiệt, ngợi khen keo kiệt và pháp keo kiệt.

Trong đây, nói sáu thứ khai hợp có khác:

Nói “Tọa cụ, giường nằm bờ mé, nghĩa là tọa cụ, giường nằm có ba phẩm, đây là phẩm hạ, nên gọi là bờ mé.

Nói “Hai thiên tội trọng vô dư, nghĩa là một thiên đầu là vô dư, thiên thứ hai là hữu dư.

Nói “Tăng-kỳ”, Hán dịch nói là chúng.

Người của thời kỳ hiền, thiện, thời kỳ này có hai giải thích:

  1. Nói: “Thời kỳ pháp tượng, chánh, gọi là thời kỳ hiền, thiện”.
  2. “Thời kỳ chánh pháp, gọi là thời đại Hiền, Thiện.

Nói: “Đều do thời kỳ chưa sinh, nghĩa là vào thời kỳ đức Như lai mới ra đời, chưa phá kiến, phá giới. Vào thời kỳ sau, Tu Đề Na Tử, đầu tiên phá giới cụ túc, A-lợi-tra, phá kiến trước hết, nói là dục không che lấp Trung đạo, phá kiến trong đây, gọi là tự hoàn.

Nói: “hoặc có một loại sau Bát Niết-bàn, người như thế, phần nhiều thân hư hoại, qua đời, lại được sinh cõi thiện v.v…. Hoặc có một loại. Ở đời sau cùng gặp Phật sau nhập Niết-bàn, vì người hiền, thiện, phần nhiều chết đi lại sinh cõi thiện. Về sau gây ra nghiệp ác, đều là người của thời kỳ hiền thiện.

Dưới đây, là nói về hai thứ chậm mau:

1. Có người siêng năng việc đạo, mà không có sức tu nên không nhập Thánh đạo.

2. Có người vì buông lung, nên dù có năng lực tu, nhưng vẫn chưa vào đạo Thánh.

6. Giải thích thì dụ mặt trăng. Trải qua bốn pháp như cụ giới v.v….

Nói “Bốn thứ tịnh: Tin Phật, Pháp, Tăng và Giới.

1. Giải thích Thanh văn, muốn sang nhà khác, trước phải dứt trừ ba tùy phiền não:

2. Nói “Do sáu thứ tương ưng với dứt trừ kiết, tùy phiền não của nhà bạn thân, nghĩa là sang, không thường xuyên sang là thứ nhất.

3. “Đối với việc đáng ưa thích” trở xuống là thứ hai.c- “Không dùng cử chỉ hung bạo” trở xuống, là thứ ba. d- “Khéo tự gìn giữ” trở xuống, là thứ tư.

4. Lại, “dùng tâm thuận theo xa lìa ” trở xuống, là thứ năm. g- “Cũng như núi cao” trở xuống là thứ sáu.

Lại, do sáu tương ưng dứt trừ nhà keo kiệt:

  1. Đối với sự hữu tình, không nhiễm, chấp mắc.
  2. Không chấp mắc lợi dưỡng.
  3. Không chấp mắc sự cung kính.
  4. Đối vói việc không có lợi, không sinh lo khổ.
  5. Đôi với không kính trọng, không sinh khổ lo lắng.
  6. Đối với lợi dưỡng của mình, người tâm vẫn bình đẳng, không tự khen mình, không chê kẻ khác.

Lại, do sáu tương ưng với pháp thí của tâm dứt trừ nhiễm:

  1. Không hy vọng ở người, tin thanh tịnh ở mình.
  2. Đối với pháp xuất ly biết rõ như thật.
  3. Vì dẫn phát niềm vui.
  4. Vì dứt trừ khổ.
  5. Nghe pháp, tu hành, được thắng lợi
  6. Sao cho thoát khổ, giữ gìn chánh pháp.

7. Giải thích Kinh Phạt-Địa-Ca. (Tam Tạng Pháp sư cho rằng: “Tên người, người nước Phạt-Địa-Ca, từ người lập tên Kinh” Luận sư Cảnh nói: “Phạt-Địa-Ca Hán dịch là Ngữ luận. Vì người này thường hay nói năng, biện luận, nên đặt tên từ lới nói.” Trong văn có hai:

1- Chia ra ba chương, nhắc lại để giải thích.

2- Nói lại.

Phần trước, nói: “Thế nào là sở y của Tạp nhiễm thanh tịnh? Cho đến “Sở y của thanh tịnh”, nghĩa là nói về tùy miên của người Học, phàm phu chưa dứt trừ, thân đã nương tựa đều có thô nặng. Trong đây chỉ lấy thân đã bị y chỉ, không lấy chủ thể nương tựa, chủ thể nương tựa nhiễm, tịnh là hai môn sau.

“Thế nào là thanh tịnh? v.v… cho đến “đều được lìa trói buộc”. Luận sư Cảnh nói: “Ý trong đây nói về tạp nhiễm của phàm phu, vô lậu của người Học, đều nương tựa sắc thân thô, nặng hữu lậu. Trong thanh tịnh, chỉ nói về hai Học:

Học thứ nhất, nói là Trí chân như dùng làm y chỉ, có thể có công việc làm, nghĩa là dựa vào chứng trí, khởi trí Hậu đắc, tu tạo các công hạnh, tu tập tinh tấn, đều là Học. Đây là y cứ vào quả của ba Học trước và ở mười Địa.

Học thứ hai, nghĩa là vì phiền não đều được lìa trói buộc, nghĩa là vì dứt trừ các phiền não, chứng tu trí vô phân biệt. Trí Vô phân biệt là Học thứ hai. Trở lại Học chung và ở mười Địa. Pháp sư Huyền người Tân-La nói: “Người Học thứ nhất là Bồ-tát, người Học thứ hai là hàng Nhị thừa.

Dưới đây là nói lại, trước giải thích về thanh tịnh và Tạp nhiễm. Sau giải thích y chỉ.

Trong phần trước nói: “Tức thanh tịnh này, đại khái được chỉ bày rõ do năm nhân, nghĩa là năm nhân và là thanh tịnh. Tâm Học thứ tư trong năm nhân này đã dứt trừ phiền não, Tuệ học thứ năm đã dứt trừ phiền não, đây là Tạp nhiễm.

Nói “Năm thuận với xả ly đối tượng Học, phân biệt tham ái, nghĩa là người xả giới gọi là “Xả sở Học”. Lúc “Xả sở Học” là thuận với tâm mình, phân biệt tham ái trong việc này.

Giải thích y chỉ rằng: “Các chúng Thanh văn đại khái do ba tương ưng khắp biết rõ:

1/ Do tự tánh, nghĩa là thân người này đã có tự tánh được bày tỏ do ba hai tướng.

a. Do có sắc nên làm rõ cộng tướng của tất cả thân, vì đồng có sắc với các hữu tình, nên gọi là cộng tướng (tướng chung).

b. Vì tính thô nặng, nên để lộ rõ tự tướng của mỗi thân riêng của người kia, nghĩa là đối với năm uẩn của mình, đều có tánh không điều hòa nhu thuận, thô nặng của phiền não, gọi là tự tướng của thân.

c. Do không thanh tịnh, nên chứng tỏ tướng không đồng phần với thân trời, thân trời thanh tịnh, cũng như ngọn đèn sáng.

2/ Do nhân duyên cũng có ba thứ:

a. Tất cả nhân duyên cộng tướng của thân, tức bốn Đại chủng, mỗi đại chủng đều là nhân duyên của thân người trong tự tướng riêng, được chia làm hai, đủ với trước là ba. Do tai họa lổi lầm có hai, như văn.

6. Nói lại quyết định lựa chọn của giai đoạn văn tuệ, gọi là phản ảnh tất cả văn tụng, trong văn tụng, đặt ra câu hỏi, đáp dưới đây. Trong phần đáp trước là nêu chung bốn nhân để giải thích rvề nghĩa. Sau, dẫn kinh làm chứng.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh cho rằng: “Nghĩa là nếu nói đại khái là quan nhân thanh tịnh”. Do trí quán sát hai danh, vì vốn ngộ nhập “hai không” nên gọi là nhân thanh tịnh. Quán tự tướng, quán sinh của bốn uẩn và danh của âm thanh. Quán nhân tạp nhiễm, nghĩa là trí quán do mê hai thứ danh, nên nhóm hợp thành sinh tử. Và vì hiển bày hai vô ngã, nên biết rõ khắp nhân vô ngã, Đẳng chí gọi là phản ảnh tất cả, nghĩa là mê danh của bốn uẩn trong đó chấp “ngã”, tên của bốn uẩn này có chung năng chấp. Nếu biết chỉ có bốn uẩn vốn chẳng phải là Ngã thì có thể dứt rừ đối tượng chấp cảnh tướng của tự ngã. Hiểu rõ tên của uẩn phản ảnh tất cả, nói là tướng cảnh giới của ngã. Nếu biết rõ khắp tên của Đẳng chí, của pháp vô ngã, phản ảnh tất cả, thì sẽ do tùy ngôn thuyết, gọi là chấp có các pháp. Nếu biết chỉ có ngôn danh, tùy danh chấp pháp, thì thể rốt ráo sẽ hiểu rõ ngôn thuyết, danh phản chiếu tất cả, chấp ngang trái pháp, ngã. Do trước kia chấp pháp, mới bắt đầu chấp ngã, nên nói pháp chấp là danh tướng sở y”, phản ảnh tất cả. Nếu mê hai danh, khởi lên hai chấp, phản ảnh lý “hai không”, tất nhiên, cũng gọi là danh phản ảnh tất cả.

Nay, ngộ hai danh, biết hai vô ngã, phản ảnh che khuất tất cả hai chấp điên đảo.”

Trên đây, đã giải thích câu đầu xong. “Nếu lỗi ở Bốn uẩn Vô Sắc” trở xuống, giải thích câu thứ hai, danh không có lỗi, nghĩa là “nếu đối với hai thứ đều không biết rõ” trở xuống, là giải thích nửa bài tụng dưới. Do một pháp của danh này đều tùy thuộc hành tự tại v.v… Pháp sư Thái nói: “ Ảnh là đoạt, do danh của bốn uẩn có thể dứt trừ nhân, ngã tự cảnh giới của bốn uẩn, gọi là chứng lý nhân vô ngã, vì danh của bốn uẩn vô ngã, phản ảnh đoạt tướng nhân, ngã, nên nói danh phản ảnh tất cả văn của ngã”.

Lại, giải thích: “chúng sinh thường chấp bốn uẩn là Ngã. Quán chỉ có bốn uẩn, không thấy nhân, ngã, nên dùng danh của uẩn để lấn át tất

cả “ngã”. Nhân ngôn thuyết gọi là chấp tất cả đều có tự tánh. Nếu quán chỉ có ngôn thuyết, thì gọi là không nhận thấy thể của các pháp, là giải thích về lý của pháp vô ngã. Ngôn thuyết, gọi là lấn át pháp, ngã.

Ở trước, nói về bốn danh của bốn uẩn, phản ảnh nhân, ngã. Hai danh đã đặc biệt, hệ thuộc phản ảnh cũng khác nhau. Dưới đây dẫn kinh để làm chứng:

Vì tự tánh của pháp chấp, nên tánh của ngã chấp mới chuyển, nghĩa là do mê lời nói, gọi là tự tánh của pháp chấp, mới mê tánh chấp ngã của bốn uẩn mà chuyển.

Vì giác biết pháp này, nên giác biết pháp kia, nghĩa là giác biềt pháp không có tánh, giác biết “ngã” kia là không. Do giác biết nên hoàn diệt, nghĩa là giác biết hai “ngã” không có, hai kiến hoàn diệt.

8. Giải thích bốn đế. Trước nêu chung, chỉ ra trước đã nói, nghĩa là nhập quán chân như, khi dứt trừ phiền não thì trước “duyên” bốn đế làm phương tiện tịnh “hoặc” nên nói là “sở duyên”.

“Như địa Thanh văn nói”trở xuống là phân biệt riêng bốn thứ bốn Thánh đế, trong đó được chia làm ba:

a. Nói chung tướng của đế

b. Nói riêng về bốn đế.

c. Phân biệt các môn: ban đầu nói: “ Nếu không điên đảo là tướng của chân lý, thì kiến đế của ngoại đạo đều là điên đảo, sao lại thuộc về đế lý được? Đây là một trách cứ. Nếu không gồm thu, thì các kiến điên đảo của ngoại đạo kia, lẽ ra chẳng phải là nhân khổ?”

