DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 6

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 20

Địa do tu mà thành.Tu, là tu tập, tức là định hơn hết phát sinh trí tuệ,vì tu đối trị, nên định mà phát tuệ giải lý sự, gọi là tu tuệ. tuệ này và tâm, tâm sở v.v… tương ưng, cùng quả đã được, hoặc hữu vi hoặc vô vi đều là Thể của Địa này.

Văn chính được chia làm hai:

  1. Kết trước, hỏi sau.
  2. Đáp câu hỏi, chính giải thích.

– Trong giải thích có ba:

  1. Nêu bốn Xứ.
  2. Lấy bảy chi gồm thâu nhau, giải thích rộng.
  3. Tổng kết thành Địa do Tu thành.

Trong bảy chi gồm thâu nhau giải thích rộng, trước, là nêu chung bảy chi nhiếp nhau. Sau, nói rộng về tướng riêng.

Văn đầu có ba: Đầu tiên, là nêu, kế là nêu, sau, kết.

Xứ là Xứ sở. Vì dựa vào bốn Xứ nghĩa để tu, mới được viên mãn.

Nơi chốn thứ nhất, Thể trong, “Duyên” ngoài, cần phải đầy đủ.

Thứ hai, nhân duyên thực hành phương tiện tu thế, xuất thế.

Thứ ba, Tu Du-già, chính là tu tự thể.

Thứ tư, Tu quả. Nhân tu mà được quả công đức hữu vi, vô vi của thế gian, xuất thế gian.

– Gồm thâu bảy chi:

1. Sinh viên mãn tức là Xứ tu.

2. Nghe chánh pháp viên mãn.

3. Niết-bàn là Thượng thủ.

Ba thứ trên đây gọi là tu nhân duyên.

4. Chủ thể thuần thục thành tựu tuệ giải thoát.

5. Tu tập đối trị, gọi là tu Du-già.

6. Thế gian thanh tịnh.

7. Xuất thế gian thanh tịnh, gọi là tu quả.

Phân biệt rộng, trong tướng bảy chi, do thuộc về bốn Xứ, tức chia làm bốn: Đầu tiên, văn trong sinh viên mãn tu Xứ sở được chia làm ba:

1/ Nói về sinh viên mãn.

2/ Chủ thể gồm thâu bốn chi tu Xứ Du-già.

3/ Kết sinh viên mãn, nghĩa của Thánh giáo rộng, không thêm, không bớt.

Văn đầu lại có ba:

1/ Hỏi, nêu mười thứ 2/ Mỗi thứ đều nói riêng 3/ Tổng kết thành.

Lại, ở trung quốc không sinh biên địa v.v… Luận sư Thái nói: “Chỉ có Trung Thiên-trúc gọi là trung quốc. Bốn Thiên-trúc còn lại, tuy có bốn chúng du hành qua lại nhưng đều gọi là Biên địa. Đạt-tu không có âm chính thức để dịch. Dù có nhận thức phân biệt là nghĩa ngận lệ (tàn ác) hay Miệt lệ xa, cũng không có âm nào có thể dịch. Không biết chi cả, nghĩa là ngoan hiêu (tham lam tự đắc).

Hai Xứ sau này đều không có bốn chúng qua lại, cũng không có bậc Thánh cư ngụ.

Có thức, không có thức, vì đã phân biệt, nên chia làm bốn Xứ:

1/ Trung Thiên-trúc, vì chư Phật ba đời đều sinh ở Xứ này, nên gọi là trung quốc.

2/ Bốn Thiên-trúc dù không có Phật ra đời, nhưng vẫn có bốn chúng qua lại hóa đạo.

3/ Ngoài bốn Thiên-trúc, lúc Phật còn ở đời, không có Phật, bốn chúng xuất thế du hành, nhưng người có nhận thức, phân biệt, như nước Đường v.v… gọi là nước Đạt-tu. Bốn nhóm mọi rợ trang bị binh khí cung nỏ, dao mác v.v… gọi là Miệt lệ xa.

Luận sư Cảnh Cơ đồng giải thích: “Theo tục phương Tây nói: “Chỉ năm Ấn-độ gọi là Trung quốc, ngoài ra gọi là Biên Địa.”

Pháp sư Cảnh lại nói: “Miệt lệ xa, gọi là ưa nhơ bẩn, xung đột v.v… Đạt-tu là loại thấp hèn, tức nói thông lãnh này thuộc về các nước phía Đông.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đạt-tu, Nghĩa là vụn vặt, loại thấp hèn xấu ác, bỉ ổi. Miệt lệ xa, nghĩa là ưa nhơ bẩn.

Y cứ Kiền-Độ Bì Cách của Luật Tứ Phần, Đại Ca-Chiên-Diên đang ở nước A-Bàn-Đề, sai Ức Nhĩ đến vấn an đức Thế tôn đang ngự tại núi Kỳ-Xà-Quật để xin năm việc:

Xin cho ở biên địa năm vị thì được thọ giới. Đức Phật cho AThấp-Ba nước A-Bàn-Đề, giữ luật, năm người được thọ đại giới. Nếu có phương khác cũng cho phép, phương khác, là phương Đông, có nước tên là nước Bạch Mộc Điều. Ngoài ấp nước cũng cho phép. Phương Nam có ngôi tháp tên Tịnh Thiện. Ngoài tháp, cũng cho phép phương Tây có quốc sơn, tên là Nhất Sư Lê Tiên nhân chủng. Ngoài núi cũng cho phép. Phương Bắc có nước tên Trụ, ngoài nước này cũng cho.

Bạch Thủy Điều. Tuyên Luật Sư nói: “Đời Lương, từ phía Tây bắc đến triều đại nhà Lương.

Theo văn luật Tứ phần kia, người Trung quốc dường như thông nhiều Xứ, chẳng hạn chế Trung Ấn-độ.

“Nghe chánh pháp viên mãn…” trở xuống, là giải thích về nhân duyên tu thứ hai, trong đó chia làm ba:

1/ Giải thích rộng ba chi.

2/ “Lại tùy thứ lớp đã nói ba chi..” trở xuống, là kết thành giáo rộng, không quá, không tăng.

3/ “Sau, lại có ba chi này, phải biết tức là tu nhân duyên Du-già…” trở xuống, kết thành ba chi thuộc nhân duyên tu. Lại, chính là nói pháp, đại khái có hai hạng: “Đó là thuận theo và không có nhiễm ô. Nói rộng có hai mươi, như Bồ-tát Địa nói: “Đây là chính thức nói pháp, thuận theo “Hai không” làm rạng rỡ Chân như. Và không có hy vọng mà vì người khác nói, cho nên không có nhiễm ô.

Trong Niết-bàn là Thượng thủ, trước hỏi, kế giải thích; sau, kết nghĩa rộng.

Trong giải thích, chia làm hai:

1/ Giải thích Niết-bàn là tướng đứng đầu.

2/ Giải thích do Niết-bàn này mà được năm thắng lợi.

Văn đầu lại chia làm hai:

1/ Nói chung Niết-bàn là đầu tiên nghe chánh pháp, không vì “duyên” khác.

2/ Dùng mười chuyển để giải thích, lấy làm đầu.

Trong văn sau có hai:

1/ Nêu mười chuyển.

2/ Niết-bàn là đầu.

Sau, giải thích mười chuyển:

Nói mười chuyển là:

1/ Tuệ do văn thành làm nhân.

2/ Đối với Đạo, quả Đạo Khởi ba thứ tín: a/ Tin Đế thật. b/ Tin Giới thật. c/ Tin khả năng của mình.

Như Luận Duy Thức nói.

3/ Xa lìa chốn ồn ào, náo nhiệt, các Tầm, Tư xấu ác.

4/ Hướng thiện, quyết định Trí do Tư thành.

5/ Chủ thể thu nhận do phương tiện hai tu.

6/ Chứng tu tuệ.

7/ Đối với sinh tử, Niết-bàn, phát khởi sự nhàm chán, ưa thích.

8/ Nhập hiện quán đế, Hữu học giải thoát.

9/ Thường tu Đạo giải thoát Vô học.

Năm chuyển đầu, ở Niệm trụ, quán bất tịnh v.v… ở trước. Một chuyển tiếp theo, ở địa vị Niệm trụ v.v… của quán Bất tịnh . Một chuyển tiếp theo, ở bốn thiện căn, đối với sinh tử, Niết-bàn, Khởi tưởng nhàm chán, hân hoan, nên tức bốn Đế, quán hai thứ sau, rất dễ hiểu.

10/ Chín thứ trên đây lấy Niết-bàn Vô dư làm đầu, tức do đây nên chứng Vô dư y, đây là chuyển thứ mười. Cũng có thể trong chín thứ trên, Niết-bàn Hữu dư y là Thượng thủ, gọi là giải thoát viên mãn, tức giải thoát này lấy Niết-bàn Vô dư làm đầu.

Năm thắng lợi: Lúc nghe chánh pháp, có hai lợi ích. Khi tu hạnh chính, cũng được hai lợi ích. Và, chứng bờ mé khổ, thành thục trong tuệ giải thoát thành thục có hai: Trước hỏi, sau đáp.

Trong phần đáp có ba:

1/ Nói về Chỉ, Quán do tuệ thành thục.

2/ Nói gần gũi bạn lành, tập ba học, do tuệ thành thục.

3/ Nói vềchủ thể thành thục pháp thành thục giải thoát.

Giải thoát, nghĩa là quả. Chủ thể thục (năng thục) là nhân, tức Chỉ Quán v.v… Quả và Nhân này đều là đối tượng thục (sở thục).

Tuệ là chủ thể thục, vì năng thành thục nhân quả kia, nên gọi là Thành thục tuệ.

Tuệ trong tâm định, vì chuyển thanh tịnh đối với cảnh sở tri. Nghĩa là giải thích về chi Xa-ma-tha, do tuệ thành tựu. Tâm định không có cảnh của tuệ chứng, sẽ không sáng suốt, chướng bẩn không lìa. Do tuệ chứng sáng suốt và khả năng lìa chướng, nên tâm định mới viên mãn, nên gọi là tuệ thành tựu.

Thứ hai, “Lại, chi Tỳ-Bát-Xá-Na” trở xuống, là giải thích dựa vào bạn lành, tu ba học do tuệ thành thục, trước, là nêu,sau, giải thích.

1/ Khởi tu tuệ, tất nhiên, phải nương tựa vào sự nhiếp thọ của bạn lành.

2/ Dựa vào đối tượng nhiếp thọ của Xa-ma-tha.

3/ Nương tựa vào đối tượng nhiếp thọ của Thi-la viên mãn.

Đầu tiên, vì khởi sự tu tuệ, nên không nói là do sự nhiếp thọ của tuệ. Hoặc vì khởi Văn tuệ, nên không nói là do tuệ nhiếp thọ; chưa có hiện hành tuệ phương tiện. Nếu về sau, khởi tuệ, thì về mặt lý, cũng sẽ được tuệ nhiếp thọ.

Tiếp theo, trong giải thích riêng, chỉ giải thích nương tựa bạn lành và được Thi-la nhiếp thọ, không dựa vào đối tượng nhiếp thọ của định. Chỉ ở trước đã thành tựu, tức là định này.

Bạn lành nhiếp thọ. Nghĩa là do bạn lành nhiếp thọ, lúc vì thọ pháp, đối với pháp đã nói, do có tuệ trong cảnh Sở tri, nên có giác hữu rõ.

Nhiếp thọ Thi-La. do Thi-la nhiếp thọ, người khác có ba căn tùy nêu tội v.v… Do có tuệ, nên có thể chịu đựng những luận điệu chê bai.

Thứ ba, “Lại dựa vào sở tri chân thật” trở xuống, là giải thích về mười thứ chuyển, hay thành thục trong pháp thành thục của tuệ giải thoát, có hai:

1/ Nói về mười thứ.

2/ Kết mười thứ lần lượt khiến cho giải thoát viên mãn. Mười thứ là:

1/ Đối với cảnh, chân thật có giác rõ dục.

2/ Ưa thích nghe pháp.

3/ Liền nêu câu hỏi.

4/ Nghe nghĩa pháp rất sâu từ xưa chưa từng được nghe.

5/ Nói về nghĩa pháp rấr sâu xa từ xưa chưa từng được nghe.

6/ Thấy những tai hại lỗi lầm, chán ngán sâu sắc việc thịnh hành của đời thường.

7/ Không mong muốn, ưa thích việc hưng thịnh ở đời.

8/ Vì bỏ đi pháp đường ác, tâm sinh nguyện vọng chính đáng.

9/ Vì dứt trừ các “hoặc”, tu các pháp lành.

10/ Vì được quả giải thoát kia và tâm thanh tịnh, tâm sinh ra mong muốn chính đáng.

Do đây, lần lượt giải thoát viên mãn, kết thành ba chi, gồm thâu rộng Thánh giáo, lại trong không có quá, không có thêm.

Ba chi như thế, nghĩa Thánh giáo rộng, tức là mười mười thứ v.v… Luận sư Cảnh nói: “Ở trước y cứ ở mười pháp nói trong môn thứ tư, khiến cho tuệ thành tựu. Vì tuệ thành tựu, nên giải thoát thành tựu. Giờ đây, thêm vào đó, y cứ chung, hướng về các môn khác trước thành với nhau, để nói thành tựu. Nghĩa là do phần thứ hai vì nghe pháp viên mãn trong bảy chi, nên được thượng thủ viên mãn của Niết-bàn thứ ba. Vì Niết-bàn, viên mãn đứng đầu, nên được chủ thể thục thứ tư thành thục tuệ giải thoát.

Ba chi như thế, mỗi chi đều có mười môn phân biệt của môn rộng trong Thánh giáo của Phật, cho nên nói “Nghĩa Thánh giáo rộng của ba chi, nghĩa làmười thứ mười tức là ba chi này, mỗi chi đều có mười nghĩa môn phân biệt , gọi là mười thứ mười.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nghĩa là vì đầu tiên nghe chánh pháp, nên đại khái đối tượng tu hành đều đặt Niết-bàn ở đầu. Đối tượng tu học có thể thành tựu địa vị giải thoát v.v… kia, tất cả đều thành tựu tuệ. Hai thứ sau này do nghe chánh pháp làm đầu, lấy Niết-bàn làm Thượng thủ, trong đó có mười pháp chuyển. Trong thành tựu tuệ có mười thứ lần lượt, vì thế, nên kết giáo rộng, gọi là mười thứ mười, chứ chẳng phải nói rằng nghe chánh pháp cũng có mười. Cho nên, trong nghe chánh pháp không có kết giáo rộng, hoặc quá, hoặc thêm. Có hai thứ sau, là kết.