Đáp: “Hành giải dù Điên đảo, nhưng thể là y tha. Vì có đáp, có cảm, nên thuộc về khổ đế, tập đế”.

Trong phần nói riêng, có bốn đoạn:

Đầu tiên, trong giải thích khổ đế, nói: “ Do hai tướng nên làm rõ nghĩa vô thường v.v…. Luận sư Cảnh nói: “ 1) Theo Đại thừa nói thể của biến kế sở chấp là thường, không có danh là vô thường. 2) Nghĩa các hành diệt hoại gọi là vô thường. Đại thừa có đủ hai nghĩa, Tiểu thừa chỉ có một nghĩa vô thường sau”.

Pháp sư Huyền nói: “1) Nghĩa chẳng thật có”, đây là vô thường mà Đại thừa nói, như luận Trung Biên Phân Biệt nói là không có vô thường đầu tiên. 2) Nghĩa diệt hoại là vô thường mà Tiểu thừa nói, hai tướng làm rõ khổ:

1- Do biến kế sở chấp, đối với “chẳng thật có” chấp có người, pháp, nên có tập khí thô, nặng, không được tự tại đối với các hành, nói lên khổ Hành.

2- Do ba thọ đã tùy sinh ra nghĩa chuyển nhau của tám thứ khổ. Nghĩa “Không vô ngã”: là do tự tánh quả khổ của y tha nhiễm, xa lìa nhân, pháp của tánh quyết định trong biến kế sở chấp, gọi làm sáng tỏ nghĩa “không”. Đại thừa chỉ rõ hai vô ngã; Tiểu thừa làm rạng rở nhân vô ngã, nhưng nghĩa “không” vô ngã này, nếu theo Tát-bà-đa thì chỉ nói “Nhân không” Nhân Vô ngã”. Nếu luận Thành Thật thì nói đủ hai “không” nhân, pháp và hai vô ngã.

Nói “Giáo vô thỉ của giáo vô thường, Luận sư Cảnh nói: “Vì làm rõ quả từ nhân sinh, nên là vô thường; làm rõ nhân ở quả, pháp nhĩ trước vốn có, gọi là giáo vô thỉ”. Pháp sư Thái nói: “ Giải thích về sự của mỗi niệm sinh, diệt, gọi là “giáo vô thường”. Giải thích về sự nối tiếp nhau của thường vô thỉ, gọi là “giáo vô thỉ”.

Có chỗ giải thích: “Nói pháp hữu vi, gọi là “giáo vô thường”; nói pháp vô vi, gọi là “giáo vô thỉ”.

Nói “Một là do nhiếp thọ”, Nghĩa là hành vô thường kèm theo thô, năng. Hoặc đối với khổ hành, nên vô thường tức khổ.

Nói “Một là lìa các khổ hành, vì “ngã” không thật có, nghĩa làm rõ trái lại. Nếu giải thích thuận với tánh các hành của tám khổ là vô ngã. Vì năm thứ xoay vần nương tựa nhau, nghĩa là không vì có thể trụ riêng khổ tức vô ngã.

Nói “Có vô thường chẳng phải khổ, nghĩa là đạo đế v.v…. đạo, chẳng phải khổ thọ, nên chẳng phải khổ khổ. Đạo, chẳng phải ái biệt ly, đổi thay, hư hoại, cũng chẳng phải cảnh mong cầu không được, đổi thay, hư hoại. Lại sự thay đổi, hư hoại có hai:

1- Lạc thọ đổi thay hư hoại sinh khổ.

2- Ái hư hoại sinh khổ. Đạo chẳng phải hư hoại sinh khổ, nên chẳng phải khổ hoại. Văn này là chứng minh khổ của duyên. Sinh, gọi là khổ hư hoại. Nỗi khổ ấy nếu theo Thành Thật, thì là một đạo đế, vô thường là khổ đế. Nếu theo Tát-bà-đa thì đạo đế sinh, vì thuận với ý của Bậc Thánh, nên chẳng phải khổ. Tập đủ bốn đạo, ba diệt, có hai. văn này là chứng minh khổ, tập đồng thể, vì đều có đủ khổ, v.v… mỗi thứ bốn nghĩa. Nói tánh tổn hại là khổ khổ, khổ thay đổi gọi là khổ hành. nghĩa khổ v.v… là một.

Nói “Vì tánh hao hụt, bức não, nên là khổ.

Kế là, giải thích Tập đế. (Trước đối với môn khổ, lấy “hoặc” “nghiệp” làm tập đế. Sau, trong giải thích kinh, ái là tập đế.

Trong phần trước có hai lượt hỏi đáp:

Trong phần đầu. Nếu theo Tát-bà-đa thì nhân, quả của một vật

khổ, tập là hai. Nêú theo Thành Thật, thì phiền não là nghiệp tập đế. Năm uẩn quả báo là khổ đế, nên khổ, tập có tự thể riêng. Nay, nghĩa Đại thừa có đồng, có khác. Pháp vô ký, thiện của thân La-hán kia, dù dứt trừ hạt giống phiền não nhưng vẫn còn có tập khí thô, nặng, nên cũng gọi là khổ.

Trong lượt hỏi, đáp thứ hai, y cứ theo giải thoát, thiện căn của quyết trạch phần để luận.

Hỏi: “Văn của quyển năm mươi một ở trước, Đối Pháp, Hiển Dương nói: “ Giải thoát, quyết trạch là Đạo đế. Nay, lại nói là Tập, thì làm sao hiểu ?”

Đáp: “Pháp sư Thái nói: “Do các đoạn văn này, nên biết nghĩa của Đại thừa; Ba đế đồng thể, có thể cảm bên cạnh nghĩa của quả đáng ưa thích là tập đế. Bên cạnh nghĩa bị tùy thuộc thô, nặng là khổ đế; có thể dẫn xuất bên cạnh nghĩa của Thánh đạo vô lậu là Đạo đế. Pháp sư Tăng Huyền cho rằng: “Tam Tạng Pháp sư không cho nghĩa trước là quyết định, lại giải thích rằng: “Mỗi cách giải thích về giải thoát đều có hai thứ:

1- Hạt giống vô lậu của bản hữu vô thỉ, ở phần vị của hai thứ thiện căn hữu, giả gọi là hai hạt giống thiện căn.

2- Trí Gia hạnh, hai hạt giống thiện căn hữu lậu thuộc về hạnh trí”.

Nay, nói rằng: “Tập đế được y cứ ở hữu lậu để nói”. Chỗ khác nói rằng “Đạo đế y cứ ở vô lậu để nói,” cho nên không trái nhau.

Dưới đây, sẽ giải thích ái là tập đế trong kinh; trong đó, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, đầu tiên, nêu chung bốn nhân, tiêu biểu ái làm tập:

  1. Vì chi ái hay khởi thủ, nên ở giữa bao gồm các “hoặc”.
  2. Vì các nghiệp giúp đỡ chi vô minh (sẽ giải thích sau).

Kế là, giải thích riêng, chỉ giải thích hai nhân sau.

Nói “ Khắp các sự v.v… cho đến “cũng thế” nghĩa là như một ái theo đuổi ba thứ, nên giống như ái. Vì “duyên” tất cả pháp, gọi là khắp các sự, nên nói: “phải biết rằng cũng thế”.

Nói: “rằng đối với giải thoát ở trên, mong cầu muốn chứng, đây là “dục” của pháp lành, được gọi là ái, dù là ái, nhưng chẳng phải là “ái” của hữu sau.

Nói “Hoặc thành tựu trói buộc của cõi Sắc chứ chẳng phải trói buộc của cõi Dục” nghĩa là người sinh cõi Sắc. Nếu theo Tát-bà-đa thì phần nhiều thân sinh cõi trên, cũng thành tựu bốn thiền, thọ tương ưng với tâm biến hóa của cõi Dục. Nhưng nay Đại thừa cho rằng: “Tứ thiền, tâm biến hóa của cõi Dục là hệ thuộc (trói buộc) bốn thiền, chứ chẳng phải hệ thuộc cõi Dục. Cho nên, thân sinh cõi Sắc không thành tựu thọ cõi Dục, đây là y cứ vào hiện hành, tự tại, cả hai đều thành tựu mà nói như thế y cứ ở hạt giống thành tựu cũng có nghĩa thành.

Nếu vậy, thì khi chín thứ qua đời, làm sao thân ở cõi trên khởi phiền não cõi Dục tương ưng với Thọ ư?

Giải thích: “Vì theo Đa số để biện luận nên nói không thành tựu, cũng có thể trong đây chỉ y cứ ở tự tại thành tựu mà nói, cho nên nói là không thành tựu”.

Nói “Lại sinh cõi Sắc, việc đã làm xong, người trụ đạo xuất thế và Diệt định, quả ban đầu trở lên, gọi là việc đã làm xong. Đây là khi Bậc Thánh nhập quán vô lậu và khi nhập Diệt tâm định. (Nhập tâm Diệt khi định). “Thọ” trói buộc cõi Dục, sắc chẳng phải hiện hành thành tựu và vì là tự tại thành tựu, cho nên không thành”.

Hỏi: “Nếu thân sinh cõi Dục, cõi Sắc bậc Thánh nhập quán vô lậu và khi nhập Diệt định, có hiện hành thọ tương ưng với thức A-lại-da của cõi Dục, sắc, sao lại nói là đều không thành tựu ư?”

Giải thích: “Trong đây, lại y cứ thọ của sáu thức mà nói như thế”.

Nói “Có thể phát khởi mười lăm vô nghĩa” nghĩa là nếu theo mười chánh lý của Luận tạng Tiểu thừa, thì mười sáu và như trong Luận Tạng ấy, tướng văn mười lăm, rất dễ hiểu.

BẢN LUẬN QUYỂN 68

Kế là, giải thích diệt đế. Diệt đế có ba thứ: Trạch diệt; phi trạch diệt và vô thường diệt. Diệt đế chỉ thuộc về Trạch diệt.

Trong văn trước là lập hỏi, đáp; sau nói về Diệt đế xa lìa bốn lỗi.

Trong phần trước, nói “Vì phiền não diệt, nên được diệt đề hữu dư y; vì y diệt, nên được diệt đế của vô dư y; nếu theo nghĩa của Tátbà-đa, thì chỉ lấy phiền não làm diệt đế, vì hai thứ hữu dư, vô dư là thể của Niết-bàn.

Chánh Lượng Bộ, Ma-ha Tăng-ký Bộ, cũng đồng chủ trương với Tát-bà-đa. Hai bộ ấy nói: “Trí vô lậu dứt trừ phiền não, không dứt trừ quả báo diệt của quả báo là phi Trạch diệt”

Nếu theo sư kinh bộ rằng: “Do sức đạo vô lậu, nên “hoặc” “khổ” bất sinh, đều là Trạch diệt. Vì thế, nên phiền não diệt là Niết-bàn hữu dư, quả báo của thân diệt là Niết-bàn vô dư.”

Nay, trong Đại thừa dù về sau nói “hoặc” “khổ” diệt, gọi là Trạch diệt, nhưng dứt trừ phiền não là được Niết-bàn; vì lấy chân Như làm thể, nên hơi khác với thuyết do sư kinh bộ nói.

Dưới đây là nói về diệt đế xa lìa bốn lỗi. Diệt tận với hành không nhất định có khác, thêm khác với định kia, gọi là lỗi tắng ích, tức chấp “khác” tán động trái với chấp nầy là “một”nên gọi là tổn giảm, bởi vì chấp diệt kia đồng tự tướng với hành, nên gọi là lỗi của tà phân biệt tự tướng, tức một chấp động.

“Cũng có khác, cũng không có khác”, là lỗi lẫn lộn nhau, vừa là lỗi trái nhau.

“Câu phi” là lỗi tổn giảm: Xưa, gọi là hý luận chê bai. Nay, nói là lỗi tổn giảm.

Dưới đây, giải thích đạo đế, có ba đoạn:

Đầu tiên là nói về Kiến đạo; kế là Tu đạo; sau, là Vô học đạo.

Trong phần đầu có ba:

1- Nói phế lập uẩn, vì học, ba học, nghĩa là chỉ nói tám chi.

2- Giải thích trong kinh, tóm thâu tám chánh kia làm lý do của ba uẩn.

Nói “Chánh ngữ, chánh nghiệp, giới làm giới căn bản. Làm đối tượng nương tựa mới có thể thọ dụng tất cả chánh pháp, nghĩa là dựa vào chánh ngữ, chánh nghiệp và giới để làm căn bản, mới có thể phát định. Nhờ định được tuệ và tất cả công đức khác.

Nói “Lại ở chỗ nấy, đức Thế tôn nói là tánh hiện hành của ý thanh

tịnh tăng thưọng”, nghĩa là dẫn thuyết chứng thành chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, không đồng với luận Tiểu thừa nói có tự thể riêng của nghiệp thân, ngữ, vô lậu, chỉứ ở ý tứ hiện khởi lìa tà ngữ v.v…, nên nói hiện hành của ý thanh tịnh.”

Nói “Y chỉ tham đẳng khởi, phạm giới Tư ”: nếu theo luận Tiểu thừa, thì dựa vào sân, si mà khởi thân, ngữ, gọi là nghiệp tà ngữ. Nếu dựa vào tham khởi thân, ngữ, gọi là nghiệp là tà mạng. Nếu dựa vào sự giả dối khởi ý tứ theo đuổi, mong cầu bất chính áo, cơm v.v…, gọi là nghiệp tà mạng. Nếu lìa ba thứ tà trước, phải biết rằng, tức là tánh hiện hành ý của chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.”

Nói “Thông suốt nghĩa chân thật của các pháp là nghiệp ban đầu”, đây là nghiệp chánh kiến.”

“Vì người khác nói là nghiệp thứ hai:” Là nghiệp chánh tư duy. Đây là y cứ ở tâm tán tìm kiếm nói ngôn giáo. Nếu ở định hữu lậu, vô lậu thì sẽ không có nghiệp này.

“Vì dứt trừ kiết khác, pháp tùy, pháp hành, là nghiệp thứ ba”, nghĩa là vì đoạn tu dứt trừ khác, phát siêng năng tinh tấn, là nghiệp tinh tấn.”

Hỏi: “Chánh tư duy là Tầm, là pháp giả, dùng Tuệ và ý tứ làm thể, so với chánh kiến đâu có khác?”

Giải thích: “Chánh tư duy, chánh kiến chỉ y cứ vào số cảnh riêng để kiến lập, tức y cứ ở một tuệ đối trị với tà kiến và tà tư duy. Về nghĩa được lập thành hai; cũng có thể y cứ ở Tuệ để lập Chánh kiến; y cứ vào Tư, lập Chánh tư duy. “Sở y” (đối tượng nương tựa) có khác; “năng y” (chủ thể nương tựa) cũng khác.”

Hỏi: “Nếu y cứ vào số tư để lập chánh tư duy, thì chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng cũng y cứ Tư để lập, thế sao một Tư trong một Niệm lại lập những bốn đạo?”

Giải thích Ý tứ hiện hành lìa bốn chi tà đạo, nhằm thành lập bốn chi chánh đạo, cũng đâu có lỗi.”

Nói “Đối với bốn niệm trụ, trói buộc, nhiếp tâm mình” Xưa, thực hành bốn niệm trụ của kinh, luận, chỉ tuệ làm tánh. Thời nay, lấy chung niệm, tuệ làm tánh. Trong văn, nói riêng thể của niệm là đối tượng nương tựa (sở y) của định.”

Nói “Rằng, đều rieng lẽ cho đến “hay dứt trừ các “cái’, nghĩa là “cái” tham lấy tịnh, tức dùng quán bất tịnh để trị. “Cái” sân lấy sai trái, tổn hại làm tánh chất, dùng quán Từ Bi để đối trị v.v…. Sau nói về sự khác nhau của chánh kiến, gồm có mười một thứ, trong đó, đầu tiên, là nói về mười một chánh kiến phối hợp bốn đế. Kế là, nêu thứ lớp trong kinh để hỏi, đáp. Thứ ba, nêu mười một chánh kiến bao gồm ba môn giải thoát.

Trong phần đầu tám kiến trước là “duyên” Chánh kiến của khổ đế. Ba kiến sau, như thứ lớp, “duyên” Tập, Diệt, Đạo.

Nói “”không kiến” vô ngã kiến”, nghĩa là quán uẩn lìa “ngã” và “ngã sở”, kia nói là “không kiến”. Quán thể tánh của các hành kia chẳng phải tướng của ngã và “ngã sở”, gọi là “vô ngã kiến”, không đồng với thuyết của Tát-Bà-Đa nói: “Quán ngã sở là không, gọi là “không hạnh”; quán “ngã không” gọi là “vô ngã hạnh”.

Kế là, nêu trong kinh làm hỏi, đáp:

Hỏi: “Ý kinh nói theo thứ lớp, trước nói bốn kiến như vô thường v.v… ; sau nói các kiến như bệnh v.v…, vì lẽ vì luận trước lại nói như bệnh v.v… ư?”

Đáp: “Đại ý có hai thứ lớp:

1- Kiến đạo trở xuống, theo thứ lớp nhập Thánh, tức trước quán hành vô thường kia v.v…, sau quán hữu lậu v.v…, như bệnh, như ung thư.

2- Về sau xuất kiến đạo ở trong tu đạo, tức trước, quán các hành như bệnh v.v… lúc sau là diệt tu “hoặc”, mới khởi các hạnh như vô thường v.v….

Dưới đây tịnh lại nghĩa trước, rằng, lược có hai thứ:

1- Sở y của kiến như bệnh v.v…, là kiến không thanh tịnh: Tức kiến đạo trở xuống này, đã thực hiện các hành như vô thường v.v… này, có thể dẫn dắt gọi là kiến không thanh tịnh của đối tượng nương tựa.

2- Các kiến như bệnh v.v…, chủ thể nương tựa của kiến thanh tịnh v.v…, nghĩa là đã xuất kiến đạo. Trong địa vị tu, khởi lại các kiến như bệnh v.v…. Vì ở thân bậc Thánh khởi, cho nên là thanh tịnh. Kiến như thế, do kiến đạo kia trở xuống, sức nhân của kiến như bệnh v.v… mà khởi, tức là vì chủ thể nương tựa, nên đạo, chủ thể nương tựa thanh tịnh. Cũng có thể nói các hành như vô thường v.v…trong địc vị tu là chủ thể nương tựa, các hành như bệnh v.v… là đối tượng nương tựa.

Dưới đây, là nêu mười một Chánh kiến gồm thâu ba môn giải thoát:

Nói “Kiến của “không vô ngã hạnh”, gọi là “không hạnh” nghĩa là vì đồng “duyên” không có ngã, ngã sở. Kiến của hạnh khác, gọi là hạnh vô nguyện, nghĩa là tám kiến gọi là còn lại. Kiến của một hạnh, gọi là hạnh vô tướng, nghĩa là kiến thứ mười một “duyên” Diệt đế.

Trường hợp này đồng với luận Tiểu thừa; hai hạnh là “không”; mười hạnh vô nguyện và bốn hạnh vô tướng. Tuy nhiên, ba môn này với hành tướng gồm thâu tám văn không đồng, như Luận Ký quyển mười hai Bản Địa trước đã nói.

Thứ hai, trong phần nói về Tu đạo có hai lần “Lại nữa”.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói: “Trong địa vị tu, “duyên” cảnh bốn đế làm phương tiện nhập quán chân như, dứt rừ “tu hoặc”. Nói “người đã kiến tích”, đến hiện quán xong, là nhắc lại tướng kiến đạo. “Pháp trí phẩm hạ, “duyên” danh hiện; Loại trí phẩm thượng “duyên” danh không hiện.”

Tam Tạng Pháp sư y cứ Đối Pháp giải thích văn này rằng: “Phẩm Pháp trí chứng Như, gọi là “hiện”. Phẩm loại trí chứng phẩm Pháp Trí, gọi là “không hiện”.

Được sơ quả xong, quán chung khổ của ba cõi; Tập của ba cõi, cho đến đạo của ba cõi là gia hạnh xa. Kế lại quán chung bốn đế của ba cõi là “không vô ngã”. Từ đây tức chứng Nhân không mà hiện Chân như. Đoạn chung tu dứt trừ phiền não của chín địa, siêu việt chứng La-hán, không đồng với Đối Pháp nói: “Pháp trí “duyên” như, loại trí “duyên” pháp trí ở trước.

Nói “Về sau, đối với tu đạo v.v… cho đến “Có thể đối trị chung tất cả phiền não của Địa dưới, Địa trên”. Đoạn văn này tức nói là từ sơ quả dứt chung trừ tu hoặc, chứng siêu việt La-hán.”

Pháp sư Thái nói: “Đây là y cứ chung lấy “tu hoặc” của chín địa, ba cõi làm chín phẩm. Cũng lấy chung pháp có nhiễm của ba cõi làm khổ, tập; lấy chung pháp không có nhiễm của phần pháp loại của ba cõi làm Diệt, Đạo. Quán chung bốn đế của ba cõi, là phương tiện nhập quán vô tướng, nên “hoặc” của chín địa chung làm chín phẩm, chín Vô gián, chín giải thoát dứt trừ. Tự có Bậc Thánh, người dứt trừ “hoặc” của chín địa ba cõi, phân biệt thành pháp loại.”

Pháp sư Tăng Huyền nói hai giải thích:

1/ “Văn này y cứ vào một đạo vô ngại của Bồ-tát Kim Cương, dứt trừ ngay tu đạo của ba cõi, đã dứt chín phẩm phiền não để luận.”

2/ “Văn này y cứ siêu việt A-la-hán để luận.”

Kế là, rằng: “Lai nữa, các Bậc Thánh kia v.v… cho đến “Vì dứt trừ phiền não” nghĩa là tac ý vô tướng, tức trí vô phân biệt tương ưng với tác ý, phần nhiều nhập quán này.

Thứ ba nói năm thần thông trong nói về đạo vô học, nghĩa là ý lầy bực Bậc Thánh. Năm thần thông dù là hữu lậu, nhưng vì đã được từ sau vô lậu, tánh ấy thanh tịnh, thuộc về nhập đạo đế, tức đồng với loại đạo phương tiện, đạo tư lương nói trên, đều thuộc đạo đế. Năm thông của ngoại đạo không thuộc loại này, nên chẳng thuộc về đạo đế.”

Dưới đây, các môn phân biệt thứ ba, trong đó có sáu môn:

1- Nói về Biến tri (biết khắp) dứt hẳn đế, gọi là phế lập. Khổ đế được gọi riêng là biết khắp, do hai thứ tương ưng với biến tri: khổ hạnh, biết khổ là biết khắp tự tướng, dùng hành vô thưòng để quán khổ, là biết khắp công tướng của ba đế. Dùng hạnh “không vô ngã” để biết khổ, tức dùng tất cả pháp hạnh để biết khắp về khổ, nên gọi là cộng tướng. Đế khác chỉ biết hành của tự tướng. Cho nên, không được biết khắp Danh.

2- Nói khi kiến bốn đế có hai hiện quán. Đối với tướng kiến đạo, trí của tướng sinh riêng, gọi là hiện quan trí, tứctrí của tướng riêng này làm y chỉ. Chứng các đế, vô vi diệt “hoặc” phẩm hạ, gọi là hiện quán dứt trừ. Nhân hiện quán chẳng phải nhân dứt trừ. Chứng hiện quán đoạn, gọi là hiện quán dứt trừ, cũng có thể mượn tướng kiến đạo để nói vô tướng kiến đạo. Nói về hai hiện quán, vì tướng kiến đạo không thể dứt trừ “hoặc”, chứng phiền não Diệt. Nếu y cứ ở chứng sau, gọi là được dứt trừ, về nghĩa cũng không ảnh hưởng.

3- Nói về năm duyên tinh tấn:

  1. Nghe người khác giảng nói chánh pháp.
  2. Ở chung với người tu hành.
  3. Xét công đức, lổi lầm của siêng năng, lười biếng.
  4. Do tư duy lựa chọn, nên phát sanh chánh cần.
  5. Biết lý sở chứng trước tối tăm, trí “năng chứng” kém, biết lý sở chứng sau, Trí năng chứng có thể sáng suốt vượt hơn. Do biết sở chứng trước, sau khác nhau, nên tinh tấn hừng cháy.

4- Nói về hai thứ chứng, đoạn:

1/ Đối với hạt giống hàng phục, dứt trừ, tác chứng. Văn này là nói hàng phục hạt giống, để cho không sinh “hoặc”, gọi là hàng phục phiền não, không hàng phục hiện hành, đây là chung cho Phàm, Thánh.

2/ Đối với hạt giống, dứt trừ hẳn, tác chứng, đây chỉ có bậc Thánh.