Thứ năm trong bảy chi là tu tập đối trị, tức thứ ba tu tập Du-già trong bốn Xứ, văn chia làm bốn:

1/ Hỏi, nêu chung.

2/ Tùy theo giải thích riêng.

3/ Lấy tu đối trị, tức tu Du-già.

4/ Kết giáo rộng, không quá, không thêm. Trong tùy giải thích riêng có ba:

1/ Giải thích mười thứ tu tập của ba địa vị.

2/ “Lại, tưởng bất tịnh, đại khái có hai thứ” trở xuống, theo giải thích vấn nạn trước.

3/ “Lại, phương tiện chính tu các tưởng có công năng đoạn diệt các dục bị đối trị” trở xuống, là giải thích nhiều công tác tu tập đối trị, văn đầu có hai:

1/ Nêu ba địa vị.

2/ Giải thích mười tu.

Trong giải thích mười tu, văn có ba:

a/ Nói về hai tưởng: bất tịnh, và Vô thường.

b/ “Lại, bốn thứ tạo tác của người xuất gia” trở xuống, là nói về bốn tưởng: Vô thường, Khổ v.v…

3/ “Lại, đối với xa lìa chỗ ồn ào náo nhiệt” trở xuống, là nói về bốn tưởng: ánh sáng v.v…

Mười thứ bị đối trị. Luận sư Cảnh nói: “Trong địa vị tại gia có hai:

1/ Đối với vợ, nhà, khởi tham, (nổi lòng tham) thì tu quán bất tịnh để đối trị.

2/ Đối với người thân khác, và tài sản, châu báu, sinh tưởng yêu thích, thì tu quán Vô thường để đối trị.

Trong giai đoạn xuất gia có bốn. Trong vị xa lìa cũng có bốn, nên thành mười thứ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói:

1/ Người tại gia có dâm dục, tham và thọ dụng ái.

2/ Người xuất gia đã bị Tầm, Tư khuấy động, không sinh Hỷ, lạc, niềm vui, nỗi mừng), tu tưởng Vô thường, chứng tỏ tưởng Vô thường này là phương pháp tu tập chung cho hai phái tại gia, xuất gia. Nói là theo thứ lớp, chứ chẳng phải do tại gia, xuất gia là hai địa vị, gọi là theo thứ lớp.

1/ Nói về bốn thứ việc làm.

2/ Nói về bốn thứ bị đối trị. (đối tượng trì) 3/ Nói về bốn thứ pháp “năng trị” (chủ thể trị).

Tám sở trị (đối tượng trị) khác dưới đây và pháp “Năng trị” (chủ thể trị), tức sau khi xuất gia, Giả sử sinh Hỷ, lạc, có trễ nải lười biếng v.v… là bốn. Xa lìa chỗ náo nhiệt, ở nơi vắng vẻ, đối với phẩm chỉ quán, có tâm đen tối, mê muội v.v… là bốn. Vì thế, trong địa vị xuất gia, Khởi bốn thứ chướng trong bốn thứ việc đã làm. Vì loại trừ chướng này, nên tu bốn tưởng như Vô thường v.v…

Trong bốn tưởng hàn quang sáng v.v… có hai:

1/ Nói về bốn thứ đối tượng trị (sở tri).

2/ Nói về bốn tưởng.

Nói ba tướng tùy động đối với “sinh hữu”, tâm là chủ thể đối trị.

Người tu Tưởng diệt này, đối với trạng thái sinh diệt của các pháp hữu vi, trở lại di động, gọi là tướng “sinh động”.

Nay, vì trong thấy tướng “sinh động” đó, nên gọi là đối với tướng thuyên chuyển giao động. Hoặc đối với “sinh hữu” ở tương lai, thường sinh mừng, vui, gọi là tướng “Tùy động”. Nhằm đối trị tướng này, nên tu tập tưởng “diệt”, tức có bất sinh chẳng có ý ưa thích.”

– Dù có hai giải thích, đại khái có hai thứ dưới đây:

Thứ hai, theo trong giải thích vấn nạn trước, được chia làm ba:

1/ Giải thích tưởng bất tịnh đầu tiên của người tại gia.

2/ Giải thích người xuất gia tu tưởng khổ đối với Vô thường.

3/ Giải thích về sự tránh xa trong chỗ cư trú vắng vẻ để tu tưởng ánh sáng.

Trong tưởng bất tịnh có ba:

1/ Bày tỏ hai sức.

2/ Nói về hai chướng.

3/ Nói về diệt trừ chướng này, pháp “năng trị” phần nhiều có đối tượng tạo tác.

Tư trạch. Nghĩa là chính thức nghĩ so lường.

Tu tập. Nghĩa là Khởi tu hành.

Trong giải thích chướng, trước, nói về chướng, sau, là kết.

Trong năm chướng, ấp Cận Mẫu nghĩa là thường gần gũi chỗ người nữ.

Nói về thất niệm. Nghĩa là đối với chúng, gặp cảnh sáng tỏ vượt hơn ở trước.

Ở ẩn, buông lung. Nghĩa là ở một mình nơi vắng vẻ, thường nảy sinh tưởng bất chính, chỗ chung ẩn hiển, do năng lực tu tập: do chỗ tu tập này ẩn hoặc hiển, thất niệm buông lung, tuy phương tiện siêng năng, v.v… khi tu bất tịnh, tà tư cũng hơn, tâm tùy theo tưởng tịnh.

Bảy thứ chướng:

1/ Về sự việc vốn đã làm, tánh tán loạn của tâm. Luận sư Cảnh nói: “Sự tán loạn của hành dục tham căn bản. Luận sư Thái nói: “Nhớ lại sự nghiệp kia, tâm liền tán loạn, nên che lấp tu tuệ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tùy theo thời gian của việc kia, tâm sinh tám loạn.”

2/ Việc vốn đã làm, hướng về tánh tác dụng. Luận sư Cảnh nói: “Thực hành phương tiện tán loạn về tham.”

Luận sư Thái nói: “Nhớ lại sự nghiệp mình đã làm trước đây, hướng về tạo tác, cũng che lấp tu tuệ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Sắp sửa thực thi việc kia, phát khởi (cảm thấy) hân hoan, tiến đến tác dụng của phương tiện.

3/ Tác ý phương tiện, với tánh xảo trá bất thiện. Luận sư Cảnh nói: “Như trẻ con ngày nay, với tâm tham, muốn lấy thức uống, ăn của Phật, tăng. Chúng không hiểu thế nào là tội, không tội đối với cử chỉ cung kính, ân cần thưa hỏi thầy.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Như người không có trí, lạm dụng của cải Tam bảo, bởi vì không cung kính, thờ phụng thầy, bạn, ân cần thưa hỏi, không am hiểu phương tiện.

4/ Không giữ căn môn. Dù ở trong hư không, vẫn có Tầm, Tư nhiễm ô làm rối loạn.

5/ Đối với thức ăn, không biết độ lượng; thân không điều hòa thích hợp.

6/ Vì Tầm, Tư gây não loạn, nên không ưa định (chỉ) vắng lặng.

7/ Vì thân không điều hòa, nên không tu phẩm tuệ, quán sát các pháp.

Tất cả pháp đối trị như thế, phải biết rằng, nói chung một môn mười hai, một môn mười bốn. Luận sư Cảnh, Cơ đồng nhận định “Nói về hai chướng riêng. Trước năm, sau bảy, gọi là mười hai. Kết kợp nói về chung, riêng, lại thêm hai thứ chung. Nghĩa là Tư trạch chướng và tu tập chướng, nên thành mười bốn.”

Pháp sư Thái nói: “Tức trong bảy pháp sau không cung kính, thưa hỏi, căn môn ấy rối loạn. Nếu chung làm một thì chỉ có bảy pháp, nếu chia làm hai và nhiễm tầm tư để làm ba pháp, nên nói mười bốn.

Giải thích trong tưởng ánh sáng có ba:

1/ Nói chung, ở đây “duyên” ánh sáng của Pháp.

2/ Nói về mười một chướng tối tăm “sở trị” (đối tượng trị).

3/ Nói về pháp bạch của chủ thể trị (năng trị) trái với chướng.

Như thế, vì nghi đeo đuổi theo: Kiết, sự che lấp tối tăm đầu tiênvì chướng ngại, có thể dứt trừ nhân duyên nghi. Nghĩa là ba thứ chướng sau của Kiết: Tinh tấn, siêng năng, ít ngủ; Ăn giữa ngày thân điều hòa, thuận với pháp quán Đế. Không muốn ở chốn tạp nhạp, tác ý như lý là chủ thể trừ khử nhân duyên nghi. Vì ba chướng sau, nên ở đây nói là chướng ngại có khả năng dứt trừ nỗi nghi ngờ.

Tuệ do tu thành đã dứt trừ bảy pháp tối tăm:

1/ Hôn trầm. 2/ Trạo cử. 3/ Mừng vui. 4/ Pháp tương ưng v.v… với hai thứ: sợ, sân. 5/ Khởi nói năng Tầm, Từ. 6/ Không chánh tư duy và tâm tán loạn. 7/ Tư duy câu kết với tà.

Tu tuệ đã diệt trừ chướng tối tăm của bảy thứ theo thứ lớp đó.

“Tất cả thứ thanh tịnh của thế gian” trở xuống, là giải thích về quả tu thứ tư. Văn chia làm hai” 1/ Giải thích hai thứ tịnh. 2/ Kết thành quả tu.

– Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Giải thích chi thế gian thanh tịnh thứ sáu.
  2. Giải thích chi xuất thế thanh tịnh.

Phần một lại có:

1/ Giải thích rộng về tướng.

2/ Kết thế gian thanh tịnh, chỉ ở chánh pháp, chứ chẳng phải ở các ngoại đạo.

Văn đầu tiên có ba:

1/ Hỏi, nêu ba danh hiệu.

2/ Tùy theo giải thích riêng.

3/ Kết giáo rộng không quá, không thêm.

Trong giải thích riêng: Mới được Sơ Tĩnh lự; định Vị chí, gọi là được Tam-ma-địa. Được Địa căn bản, gọi là Tam-ma-địa viên mãn. Lìa nhiễm các chướng, sinh riêng tuệ thông thanh tịnh, tươi tỉnh, gọi là Tam-ma-địa tự tại.

Trong được Tam-ma-địa chia làm bốn:

1/ Giải thích về tướng riêng của đối tượng trị (sở trị), chủ thể trị (năng trị).

2/ Giải thích “được”, nghĩa được phần gần.

3/ Kết giáo rộng không quá, không thêm.

4/ Kết tịnh của thế gian, trụ chánh pháp, nghĩa là “được”

– Văn đầu có hai:

a/ Nói mười hai pháp đối tượng trị (sở trị).

b/ Nói về chủ thể trị.

– Văn đầu lại có hai:

1/ Nói mười hai chướng.

2/ Nói về bốn tướng có công năng che lấp.

Văn trước có ba: Đầu tiên, nêu; kế là giải thích; sau, là kết.

Trong Tam-ma-địa viên mãn có ba:

1/ Giải thích mười tướng.

2/ Kết viên mãn, nhập Địa căn bản.

3/ Kết giáo rộng.

– Mười tướng:

1/ Nguyện vượt hơn, định mãn.

2/ Thấy đức thù thắng của định.

3/ Tinh tấn, siêng năng, cố gắng.

4/ Chiết phục Ái sắc.

5/ Thiện chưa viên mãn, tu ác khác còn vượt hơn.

6/ Ở Tịnh thiên, sinh tâm không đắm nhiễm.

7/ Không mặc cảm tự ti, cố gắng vươn lên, gia tăng tu.

8/ Thuận theo hai tu.

9/ Khuyến thỉnh Chánh pháp.

10/ Đối với chỉ, quán, tùy sinh ái, lạc.

– Trong Tam-ma-địa tự tại có hai:

1/ Giải thích tướng tự tại.

2/ Kết giáo rộng.

– Văn đầu tiên có ba:

1/ Trước là nêu: Dù Tam-ma-địa đã viên mãn, nhưng vì tướng chưa tự tại, khéo quán sát, nên sẽ được tự tại.

2/ Là giải thích về hai mươi hai tướng của bốn Xứ.

3/ Sau, là “đối với bốn Xứ như thế kia…” trở xuống, là nói về tướng tự tại.

– Trong văn thứ hai có hai:

1/ Nêu bốn Xứ.

2/ Do cạo bỏ râu tóc…” trở xuống, là giải thích về hai mươi hai tướng.

Bốn Xứ:

1/ Tự thề thọ lãnh hình tướng thấp hèn oai nghi, các đồ.

2/ Tự thệ thọ cấm giới Thi-la.

3/ Tự thệ thọ siêng năng tu pháp lành.

4/ Vì dứt trừ mọi khổ, lúc thọ ba Xứ trước, nên quán sát đứng đắn mọi đau khổ đeo đuổi.

Ba Xứ trước trong bốn Xứ này, mỗi Xứ đều khởi năm tướng; riêng Xứ thứ tư khởi bảy tướng.

– Năm tướng của Xứ đầu là:

1/ Cạo bỏ râu tóc.

2/ Bỏ hình dáng tốt đẹp của thế Tục.

3/ Mặc áo hoại sắc.

Với ba tướng này, khởi lên lời tự thề thọ hình tướng thấp hèn. Lại, oai nghi, mọi đồ đều một là năm tướng.

Năm tướng của Xứ thứ hai là. Pháp sư Thái nói: “Y cứ chung năm tướng không ngoài hai thứ:

1/ Mới xuất gian tức bỏ hai việc đây là hai tướng.

2/ Tu hành, ở đây có ba tướng: a/ Không có phạm giới.

b/ Vì chính mình không trái phạm, nên có khả năng nêu tội người khác.

c/ Đối với giới có thiếu kém, làm rồi biết sám hối. Pháp sư Cảnh và Cơ đồng giải thích: Có năm 1/ Đại khái Xả hai sự được hiển hiện.

2/ Không tự phẩm thiết trách mình, người khác, không quở phạt, tần xuất.

3/ Có phạm, không nêu lên do đó thiếu phạm, bèn tự khẩn trách.

4/ Người khác đuổi , biết sám hối trừ bỏ.

5/ Đối với người cử tội, không có sân khuế, gây tổn não, mà tự tu trị.