Lìa trói buộc cũng có hai:

1/ Đối với phẩm phiền não, lìa trói buộc riêng, nghĩa là dứt trừ thể phiền não, mỗi phẩm đều dứt trừ riêng.

2/ Đối với sự phiền não, lìa trói buộc hệ thuộc nhau, nghĩa là do dứt trừ sự sở duyên của phiền não, phát nghiệp phiền não, quả báo phiền não, pháp hệ thuộc nhau và được lìa trói buộc. Do đây, sẽ chứng minh cho nghĩa của Đại thừa là dứt trừ chín phẩm “hoặc”, được vô vi riêng.

5- Nói về Kiến đế, nghĩa là lỗi lầm của sự dua nịnh, lừa dối.

Đầu tiên, nói về lỗi lầm của sự dua nịnh, lừa dối. Trước hết nói về sự dua nịnh, tà vạy có mười hai tai họa lỡi lầm. Kế là, nói về bảy sự của tám hạnh. Bảy sự là sự của đối tượng nương tựa của tám hạnh, nghĩa là sự ngôn thuyết, tức là mê hoặc, đối tượng nương tựa của hành động dua nịnh.

Sự gạn hỏi, tức là che giấu hành động dua nịnh, chỉ bày rõ đối tượng nương tựa của hành vi dua nịnh. Ngoài ra năm sự, tức đối với năm hành sau, như thứ lớp của chúng, là đối tượng nương tựa.

6- Nói về người chưa Kiến đế, có chín thứ thô ngữ, gọi là thô ngữ Thanh văn. Dạy dỗ, răn bảo là phương tiện quán thức.

Hiện quán của Chân đế, nghĩa là Kiến đạo, hoặc lại thanh tịnh, nghĩa là tu đạo.

Nói “Dùng lời nói không đẹp giả hợp để đáp, nghĩa là dùng sự giả hợp của lời nói thô ác mà đáp. Hoặc không tương ưng: nghĩa là việc mà người kia đáp không tương ưng với câu hỏi.

Hoặc không viên mãn, nghĩa là việc đáp không tường tận. Nói “Người được tôn trọng chung”, là người đức hạnh đầy đủ, chẳng phải người được tôn trọng chung là các vị tăng khác.

Trên đây, đều là Tạp Quyết trạch thứ nhất đã nói xong.

Dưới đây thứ hai, dùng bài tụng để nêu mười ba môn, lại quyết định lựa chọn riêng. Trong đó, trước nêu tụng, trình bày mười ba môn.

Sau, dùng văn xuôi để giải thích, tức là mười ba đoạn:

7- Trong giải thích gồm thâu, trước là chia ra bảy trường hợp:

Nói “Tỳ-nại-da và Biệt Giải thoát” nghĩa là nói rộng về hạnh điều phục thân, tâm, diệt ác, sinh thiện, gọi là Tỳ-nại-da.

Chính là nói về giới bản, gọi là Biệt giải thoát. Dưới đây sẽ giải thích theo thứ lớp:

8- Phép tắc hư hoại: Phán quyết rộng năm thiên: Hai thiên đầu gọi là giới; ba thiên sau, gọi là phép tắc. Phép tắc, nghĩa là oai nghi. Nói chung, giới và phép tắc có ở cả năm thiên.

9- Tùy hộ tâm người khác, nghĩa là thuận theo ý người kia mà phạm giới cấm.

10- Giữ gìn không tổn não người khác, nghĩa là vì gìn giữ người kia, tự tổn não, nên làm việc trái phạm.

Tánh tội, giá tội: Phán quyết rộng năm thiên: Thiên đầu là tánh tội; bôn thiên sau là giá tội. Trong đó phân biệt chín chắn. Ở thiên đầu cũng có nghĩa “Giá” (ngăn cấm). Trong bốn thiên còn lại cũng có nghĩa “tánh”, nghĩa Đại thừa. Năm thiên của Thanh văn khởi ở thân, miệng, không ơ ý nghiệp. Tìm kiếm bản, mạt của giáo, vì hàng phục chung ba nghiệp, nên nói rằng “tùy thích ứng”.

Nói “Chỗ trái phạm khác, đối với năm nhóm phạm “Như biết tướng nên”, nghĩa là ba nghiệp và giới hoại, kiến hoại v.v… phối hợp với năm thiên, tùy thích ứng nên biết phân biệt tỉ mỉ, y theo sớ luật. Vì hai phát khởi trong giải thích có phạm, hai là phát khởi thân, ngữ.

Không có người vô học trái phạm, vì đối với tội nhiễm ô đều không phạm. Nếu đối với tội không nhiễm ô, dù không cố ý trái phạm, cũng có lầm phạm. Luận Minh liễu chép: “người Vô học phạm tội do lầm phạm, không phạm tội nhiễm ô. Nay, luận này y cứ vào cố ý phạm, nên nói người Vô học không phạm tội. Lại, Cự Nhiếp Luận bản cựu dịch cho rằng: “người kiến bốn đế, không còn cố y phạm tiểu tùy, tiểu tội”. Nghĩa là y cứ vào tội nhiễm ô, nên nói không phạm. Trong tội không nhiễm ô, cố ý hay lầm đều cùng phạm.

Nói tiểu và tùy tiểu, nghĩa là theo luận Minh Liễu, giới có ba thứ:

  1. Tiểi giới, là Tăng-già-Chi v.v…
  2. Tùy tiểu giới, là tội không đầy đủ.
  3. Chẳng phải tiểu giới, là bốn Ba-La-Di. Ngài Chân đế giải thích: “Vì có tội chẳng phải rất nặng, nên gọi là tiểu”.

Ngũ Bộ Tông nói: “Phương tiện đối với căn bản đều là phần không đủ và tùy một mà chuyển, nên gọi là tùy tiểu. Vì tội ba-la-di rất nặng, nên gọi là chẳng phải Tiểu”. Lại, Luận cho rằng: “Lại nữa, tiểu giới. Nghĩa là tự tánh giới trong các giới. Tùy tiểu giới, nghĩa là tất cả chế giới trong các giới. Chẳng phải tiểu giới, nghĩa là bốn giới trọng ”.

Ngài Chân Đế lại giải thích: “Bất luận phương tiện và tội căn bản có dư thừa. Nếu là tánh tội, thì đều gọi là Tiểu. Nếu là tội chế, đều gọi là tùy Tiểu. Tánh tội có tàn dư thường nhẹ, là tội không gọi là tùy tiểu. Mà chẳng phải rất nặng cho nên gọi là Tiểu. Thể tánh của chế tội, chẳng phải do chế trước, mà là tùy chế sau thành tựu, nên gọi là tùy, cũng vì chẳng phải rất nặng, nên gọi là tiểu. Trọng như trước đã giải thích”.

Hỏi: “Đã có tùy Tiểu, sao không lập có tùy phi tiểu?”

Đáp: “Nếu dựa theo giải thích trước, thì vì phương tiện tùy căn giới, cho nên gọi là “tùy” chỉ là tùy theo căn, giới kia, tất nhiên tiểu. Tự có tiểu mà vì chẳng phải tùy, nên lập tùy Tiểu”.

Chẳng phải tiểu, tất nhiên tội trọng căn bản. Nếu là tùy, tất nhiên là vì tiểu, nên không có “Tùy phi tiểu”.

Nếu theo giải thích sau, thì tội chế tùy giáo, nên gọi là tùy, vì chẳng phải Tiểu, nên gọi là tiểu. Trong tội lớn không có chế giới, nên không có tùy phi tiểu.

Không có phạm bốn, nghĩa là như giới bản nói.

Không phạm, là lúc đầu chưa chế giới. Ngu si, điên cuồng, tâm rối loạn, bị đau khổ ràng buộc.

Do trong năm tướng “xuất tội”. Vì mình nghĩa là nên tự lặng dứt, nghĩa là Đột-cát-la trách tâm, thì dứt. Vì người khác, nghĩa là người thấy đế. Có đối tượng phạm tội không nhiễm ô, nghĩa là như người với tâm thiện, nhổ cỏ trước đức Phật, phải đối trước một người để sám hối. Trong trường hợp này, Pháp sư Thái nói: “ Do tâm không có nhiễm, nên không cần tự trách”. Pháp sư Tăng Huyền nói: “Bậc Thánh phần nhiều vì hổ thẹn, nên đối với người khác để sám hối. Do mình, người: nghĩa là người phàm phu có tội nhiễm, không nhiễm, như phạm “Tăng tàn” v.v…, thì “xuất tội” trong hai mươi vị tăng, gọi là do người khác. Nếu vì tâm không nhiễm, mà phạm tiểu tội, thì tự trách tâm mình để trừ

Vì chuyển y, nghĩa là chuyển xỏ y chỉ Bí-sô, để y chỉ Ni v.v… Chuyển căn của hai chúng đều “xuất tội” không chung.

Nói “Hoặc chuyển hình khác v.v… Tam tạng Pháp sư nói: Sa di, Sa-di-ni v.v… người khác chuyển hình”. Pháp sư Thái nói: “ Hai căn sinh, gọi là chuyển hình khác. Hai căn đều mất, gọi là chuyển không có hình. Vì nương tựa xả nghĩa là người qua đời rồi. Ở đây đồng với luận Tiểu thừa ở chỗ qua đời, rồi lại sinh. Hạt giống của nghiệp ác không tăng trưởng, nên gọi là “xuất tội”.

Thứ hai là giải thích chế tội, Luận sư Cảnh nói: “1- Đạo lý thanh tịnh, chư Phật chế giới có lý do sâu sắc. 2- Quả thanh tịnh, nghĩa là nương tựa giới để tu hành, được quả Sa-môn. 3- Nhiếp thọ thanh tịnh, nghĩa là nhiếp thọ người tu hành. 4- Thanh tịnh bên ngoài, nghĩa là không vời lấy sự, chê bai. -Thanh tịnh bên trong: nghĩa là điều phục các căn. 6- Cụ phần thanh tịnh, nghĩa là tánh giới, giá giới đều đầy đủ. Bốn thứ sau rất dễ hiểu.

“Lại có sai khác trở xuống lại có mười thứ thanh tịnh, như văn. Pháp sư Thái nói: “ Vì có nhân duyên, nên Đức Như lai mới chế lập Học xứ (lĩnh vục học) cho nên có nhân chính là đạo lý thanh tịnh đầu tiên.

Xa lìa phần lỗi lầm khi thọ quả của năm dục, vì biên dục lạc, nên là quả thanh tịnh. Vì lìa bên khổ hành, nên nhiếp thọ thanh tịnh. Đủ hạnh vượt hơn của nghiệp thân, miệng, vì lìa ác ở trong sự ngoài, nên gọi là thanh tịnh bên ngoài. Vì lìa bỏ tà mạng, nên tịnh mạng bên trong. Vì đồng cư trú chung với đạo pháp nội, nên đủ chia lìa. Tất cả lời nói xấu ác vì không có trái với sự tranh cãi, nên yêu thích thanh tịnh. Vì hàng phục triền phiền não, nên hàng phục đối trị tu tịnh. Vì lìa hẳn trói buộc, nên tùy miên dứt tịnh. Vì trụ trì chánh pháp, sao cho chánh pháp nối tiếp nhau không dứt tịnh.

Thứ ba, giải thích về tướng công đức, và lỗi lầm trong Thi-la. Trái lại, đều có mười thứ, nghĩa là chúng Tăng hòa hợp. Vì xoay vần bảo nhau, nên lìa bỏ chê bai sở học. Vì Vô gián tu, nên lìa giới không lạc, tịnh. Vì không có oán đối xâú ác, nên lìa bạn trái nhau. Chí mong cầu Bồ-đề, phần đạo không có hao hụt, nên lìa nguyện vọng kỳ hạn. Ba cõi bền chắc vì tinh tấn vững chắc, phòng hộ Thi-la nên lìa buông lung. Vì xuất ly tâm nhiễm, nên lìa tăng thượng mạn. Vì khả năng chế ngự đối tượng trị, nên lia tùy miên bất tịnh. Vì không bao giờ lui sụt, nên lìa ý lạc thấp kém; vì không chung với ngoại đạo, nên xuất ly ba cõi. Vì trên hết trong các luật, nên tà cấm không thể sánh bằng.

Thứ tư, trong giải thích không buông lung trước hết, là nêu chung mười thời kỳ, gạn hỏi, kiệt kê. Sau, giải thích riêng theo thứ lớp: năm chi không buông lung, chỉ ra như bản địa của Thanh văn.