Năm tướng của Xứ thứ ba, như văn tự tỏ rõ. Xứ thứ tư, khổ được tùy thích hợp dùng bảy tướng để quán. Pháp sư Thái nói: “Xét lại Thích luận để nêu bảy tướng.”

Luận sư Cảnh nói: “Nỗi khổ của đường ác là một, nỗi khổ sinh, già, binh, chết lại là bốn, cũng đủ với trước là năm. Khổ ái biệt ly là thứ sáu. Tự nghiệp đã tạo ra nhân của tất cả khổ là thứ bảy. Ba khổ trước, mỗi khổ được chia làm hai thành sáu. Vì nghiệp mình đã gây ra, nên đã bị tất cả nhân khổ theo đuổi, hợp thành một tướng, tức thành bảy tướng.”

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích:

“1/ Xứ theo đuổi có một tướng, đối với quả Thánh chưa thể tùy chứng.

2/ Xứ theo đuổi có bốn tướng, đó là sinh, già, bịnh, chết.

3/ Xứ theo đuổi có một, đó là pháp ái biệt ly.

4/ Xứ theo đuổi có một, đó là nghiệp mình đã gây ra.

Sinh, già, bệnh, chết, đại khái có hai nghĩa:

1/ Tánh ép ngặt, thuộc Khổ Khổ. Luận Đối Pháp v.v… nói: “Năm Khổ trước trong tám Khổ, thuộc về Khổ Khổ.

2/ Tánh dời đổi, lui dứt, sinh biến đổi đối với chết; già thay đồi đối với trẻ; bệnh thay đổi đối với mạnh khỏe; chết thay đổi đối với sống.

Vì thế, ở đây nói là Khổ hoại. Pháp theo đuổi ái biệt ly chẳng phải là Khổ hoại . Do nghĩa bao gồm Khổ đầu tiên trong đây thuộc về khổ khổ, Khổ thứ hai, thứ ba thuộc về Khổ Hoại; một Khổ thứ tư thuộc về Khổ Hành .

Trong tướng tự tại có hai:

1/ Nói về tướng v.v… tác ý như lý tự tại.

2/ “Do ưa đoạn, ưa tu như thế” trở xuống, là kết thành tướng tự tại lìa nhiễm, tiến đến điều thiện.

Trong phần đầu lại có ba:

1/ Nêu, tức là khởi tác đúng như lý.

2/ Nói dựa vào bốn Xứ để khởi hai mươi hai quán, nên mới thành tưởng xuất gia và Sa-môn.

3/ Nói về tướng đoạn tu của sáu tướng tu.

Sáu tướng: 1/ Ưa đoạn; 2/ Ưa tu; 3/ Không tham chấp mắc; 4/ Không có khuế, hại; 5/ Không có tùy “hoặc”, khéo giữ Niệm trụ. 6/ Không có tăng thượng mạn.

Trong tịnh xuất thế thanh tịnh lại chia làm ba:

1/ Nêu lên năm môn

2/ Tùy theo giải thích riêng

3/ Kết thành tịnh và nghĩa rộng của giáo.

Trước đã được bốn thiện căn thanh tịnh của thế gian xong, tức là có khả năng nhập hiện quán Đế trước hết, sinh tối tăm diệt, chướng ngại tức là diệt trừ. Vì chứng tư tuệ chung mà ở trước đã được sự cảnh Hoan hỷ. Vì dứt trừ chướng, lại tập như trước mà được Loại, Đạo. Do vậy mà có thể nhập địa vị Vô học, chứng đạo thanh tịnh và quả công đức, gọi là theo thứ lớp của nghĩa giản lược trong đây.

Trong nhập hiện quán Đế, văn chia làm ba:

1/ Hỏi về Sinh khởi, từ tịnh thế gian, chứng được xuất thế,quán cảnh kém thua của đời, sinh sâu sắc tưởng nhàm chán xấu ác.

2/ “Lại, người trụ chánh pháp này…” trở xuống, là nói rộng về tưởng nhàm chán tai họa, an trụ tâm tưởng.

3/ Kết hai tưởng này, mỗi tưởng đều có hai mươi thứ, lại không có lỗi tăng.

Nói rộng về tưởng nhàm chán tai họa trong tưởng an trụ. Văn được chia làm hai:

1/ Nói dùng hai mươi tướng để tư duy nhàm chán tai họa của năm nơi chốn. “Lại có hai mươi tướng của năm nhân” trở xuống, là nói về tâm an trụ.

Trong phần đầu có ba:

1/ Nêu lên năm Xứ.

2/ “Trong đây, đại khái có ba thứ” trở xuống, là nói về hai mươi tướng.

3/ “Người kia do nhàm chán đều cùng có hành tướng” trở xuống, là kết thành tướng nhàm chán.

Năm Xứ:

1/ Tương ưng với tạp nhiễm của mình.

2/ Không tương ưng với thanh tịnh của mình.

3/ Tai họa lỗi lầm tương ưng với tạp nhiễm của mình.

4/ Tai họa lỗi lầm không tương ưng với thanh tịnh của mình.

5/ Thấy khó, hoàn thành xong đối với thanh tịnh của mình. Đối với năm Xứ này, tâm đều cùng nhàm chán tai họa.

Nương tựa hai mươi tướng của năm Xứ. Nghĩa là ba Xứ đầu, mỗi Xứ đều có ba tướng. Xứ thứ tư có năm thứ; Xứ thứ năm có năm, hợp với tướng trước, thành mười chín. Lại, “Lại phát khởi tinh tấn vững chắc…” trở xuống, là hợp chung với năm Xứ thành một tướng, cộng với tướng trước là hai mươi.

Tương ưng vời tạp nhiễm có ba. Pháp sư Thái nói: “Nói tương ưng chung của ba thứ tạp nhiễm ở trước không do thuộc về sự phối hợp riêng.”

Luận sư Cảnh nói: “Một thứ chưa điều hòa, chưa thuận mà chết, là tương ưng với tạp nhiễm. A-la-hán chết, gọi là cái chết điều nhu, xa lìa tạp nhiễm. Nay, vì không điều hòa mà chết, nên tương ưng với tạp nhiễm. Hai thứ còn lại rất dễ hiểu.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nghĩa là thể tạp nhiễm tương ưng với mình:

1/ Chưa lìa không điều, chết, bậc Thánh vì lìa.

2/ Sẽ rơi vào hầm phiền não. Ba nghiệp ác hiện hành sẽ đọa vào chỗ ác. Đây là tùy đối tượng thích hợp, tức nghiệp phiền não sinh ra ba thứ: tạp nhiễm, thanh tịnh, bất tương ưng. Nghĩa là Niết-bàn, định, tuệ vượt hơn, Thể của pháp thanh tịnh, vì thân mình không có, nên gọi là bất tương ưng.

Tai họa lỗi lầm tương ưng với tạp nhiễm, nghĩa là do tương ưng với Thể tạp nhiễm, tức là sinh ra ba thứ tai họa lỗi lầm:

1/ Căn bản của Khổ sinh, già, bệnh.

2/ Tám xứ không có rảnh rang.

3/ Đối với tất cả chỗ sinh ra bốn tướng bị các tánh Vô thường ép ngặt.

Thanh tịnh không tương ưng với tai họa lỗi lầm. Do không tương ưng với Thể thanh tịnh, nên tai họa lỗi lầm sinh ra.

Đối với thanh tịnh của mình, gặp việc khó vẫn thành xong. Nghĩa là pháp thanh tịnh được thấy ở thân mình, khó có thể thành xong:

1/ Nếu xả pháp tịnh mà không tu, thì người ấy cuối cùng không thể nhậm vận tự khởi sự làm là có đạt được hiệu quả mong muốn.

2/ Ngoài pháp thanh tịnh ra, đối với việc đời, còn chẳng phải mời thỉnh người khác mà có thể thành xong, huống chi là việc thanh tịnh?

3/ Đối với việc thanh tịnh quyết định nên thực thi, do tâm chưa thanh tịnh, nên đối với sự việc kia chưa thoát.

4/ Chẳng phải trong hiện tại, không làm các việc ác, mà ngay cái tên thanh tịnh đã được lìa hẳn ngọn lửa phiền não đang hừng hực cháy. Nếu không có Thánh đạo, tất nhiên nghiệp ác sẽ không bao giờ hết.

5/ Đo Đạo thanh tịnh viên mãn mới chứng được quán và được thanh tịnh. Nếu không chứng được Đạo học, Vô Học, thì cuối cùng không tịnh.

Trong tướng thứ hai mươi có bốn chữ “Hựu” (lại):

1/ Một chữ “lại” tương ưng, không tương ưng với thể nhiễm ô, thanh tịnh.

2/ Chữ “lại” thứ hai, tai họa lỗi lầm tương ưng, không tương ưng với nhiễm tịnh.

Hai chữ “lại” ở dưới đối với tướng tư duy của năm kiến thức khó thành xong.

Thứ hai có hai mươi tướng, trong tâm an trụ có ba:

1/ Nếu hai mươi thứ của năm nhân, thọ thuộc về “tướng”, giúp cho tướng an trụ của tâm đối với Niết-bàn.

2/ Giải thích riêng về năm nhân.

3/ “Lúc bấy giờ, tâm kia do năm nhân này…” trở xuống, là kết thành an trụ.

Trong giải thích riêng năm nhân, được chia làm hai:

1/ Nói về năm nhân.

2/ “Nghĩa là đối với “không”, “Vô nguyện” v.v… ” trở xuống, là giải thích hai mươi tướng.

Trong năm nhân có ba:

1/ Hỏi, 2/ Giải thích, 3/ Kết.

Năm nhân dựa theo thứ lớp Nghịch, nói năm nhân:

1/ Bốn thiện căn khai sáng năng quán thông suốt bốn Đế

2/ Định sở y tức định mà bốn thiện căn đã nương tựa.

3/ Chính định này, bốn Niệm trụ v.v… ở trước, năm pháp quán dừng tâm, v.v… năng nhập cảnh giới.

4/ Các quán này, trước đây đã tu sáu tùy niệm v.v… của bốn Thánh chủng, gọi chủ thể Nhiếp thọ Gia hạnh, Tư lương năm tức ở đây, ở trước đã thọ trì ba Tạng, gần gũi Hòa-thượng và A-xà-lê, hay thọ lãnh sự răn dạy. Tư duy gia hạnh gọi là phương tiện nhiếp thọ trước hết, cho nên nói là năm quán dựa theo thứ lớp nghịch mà nói.

Dựa vào năm nhân trên để Khởi hai mươi tướng. Nghĩa là nuơng tựa nhân ban đầu có sáu tướng; dựa vào nhân thứ hai, có bốn tướng; dựa vào nhân thứ ba, có hai tướng; dựa vào nhân thứ tư, có năm tướng; dựa vào nhân thứ năm, có ba tướng.

Nhân ban đầu có sáu tướng:

1/ Hiện hạnh vi tế, hữu gián, vô gián, tùy chuyển, Ngã mạn, đều là tướng của Tâm hạnh. Các tướng này đối với tiền phương tiện như Không v.v…, Khởi, hay che lấp các ý hiện quán chính thức thông đạt.

Hữu gián ngã mạn. Nghĩa là Đệ lục thức câu. Vô gián ngã mạn. Nghĩa là Đệ nhất thức câu. Vì những thức này đều “câu sinh” (đều cùng sinh) nên gọi là vi tế.

Phân biệt kia. Nghĩa là xa ở trước, Tư lương đã chiết phục.

2/ Đã không đạt rồi, nhậm vận tác ý trong tâm, tùy đối tượng thích hợp với tác ý, hay khéo bỏ hai ngã mạn ở trước, khiến chứng Vô gián diệt. Đây là nghĩa làm cho ý nhiễm không hiện hành.

3/ Dựa vào Vô gián diệt để tư duy hành Vô thường v.v… như thế.

4/ Do tác ý này, cho đến trí Bình đẳng sinh.

5/ Người kia, lúc bấy giờ, ngã mạn v.v… diệt, chứng một tánh cảnh của tâm.

6/ Bèn tự suy nghĩ: “Ta đã chứng tánh tâm này, biết rõ như thật.” Dựa vào bốn tướng của nhân thứ hai:

1/ Đạo thế gian ở trước đã được định viên mãn, cũng được tự tại, nghĩa là đi vào, ở, đi ra.

2/ An trụ tâm mình, nhập hiện quán đế đối với các tướng này.

3/ Nếu được định này chưa viên mãn tự tại thì tư duy chỉ, đề ra tướng Xả.

4/ An trụ tâm mình.

Hai tướng trong nhân thứ ba:

1/ Niệm A-Na-Bát-Na (niện theo hơi thở) 2/ Các niệm trụ.

Trong nhân thứ tư có năm tướng:

1/ Xa lìa những việc chẳng nên làm.

2/ Xa lìa những việc đã thích dứt thích tu.

3/ Ở phần vị ngày, đêm, quán việc suy đồi, hưng thịnh của mình, người, tâm cảm thấy chán ngán tai họa.

4/ Tu sáu Tùy niệm.

5/ Trụ bốn Thánh chủng.

Ba tướng của nhân thứ năm: phương tiện gia hạnh là hai; chánh gia hạnh là một.

Trong lìa các chướng ngại của môn thứ hai có ba:

1/ Nêu, lên hai chướng

2/ Tùy theo giải thích riêng

3/ “Mười thứ thiện Xảo của hai thứ như thế” trở xuống, là kết thành lìa chướng, và nghĩa rộng không quá, không thêm.

Trong giải thích riêng chướng, đầu tiên, nói về mười một thứ chướng của hai Xứ. Về sau, “Lại, hai chướng này…” trở xuống, đối với hai Xứ này, khởi mười thiện xảo.

Trong chướng hành Xứ có sáu:

1/ Bỏ số của phẩm thiện với chúng hội. Việc này, như luận Đối Pháp gọi là chướng ngại bất thiện, Sư Huề giải thích rằng: chúng tăng thường nhóm họp, tức trở ngại cho ba học, nên gọi là bất thiện.

2/ Xem trọng việc uống ăn.

3/ Gồm hai Xứ trước ưa sắm nhiều y bát. Pháp sư Thái nói: “Gồm hai Xứ trước, nghĩa là ở chung v.v… với chúng.” / Ưa nói chuyện, bàn bạc với nhau.

5/ Ngày đêm, thích ngủ, ưa nói.

6/ Ưa ở chung với người khác.

Ý nói ưa ở chung với người thứ hai, nghĩa là không thích ở một mình, cũng có thể là ưa ở chung với người thứ hai ở trước.

Chướng chỗ ở có năm: bốn chướng đầu là bốn, tánh không thuận theo Chướng thứ năm, hoặc “suốt ngày đêm có nhiều chuyện ồn ào, buông thả” trở xuống, hợp thành một thứ, gọi là đối với mười một thứ chướng của hai Xứ. Hoặc hành xử hợp thành một phương tiện nhất định, gọi là Hành xử.

Chướng chỗ cư trú có mười: bốn chướng đầu là tánh không tùy thuộc; năm chướng huyên náo, buông thả vào ban ngày; sáu chướng về đêm, với nhiều điều khổ sở.

7/ Thường sợ hãi.

8/ Nhiều tai biến, dịch lệ.

9/ Mọi đồ thiếu thốn, không đáng ưa thích.

10/ Bạn xấu ác dẫn dắt, nuôi giữ, không có các bạn lành.

Năm thứ đồ nằm mất tương ưng, chỉ rõ như Địa Thanh văn.

Trong nhiều định vui có sáu: Tu chỉ, cử, xả, nhập, trụ, xuất.

Trong nhiều Tư trạch có bốn. Nói tuệ thiện vượt hơn, gọi là Tư trạch. Nghĩa là ở đây phát ra Thể của tư duy chọn lựa” trở xuống, là nói về bốn thiện xảo:

1/ Về phần vị ngày đêm, biết rõ việc thiện, ác, tăng trưởng, suy đồi tổn.

2/ Ngày, đêm, do biết rõ như thật về y phục v.v… rõ việc thiện, ác, suy yếu, thối lui của mình.

3/ Tư duy, lựa chọn là dựa theo pháp bất thiện, xua đuổi, xa lìa.

4/ Đối với điệu thiện năng tu. Bốn thứ này cộng với sáu thứ trước thành mười thiện xảo.

Thứ ba, vì chứng sự hoan hỷ của tư tuệ thông có ba:

1/ Hỏi, 2/ Giải thích, 3/ Kết.

Trong giải thích có bốn Hỷ:

a/ Đối với bốn chứng tịnh, sinh Hỷ. b/ Đối với tự tăng thượng sinh và quyết định vượt hơn, sinh Hỷ. c/ Vì không có ghanh ghét, nên đối với đồng loại của người được hai việc này cũng sinh vui mừng. d/ Nghĩ đến người có ơn, phát sinh vui mừng.

Thứ tư, trong tu tập như Đạo đã được, có ba:

1/ Hỏi, 2/ Giải thích, 3/ Kết. Trong phần giải thích có hai: a/ Nói về bốn pháp là chủ thể nương tựa. b/ Nói năm pháp viên mãn.

Bốn pháp là:

1/ Tâm tư duy cùng tột kính mến xuất ly ưa muốn sao cho sẽ trụ đầy đủ như A-la-hán.

2/ Sự ưa muốn như thế đã được nảy sinh rồi, phát siêng năng, tinh tấn tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề.

3/ Vì siêng năng tinh tấn, nên tâm ưa xa lìa.

4/ Do ba pháp trước đã không sinh Hỷ túc, để mong cầu được trụ pháp vượt hơn, nên về sau, giúp cho năm pháp tu tập viên mãn:

1/ Đối với Hoan hỷ, tu được viên mãn, xa lìa cõi Dục.

2/ Đạo lý phương tiện đã gây tổn giảm rất cùng cực, vì phiền não dứt; dứt phiền não của cõi Sắc, Vô sắc, đạt được niềm vui, nỗi mừng viên mãn của Đạo Thắng Tấn.

3/ Tránh xa sự thô nặng.

4/ Đạt được hiệu quả khinh an, cũng có thể do tinh tấn ở trước, dứt trừ “tu hoặc” của cõi trên, mới đổi lấy được khinh an.

Do khinh an, nên thân tâm cảm thấy mát mẻ, được nhiếp thọ cùng cực .

5/ Được định Kim Cương .

Thứ năm, trong chứng Đạo v.v… thanh tịnh có ba:

1/ Nhắc lại câu hỏi.

2/ Giải thích.

3/ Tổng kết thành.

Trong giải thích Đạo viên mãn Vô thượng không có Đạo nào hơn, có hai:

a/ Giải thích riêng về công đức của Đạo quả. b/ Kết thành giáo rộng.

Trong phần trước lại có hai: Đầu tiên, là giải thích riêng có ba. Sau, tổng kết.

Trong phần trước, trước là nói về quả, tiếp theo, là nói rõ Đạo. Sau, nói về công đức.

Lấy phẩm Tạp Nhiễm: phẩm Tạp nhiễm của hành phiền não nghĩa là nghiệp.

Năm uẩn v.v… Vô học thuộc về mười Vô học. Nghĩa là Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, thuộc về uẩn giới. Chánh niệm, Chánh định, thuộc về uẩn Định. Chánh Kiến, Chánh tư duy và Chánh Tinh tấn, Chủ, bạn theo nhau, thuộc về uẩn tuệ. Thắng giải thường là giải thoát chân chánh, là uẩn giải thoát. Chánh trí thứ mười, gồm thâu giải thoát tri Kiến uẩn, tức đây là trí Tận Vô sinh . Thấy pháp rõ ràng, gọi là tri kiến. Vô học chánh kiến, gọi là Thân tuệ, cho nên, có khác nhau.

Trong mười lỗi lầm:

1/ Dựa vào dục của ngoại đạo, phát tà ngữ thở than, buốn rầu, dùng chánh ngữ, làm chủ thể trị.

2/ Dựa vào việc không che chở căn. Do đây, khởi tà nghiệp của thân, dùng Chánh nghiệp làm chủ thể trị.

3/ Vị ái, ưa đứng lại ở lỗi lầm. Nghĩa là do tham vị ái, phát ra thân, ngữ, gọi là Tà mạng, dùng Chánh mạng, làm chủ thể trị.

4/ Lỗi đi, đứng buông lung, dùng Chánh tinh tấn làm chủ thể trị.

5/ Ngoại đạo không chung, tức họ đều có tà kiến riêng mà phát ra lời nói.

6/ Tà kiến mà khởi Tầm, Tư, đều Chánh tư duy, làm đối trị.

7/ Tà kiến khởi đeo đuổi, tìm kiếm là Tà niệm. Chánh niệm là chủ thể trị., cũng có thể tà kiến là một lỗi lầm; lời nói Tầm, Tư là một; đeo đuổi, tìm kiếm là một (do tướng của chủ thể trị; đối tượng trị sẽ nói sau).

8/ Dựa vào lỗi lầm của bờ mé tĩnh lự. Luận sư Cảnh nói: “Tĩnh Lự thứ tư gọi là Bờ mé. Vì chấp định thứ tư cho là Niết-bàn, nên nói là lỗi lầm. Dùng Chánh định làm chủ thể trị.

Pháp sư Thái nói: “Cận phần, gọi là Bờ mé. Vì phần nhiều dựa vào cận phần, nên gọi là lỗi lầm của Bờ mé.

9/ Lấy lỗi phẩm Tạp nhiễm, thuộc về duyên khởi phát khởi. Nghĩa là chấp ái thủ kia, lấy tịnh làm nhân thanh tịnh, dùng Chánh trí làm chủ thể trị.

10/ Lỗi lầm phát khởi thực hành phẩm Tạp nhiễm. Lại do Vô minh mà phát, cho là nhân giải thoát, tức dùng Chánh giải thoát để đối trừ.

BẢN LUẬN QUYỂN 21

Từ trên đến đây, đã biện luận về hạnh ba Địa chung xong. Từ đây trở xuống, là nói về hạnh riêng ba Địa, hoặc ba hạnh phương tiện trên ba hạnh căn bản dưới.

Trong hạnh căn bản, từ hạnh kém, hướng về hạnh vượt hơn, sẽ theo thứ lớp nói về các hạnh ấy:

Thánh giáo của Chư Phật là Thượng thủ. Được nghe (học hỏi) từ thầy, bạn, đây là Thinh giáo, lần lượt tu chứng, mong cầu xuất thế gian. Vì hạnh nhỏ thì quả nhỏ, nên gọi là Thanh văn.

Như thế, với chủng tánh của Thanh văn, phát tâm tu hành, đắc quả, tất cả gọi chung là Địa Thanh văn.

Sơ Du-già xứ v.v… là phân biệt Nhị thừa khác, vì cả ba Thừa đều có Sơ Du-già xứ, nên có bốn Xứ:

1/ Chủng tánh.

2/ Sác thủ thú.

3/ An lập.

4/ Thế, xuất thế.

Trong bốn Xứ này, vì chủng tánh là đầu nên nói là “Sơ”. Du-già là Quán, Hạnh; chủng tánh lá hạt giống của Quán, hạnh. Hạt giống là hiện hạnh; Quán hạnh, tạo ra chỗ sở y, nên nói Địa chủng tánh của “Sơ

Du-già Xứ.”

– Trong Sơ Du-già có ba Địa:

1/ Địa chủng tánh.

2/ Địa thu nhập.

3/ Địa xuất ly tưởng.

Từ “Sơ” nêu tên, gọi là Du-già chủng tánh, nên bài Tụng gọi chung, là tánh v.v… Quyển này giải thích về Địa tánh, Địa thú nhập xong. Bốn quyển dưới giải thích về Địa xuất ly.

Đại ý chủng tánh tức là chủng tánh thành tánh, thú nhập tức là phát tâm thu hướng phương tiện cầu Thánh Đạo, trong đó chẳng phải không có nói chung các nghĩa y cứ trong luận xưa.

Nay, đây thú nhập Địa phát tâm xuất ly, gọi là Địa hành phương tiện. Y cứ trong Địa chủng tánh, đâu tiên, nêu bốn môn, kế là giải thích trong môn đầu có pháp hạt giống, do hiện hữu, nên ngang đồng.

Luận sư Cảnh nói: “Do từ vô thỉ đến nay, niệm, niệm trong sở y (đối tượng nương tựa) hiện thành hạt giống Vô lậu của chủng tánh Thanh văn, gặp “duyên” liền sinh. Kiến đạo Vô lậu dần nhập Niết-bàn.

Pháp sư Thái nói: “Hạt giống pháp nhĩ (tự nhiên), chẳng phải sẽ có, nên gọi là hiện, vì chẳng phải pháp giả, nên gọi là “có”. Nếu gặp duyên thù thắng của Như lai, Bồ-tát, thì tức là có chủng tánh “kham năng” của tánh và có thế lực của Tập tánh. Đối với Hữu dư có thể được; Đối với Vô dư có thể chứng.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Pháp hạt giống, tức hạt giống mà Niết-bàn chứng được. Do hiện có, nên phân biệt với nghĩa sẽ có. “Hiện” phân biệt với “sẽ”; “có” phân biệt với “không”.

– Nếu thế, thì quân vượt hơn sẽ có, làm sao thông suốt nghĩa này?”

Giải thích: “Vì hiện có các chướng như phiền não v.v… có thể dứt trừ, cũng gọi là hiện có. Về nghĩa của ba nhà này tùy theo sự thích ứng mà nêu.

Nói tức là có kham nhậm, tức là có thế lực. Có thuyết nói: “Kham nhậm, nghĩa là chủng tánh của tánh, Thế lực, nghĩa là chủng tánh của Tập.”

Nay, tu duy không đúng. Vì sao? Vì chủng tánh của Tánh vốn có thì đâu cần phải gặp “duyên”, nên nói là không đúng. Ý nói kham nhậm ở đây, nghĩa là chủng tánh của Hữu; thế lực chủng tánh của Tập, và chủng tánh của Đạo, khả năng đắc, Khả năng chứng, đồng với cách giải thích của Pháp sư Thái “Vì công năng sinh hiện hành, nên gọi là hạt giống.”

Bản Phạn nói rằng Đà-Đô, Hán dịch là Giới, là nghĩa nhân. Bản Phạn nói Thấp phược, Ta phược, Hán dịch dịch là Tánh, nghĩa là Thể tánh. Y cứ ở nghĩa đều khác nhau. Ở đây, giải thích về hạt giống. Đầu tiên, về nghĩa của ba luận gia đã nêu như trước. Về phần đáp, dựa vào đối tượng nương tựa có tướng như thế thuộc về sáu Xứ. Luận sư Cảnh nói: “Nếu dựa vào Thinh giáo chấp tánh thì dù không nói về Lại-da, nhưng ở đây, dựa vào đạo lý của Đại thừa, nói là hạt giống Vô lậu của chủng tánh Thanh văn. Một là phải nương tựa trong thức thứ tám vì thức thứ tám tức thuộc về thứ sáu, lần lượt truyền đến Pháp nhĩ mà được.”

Pháp sư Thái nói: “Nương tựa vào năm uẩn sở y của phàm phu, có thể tưởng của hạt giống Vô lậu, tánh thù thắng của Thanh văn, không ở núi, sông trong sáu trần bên ngoài, nên thuộc về sáu Xứ.”

Ngài Nan-đà v.v… không thừa nhận nghĩa hạt giống bản hữu, giải thích văn này, nói rằng: “Như sản nữ có khả năng sinh con nói là có giống người. Nhưng trong thân người thiếu nữ nọ không hề có thai. Ở đây cũng như khả năng có thể được chứng, nên nói có hạt giống. Kham năng này là nghĩa được, chứ chẳng phải do tu mà được, nên nói là Pháp nhĩ (tự nhiên).

Thứ hai, trong môn An lập, trước là nêu; kế là giải thích; sau là kết.

Trong giải thích có bốn:

1/ Nói về thô, tế.

2/ Nói về “một”, nhiều nối tiếp nhau.

3/ Nói về gặp duyên?

4/ Nói về “duyên” hơn, kém. Nên đáp rằng “Tế v.v… ”.

Luận sư Cảnh nói: “Khi chủng tánh chưa sinh quả, chưa tập thành quả, tác dụng của chủng tánh đó chưa tăng, vì ẩn, gọi là tế,chỉ gọi là chủng tánh của tánh. Về sau, nếu nhờ duyên tăng trưởng, đã cho quả, đã tập thành quả, hoặc hạt giống, hoặc quả, đều gọi là Thô. Dù đây làhạt giống cũ, tăng trưởng rồi bỏ, tức gọi là tập chủng, hạt giống mới huân tập, cũng gọi là Tập chủng.