Nói Hắc, nói đại: “Lầm nói ta từ chư thiên, đệ tử bậc Thánh và bên cạnh Đại đức, v.v…. Để nghe pháp nên gọi là nói “hắc”. Nếu thật sự từ bên cạnh đệ tử bậc Thánh v.v… để nghe pháp mà nói, nghĩa là vì Thanh tịnh, nên gọi là nói “Bạch”; vì nói “Bạch”nên gọi là nói “Đại”.

Thứ năm, trong giải thích về chướng, nói:

“Nếu sở đắc thích hợp nhau”, nghĩa là người khác đã ruồng bỏ, nên chấp lấy, nuôi nấng con người. Nếu có người luận đáp, thì bị cấm biện luận”, vì chưa hiểu rõ.

Thứ sáu, trong giải thích về học. Nói là đối với Học xứ mà vì chế lập, nghĩa là lập ở nhóm đầu tiên trong năm nhóm trái phạm: là nặng, nghĩa là dù đồng là Ba-Dật-Để-Ca xưa nói: “Ba-dật-Đề, cũng gọi là Ba-Dạ-Đề, Hán dịch là “đọa”. Dù đồng với “tội giá”, nhưng vì cố cắt đứt sinh mạng, nên thuộc về tánh tội, vì do sự.’

Thứ bảy, trong giải thích về quán sát, đã phạm hoàn toàn tạp nhiễm, nghĩa là các tánh tội: Đây là giải thích câu đầu, cần phải hoàn toàn dạy bảo sao cho không phạm cho đến: khiến cho sớm ăn năn chừa bỏ”. Đây là giải thích hoàn toàn không hiện hành” của câu thứ hai, lẽ ra là người phạm tánh tội trong chín mươi, khiến sớm sám hối diệt trừ, sao cho không còn hiện hành nữa”.

Lại, “Phật Thế tôn cho đến câu “Chế lập Học xứ về già tội: đây là giải thích câu thứ ba, nhân có người trái phạm, nên chế lập Học xứ.

“Nếu có người khác cho đến “Nên vì họ chỉ bày rõ đối trị: đây là giải thích thứ tư, biểu hiện lỗi lầm của người kia, vì sinh, không sinh. Nếu ở phương tiện khác, thời gian khác, người kjhác, đồng phạm tội này, gọi là “sinh”. Bày tỏ học xứ của già tội, mà Phật đã chế ở trước, để đối trị gọi là “bất sinh”.

“Nếu có người không phạm cho đến “cũng không nên chỉ rõ pháp đối trị: đây là giải thích câu thứ năm: “chẳng phải hoàn toàn hiện hành”.

Thứ tám trong giải thích y chỉ. Luận sư Trung Cảnh nói: “Ba trước trong bảy xứ là người năng truyền dạy. Bốn xứ sau là “duyên” tu hành”.

Một pháp đầu trong sáu xứ: là giới kinh mà Đức Phật đại sư đã nói, nương tựa vào đó để tu học.

1. Người học đã tu ba tuệ.

2. Dạy bảo, truyền trao, khuyên răn, tức thân giáo gương mẩu trong bảy thứ trước, trao cho việc tốt lành, khiến tu, răn điều ác, sao cho tu dứt trừ.

3. Đẳng trí tức chín định thứ lợp.

4. Cúng dường, tức cúng dường tài pháp. Cúng dường tài vật là do mọt thứ pháp lạc đáng yêu. Cúng dường pháp, là do pháp khác: Xét theo địa Thanh văn. Pháp sư Thái rằng: “Cúng dường pháp, nghĩa là do pháp khác, như trong phẩm khac đã nói: “Rất nhiều cúng dường, một thứ trong đó là cúng dường tài. Sự khác là cúng dường pháp.

6. Căn trong thiện xảo, thuộc về thiện xảo vì pháp rất hẹp, nên không nói.”

Pháp sư Tăng Huyền nói: “Y chỉ đại sư, nghĩa là Như lai. Thân Giáo Sư là hòa thưọng. Người gương mẩu là giới sư. Kinh Biệt Giải Thoát, nghĩa là giới và phân biệt rộng, nghĩa là luật Bản.”

Thứ chín, trong giải thích về Nhiếp thọ, nói là thuộc về người đã thọ, không thể hồi chuyển về tạo ra tưởng thuộc về mình, biết là nhiếp thọ. Chịu thọ, người thọ, có thể hồi chuyển trì, hoặc dùng tay, hay dùng bát v.v… nhận lấy”.

Gửi gắm người thọ, nghĩa là thọ thí tịnh.

Xả thí thọ, nghĩa là thọ vật bố thí của người. Hoặc nói người thọ pháp cúng dường, thực hành thí pháp, gọi là xả thí, cũng có thể tự thọ được phước của thí cho, gọi là thọ xả thí.

Vì người khác thọ, vì người khác xin thức ăn, vì phi xứ thọ, nghĩa là đối với Phật, tháp và nơi hành đạo, chịu thọ thức uống ăn.

Phần lỗi của người thọ phi pháp, quá phần và không đúng pháp, gọi là chỗ phi lượng, phi pháp.

Không quán sát người mà gửi gắm, nghĩa là nhận gửi gắm, không quán sát người đối diện là giặc, chẳng phải giặc v.v… Đối với vật bất tịnh, tâm trói buộc, chấp mắc, như hoặc rượu, thịt v.v… trói buộc tâm nhiễm:

11. Đối với ruộng xấu mà xả thí.

12. Chẳng phải không có hy vọng mà xả thí, đây là y cứ ở người năng xả thí. Hai duyên bất tịnh xả, và thọ thí. Hoặc nói là người khác không có vật ít, không có tưởng hy vọng mà thí cho, nên có hai bất tịnh:

1/ Chẳng phải giao qua đêm. Lại, không cáo bạch và tánh không nhận biết, nghĩa là nếu vì người khác, nhận người kia ngũ lại đêm. Lại, người kia không cáo bạch nhau, và không nhận biết người kia.”

2/ Vì tâm có nhiễm, nghĩa là vì người khác mà thọ trì, sinh ra tâm tự nhiễm.”

Thứ mười, trong giải thích thọ dụng nói: “Như Đức Thế Tôn nói: Đồ đựng tiện lợi v.v… không nên thọ dụng”. Bổ Khuyết rằng: “Hỏi: “Nếu vậy, thì cái gì là Trần khí dược?”

Giải thích: “hoặc là người bệnh không thể uống thuốc. Hoặc là bệnh không có tất cả thuốc tàn dư. Hoặc thuốc của người khác phần nhiều là sữa, cặn bả tàn dư, gọi là Trần khí dược (thuốc trần khí), chứ chẳng phải phân, nước tiểu này là thuốc trần khí.

Nay, giải thích: “Dồ đựng bị tiện lợi là nhiễm, gọi là không tùy ý dùng, chứ chẳng phải nói là thể của Đại, Tiểu tiện la thuốc trần khí, là không nhậm dụng.”

Nói “Chẳng phải nhiếp thuộc, nghĩa là hoặc là vật v.v… của-tăngkỳ”, nghĩa là của vật của đại chúng, gọi là vật tăng-kỳ. Dù là số chúng, nhưng nếu chúng kia được lành mạnh, thì được pháp thực. Như thí cho không nhàm chán vì tạo dựng căn bản cho chúng kia với người Đàn việt, miệng thường chiêu tập bốn mươi vật cúng với những thứ ăn uống trọng, hậu ngon ngọt.

Nương tựa Tăng, khất thực theo thứ lớp. (Nếu bốn mươi người thú hướng, nếu không bị sai khác thì gọi là phi nhiếp thuộc. Giả sử về sau, bị sai khác, không dùng bát để thọ, thì gọi là không rơi vào bát. Trước hết phải trải lá sen sạch, thức ăn rơi rải rác trên lá, hoặc trên chén nhỏ. Dù không ở bát, như thuộc về bát, nếu không thuộc về bát, thì sẽ lấy từ xa phần ăn của người khác. Như thế, đều gọi là vật chẳng phải nhiếp thuộc.”

Trên đây là nói về vật thuộc về chúng.

Kế là đây là nói về vật hệ thuộc người khác:

Người khác không cho, tạm cho, cũng không rốt ráo xả, cũng không hao hụt là bạc hà. Lại, bản thân mình đến phi xứ người khác, gửi gắm niềm tin lại lấy dùng. Hoặc dù người khác cho quá lượng mà vẫn thọ dụng.

Nói “Thọ được tịnh”, nghĩa là thức uống, ăn v.v… là tổn hoại tịnh, nghĩa là trái cây sống v.v…

Gởi gắm tịnh, nghĩa là xin thí chủ v.v…

Thời Pháp Tịnh: Thuốc bảy ngày v.v…

Xả Phân biệt tịnh: không nghĩ v.v… có vi trùng trong nước mà uống v.v….

BẢN LUẬN QUYỂN 69

Dưới đây theo thứ lớp, mười một cách giải thích rất sâu sắc, trong đó, trước nói về chân, sau nói ngụy.

Trong chân, chia ra năm môn. 2/ Dựa vào môn để nói:

1. Đầu tiên, là nói về chế lập Học, trong đó lại có năm trường hợp, trường hợp nêu tên giải thích:

  1. Học hạnh tự tại, không bị “hoặc” gây trở ngại.
  2. Không tự tại, bị “hoặc” làm ngăn ngại.
  3. Thể hiện Thi la, nếu hoài bảo tánh tội, thì cấm không nên thực hành.
  4. Biểu hiện lạc hạnh, ngăn ngừa nghiệp tội chướng, chế lập học xứ.
  5. Quan sát tự tại về lỗi lầm, vì không hiện hành, nên không có chế lập, người không tự tâi vì có lỗi hiện hành, nên chế lập Học xứ.

2. Nói về trái phạm, chế lập. Văn chia làm ba phần:

  1. Y cứ vào chướng, để nói về phạm.
  2. Y cứ vào ý lạc để nói phạm, không phạm.
  3. Nói do mười xứ, tư duy, mong cầu mà phạm.

Trong phần đầu, 1- Nêu chung phạm, chế lập là rất sâu sắc; 2- Giải thích riêng, trong đó, trước nói về chướng, sau, trái lại, làm sáng tỏ không có chướng.

Trong phần trước, đầu tiên, giải thích năm chướng; sau, nói về năm chướng tương sinh như theo thứ lớp :

Nói: ‘Chướng Sở tri: Tức là chướng định.”Do trái phạm, nên ăn năn, cho đến tâm không được định”, là một phần trong chướng sở tri.

Kế là, nêu ý lạc hủy hoại Cụ túc, chỉ rõ tướng phạm, không phạm (như văn).

Dưới đây, nói về mười xứ tư duy tìm kiếm đối tượng trái phạm:

1- Vì Pháp Biệt giải thoát, nên đối với một quyển Giới Bản, tư duy, tìm kiếm chỗ phạm.

2- Trong năm nhóm phạm của Quảng luật, tư duy, tìm kiếm hành tướng phạm.

3- Do sáu thứ sai khác trở thành tướng trọng “Đẳng”: như quyển trước đã giải thích.

4- Do không có hổ thẹn: trừ Ba-La-Xà-Dĩ-Ca, là có tướng dư thừa, Ba-la-xà-dĩ-ca, Hán dịch là “Tha Thắng” (khác vượt hơn người ).

Tăng-già-Bà-thi-sa, Hán dịch là “chúng dư”. Dù phạm giới này, nhưng vẫn còn có phần thừa của chúng tăng, không đồng với phạm tội trọng, hoàn toàn không có phần chúng.

Ba-Dật-Để-Ca, Hán dịch là “đọa”.

Thi-Xoa-Ca-La-Ni, Hán dịch là “Ưng học”.

Nay, trong văn này, trừ bốn trọng đầu, mười ba về sau, đều gọi chung là tướng có tàn. Dù phạm giới này, nhưng vẫn có tướng tàn dư của chúng tăng.

5- Do nghiệp đầu tiên, nghĩa là ban đầu phạm bốn tội trọng, chẳng phải sơ nghiệp, nghĩa là phạm các giới sau.

6- Do bức não, xuất ly.(nghĩa là như do cơn bệnh gây ép ngặt, keo kiệt không thọ thực mà ăn và đứng đại, tiểu tiện v.v…, cũng gọi là không phạm, tức gọi là xuất ly.

7- Do chướng nạn, xuất ly: (là có gặp mạng nạn. được leo lên vượt cây, cao qua đầu người, khai cho, không phạm, tức gọi là xuất ly v.v…

(Hai thứ xuấy ly này, se nói đến trong văn sau).