Nay, Địa chủng tánh, ý nói về chủng tánh. Về sau, thú nhập Địa, mới nói về hạt giống Tập.

Lại, chủng tánh của tánh có hai:

1/ Hữu lậu này lấy tánh này làm nhân, khả năng sinh bảy hạnh phương tiện ở trước của Kiến Đạo.

2/ Vô lậu này năng sinh Kiến Đạo, rồi bỏ Vô lậu, lúc tập chủng tánh cũng có hai thứ:

1/ Hạt giống hữu lậu trong chủng tánh này, gặp duyên dẫn phát, tăng trưởng rồi bỏ, tức gọi là Tập chủng. Từ Tập chủng này sinh khởi Kiến đạo rồi bỏ Vô lậu trở lại tức.

“Huân tập hạt giống, đều gọi là Tập chủng”

Luận sư Bị nói: “Hạt giống pháp nhĩ chưa sinh hiện quả, nên chưa cho quả, chưa có đối tượng huân tập, tăng trưởng của hiện hạnh, vì chưa tập thành quả, vì từ hạt giống pháp nhĩ (vốn) sinh, nên hiện hành bỏ đi sự huân tập, vì hạt giống vốn tăng trưởng, nên gọi là Tập thành quả.

Cựu Địa Trì sư nói: “Chủng tánh của Tánh, gọi là tế, tức vì nhân quả của pháp thân, nên tập chủng tánh gọi là thô, vì năm phần pháp thân chưa có mà có”.

Hỏi: “Chủng tánh như thế, phải nói là đã rơi vào một nối tiếp hay rơi vào nhiều nối tiếp nhau.v.v… ?”

Luận sư Cảnh đáp: “ Sự nối tiếp nhau là nói về thân. Chủng tánh Thanh văn này là đầu cuối ở trong thân của một người, hoặc ở thân của một người này, đôi khi đầy ở trong của một người kia.”

Đại ý đáp: “Đầu cuối thường rơi vào trong thân một người.”

Trong giải thích dưới đây, giải thích trái lại với trước, vì sao? Vì nếu pháp khác với tướng đều cùng có mà chuyển biến, cho đến các thứ lưu chuyển, thì đây là giải thích về chủng tánh dựa vào định của thân xứ. Nếu chủng tánh kia với thân sở y có thể tánh riêng đều cùng lúc chuyển, thì có thể được nói là hoặc nương tựa thân này hay dựa vào thân khác, chính vì không có tự thể riêng, nên không được có chủng tánh của thân này rơi vào thân khác.

Từ đây trở xuống là giải thích thuận:

Hạt giống như thế chẳng có tướng khác riêng nghĩa là vì hạt giống này chẳng phải khác với sáu xứ có tướng riêng khác, tức đối với sáu xứ thù thắng của phần vị trước, sau của chủng loại thân như thế, gọi là có chủng tánh, cũng có thể trực tiếp y cứ trong thân một người có tự loại trước, sau của mười tám giới, gọi là nối tiếp nhau, nay hỏi:

“Chủng tánh là đồng với chân như khắp mười tám giới, phần nhiều nối tiếp nhau hay rơi vào một nối tiếp nhau của một giới?”.

Đáp: “Chỉ rơi vào Lại-da trong một nối tiếp nhau của ý giới. Nói: “Vì sao cho đến các thứ lưu chuyển”, đây là giả thuyết thừa nhận sự nối tiếp nhau. Nếu thể của pháp mười tám giới khác với tưởng, đều có mà chuyển trong tất cả thời gian, thì có thể thừa nhận rằng, chủng tánh đã rơi vào nhiều sự nối tiếp nhau. Thế nhưng, ở đây nhận thấy chủng tánh ấy “có”, còn cõi trên thì “không”; năm thức của định thứ hai v.v… đều “không”; các phần vị của ý thức thứ sáu lại gián đoạn khởi diệt. Hai định vô tâm và “diệt” trong cõi trời vô tưởng, đều chẳng phải là xứ mà chủng tánh đã nương tựa, cho nên nói là “thấy chủng tánh kia đều là các thứ lưu chuyển của các thứ nối tiếp nhau riêng”.

Nói “hạt giống như thế, cho đến sáu xứ thù thắng. Nghĩa là với hạt giống như thế, nếu lìa thức thứ sáu mà có thể giả riêng, thì có thể chấp nhận chúng có thể rơi vào trong nhiều nối tiếp nhau. Tuy nhiên, hạt giống này không có riêng tướng khác lạ ở sáu xứ, tức ở nơi phần vị chủng-loại, ý-xứ của A-lại-da như thế; mà có được công năng hạt giống này, nên nói: “Ý xứ kia được gọi là thù thắng “.

Pháp sư Thái nói: “Luận chủ của Nhiếp Luận phân tích hạt giống là thể khác, văn ấy đồng với luận này, không đồng với mười sắc, tám tâm, với nhiều thể riêng nối tiếp nhau khởi, đều có sinh. Công năng của mười sắc, tám tâm không có ở bản thức, vì mỗi thứ đều có tự thể riêng, nên rơi vào một nối tiếp nhau. Vì sao? Vì, nếu pháp của mười sắc và thể của pháp tám tâm đều là tướng khác thì lúc hiện khởi sẽ đều có mà chuyển. Hiện nhận thấy các pháp đó đều là các thứ mười sắc riêng và các thứ lưu chuyển của nhiều loại nối tiếp nhau của thể tám tâm. Nhiều loại nối tiếp nhau, các thứ lưu chuyển, đây là nghĩa nhiều thể tiếp nhau.

Này, hạt giống vô lậu y cứ ở môn tùy chuyển, chứ chẳng phải ở sáu xứ có tướng riêng khác , tức đối với phần vị của một chủng loại như thế trên sáu xứ, có sinh ra công năng thù thắng vô lậu, gọi là sáu xứ thù thắng. Từ vô thỉ có thể được cùng với sáu xứ là “một” rồi nối tiếp nhau khởi, gọi là một “tương tục”

Luận sư Bị nói giải thích của ngài Tam Tạng, đại ý đồng với giải thích đầu tiên của Luận sư Cảnh.

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích “Đại ý trong đây, trước là giải thích ngược lại, sau là giải thích đúng. Nghĩa là “Nếu pháp v.v… trở xuống, Đến các thứ lưu chuyển, đây giải thích ngược lại. Ở đây ý nói: “Nếu hạt giống với sở y (đối tượng nương tựa) của sáu xứ đều là tướng riêng, thì có thể là các thứ lưu chuyển của các thứ nối tiếp nhau, như mười sắc xứ, sáu thức xứ. Như thế, vì hạt giống chẳng phải có tướng khác với sáu xứ, nên biết được nó ở một nối tiếp nhau. Như giải thích trong Nhiếp Luận: “Sinh ở nước Biên Địa, kể cả Đạt-tu, Miệt Lệ Xa.”

Luận sư Bị nói: “Các nước mọi rợ gọi là Đạt-tu, những người không tin Tam Bảo, tập nhiễm nghiệp ác, gọi là Miệt lệ xa. Nay nói theo văn tương ưng thì ngoại trừ Trung Ấn-độ, bốn Ấn-độ còn lại, cũng gọi là nước Biên địa. Ngoài Biên này, trừ Biên si v.v… cư ngụ ở đây, các nước khác đều gọi là Đạt-tu.

Thấp kém, thiếu văn hóa gọi là Miệt lệ xa. Cũng có thể ở nơi có Tam Bảo, đều gọi là trung quốc, nếu không có Tam bảo thì đều gọi là Biên quốc.

Chánh chí tức bốn quả, vì bậc thánh được gọi là thiện sĩ chánh chí. Thuận với chánh lý. Nói bốn hướng, bốn quả gọi là chánh hạnh, chánh chí.

Trong phân tích “Duyên” hơn, kém, văn chia làm bốn:

1- Hỏi; 2- Đáp; 3- Gạn; 4- Giải thích.

Trong giải thích, trước nêu sau giải thích.

Trong giải thích: 1)- Giải thích riêng về hai duyên. 2)- Giải thích lại hai duyên. 3)- Thuộc ba pháp tương lai. Trong phần đầu Luận sư Cảnh nói: “Nghe nói bốn Đế, nhập pháp hiện quán, bên trong chánh tư duy, tức khởi sự tu tập. Từ năm pháp quán dừng tâm, cho đến pháp thế đệ nhất, đối với hiện quán Đế đều là duyên “vượt hơn”. Nếu người kia chưa khởi bảy phương tiện mà trước đó đã khởi quán hạnh, thì gọi là duyên thua kém. Nếu người đó nhập Kiến đạo từ Chánh kiến, cho đến tu đầy đủ các hạnh, nhập cảnh giới v.v… Niết-bàn Võ Dư Y, thì gọi là chân tu tập”.

Pháp sư Thái nói: “Văn, Tư tuệ v.v… gọi là “Duyên” vượt hơn. Từ duyên ngoài khác, đều là “Duyên” thua kém, duyên kém có mười hai, giải thích theo thứ lớp.

Từ trong viên mãn, nói rằng, trước hết là trước hành các tín thanh tịnh tăng thượng, nghĩa là ý lấy Kiến đạo trước thực hành tín hạnh hữu lậu.

“Trong viên mãn khác, giáo pháp tồn tại lâu dài”.

Luận sư Cảnh nói: “Như tuổi thọ của Đức Phật Thích-ca là tám mươi tuổi. Đức Di-lặc Thế tôn sống lâu đến sáu muôn tuổi. Sau đức Thích-ca nhập Niết-bàn, chánh pháp là năm trăm năm; Tượng pháp một ngàn năm. Sau đức Di-lặc nhập Niết-bàn, chánh pháp an trụ ở đời cũng sáu muôn năm. Hoặc trụ, hoặc diệt, trải qua ngần ấy thời gian, chánh pháp vẫn không diệt.”

Nói: “Phải biết rằng, gọi là đạo lý trụ, chứng của chánh pháp Thắng nghĩa kia, đây là y cứ vào sự chứng ngộ, lưu hành tồn tại lâu không diệt, bất luận giáo pháp, cho nên nói rằng Chánh Pháp Thắng Nghĩa.

Vì thế Kinh Tạp Tâm chép: “Kinh, Luật, A Tì Đàm, được gọi là chánh pháp nơi thế gian. Ba mươi bảy phẩm giác là nói nghĩa bậc nhất.”

Pháp sư Khuy Cơ lại nói: “Ý này nói là trong năm trăm năm chánh pháp cũng có tác chứng chánh pháp, nhưng về pháp tồn tại lâu hay mau, văn khác nhau: Dựa theo kinh Ma-da thì chánh pháp tồn tại năm trăm năm. Nếu theo kinh Đại Bi v.v… thì Chánh pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm; Mạt pháp muôn năm. Lại theo pháp Trụ Ký của Khánh hữu chép: “Pháp Phật này sau kiếp đao binh, lòng con người chán ngán việc xấu ác, đều khởi lên tâm từ, không còn giết hại nhau nữa. Họ biết thương xót nhau, như cha, như con. Mạng sống sẽ tăng trưởng dần, đến mãn một trăm năm. Lúc bấy giờ sẽ có mười sáu vị Đại A-la-hán đủ ba minh, sáu thông, tám giải thoát, rất giỏi về mười hai bộ kinh trong ba Tạng, thọ lãnh Phật phú chúc, trụ trì chánh pháp, đem lại lợi ích cho chúng sinh, không nhập Niết-bàn, cùng với hơn muôn đồ chúng của Đại A-la-hán quyến thuộc khác, lại lưu hành ba tạng giáo của Đức Như lai ở đời, gío hóa dẫn dắt chúng sinh, xây cất chùa, hoá độ tăng tu giới, định tuệ, làm cho Phật pháp càng được hưng thịnh hơn.

Đến khi tuổi thọ con người tăng lên đến cuối sáu muôn tuổi, đầu bảy muôn tuổi, các vị A-la-hán đều hội hợp chung, chỗ Xá-lợi của Đức Như lai, để cùng nhau xây dựng tháp báu. Mười sáu vị A-la-hán cùng quyến thuộc vây quanh tháp, rải các thứ hoa thơm cúng dường. Chiêm ngưỡng, lễ bái xong, đều bay lên hư không, nói rằng: “Kính lạy đức Thế tôn Thích-ca Như lai, Ứng Chánh Đẳng Giác và với trời, người cùng thực thi mọi việc lợi ích.

Pháp tạng đã mai một, những người có duyên đã được hóa độ hết, hôm nay, chúng con xin tạ từ để diệt độ”. Nói xong tất cả đều nhập Niết-bàn Vô Dư, tháp báo Xá-lợi kia liền biến mất vào lòng đất, Đến mé Kim Luân mới dừng lại. Ba tạng giáo kia ở trước Xá-lợi, đã diệt mất trước đó. Trải qua một trăm năm chỉ có pháp thanh tịnh này với ngôi tháp Xá-lợi và các vị A-la-hán đều mất diệt trong cùng một lúc.

Bấy giờ, Đức Thế tôn Thích-ca Mâu-ni, chánh pháp vô thượng, ở khắp Tam thiên Đại thiên thế giới này dứt mất mãi mãi.

Từ thời vô gián này, trong cõi nước của Đức Phật này, có bảy muôn Câu-chi-độc giác đồng thời xuất hiện. Đến khi số tuổi thọ của con người tăng tám muôn tuổi, bấy giờ các Thánh chúng Độc giác lại đều diệt độ.

Về sau, Bồ-tát Di-lặc xuất hiện ở thế gian.

Nay sưu tầm ở cuối quyển bảy của kinh Bảo Thánh , nhận thấy phần lớn đều đồng với Pháp Trụ ký của Khánh hữu này.

Lao Sách giới: Tức là mười giới Sa-di, cũng gọi là giới Cần sách.

Pháp sư Thái nói: “Tiếng Phạm là sa-di, Hán dịch nói là Lao Sách.

Lại nói là “Tức ác”

Căn Luật nghi: tức là đề phòng, che chở Niệm, tuệ của sáu căn.

Ăn biết lường: vì dứt trừ, nên thọ v.v… (Đến quyển hai mươi ba, sẽ giải thích).

Từ thuận với chướng pháp , tịnh tu tâm mình”: là nhận biết từ tâm này thuận với tham sân v.v… liền thu nhiếp, để cho được tịnh. Trụ chánh tri, hoặc ở, hoặc đi hoặc đến v.v… (Đến quyển hai mươi bốn sẽ giải thích rộng).

Trong ưa xa lìa, tu trị không có trái ngược, địa sơ nghiệp rồi.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nghĩa là tu trị nghiệp lúc mới phát tâm, tức là xuất gia v.v…

Ngọa cụ Bờ mé. “Nghĩa là đồ nằm rất xấu xí, gọi là Bờ mé. “Người kia do lần lượt tu hành như thế, cho Đến không có lay động”, là nhắc lại “Duyên” kém ở sau.

“Nếu lại đạt được, dựa vào bốn khánh Đế, cho đến “như lý đã dẫn sinh tác ý”, là nhắc lại “duyên” vượt hơn ở trước. Và duyên đó là tất cả chánh, kiến ở trước,” cho đến mà nhập Niết-bàn, nghĩa là thể của chân tu này.

Từ trên đến đây, là nêu thể của ba pháp.

Từ đây trở xuống, là thuộc về danh hiệu của về ba pháp tương lai.

Trong giải thích môn thứ ba, rằng, A-lại-da yêu khác tất cả hạt giống, đều tùy ràng buộc ngang đồng, Luận sư Cảnh nói: “Chấp A-lạida là “ngã”, vì yêu “ngã”, vì yêu mọi đồ mà “ngã” có, nên lại-da ái Khắp tất cả hạt giống, đều bị buộc ràng theo, lại vì ái này sinh trưởng “hoặc” khác ở trong Lại da, nên nói rằng: “phụ thuộc vào sở y, thành pháp vô lượng. Đã không có đạo đoạn, nên khó nghiêng về sự cứu vớt, đã không có hạt giống, tất nhiên, sẽ không có nhân, vì không có nhân nên duyên bên cạnh Chư Phật không thể cứu vớt, vì không thể cứu vớt, nên pháp ác sở hữu rốt ráo vững chắc theo đuổi lâu dài.”

Luận sư Bị thuật lại giải thích của ngài Tam Tạng: “Ô nhiễm thuộc về tặng. (Chứa giữ) khắp tất cả mười tám giới, mười hai xứ, năm thủ uẩn, nên chứa giữ. “Khắp tất cả”. A-lại-da gọi là nhiễm, vì chứa giữ”.

Pháp sư Thái nói: “A-lại-da, Hán dịch là khắp tất cả. A-lại-da, Tàng hộ (chứa giữ, che chở), đều yêu chấp mắc, chứa giữ, che chở công cụ giúp đở cho sự sống. Như nước sinh ra loài sên nhơ bẩn, tạp nhạp.

Tiếng của sên, chó đi. Luận sư Cảnh nói: “Con sên lúc bò trong nước, sẽ làm cho nước đục ngầu, nhơ bẩn, trông như nước dãi của con bò. Người nước phương Tây quý trọng tiếng sên kêu, nhưng có tiếng của giả cẩu giống như tiếng sên mà di chuyển, như chó đi. Thí như Bísô kia, trong lòng ôm ấp tham v.v… Pháp sư Thái giải thích: “Pháp Phật như nước. Bí-sô phá giới, khác nào như ốc sên làm cho nước trong trở nên tạp nhạp, vẫn đục nhơ bẩn. Lại như con chó có tiếng sủa như tiếng sên kêu, nhưng có chó đi. Bí-sô phá giới, hình tướng dường như thật, mà thật ra thì tánh, hạnh giải vô cùng xấu ác!”

Trong môn thứ tư, văn được chia làm hai: Trước hỏi, sau đáp, trong phần đáp có ba:

1/ Nêu hai mươi ba người.

2/ Nhắc lại lên giải thích.

3/ Kết thành Phật giáo hóa.

Hoặc sinh tử không có lúc nào rảnh. Nghĩa là nơi sinh khó khăn. Theo Bản Phạm nói: “Sinh không có chỗ rảnh rang, là nói ở chỗ này không rảnh để hay nhập đạo. Như người đời thường nói: “Không rảnh làm việc này”.

Trong Xa có hai:

1/ Do thời gian Xa. Người này dù có chủng tánh, nhưng phải trải qua nhiều trăm ngàn đời mới được duyên tốt để phát tâm được hơn.

2/ Gia hạnh Xa: Người này chỉ dừng lại ở chủng tánh mà chưa thu nhập, họ không khả năng nhanh chóng gặp duyên tốt hơn, để khởi gia hạnh thù thắng. Nhưng nếu trải qua năm, ba đời thì về sau có thể khởi gia hạnh, sẽ được nhập Niết-bàn. Không đồng thời xa, phải trải qua nhiều đời mới được nhập.

Trường hợp gần lại có hai:

1/ Thời gian gần: Người này sẽ trải qua nhiều thân tu tập. Dừng lại ở đời sau cùng, trụ “hữu” sau cùng, dừng lại thân sau cùng, tức do thân này được Niết-bàn.

“Sinh hữu và thân”, thể một, nghĩa thì khác. Nếu đối với bảy đời, mười bốn đời v.v… thì người này dừng lại ở đời sống sau cùng. Nếu đối với ba hữu trong phần vị nối tiếp nhau của hai mươi lăm “hữu”, thì người này sẽ dừng lại ở thân sau cùng. Nhân là nghĩa nương tựa, nghĩa chứa nhóm. Từ vô thỉ đến nay, các thân nối tiếp nhau. Người này đắc đạo, các đời khác đều diệt, ở thân sau cùng sẽ Niết-bàn. Hoặc tức do sát-na vô gián này sẽ được tác chứng, nghĩa là trụ vào tâm Kim cương.

2/ Gia hạnh gần v.v… nghĩa là hoặc ngay trong đời này không bao lâu sẽ có khả năng khởi gia hạnh, hoặc lại trải qua một đời đã có khả năng khởi gia hạnh, hoặc gia hạnh không bao lầu thì chứng đắc Niếtbàn, đều gọi là gia hạnh gần.

Trong hướng tới nhập địa, trước là kết, sau là hỏi. Sau đáp câu hỏi, chính thức giải thích.

Trong chính giải thích có ba:

1/ Bài Tụng và văn xuôi chia ra bốn môn khác nhau.

2/ Dựa vào môn để giải thích.

3/ Tổng kết giải thích.

Trong giải thích môn đầu, nghĩa là an trụ Bổ-đặc-già-la chủng tánh. Bản tánh thành tựu hạt giống Niết-bàn, nhắc lại địa chủng tánh ở trước, tức là chủng tánh của tánh.

“Nếu bấy giờ, có Đức Phật ra đời, sinh ở trung quốc v.v…” trở xuống, là chính thức phát ra thú nhập thể của địa, tức là chủng tánh tập, y cứ trong đó có hai:

1/ Hữu lậu, chủ thể sinh Kiến đạo, bảy hạnh phương tiện trở xuống.

2/ Vô lậu, chủ thể sinh kiến đạo rồi, bỏ các hạnh vô lậu.

Nay, “Nói có Đức Phật ra đời v.v… cho đến v.v… từ người kia nghe pháp”, nghĩa là phát ra nhân duyên phát khởi thú nhập tự tánh, được chánh tín v.v… đầu tiên, phát ra thú nhập thể. Từ đây về sau, do pháp thọ này, cho đến khả năng làm chỗ. Nương tựa cho tín v.v… trong thời gian dài. Tức là chánh tín trước, giới, văn, tuệ, xả, gọi là pháp thọ . Vì thọ hạnh tín v.v… của pháp Niết-bàn, gọi là Pháp thọ. Do pháp thọ đó là nhân cảm được thứ lớp sinh thân vượt hơn cùng với pháp thọ kia, chuyển tín v.v… vượt hơn là chủ thể nương tựa. Lại nữa, do chuyển biến các pháp tín v.v… vượt hơn, cho đến hoặc đạo hoặc lộ, hoặc dấu ấn chánh hạnh đạt được Niết-bàn, hướng đến Niết-bàn. Đạo, là bảy phương tiện đạo. Lộ, là lộ tám chánh v.v… của phẩm đạo. Dấu ấn hạnh, tức là bốn thánh Đế quán. Cho nên Hiền, Thánh ngày xưa đi trên con đường đạo ở trước. Noi theo dấu chân đi trước, có thể chứng được Niếtbàn, có thể thú hướng Niết-bàn.

Bấy giờ người kia có thể dẫn phát đạo phương tiện, có thể đi vào con đường tám chánh, có thể noi theo dấu ấn Tứ Đế, có thể lần lượt cho đến rốt ráo”.

Ở đây Luận sư Bị giải thích “phải chờ đợi thiện giải thoát phần của hạt giống thiện tri thức. Ngày nay Phật và đệ tử được gọi là thiện tri thức.

Lại, theo kinh Thiện Sinh, do gặp Đức Phật và vị trời A-già-nitrạch đã gieo trồng phần giải thoát vượt hơn, tức Bồ-tát địa thứ mười, được gọi là Nhiếp Báo Xứ.

Pháp sư Thái lại nói: Được thân vượt hơn thuận với đạo, gọi là các căn thù thắng”.

Thứ hai trong môn An lập, trước là hỏi, kế đáp, sau kết.

Trong phần đáp nêu tám câu, sau theo thứ lớp giải thích.

Trong phần giải thích có ba:

1/ Giải thích tám môn.

2/ Gồm thâu tám làm sáu lớp để giải thích thành tựu.

3/ Giải thích thú nhập chậm mau.

Gồm thâu tám thành sáu. Nghĩa là trước, nhắc lại các người thuộc về sáu địa vị, kế là tra gạn giải thích về sáu địa vị sau, giải thích sáu vị, nhân vị trước, khởi vị sau.

Sáu địa vị là:

1/ Người trụ chủng tánh chưa thu nhập.

2/ Người thành tựu thiện căn phẩm dưới, dù đã phát thu nhập, nhưng chưa trải qua “sinh tu”.

3/ Người thiện căn phẩm giữa, đã trải qua “sinh tu”, nhưng chưa tiến đến sau cùng nhập thân thánh.

4/ Người thuộc thiện căn phẩm trên, dừng lại thân sau cùng kia để tu nhập thân thánh.

5/ Người thành tựu phương tiện rốt ráo, từ nơi sơ quả, tiến đến đoạn tu, chưa được La-hán.

6/ Đã đến rốt ráo, tức A-la-hán. Trong địa vị này, Luận sư Bị nói: “Tám người trước chỉ ở hạt giống trước, thú nhập hai nhiếp nhân chưa hết, nên dù có giải thích trên đây nhưng không thuận với văn.

Giải thích thứ ba, trong “nhân địa vị trước, khởi địa vị sau, giữa là trước nói sinh sau, nói gồm thâu hết Thanh văn.

Trong phần thứ ba, giải thích về giới hạn tu chậm mau, gồm có ba hạng:

1/ Hạng cùng cực lâu, xa. Thanh văn nhiều nhất trải qua sáu mươi kiếp, tu thiện căn của phần giải thoát, đến thân sau cùng nhập Niếtbàn.

2/ Hạng chẳng phải cùng cực lâu xa, có khi trải qua nhiều đời, cho đến một kiếp, mới nhập Niết-bàn.

3/ Hạng người rất nhanh chóng tột độ, được nhập Niết-bàn, phải trải qua ba đời.

Trong đời thứ nhất phát tâm tu tập thiện giải thoát phần, nghĩa là năm pháp Quán dừng tâm; Niệm xứ chung, riêng.

Trong đời thứ hai, lại tu niệm xứ, từ niệm xứ chung, tu thú nhập Noãn, Đãnh, hoặc nhập Nhẫn phẩm hạ; hoặc nhập Nhẫn phẩm Trung, gọi là thành tựu.

Trong đời thứ ba, lại từ nhẫn phẩm hạ, hoặc từ nhẫn phẩm Trung, khởi thế gian đệ nhất Tăng thượng phẩm, nhập kiến đạo, cho đến quả A-la-hán rốt ráo. Người này có khi đến đời thứ ba, được nhập Thánh xong thân ở Sơ quả qua đời, thọ sinh bảy phương tiện “hữu”, nhập Niếtbàn.

Trong môn thứ ba, dẫn kinh làm chứng: “Nếu có chánh kiến phẩm thượng của thế gian, dù trải qua một ngàn đời, không đọa vào đường ác, nghĩa là người trụ chủng tánh, tạm khởi thu nhập, phát tâm, thì sẽ được Phi Trạch diệt của đường ác. Trong địa vị này, đôi khi có được, đôi khi không được. Nếu đến địa vị nhẫn, thì đây tức là được định. Nếu người kia đã nhập phẩm thượng, thì địa vị đoạn hướng sẽ thành tựu, bất sinh không có rảnh rang và đường ác khác.

Trong môn thứ tư có một lần “lại nữa”:

1/ Chỉ thu nhập, chưa có, sắp thành, chưa có đã thành; chưa được thấyđạo, tu xuất ly, vì thời gian gần.

2/ Có người đã thú nhập sắp thành. Chẳng phải đã thành, chưa được xuất ly, đã trải qua nhiều đời tu tập, chưa từng trụ ở thân sau.

3/ Đã thú nhập, cũng đã thành tựu, chưa ra khỏi trụ, thân sau cùng chưa được thấy đạo.

4/ Lại có địa vị khác, như Địa chủng tánh nói là Noãn căn v.v… phải biết rõ. Nghĩa là trong địa đó nói là hoặc ba người với căn Noãn Phẩm trung thượng. Hoặc có tà hạnh, không có tà hành, hạnh có chướng, không chướng, hạnh có xa, có gần. Có hạnh chưa thành thục, hoặc có hạnh chưa thanh tịnh; đã thanh tịnh.

BẢN LUẬN QUYỂN 22

Trung Địa xuất ly, trước là kết trước, sau hỏi. Sau, đối với câu hỏi, chánh thức giải thích.

Trong giải thích, bài Tụng đầu và văn xuôi tóm tắt chia ra ba môn:

1/ Thế gian lìa dục.

2/ Xuất thế gian lìa dục.

3/ Tất cả Tư lương, của hai đạo này.

Giải thích về câu hỏi sau. Nghĩa đạo của ba môn này chung với phàm phu. Nay y cứ vào sự lìa dục của bậc Thánh, thế tục, mà nói về ba môn, nhằm phân biệt về sự lìa dục của địa xuất ly.

Kế là nói về tướng lìa dục của đạo xuất thế gian. Ngài Tam Tạng nói: “Luận sư đối đáp y cứ ở chân kiến đạo để nói về trí “năng” “sở” bình đẳng là tướng lìa dục kia.