8- Do bạch với Phật.

9- Bạch Phật xong, họp chúng, đức Phật chế giới, tất nhiên ở trong chúng.

10- Do chúng tăng nhóm hợp xong, trước chế, sau khai, để cho được rốt ráo, vì không có não hại.

Thứ ba, trong phần nói về xuất ly, nói người xuất ly không có nhiễm, như người có tâm thiện, nhổ cỏ cây ở trước chỗ Phật, trong Đại thừa cho phép. Nếu tự thêm việc thiện, bớt điều ác, điều này tức không có phạm, tức gọi là xuất ly.

Nói Tiểu tùy: Như quyển trước đã chép, giải thích. Không chấp xuất ly.(Pháp sư Cảnh nói: “Nạn chó sói v.v… ở trong chỗ hoang vắng, nên việc cầm dao, gậy để tự phòng vệ, được cho phép.

Pháp sư Thái nói: “Ở chỗ nguy hiểm, vì sự thọ dụng đúng như pháp không thể được, nên đối với giáo pháp sinh niền tin, với tội, sinh sợ hãi, hơn nữa, vì không có chấp nào khác, nên làm việc này mà không trái phạm, gọi là không chấp xuất ly.

Luận sư Tăng Huyền nói: Nếu không có người đối với người thọ, tự mình thọ dụng thì không có trái phạm.

Thứ tư, trong phần nói về sự thôi dứt, nói “Vì ngăn ngừa tai nạn cho sự sống còn, như trong luật nói sự nguy hiểm, chia ra tám chia ra tám việc đó là: ngủ trong giới, nếu thức ăn trong giới, tự nấu thức ăn, tự tay nhận thức ăn, nhận thức ăn lúc dậy sớm, mang thức ăn còn dư từ chỗ thọ thực, ăn bột gạo trái hồ đào, v.v… ăn vật có thể ăn trong nước, các trường hợp như thế. Năm là nói mười yết-ma trong các yết-ma: một là yết-ma khi thọ giới cụ túc, hai là kiết đại giới, tiểu giới, ba là nuôi lớn, pháp sư Cảnh là kiết đại giới, tiểu giới, ba là nuôi lớn, pháp sư Cảnh nói như Đại thần, tiểu tử, hoặc là Vương tử, tâm nguyện xuất gia, đối với Phật pháp thường được lợi ích, nhưng không thể bỏ việc ăn phì thời, v.v… Đại chúng dùng cháo để nuôi lớn tâm ấy, yết-ma cho phép, hòa hợp các thứ thuốc, nấu cháo trao cho, lớn để căn hiện.

Pháp sư Thái nói: Bồ tát yết-ma, Hán dịch là Trưởng dưỡng, là nuôi lớn công đức. Bốn là đồng ý: Pháp sư Cảnh nói: Như có người chứng Sơ quả, đối với y phục, thức ăn không có yêu tiếc, các Tỳ-kheo, v.v… đua nhau đến xin, khiến cho người ấy đến nỗi nghèo khổ. Bấy giờ, đại chúng đồng ý cùng dứt mà làm yết-ma. Pháp sư Thái nói: Việc đã làm là yết-ma hòa tăng khiến cho đồng ý. Năm là thú hướng. Pháp sư nói: Như Ni muốn đến trong chúng tăng xin thọ đại giới thì ni chúng phải tác pháp yết-ma trước, rồi mới đến chỗ Đại tăng, gọi là Thú hướng yết-ma. Pháp sư Thái nói: Thú hướng chỗ an cư làm yết-ma. Sáu tứ nêu: cuối hạ tự tứ nêu tội. Bảy là trị phạt người có tội, như bảy yết-ma, v.v… Tám là người nhiếp thọ: Đại chúng trước điều phục người ác khiến họ xuất gia. Đã trãi qua thời gian lâu, họ đã thuần phục, hối hận những việc trước kia đã làm. Chúng tăng lại làm yết-ma cho phép nương chúng gọi là Nhiếp thọ.

Tám việc tùy sự trên, hai việc dưới là nói về pháp. Nói năm thứ bổ-đặc-già-la: Một là dụ chim anh vũ, y theo nghĩa mà phán văn. Hai là dụ chim anh vũ, y theo văn mà phán nghĩa. Ba là dụ cây đuốc nghĩa là nghe ít mà hiểu nhiều, như một cây đuốc xoay vần mồi cho các cây đuốc khác. Bốn là ánh chớp dụ cho người: Đối với người thứ yết-ma trước có khi hiểu dần, có khi không thấy, như ánh chớp kia. Năm là bức vẽ dụ cho người: xét văn mà hành sự, không thêm không bớt.

Trên đây là nói về chân, dưới đây là nói về ngụy. Nói không nhập khế kinh: là không thuận theo tu-đa-la; không hiện ở trong luật: là không thuận theo tỳ-ni; Trái với pháp tánh; là trái với A-tỳ-đạt-ma. Thứ mười hai là giải thích, trong đó nói trừ mười việc, cho đến nên biết ở đây nói chẳng phải là thuyết thanh tịnh: nếu biết ở dưới nói mười việc hoại giới kiến, v.v… thì được nói cho người khác nghe. Nhưng thuyết thanh tịnh này ngoài mười việc, nếu có Tỳ-kheo đối với người khác nói Tỳ-kheo khác phá hoại giới kiến, v.v… chẳng phải thuyết thanh tịnh, nói mười việc lẽ ra là nên nói cho người khác nghe.

1. Muốn hại Đức Phật.

2. Đối với pháp.

3. Đối với Tăng.

“Vì tổn hại Tam Bảo, cho đến “nói cho Vua nghe, nhưng là nói thanh tịnh.”

4. Kiến, do người kia phá hoại giới, kiến v.v…, nên lại làm cho các Tỳ Kheo khác phá giới, kiến v.v… Chúng xấu ác đó phá hoại dần, ngày càng tăng trưởng, hoặc nghe, hoặc nghi, nói cho người khác, nghe, khiến các điều xấu ác chấm dứt.

5. Thấy người kia tự chỉ bày rõ pháp bất chính như phá hoại giới, kiến, mạng gương mẫu v.v…. Hoặc nghe, hoặc nghi.

6. Muốn cho người kia nói ra phá hoại giới, kiến v.v…, muốn đặt yên ở chỗ thiện, nên nói chongười khác nghe.

7. Các Tỳ kheo v.v… đều làm hư hoại giới kiến v.v…. Vì ủng hộ người tục khác, lại còn che giấu nhau, bảo hộ mọi điều xấu ác ngày càng gia tăng, cũng cần nói cho người khác, nghe để dứt ác.

8. “Hoặc có thí chủ, cho đến chủ xây dựng chùa v.v… bạch tăng rằng: “Các Tỳ kheo cư trú ở đây v.v…, nếu thấy vị nào làm hư hoại giới, kiến v.v…, phải bảo cho chúng tôi biết.” Nếu các chúng tăng đồng nghe lời nói này của họ, cũng phải nói với thí chủ v.v…, cũng là nói thanh tịnh.

9. Nếu có ai thấy người khác do nhân duyên chúng tăng này mà làm hư hoại giới, kiến, thì các Vua v.v…, sinh ngờ vực trong tâm, hờn dỗi muốn làm việc không có nghĩa lợi, hoặc nghe, hoặc nghi, cũng phải nói cho người khác nghe, là nói thanh tịnh.

10. Chúng Tăng đối với kẻ phá hoại giới, kiến v.v… với hành vi xấu ác, làm nhơ nhà người, mà không có sức để trị phạt, chỉ một nhân duyên là nói cho người khác biết là nói thanh tịnh.

Nói hành vi xấu ác, làm nhơ ố nhà người: như luật nói làm nhơ nhà người, là nói trong giới, thì phải can ngăn, khiển trách và đuổi.

Nói “Nếu ai nhân ganh ghét v.v…, trừ nhân duyên của mười việc ganh ghét vừa kể trên, muốn hủy hoại nên nói, thì gọi là nói bất tịnh.

Thứ mười ba, trong giải thích về việc dụ, nói là sự bản sinh, nghĩa là nói về sự hạnh của Bồ-tát đời trước làm thí dụ. Việc Bản sự, nghĩa là nói về việc tương ưng bên ngoài của thân đời trước của Bồ-tát để làm thí dụ điển hình.

Sự ảnh tượng. Nghĩa là nói Phật tánh dụ cho sữa, tô, lạc, cho đến đề hồ v.v….

Ảnh tượng giống nhau, là nêu người vượt hơn kia.

Lại, lấy bảy hạng chúng sinh trong sông sinh tử của thế gian:

Trong kinh Niết-bàn nói: “Bảy hạng chúng sinh trong sông sinh tử ở trước”. Về sau, nói trong sông Niết-bàn, cũng có bảy hạng người trong chánh pháp:

  1. Thường ẩn mất.
  2. Tạm xuất hiện, lại ẩn mất.
  3. Xuất thế xong liền trụ.
  4. Xuất thế xong, quán khắp bốn phương.
  5. Quán khắp xong, thực hành công hạnh..
  6. Thực hành công hạnh xong, lại trụ.
  7. Dưới sông, trên đất liền đều thực hành (nói rộng như kinh Niếtbàn).

Sự giả hợp: Nghĩa là thí dụ đại dương, hoặc dụ cho lương y. Luận sư Cảnh nói: “Như Đức Thế tôn nói: “Vua thứ sáu là hơn hết. Như nói La-hán dứt trừ bệnh phiền não. như lương y kia có khả năng dứt rừ các chất độc.” Pháp sư Thái nói: “Hoặc do đại vương hoặc do lương y v.v… rất nhiều việc giả hợp dụ. Cho Phật v.v… ý nói: “lại có khi hiện thấy thí dụ của thế gian cho đến “phần ít tương ưng v.v… ”, nghĩa là như nói hạt giống phiền não và hạt giống vô lậu đồng dựa vào Lại-da ư? Giống như phân nhơ và vàng thật dùng ở một chỗ.

Sự thí dụ.(Nghĩa là rộng lớn, rất nhiều thí dụ v.v…, như nói: “Vô lượng nhân duyên của một thí dụ, gọi là thí dụ dái, như thí dụ nhà lửa v.v…

Trên đây, trong quyết định lựa chọn địa này có ba đoạn, hai đoạn trước đã nói xong.

Dưới đây, là đoạn ba, rộng, dùng sáu mươi bốn môn Quyết trạch lẫn lộn, trước nói về pháp sở tri, trong đó, đầu tiên, là nói do năm tướng lập sự khác nhau của sở tri. Sau nói về sự khác nhau của các trí.

Trong phần trước, là nêu, năm tướng, giải thích theo thứ lớp.

Nói: “Nếu thế tục rất dễ hiểu giả lập sở tri cho đến “Một phần nên tu tập”. Hỏi: “Làm thế nào biết rõ pháp duyên sinh v.v… thiện, ác, có tội, không tội, gọi là biết giả lập ư?”

Giải thích: “Với các pháp này, nếu đối với bình chậu v.v… nên gọi là pháp thật. Nay, đối với đế lý khổ v.v…, gọi là thắng nghĩa, nên nói duyên sinh tội phước v.v… gọi là giả lập một phần bất thiện v.v… nên lìa và một phần thiện nên tu.”

Nói: “Lại rất dễ hiểu rõ cho đến “mà khởi các hạnh, nghĩa là biết ngôn thuyết của thế tục đối với pháp thế gian khởi, gọi là dạo thế gian.

Tùy theo danh ngôn của thế gian này, mà khởi các hạnh.

Nói “Biết cõi ý lạc của người và tùy miên”, nghĩa là môn lý tùy chuyển, được gieo trồng ở sáu thức. Ý lạc là “dục “, tùy miên là hạt giống. Do biết sáu thức, tâm người nên trên tâm, tất cả tùy miên theo đuổi, cũng gọi là “biết”. Cũng có thể trí tha tâm của Sơ địa trở lên đã nhận biết tâm Lại-da và hạt giống.

Nói chỗ nương tựa của trí biết có hai: 1- Hạnh lợi mình; 2- Hạnh lợi người, tức trí của năm thứ tác nghiệp ở trước. Ba thứ trước đối với cảnh, không có nghi ngại; gọi là dựa vào chỗ nương tựa của công hạnh lợi mình; hai trí sau biết rõ căn nghiệp sở độ sanh ra, gọi là dựa vào chỗ nương tựa của hạnh lợi người.”

Nói “Trí thế tục có cả ba tánh, có cả hữu lậu, vô lậu chỉ là thế gian”, trí này tương đương với đẳng trí của Tỳ-Đàm. Đẳng trí có cả ba tánh, chỉ là hữu lậu. Nay có cả vô lậu, nghĩa là y cứ ở vô học, lìa thân lậu, khởi nên gọi là vô lậu.”

Nói trí này và trí khác đều gọi là tục trí, nghĩa là trong thân Vô học này và trí tuệ, ba tánh hữu lậu trong thân của người học phàm phu, đều gọi là Tục trí. Phải biết “loại pháp khác, lấy trí bốn đế, trí tận vô sinh, chỉ sinh ở trong lậu tận” cho đến “chỉ có xuất thế gian”, nghĩa là như lý trí, nên chỉ có vô lậu.

“Nếu phân biệt như thế cho đến “thuộc về tục trí” tức là Hậu trí do phân biệt, gọi là thế gian, là chưa từng được, vì sinh trong thân Lahán, nên cũng gọi là xuất thế.

Trí tha tâm chỉ là thế gian v.v…. Hỏi: “Trí tha tâm của người Học đã là hữu lậu, thì làm sao rất dễ hiểu được tâm vô lậu ư?”

Giải thích: “Đồng là loại người Học, vì trí tha tâm hữu lậu biết được tâm vô lậu của người khác, cũng đâu có lỗi, chẳng hạn như trí tha tâm ở cõi Sắc rất dễ hiểu được tâm cõi Sắc, không đồng với luận Tiểu thừa ở chỗ trí tha tâm hữu lậu chỉ biết tâm hữu lậu của người, không biết được vô lậu, không biết tâm v.v… của cõi Vô Sắc.

Nói “Trí tận vô sinh, như trước nên biết”, nghĩa là nếu không phân biệt là xuất thế, nếu phân biệt là thế gian, đều cùng là vô lậu v.v…, tức là Lậu tận thông, có cả thế gian, xuất thế gian chỉ có vô lậu.”

Nói “Pháp môn không giải thoát thuộc về tám trí, nghĩa là trừ thế tục và trí tha tâm. Trí của môn “không” này khi muốn nhập quán Chân như, trước là quán các pháp “không” và nghĩa vô ngã, tương đương với tám trí quán chân như. Không vô ngã của bốn đế, tức nghĩa thích hợp với bốn trí quán như khổ v.v…. Nghĩa “không” của cõi Dục ở dưới, tương đương với pháp trí quán. Nghĩa “không” của hai cõi trên tương đương với trí này, ở thân vô học, tức là hai trí tận vô sinh, là biết tám trí tương đương với số định là môn không giải thoát”. Dưới đây trong phần nói về trí khác nhau, văn được chia làm bảy. Đầu tiên nêu môn giải thoát và Vô ngại giải v.v… của pháp không chung, chỉ ra như trước đã nói. 2/ Nói về các thông, trí, trong đó được chia làm ba: Trước là nói về danh nghĩa của sáu thông, trí. Kế là, nói về người có thần thông. Sau, là nói chung về đối biện nói.

Trong phần đầu, “thế nào là thần cảnh?” là hỏi về đối tượng chuyển biến.”thế nào là thần cảnh trí?”, nghĩa là hỏi về chủ thể chuyển biến, thế nào là Thần cảnh trí tác chứng?” là hỏi về nhân duyên của tu chứng, được thần cảnh trí. Nghĩa là từ một thứ biến thành nhiều thứ nói về chuyển biến, cho đến thân của Phạm thế tự tại chuyển biến, nghĩa là nói đối tượng vận chuyển. Do thần cảnh trí đến, cho nên nói. Đây gọi là Thần cảnh, nghĩa giải thích tên Thần cảnh.

Ở đây là đáp câu hỏi đầu tiên nói: “Nếu trí cho đến” nên gọi là Thần cảnh Trí” là đáp câu hỏi thứ hai.

Vì phân biệt chỗ sinh được trí v.v…, nên gọi là “tu quả”.

Nói “Tức hạt giống trí này, cho đến gọi là Thần cảnh trí tác chứng”: đáp câu hỏi tác chứng thứ ba về hạt giống thần thông, đều có hạt giống. Vì có chướng tánh, chướng sự, nên không thể khởi tác dụng thần thông. Thời nay, người tu hành, do thế lực tu tập lìa hai chướng, khiến hạt giống cũ tăng trưởng nối tiếp nhau. Bấy giờ, vì đủ duyên được khởi thần thông, nên nói “Tức hạt giống này, do sinh, duyên đã nhiếp thọ v.v….”

“Như thế tất cả gồm chung thành một, gọi là thần thông trí tác chứng thông”, nghĩa là thần thông, thần cảnh trí và tác chứng, gọi là chung là Thần Cảnh Trí chứng thông”.

Nói “Rằng, các tha tâm do có tham v.v…”, nghĩa là nói về cảnh của tha tâm thông, nói là có tâm mười đối có tham, không có tham v.v…. Nếu người có oai đức lớn, thì sẽ làm sáng tỏ thể của Tha tâm thông.

Nói “Trí tác chứng này, như trước,nên biết”, nghĩa là hạt giống này do sinh duyên nhiếp thọ, nên nối tiếp nhau tăng trưởng v.v….

Nói “Nếu tu sắc thanh tịnh thuộc về quả nhãn để làm y chỉ v.v…”, nghĩa là Thiên nhãn thông, tức dùng Nhãn thức tương ưng với tuệ làm Thể. Tuy nhiên văn khác lại nói “duyên” vị lai v.v…, nghĩa là y cứ vào ý thức khác tương ưng với quyến thuộc, để luận nói chung.

Nói “Tận vô sinh trí, gọi là trí lậu tận. Nếu theo Tát Bà Da thì có hai nghĩa:

  1. Từ Cảnh sở duyên, gọi là sáu trí tánh.
  2. Ở thân nêu ra Thể là mười trí tánh có cả hữu lậu, vô lậu. Nay, theo Đại thừa chỉ thế gian tận, lấy tận trí vô sinh của thế gian làm thể.

Kế là nói về người có thần thông. Luận sư Cảnh nói: “Nếu gặp thời ký ấy, thì có thể thị hiện, nghĩa là Thần cảnh thông này. Hoặc lại an trụ, nghĩa là thiên nhĩ nghe tiếng. Tha tâm thông, biết hạnh khác nhau của tâm người khác, chỉ hiểu rõ sở tri, tự an trụ, chưa thể làm được việc dẫn dắt người khác rộng khắp.

Nói “Hoặc thực hành công hạnh lợi tha, hoặc ở trong đây có thể khéo hỏi, ghi nhận, tức ba thông sau: Túc mạng thông, biết quá khứ của người khác đã từng trải qua sự sống. Thiên nhãn nhìn thấy các chúng sinh sống nơi này, chết nơi kia; Lậu tận thông chứng vô vi kia. Ba thông như thế biết những việc đã từng, sẽ của người, nói pháp hợp với căn cơ, nên nói “có thể khéo hỏi, ghi nhận”.

Pháp sư Thái nói: “hoặc lại an trụ, nghĩa là tự được dạo chơi, hoặc làm lợi cho người, vì mục đích lợi tha nên xuất hiện.

Dưới đây, nói chung về đối biện, lược qua không nói về thị hiện:

Nói “Ba thông sau khiến dứt hẳn, thường v.v…”: Túc mạng, biết nhân duyên quá khứ của người khác, nói, bày cho người đó biết, giúp họ lìa chấp thường. Thiên nhãn nhận biết vị lai của người khác sẽ thọ sinh, tử bảo cho họ biết, khiến lìa chấp đoạn. Lậu tận thông, là nói rộng về Trung đạo.

11. Nói về vô tránh nguyện trí, văn chia làm ba: Trước, nói Vô tránh. Kế là, nói về Nguyện Trí. Sau nói Đức Phật không thường nhập định vô tránh.

Trong phần đầu có ba:

  1. Nói ba thứ nhân duyên, tu định vô tránh.
  2. Giải thích từ ngữ Vô tránh.
  3. Nói về xem xét gìn giữ trong khi tu việc Vô tránh.

Đầu tiên, nói “La-hán, căn nhãy bén của “Câu phần giải thoát” trụ Vô tránh”, nghĩa là Tỳ-Đàm chỉ nói căn nhạy bén, bất động, nghĩa là “đắc”. Không nói “câu thoát”. Nay nói “câu thoát”, vì phải được Diệt định, mới tu Vô tránh.

“Đối với chính mình mà khởi” trở xuống, là giải thích danh từ.

“Như thế v.v… ” trở xuống, là nói xem xét, gìn giữ khi tu.

Kế là, nói về Nguyện trí, trước phải phát nguyện. Đã nhập định bờ mé, tu rồi mới biết. Nguyện trí của ba thừa đều tùy thông suốt cảnh giới sở tri.

Dưới đây sẽ nói Đức Phật không thường nhập định vô tránh. Nói “Nếu lẽ ra vì khởi tranh luận mà điều phục”: Tức là vì tranh luận, nên không thường nhập.

12. Nói dựa vào định dẫn phát các trí khác nhau. Như định thứ tư làm chỗ nương tựa dẫn phát Vô tránh Nguyện trí. Phải biết rằng, Diệu trí, pháp Bất cộng của đức Như lai cũng thế, nghĩa là theo văn này, chứng tỏ các công đức của Như lai đều dựa vào định thứ tư. Lại, do đây chứng biết bốn vô ngại đều nương chung bốn định, không đồng với luận Tiểu thừa.

13. Nói chỉ dựa vào năm Địa, đầu tiên nhập Thánh, do định cận phần ban đầu về trước vì chưa có định căn bản, nên các Bậc Thánh kia phải nương tựa định vị Chí, để nhập Kiến đạo. Định Vị Chí của Nhị thiền về trước đã có định căn bản đầu tiên, có thể phát vô lậu.

Tiền phương tiện của bảy địa trên không phải Vị Chí, nên không phát vô lậu.

14. Nói về ba đời sai khác của trí Thế gian, Xuất Thế gian. Trước, nêu chung mà khởi, sau đó, chính là giải thích. Trong chính giải thích có hai: Trước, nói thế trí; sau, nói trí xuất thế.

Trong thế trí, trước, nói về Thế trí ba đời của Nhị thừa. Sau, nói Thế trí ba đời của Bồ-tát.

Trong phần trước, trước nói về tế ban đầu khởi lên trí thế tục, nói là vì muốn sinh khởi đối trị thế tục kia, lại khởi thọ thuộc về tín thế gian không có điên đảo, nghĩa là sinh đắc trí. Dùng trí này làm y chỉ, dắt dẫn đến khởi năm pháp quán dừng tâm như Văn, Tư v.v…. Dùng trí này làm nương tựa, kế là “trong được phương tiện thuận quyết trạch, cho đến “thuộc về trí thế tục hữu lậu”, nghĩa là niệm, xứ chung, riêng. Dùng trí này làm y chỉ, tiếp theo là khởi tuệ v.v… quyết định lựa chọn, phương tiện của kiến đạo, nghĩa là ba thiện căn: như Noãn v.v….

“Lại, tức v.v…” trở xuống, tiếo theo, nói về trí thế tục của đời giữa.

Nói “Khi lên kiến đạo cho đến “cũng gọi là tu”, là phân biệt với năm kiến v.v… nhiễm ô.

Nói “Trí thế tục thiện, tức là do sức huân tập không có nhiễm của kiến đạo, giúp cho hạt giống của ba tuệ hữu lậu được tăng trưởng thanh tịnh. Xuất kiến đạo xong, sinh khởi trí này, chứng các pháp giải thoát do kiến dứt trừ, nghĩa là sau khi xuất kiến đạo, sinh khởi trí này rồi nói như vầy: “Tôi đã dứt hẳn phiền não do kiến dứt trừ, đã dứt hết hẳn tất cả đường ác, gọi là chứng các pháp giải thoát do kiến dứt trừ.”

Lại, tùy đối tượng mong muốn, nên có thể vì người khác mà ghi nhận rieng, sẽ vì họ kiến lập v.v…. Lại, do trí thế tục này, vì người khác lập giáo. Lại, do trí này, hay quán át pháp tịnh, phi tịnh, thọ ký cho người khác. Lại có thể đối với các hiện quán của Thánh đế, vì lập giáo cho người khác.