Luận chủ ở đây y cứ vào tướng Kiến đạo để nói về trí Bốn Đế, gọi là đạo cụ.

Tự có khả năng lìa trói buộc, tự được giải thoát: là nói về trí vô lậu v.v… lìa trói buộc hữu lậu, tức đạo vô gián, lúc dứt phiền não kia được vô vi, khởi thắng giải, thường tự được giải thoát, tức đạo giải thoát.

Thứ ba, là nói trong hai Đạo tư lương, đầu tiên có một bài Tụng và văn xuôi nêu mười bốn môn sau là giải thích theo thứ lớp, trong đó ba môn đầu, chỉ nói trong “duyên” kém của địa chủng tánh ở trước. Nay sẽ giải thích về mười một môn còn lại: Quyển đầu chỉ giải thích môn thứ tư, hoặc luật nghi giới. Tựu trung trước hỏi, sau đáp.

Trong phần đáp, bài Tụng đầu nêu sáu môn, kế giải thích rộng về sáu môn đó. Sau là kết khuyên tu học.

Sáu môn đó là: Nói về ba. “Đây là nói v.v… “ trở xuống, là nêu số trong nghĩa giản lược, nên nói là phân biệt về lý của ba Đạo. Văn rộng có sáu:

1/ An trụ đầy đủ về giới.

2/ Khéo léo gìn giữ, bảo vệ luật nghi biệt giải thoát.

3/ Khuôn phép viên mãn.

4/ Công hạnh (đối tượng tu hành) viên mãn.

5/ Đối với tội nhỏ, cảm thấy rất sợ hãi.

6/ Thọ học học xứ.

Hai thiếu, ba đầy đủ đều có mười nhân: Bốn môn khác có sáu.

Năm tịnh có ba. Sáu công đức thù thắng, có mười thứ kia.

Y cứ môn đầu, lại chia làm ba: a/ Nêu chung sáu nghĩa.

b/ Tra gạn, giải thích về sáu nghĩa đó. c/ Nói về nghĩa giản lược.

Nay, trong ý nghĩa này chỉ dựa vào lãnh vực luật nghi của Bí-sô, để nói là có khả năng gìn giữ, bảo vệ v.v…

“ Vì sao không nói Bí-sô ni v.v… ? Vì họ không thể nhập đạo Thánh, phần nhiều thành tựu giới cụ túc , là vì Bí-sô có, nên người khác thì không đúng, cho nên không nói Bí-sô ni.

Đối với việc nên làm; đối với việc như đã làm. Ở đây có hai giải thích:

1/ Việc đã nên làm, phân biệt với các điều xấu ác không nên làm. Đối với việc như đã làm, tức như việc thiện khác mà bực trượng phu đã làm, cứ như thế mà làm”.

2/ “Đối với điều nên làm, nghĩa là việc mà Phật đã cho phép. Đối với điều như đã làm, nghĩa là chỗ mà Đức Phật đã nghiêm cấm.

Nếu đối với tuyên bạch “như pháp” gia hạnh trụ, với tâm từ bi lần lượt nhận “dữ dục” thì đây chính là thời gian vì Pháp sự bạch chúng như lý, nên trụ tâm từ thọ dục của người kia, nghĩa là đối với tùy tiểu, tùy tiểu Học xứ , trừ bốn trọng, ngoài ra đều gọi là giới tiểu. Về sau vì đối “duyên” nhớ giữ, nên gọi là tiểu tùy. Nay, trái phạm tiểu giới và tiểu tùy này, nên gọi là tiểu tội.

“Được đối tượng chưa được, đụng chạm với điều chưa đụng chạm v.v… Đây là nói công hạnh đầu, giữa và sau. Từ giới sư, mà được nghe phần ít về thể tánh của học xứ, nghĩa là nghe lỗi của bốn Ba-la-di v.v…

Về hai trăm năm mươi học xứ. Nghĩa là trong hai trăm năm mươi giới kết hợp với chúng học kia thành một, cộng với một trăm năm mươi, có được một trăm năm mươi một, nên nói là lỗi.

Trong nghĩa giản lược, do hai lược thuộc về ba nghĩa; trong lượt đầu việc thọ học xứ kia, cũng thuộc về nhập môn thứ ba.

Trên đây đã giải thích về phân biệt ba môn xong.

Từ đây trở xuống, sẽ giải thích về môn thứ hai mươi thiếu, thứ ba mươi đủ, trước là tiêu biểu chung thiếu, đủ đều mười. Sau, giải thích riêng, trong đó trước phân tích về thiếu tổn; sau, trái lại làm rõ viên mãn.

Trong phần trước, trước là nêu, kế là giải thích, riêng; sau, là tổng kết.

Đại dục không biết Hỹ túc, khó nuôi dưỡng, khó đấy đầy đủ. Nghĩa

là hy vọng cảnh chưa được. Gọi là “Đại Dục”. Nên khó trưởng dưỡng; vì không biết vừa đủ (không tri túc), nên khó đầy đủ (khó thỏa mãn).

Nói về biên khổ hạnh rơi vào hai bên, đại khái có mười thứ:

1/ Dựa vào gai chông tu đoạn Du-già.

2/ Dựa vào đất tro than.

3/ Đi trên chày gỗ vào ban đêm, rồi nằm trên đó.

4/ Khi đi, áo dính trên tấm ván.

5/ Ngồi xoạc đùi (chồm hổm) giống như con chồn, cho tới đêm sau, không chấm đất.

6/ Ngồi chồm hổm như chồn, chi sau chấm đất.

Tu đoạn Du-già, chung cho sáu thứ chấp ở trên. Nhưng Pháp sư Thái cho rằng: “hoặc tu Niết-bàn đoạn hạnh, tức hạnh Du-già. Nếu theo giải thích này, thì lẽ ra là lối chấp riêng. Do thêm chử “hoặc”, mà làm công tác giải thích, tức là hạnh tà Du-già.

7/ Có ngoại đạo nối tiếp nhau thờ lửa, ba việc trong một ngày.

8/ Thả cây cột xuống nước, từ đầu đến cuối, một tay cầm một cây cột, mỗi ngày làm như vậy ba lần. Trèo lên cây cột xem mặt trời.

9/ Đứng một chân lên cột, chuyển động theo mặt trời.

10/ Trừ chín lối chấp này, số còn lại là chín mươi sáu thứ tà chấp ngoại đạo v.v…

Trong tổng kết, nếu nói là Thi-la thiếu, tổn, thì chung cho cả mười nhân duyên. Nếu nói cái khó khăn của Thi-la là ở chỗ không thể xuất ly và giới đã thọ bị mất.

Thứ tư, trong giải thích về môn khác, trước là nêu sáu bài Tụng, nói về giới, gọi là có sáu; sau, giải thích về lớp hỏi đáp.

Bài Tụng thứ sáu nói: “A-Cấp-Ma kiến v.v…” xưa dịch là A-hàm Kiến, tức là chứng kiến. Nay nói rằng A-Cấp-Ma, Hán dịch Truyền, tức Phật giáo lưu truyền chứng lý, chánh kiến, vì hay được quả, nên gọi là là hữu kiến.

Văn xuôi dưới đây nói: Lại có thuyết nói: “Người an trụ Cụ giới v.v…”. Đây là dẫn luật nghi để nói là chứng danh hiệu thứ sáu.

Trong giải thích về lớp hỏi đáp, kiến lập Nhậm trì, nghĩa là trước, năng an lập; sau năng Nhậm trì.

Khiến sinh, khiến chứng. Nghĩa là hữu vi khiến cho sinh; vô vi khiến cho chứng.

Thứ năm, trong giải thích về môn thanh tịnh, trước, là văn xuôi nói về ba nghiệp thanh tịnh. Sau, trích dẫn hai bài Tụng La Thiếp La để chứng thành.

Thứ sáu, giải thích về sự thắng lợi của giới đức (công đức trì giới) có mười thứ:

Nói: “Nếu có người thu hướng làm nghiệp phước, cho đến gọi là người hiện, thiện chết v.v… tất nhiên, trong mai sau, sẽ chắc chắn sihn cõi thiện, không sợ đường ác, nên thứ hai không có ăn năn. Nếu có trái phạm, thì vì có sự sợ cõi ác, nên gọi là chết không hiền.

BẢN LUẬN QUYỂN 23

Từ đây trở xuống, là thứ năm trong giải thích về luật nghi căn, trước là chia chung năm câu. Kế là giải thích riêng năm câu. Sau, phân tích nghĩa giản lược.

Trong giải thích riêng, đầu tiên, là nói về sự che chở khít khao căn môn.

Nói: “Thế nào là che chở khít khao căn môn? (Nghĩa là nói về việc đề phòng, che chở, tức là sáu căn. Nói là đề phòng, gìn giữ chánh niệm, thường nương gá chánh niệm v.v… (Nghĩa là nêu chủ thể đề phòng, che chở để giải thích đối tượng đề phòng.

Do trụ chánh niệm, đề phòng, giữ gìn (giữ gìn) nhản căn và chánh tu hành luật Nghi nhãn căn, cho đến phòng hộ ý căn và chính thức tu hành luật nghi của ý căn, tức lấy chánh niệm làm thể của luật nghi căn bản. Văn này nêu chánh niệm, thật ra là gồm chánh trí.

Thứ hai, nói về giữ gìn chánh niệm. (Nghĩa là ở trước, e sáu căn khởi lỗi; nên trụ trong chánh niệm, nhằm giữ gìn sáu căn. Giờ đây, lại sợ rằng niệm có quên mất, nên nhiếp Thọ học rộng, học văn, tư, tu. Do năng lực của ba tuệ, đạt được chánh niệm, Nghĩ nhớ không quên, đây là ba tuệ giữ gìn chánh- niệm. Vì muốn cho niệm này được chánh niệm, không có quên mất, nên thường tu tập ba tuệ không dứt.

Thứ ba, là nói thường nương gá chánh niệm. Nghĩa là chế phục được sắc v.v… tức ngăn ngừa duyên sáu căn khởi lỗi.

Thứ tư, là nói về Niệm ngăn ngừa, gìn giữ ý.(Nghĩa là như trong nháy mắt nhãn thức gặp phải sắc trái ý, thuận ý, ý, kế là khởi ý, thức phân biệt, tìm kiếm, mong cầu, quyết định.

Nếu không ngăn ngừa ý thức phân biệt này thì tiếp theo đó liền nhập phần vị của tâm nhiễm, tịnh, mà sinh ra các phiền não, nên gọi là “sắp sinh”. Trong đó, trước là nói về nhãn thức. Tiếp theo, so sánh bốn thức như nhỉ v.v… Sau, là nói về ý thức, tức ý thức này có khác với phân biệt phi lý, đều cùng hiện hành, hay khởi phiền não.

Do ý thức này đối với sắc pháp đáng yêu, sắp sinh nhiễm chấp mắc v.v… Nghĩa là tức ý thức này với Tầm kia, tìm kiếm, quyết định trước, sau đều hiện hành. Vì một phiền não trong phần vị nhiễm tịnh, nên nói “ sắp sinh”.

Ở trước nói sắc, sắc. Nghĩa là năm thức “Duyên” thể của sắc; ý thức “ duyên” sắc pháp. (Nghĩa là “duyên” sinh, trụ, dị, diệt đối với sắc kia, là nhà sắc đã lập ra bốn pháp tướng, gọi là sắc pháp. Cũng do sức thượng của niệm như thế, có thể đề phòng, gìn giữ thức phân biệt này tìm cầu, quyết định, khiến cho sinh tịnh thức của phần vị nhiễm tịnh, không sinh phiền não.

Thứ năm, là hiện hành phần vị bình đẳng. Văn chia làm hai: Trước nêu phần vị của hành. Trong đây, luật sư bị nói: “Lúc tương ưng với thiện, vô ký, xả thì có niệm phòng hộ, gọi là phần vị bình đẳng.

Sau, là giải thích về sự ngăn ngừa ý lại chia làm hai: Trước nêu tóm tắt phần vị hiện hành bình đẳng của hai tướng sau, “Thế nào là Trong sắc được mắt đã nhận thức, không chấp tướng của sắc kia”? Trở xuống là giải thích rộng, trong đó có ba:

1/ Giải thích không chấp tướng tốt, cuối cùng không dựa vào tướng kia để phát sinh lậu ác,

2/ “ Nếu do quên niệm” v.v… trở xuống, là giải thích: Người kia quên phát sinh lậu ác, thì tu luật nghi.

3/ Nếu trong sắc được mắt kia đã biết, nên sách lệ nhãn căn trở xuống, là giải thích: Do hai tướng, nên có thể đề phòng gìn giữ hai xả kia, để cho ý được chánh hạnh.

Đầu tiên, là giải thích không chấp tướng tốt, có hai phen giải thích:

1/ Giải thích nhãn thức chấp cảnh giới của mình, mà chưa khởi tham gọi là “Chấp tướng.” Nếu xa lìa được cảnh tướng như thế, gọi là không chấp tướng.

Nếu nhãn thức kia với vô gián ý thức chấp tướng, thì sẽ có thể khởi tham v.v… gọi là “Thủ tùy hảo” Như mắt, tai v.v… cũng thế.

2/ Giải thích: sáu căn đối với cảnh, gọi là “chấp tướng”. Ý thức tìm kiếm rõ biệt (Phân biệt rõ) cộng tướng, gọi là “ Thủ tùy hảo”.

Dưới đây, nói về lậu sinh. Trong nghĩa giảng lược, đầu tiên, kết trước hỏi sau : Sau, đối với câu hỏi; phân tích đại khái, tức có ba phen lượt”

Trong phen đầu tiên có năm:

1/ Có công năng ngăn ngừa, che chở: Nghĩa là ở trước đã phần biệt giữ gìn chánh niệm, thường nương gá chánh niệm, niệm và ba tuệ.

2/ Đối tượng ngăn ngừa, che chở, tức là sáu căn như nhãn v.v… phòng hộ căn để cho chúng không sinh lỗi.

3/ Từ phòng hộ, tức ngăn ngừa, lỗi “duyên”, cái gọi là “phòng quá” sáu trần.

4/ Như phòng hộ, tức tướng của phòng quá. Đối với sắc v.v…không chấp tướng và tùy hảo.

5/ Chánh phòng hộ, tức khi phòng lỗi nghĩa là sáu thức kia hiện hành phần vị bình đẳng. Trong phen giải thích thư hai, có ba:

  1. Phương tiện phòng hộ, tức thuộc về khả năng phòng hộ và Tướng phòng hộ.
  2. Việc được phòng hộ, tức sáu căn, sáu trần.
  3. Chánh phòng hộ, tức là sáu thức hiện hành trong tâm trụ, xả của phần vị bình đẳng.