Nói “Lại ở trên đây cho đến “Vì đạo thế gian có thể lìa dục v.v… kia”. Bổ Khuyết rằng: “Đoạn văn này tức nói Bậc Thánh đồng với phàm phu kia, dùng sáu hạnh với Thế trí để hàng phục vô sở hữu xứ lại tu dứt trừ phiền não.”

Pháp sư Thái nói: “Y cứ theo văn này, giống với người chứng sơ quả, cũng có thể do đạo thế tục lìa dục, nhưng có lỗi là người sơ quả sinh lên địa trên và lỗi khởi diệt định, nên chưa thể là định, còn cần phải xét kinh, luận khác. Riêng có kinh Chuyển Pháp Luân nói là sơ quả cũng sinh lên cõi trên.”

Có Luận sư giải thích “văn này giải thích chung trí thế tục có thể hàng phục phiền não, được định, bấy giờ được sơ quả, cho nên nói “Lại ở trên đây, tùy theo sự thích ứng với trí ấy”, không nên nói “Sơ quả hàng phục “hoặc” là được nhập định”. Luận sư Quách nói: “Người chứng quả Dư Lưu hàng phục, dứt trừ tu hoặc, được sơ tĩnh lự, cho đến cũng hàng phục “hoặc” của vô sở hữu, được định Phi tưởng. Đời giữa, đời sau, như văn rất dễ hiểu.”

Dưới đây nói về thế trí ba đời của Bồ-tát. Nói “Lại, các Bồ-tát khởi hai thứ hạnh v.v… trong các địa”. Bổ Khuyết nói: “Hậu trí quán căn cơ, lập giáo v.v… gọi là có hạnh khác nhau của tưởng Hý luận. Trí vô phân biệt, gọi là lìa tưởng hý luận, hiện hành công hạnh.

Nói “Giống với điều thiện của xuất thế gian, vì tu việc thiện này, nên được Hậu sở đắc thuộc trí thế tục v.v…, nghĩa là giải thích có tưởng hý luận. Trước kia. Tức Trí hậu đắc, gọi là Trí thế tục. Nếu theo môn này, từ Thập địa, Phật địa đều có trí thế tục, nên ở trên nói rằng: “Mười

lưc của chư Phật là thuộc về Trí thế tục, vì kèm theo hý luận.” Lại, giải thích: “Thuận với Trí thế tục có hai:

  1. Thể là hữu lậu “duyên” với thế tục.
  2. Tánh là thế tục vô lậu, gọi là trí thế tục.

Nay y cứ vào ba đời để nói về trí thế tục. Vì y cứ vào Thế tục hữu lậu kia để nói, không nói đức Như lai Trí hậu đắc, Trí thế tục hữu lậu. Luận sư Tăng Huyền nói: “Trong đây, đến địa rốt ráo, chỉ lấy địa thứ mười.”

Kế là, nói về ba đời xuất thế.

Nói “Nếu kiến đạo của phẩm pháp, thì đối trị với kiến dứt trừ “hoặc” cõi Dục”: Đây là y cứ ở giả mà nói chứ chẳng phải thật sự là đạo dứt trừ, chủ yếu là khi vô tưởng tu quán chân như, mới có thể dứt trừ “hoặc”.

Hỏi: “Tất cả loại trí (nhất thiết loại trí) hiện ở trước đều rõ cõi Sắc, Vô Sắc phải không?

Bổ Khuyết rằng: Ở đây “Hỏi loại trí này cho đến số nhiều, nghĩa là đạo phương tiện, cho đến đạo Thắng Tấn, chẳng biết kiến đạo trở xuống, quán trí không cõi trên, gọi là Loại trí. Cũng có thể phân biệt rõ ràng cõi Sắc, Vô Sắc ư?”

Đáp: “Đã có Loại trí trong tướng Kiến đạo vì đã từng khéo nghe, tư duy, nên có thể phân biệt rõ ràng, Trí khác thì không thể. Cũng có thể kiến đạo trở xuống đã có Loại trí, quán ban đầu không thể, nhưng nếu nghe, tư duy lâu ngày, thì sẽ phân biệt rõ.”

Pháp sư Thái nói: “Nếu đối với cõi Sắc, sẽ được từng tư duy, sẽ khởi tu tuệ, khéo lấy tướng, loại trí quán đế, sau khi biết rõ chung xong, nhận biết riêng. Nếu không như thế, thì chỉ hiểu rõ quán chung, chứ không thể biết riêng.”

Luận sư Tăng Huyền nói: “Ý hỏi chỉ “duyên” chúng sinh hay sẽ

“duyên” chúng sinh thế gian và cả khí thế gian ?”

“Trong phần đáp có hai nghĩa, rất dễ hiểu.”

Nói “Các trí khác cho đến “thuộc về hai phẩm”: Bổ Khuyết rằng: trí bốn đế cho pháp. Thể này là Tỳ-Bát-Xá-Na, tức định, tuệ, do vắng lặng nên gọi là Xa-ma-tha.”

Luận sư Tăng Huyền nói: “Vì tám nhẫn có định, nên gọi là ở phẩm Tỳ-Bát-Xá-Na. Vì tam trí dứt định, nên gọi là ở phẩm Xa-ma-tha, vì các trí thuộc tám trí, tám nhẫn này là thuộc về hai phẩm: Pháp, Loại.”

Nói: “Lại, đối với kiến đạo cho đến “thứ lớp hiện ở trước”, nghĩa là hạt giống kiến đạo từ hạt giống của bản hữu chưa gặp được “duyên’ thù thắng, nên không thể tăng trưởng. Nay, vô tướng kiến đạo, niệm đầu tiên hiện ở trước, có thể huân phát khắp các hạt giống của kiến đạo, tức khắc được tăng trưởng, gọi là “đắc”. Từ đây về sau, dần dần theo thứ lớp hiện ở trước.”

Nói: “Vì đối với các đế, do có tưởng tướng, khéo lấy tướng”, giải thích rõ có hí luận.”Vì như thời gian trước đã thấy, biết và Tu-diệu trí”, là giải thích lìa hí luận.

“Vì hạnh nhàm chán các việc thiện thế gian, khiến cho tâm nhàm chán”, là giải thích lại hí luận.

“Vì thọ lãnh các thứ pháp lạc mầu nhiệm”: là giải thích lại lìa hí luận, vận hành trí xuất thế.

Thứ bảy, là nói về sự khác nhau của chứng đắc thần thông:

Nói: “Như Vua Mạn-Đà-Đa v.v… ”. Mạn, Trung văn dịch là ngã”; Đà Đa, Hán dịch dịch là “Dục” (nuôi nấng), hoặc nói là “trì” (gìn giữ); hoặc nói là “dưỡng”, là Đảnh Sinh Vương. Người cha vốn sinh trên bắp vế, trên đỉnh đầu của người cha có một bướu thịt. Thời gian sau ở mông, bướu thịt vỡ ra có một đồng tử khôi ngô phi thường. Phụ Hoàng bồng Thái tử vào cung. Vua có một trăm phu nhân. Nhà vua phán rằng: “Trong các khanh, ai là người có thể giữ gìn, nuôi nấng con của trẩm?’ Tất cả đều quì xuống tâu: Thần thiếp có thể gìn giữ, nuôi nấng”. Nhà vua bèn giao Thái tử cho Đệ nhất phu nhân nuôi nấng. Cho nên có danh hiệu này.

Tứ này dịch là Đảnh Sinh, nghĩa là từ sinh, lập danh hiệu, chẳng phải vốn chính danh.

“Như tạo ra sự huyễn hoặc, áp đảo làm cho thây chết ngồi dậy ”. Tam Tạng Pháp sư nói rằng: “Ở phương Tây có người dùng năng lực của chú, hoặc dùng năng lực ảo thuật để sai khiến thây chết đi đến địa phương khác, nói năng, hỏi, đáp, đoạn quay trở về bản xứ, gọi là tử thi đứng dậy. Nếu chỉ khiến thây chết đứng, ngồi, hỏi, đáp với người, không thể đi qua địa phương khác thì gọi là Bán khởi thi.”

Pháp sư Thái nói: “Lại, giải thích: “Chỉ có thể le lưỡi, gọi là “bán thây chết”, như theo truyền thuyết, phép chú thuật của phương Tây, nếu chú nguyện thây chết thè lưỡi ra, kẻ được lưỡi ấy, sẽ được hai thanh kiếm. Người có được lưỡi gươm này, thân họ sẽ bay lên hư không, sẽ được đến chỗ của các vị tiên. Thây chết ấy se thực hiện trọn vẹn mọi động tác nói trên.”

Nay, lại dẫn luật Tân căn bản Tát Bà Da để giải thích. (Như quyển thứ năm mươi chín ở trước có chép.

Thứ hai, trong phần nói về pháp sở thức. Đầu tiên là chia ra năm môn. Kế là, dựa vào môn giải thích.

Trong giải thích môn thứ năm gồm có:

  1. Nói về đối trị chướng.
  2. Nói về tướng khác nhau của tâm.
  3. Tổng kết.

Trong giải thích về sự khác nhau của sanh:

Nói “Nếu trước đây chưa khởi tĩnh lự, Vô Sắc, khi sinh cõi Dục, thì phải từ Vô gián cõi Dục, tâm thiện của Sơ định được sinh: theo luận Tiểu thừa nói, chỉ từ cõi Dục xả, đều có tư tuệ sinh tâm cõi Sắc. Nay, trong Đại thừa, chưa thấy thành văn. Nói theo nghĩa) thì hỷ, xả đều có tâm, đều được sinh tâm định. Cũng có thể y cứ từ xả tâm, đều có sinh ra tâm định, vì hỷ thô, động, trở ngại cho định. Theo văn của Bản Địa. Phần, thì cách giải thích sau là hơn.

Lại, tâm thiện cõi Dục là Vô gián sinh tâm của định vị chí. Về sau, nhập định căn bản để đồng một hệ thuộc, nên nói: “tâm của Sơ định”.

Nói “Lại, từ tâm vô ký không gián đoạn của cõi Dục, tâm thiện cõi Sắc sinh cho đến” chẳng phải tự tánh, nghĩa là vì tâm biện hóa này là quả của thiền, nên đồng địa với thiền, chẳng phải hệ thuộc cõi Dục.

Nay, nói thân cõi Dục “duyên” cõi Dục, biến hóa ra thức của ảnh tượng bốn trần, gọi là cõi Dục. Vì sao? (Vì như tâm biến hóa cõi Sắc khi tạo nên sự biến hóa cõi Dục, “duyên” trần của cõi Dục biến hóa không khác nhau, chỉ “duyên”bốn trần, tướng phần của tự tâm, là ảnh tượng của bốn trần cõi Dục, vì giống với bốn trần của cõi Dục, nên gọi là “duyên” cõi Dục, chính là nói tâm biến hóa từ sở “duyên” kia, gọi là hệ thuộc cõi Dục chẳng phải tự tánh, không đồng với luận Tiểu thừa cho rằng, tâm biến hóa của cõi Dục bốn thiền tức là thuộc về cõi Dục”.

Nói “Lại, ở cõi Dục mất, khi sinh lên địa trên, tâm thiện, tâm vô ký Vô gián của cõi Dục, sinh tâm nhiễm ô v.v… của địa trên” nghĩa là ở cõi Dục mất, sắp sinh lên địa trên. Khi sắp qua đời, tâm thiện, tâm vô ký Vô gián cõi Dục, tùy theo nơi sinh. Tâm nhiễm ô của địa trên, khi sắp qua đời, khởi nhuận sinh địa trên. Từ tâm nhiễm ô của địa trên mất, trở lại khởi tâm vô ký của báo cõi Dục, qua đời. Người kia đã khởi tâm của địa trên, quyết định việc làm của địa mình, mới sinh khởi, không đồng với luận Tiểu thừa cho tâm ba tánh lúc mạng chug”.

Nói “Lại, lúc từ địa trên mất, sinh xuống địa dưới, từ tất cả tâm Vô gián thiện, nhiễm, vô ký của địa trên, chỉ có tâm nhiễm của địa dưới sinh v.v… nghĩa là nếu theo môn lý tùy chuyển thì khi từ địa trên mất, sinh xuống địa dưới, thân ở địa trên không khởi tâm ô nhiễm của địa dưới.

Nay, vì dựa vào môn lý chân thật, nên thân ở địa trên khi sắp qua đời, khởi tâm nhiễm ô của địa dưới, nhuận sinh. Tâm nhiễm ô của người đó sẽ quyết định cảnh do mình sinh sinh ra có khác nhau.