Trong lượt giải thích thứ ba, nêu chung hai sức, đó là sức tư Trạchvà sức tu tập, tức chủ thể đề phòng Niệm, tuệ mà ở trước đã nói:

1. Là tư tuệ tương ưng với Niệm tuệ, là luật Nghi căn, là đạo chế phục kia.

2. Là tu tuệ tương ưng với Niệm tuệ, là luật Nghi căn Bản, là Đoạn diệt.

Kế là giải thích riêng về hai sức, có hai lần “tại nữa”. Trong lần “tại nữa” đầu, trực tiếp nói về cảnh giới của sức tư duy lựa chọn, không thể có lỗi đoạn diệt. Nếu do sức tu tập mà thấy lỗi, thì có thể dứt.

Trong lần “lại nữa” thứ hai, tức nói về sức tư duy lựa chọn chế phụcsự ràng buộc không phát tùy miên. “Sức tu tập, tức chế phục hiện hành, lại bác bỏ tùy miên” ở dưới.

3. Kết hai đạo tương lai.

Thứ sáu, Trong ăn biết lượng, có ba:

  1. Nói rộng.
  2. Nói nghĩa giảng lược.
  3. Kết rộng, lược.Trong phần rộng có ba: a- Nêu lên năm câu. b- Giải thích. c – Kết.

– Các câu. Luận sư Cảnh nói: “Đây là nêu năm câu” để giải thích.

1, Tư duy lựa chọn chính đáng đối với thức ăn.

2, Không vì ca hát, phóng đảng.

3, Không vì kiêu ngạo, buông lung.

4, Không vì trang sức tốt đẹp.

5, Không vì đoan nghiêm.

Nay, Cứ theo dưới đây để giải thích có đủ bảy trường hợp.

  1. Ăn chánh tư duy lựa chọn đối với thức ăn.
  2. Không vì ca hát phóng đãng.
  3. Không vì kiêu ngạo buông lung.
  4. Không vì trang sức.
  5. Không vì đoan nghiêm.
  6. Vì thân an vui.
  7. Vì tạm thời gìn giữ chi.

Lấy hai lý do sau nhập cho đến nói rộng. Dù lý do có bảy mà phán quyết thành năm đoạn:

  1. Tư duy lựa chọn thức ăn.
  2. Không vì ca hát phóng đãng.
  3. Không vì kiêu ngạo, buông lung, trang sức tốt đẹp, đoan nghiêm.
  4. Vì thân an trụ.
  5. Vì tạm thời gìn giữ chi.

Trong chánh Tư trạch đầu, trước, nói về tư trạch; sau, nói về thức ăn.

Trong phần trước có hai:

  1. Nói về tai hại lỗi lầm, thắng lợi của Tư trạch.
  2. “Nên tự tư duy v.v… “ trở xuống, là nói về ý thọ dụng của tư duy lựa chọn.

Trong phần trước lại có hai:

  1. Nói về tai họa, lỗi lầm.
  2. Nói về thắng lợi (lợi vượt hơn).

Trong phần đầu, trước chia ra ba chương, kế là giải thích, sau, là kết.

Giải thích thứ ba, trong tìm kiếm tai họa lỗi lầm, trước là chia sáu trường hợp kế là giải thích, sau, là kết.

Nhân trong lỗi ăn không tự tại. Pháp sư Thái giải thích: “Người tu tiên tuyệt thực để không bị Vua sai khiến, có chỗ nói làm sứ giả cho Vua.”

Trong ý thọ dụng Tư trạch thứ hai, sẽ tùy nhân thí dụ, chỉ người đến nhà thí chủ.

Luận sư Thái Cơ đồng nói: “Mặt trăng mát mẻ làm lợi ích cho con người. Vào nhà thí chủ, thân có mát mẻ, sẽ đem lại ích lợi cho thí chủ, chỉ như mặt trăng”.

Nay lại giải thích thêm: “Như kinh Niết-bàn chép: “Như mặt trăng trong hư không, từ ngày mùng một đến ngày rằm, tăng trưởng dần. Bậc thiện tri thức cũng giống như thế, dạy bảo người học hãy xa dần pháp ác, tăng trưởng pháp thiện.

Giải thích thứ ba, Trong không vì kiêu ngạo, buông lung trang sức, đoan nghiêm lại có hai:

1/ Nói về kiêu mạn, buông lung.

2/ Nói không bị kiêu mạn, buông luông. Trong phần một lại có hai:

a/ Giải thích riêng có ba. b/ Tổng kết thành lỗi.

Thứ năm, là giải thích vì tạm thời ăn để giữ gìn chi. Trong thức ăn, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp lại có hai:

  1. Giải thích sơ lược.
  2. “Chúng Thánh đệ tử , những người có học rộng”. Trở xuống, là giải thích rộng, vì tạm thời gìn giữ chi.

Trong phần trước có ba:

  1. Nêu hai sự nuôi nấng.
  2. Giải thích riêng.
  3. Nói về hai sự nuôi nấng có tội, không tội.

Trong phần giải thích có sáu trường hợp khó khăn:

  1. Thọ lãnh thức ăn uống mà lại đói, gầy yếu.
  2. Phi pháp theo đuổi, mong cầu được rồi, đắm say, chấp mắc.
  3. Ăn xong, thân thể nặng nề, không màng đến việc tu đoạn.

– Ăn xong, tâm ám độn, không sớm được định.

  1. Ăn xong hơi thở khó khăn.
  2. Ăn xong, bị buồn ngủ làm quấy nhiễu.

Không khó, trái với đây cũng có sáu trường hợp:

Thứ hai, trong giải thích rộng, vì tạm thời gìn giữ chi. Văn chia làm ba: Một là nêu chung Thánh chúng tập gần vô tội gọi là tạm trì mạng. Tiếp theo, là hỏi đáp, chia ra năm trường hợp. Sau, là giải thích riêng.

1. Giải thích, vì trừ đói khát, nên nhận lãnh các thức ăn uống, thì lìa lỗi đói, gầy ở trước trong sự khó khăn.

2. Giải thích: Vì nhiếp phạm hạnh, nên thọ thức ăn uống, tức sẽ không có lỗi thân thể trầm trọng trong nỗi khó khăn đã nói ở trước: Tâm ám độn, không nhanh chóng được định, bị quấy nhiễu bởi triền hôn trầm, thùy miên.

3. Giải thích: Vì dứt trừ phiền não nên thọ.

4. Giải thích: Khiến người mới thọ sẽ không còn sinh.

5. Giải thích về nuôi nấng v.v… tức có năm trường hợp:

  1. Còn nuôi nấng.
  2. Sức.
  3. Ưa thích.
  4. Không bị tội.
  5. An ổn mà trụ.

Trong nghĩa giản lược có ba lần giải thích.

Trong lượt thứ ba, văn chia làm hai: a/ Nói về nghĩa có ăn, không có ăn. b/ “Do sự thọ dụng này, thức ăn v.v… bình đẳng”, trở xuống, là

phối hợp các trường hợp, để thyết minh về “Giá” và “Hiễn”.

Trong phần trước, đầu tiên, nêu hai thứ, sau giải thích riêng, có hai:

  1. Không có cái ăn, thì sẽ chết yểu.
  2. Có thức ăn trong đó lại có hai:

1/ Mở ra hai cách ăn. Mỗi cách đều có năm trường hợp.

2/ “Phải biết trong đây v.v…” trở xuống, là nói về hai đức, bị mất, chỉ đã nói ở trước.

Theo phần nói về đức. Do ăn bình đẳng, chẳng phải ăn quá ít, cho đến đã sinh ra đoạn diệt. Đây chỉ là lìa lỗi, do chẳng phải ăn quá nhiều, cho đến đã nói rộng như trước. Nghĩa là đủ hai công năng, đó là lìa lỗi, thuộc về đức, do không nên ăn, chẳng phải ăn không tiêu, vì cả hai thứ đều có thể dứt trừ.

Không sinh người mới thọ lìa lỗi, do đây mà được sống còn, nuôi nấng thể lực, niềm vui, nghĩa là thuộc về đức.

Do chẳng nhiễm cái ăn, sẽ được không có tội, yên vui mà trụ. Nghĩa là ơ đây chỉ thuộc về đức.

Y cứ phần nói về lỗi về không bình đẳng, do ăn rất ít, đói khát gầy yếu, ít sống. Do ăn quá nhiều, thức ăn sẽ không tiêu hóa kịp. Do không nên ăn, phải biết cũng thế. Ở đây không nên ăn, so với ăn không tiêu có khác nhau, nghĩa là lỗi gom góp trong thân va chạm với thuốc v.v… nỗi khổ va chạm rất nặng. Do thức ăn ô nhiễm, phi pháp theo đuổi, mong cầu được rồi thì có lỗi nhiễm ái, say sưa thèm khát tham ăn, tham uống.

Thứ hai, phối hợp các trường hợp để nói trong giá và hiển. Văn chia làm ba: ban đầu nêu thực bình đẳng, việc làm dùng các câu để hiển bày. Tiếp theo, là nêu các trường hợp đã nói ở trước, để nói về “già”, “hiển”. Sau, là kết.

Nói về “giá”, “hiển”, trước nói về giá; sau nói về “hiển”.

Nói: “Nếu người phẩm thiện siêng năng tu tập, cho đến tu nhập mà chuyển, không yên ổn trụ, nghĩa là khi chính thức tu thiện, các Tầm, Tư ác, khiến thuận hướng tới các điều ác. Vì pháp ác sắp khởi, nên nói “tu nhập mà chuyển”.

BẢN LUẬN QUYỂN 24

Trong giải thích giác ngộ, Du-già thứ bảy có hai:

1/ Bốn câu hỏi.

2- Thứ lớp giải thích.

Trong phần giải thích, trước là giải thích rộng, kế là nghĩa giản lược; sau, kết, rộng lược.

Trong phần đầu, trước giải thích sơ lược bốn câu hỏi. Sau, là giải thích rộng thứ ba về giác ngộ Du-già.

Theo phần giải thích sơ lược, nghĩa là qua một phần đầu trong bốn phần đêm, là phần vị đầu hôm… .

Pháp sư Thái, Pháp sư Cơ đồng nói: “Theo thế tục của cõi nước kia, ngày, đêm đều lập ra bốn phần: Từ đầu Đến sau, quá một phần vị đầu, gọi là thời đầu. Từ sau đến trước, quá một phần vị sau, gọi là thời sau. Khoảng giữa có hai phần vị rưỡi, gọi là giờ nửa đêm. Vê ban ngày cũng thế.

Trong đây, thuận với thế tục, Pháp sư Khuy Cơ thêm một giải thích: “Quá có hai thứ:

1. Vừa vào, gọi là quá, tức luận này nói: “Quá một phần vị sau trong bốn phần vị đêm, gọi là phần sau đêm, nghĩa là vì vào trong bốn phần, nên một phần gọi là quá, chứ chẳng phải một phần vị sau đã không có mà gọi là quá.

2. Công việc đã xong gọi là quá, nghĩa đó rất dễ hiểu.

Trong đây trở xuống là thứ hai, giải thích rộng thứ ba trong giác ngộ Du-già có ba:

1/ Phần vị ban ngày rộng. 2/ Phần đầu hôm rộng. 3/ Phần vị gần sáng rộng.

– Trong phần vị ban ngày rộng:

1/ Giải thích ban ngày.

2/ Giải thích kinh hành.

3/ Giải thích về sự ngồi yên.

4/ Giải thích “từ thuận với pháp chướng, tịnh tu tâm mình”.

Kinh hành, nghĩa là số đo chiều rộng, chiều dài cho đến tương ưng với thân nghiệp. Luận sư Cảnh nói: “Có thể rộng ba bước, dài khoảng ba mươi bước, là đường kinh hành”.

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích: “Người phương Tây phần nhiều uống bơ sữa, vì họ ăn khó tiên hóa. Vì đã đo lường một chỗ, không nhiều, ít, hoặc bày ra, hoặc ẩn, qua lại trong đó, giống như đi kinh hành làm tiêu hóa chỗ thức ăn. Sự đi lại trong đây đã có thân nghiệp như pháp.

Trong ngồi yên: là Ngồi kiết già, thân ngay ngắn, chánh nguyện, an trụ, trái với niệm, nghĩa là ngồi kiết già, dung mạo trang nghiêm đáng kính, phân biệt với ngồi không, chẳng thể ngồi kiết già. Như quyển ba mươi ba dưới có năm “lại nữa” nhằm giải thích về thân sinh khinh an v.v…

Thân ngay ngắn giải tỏa được sự mệt mõi, nhọc nhằn của thân, biểu lộ ý chánh niệm. Do ngồi ngay thẳng nên không bị triền hôn trầm, thùy miên khuấy nhiễu, không bị phân tán, xao động bởi ngoại cảnh. Cho nên chánh nguyện khác với tà nguyện, tâm không có yêu cầu gì khác, an trụ trái với niệm, tâm được Niết-bàn, với ý niệm mong cầu xuất thế, vì trái với sinh tử, nên nói là trái với niệm.

Đã trái với tâm sinh tử, vì an trụ niệm Niết-bàn vô lậu, cho nên kinh.

Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã nói: “Trụ đối diện với Niệm. Niệm đối diện này trái với sinh tử, hân hoan niệm Niết-bàn (Như quyển ba mươi, sẽ nói rộng).

Có hai lần “Lại nữa) để giải thích:

1. Giải thích như trước.

2. Vì ở trong định nên trái với không định. Tâm niệm Niết-bàn, không có niệm nào khác, tức là không khởi lỗi. Thường lấy chánh niệm làm đối diện để an trụ.

Y cứ giải thích: “Từ thuận với pháp chướng, trong tịnh tu tâm, được chia làm hai:

1- Phát ra thể của chướng và thuận với pháp chướng, thể chướng tức là năm cái; thuận với pháp chướng, nghĩa là chấp tướng tịnh mầu nhiệm, thuận với tham dục kia. Chấp tướng của nhà sân khuế của duyên trái kia, tức thuận với sân khuế. Nếu chấp tướng đen tối , thì thuận với hôn trầm, thùy miên. Nếu khở Tầm, Tư về thân thuộc, cõi nước, không chết, thì thuận với điệu cử. Nếu gợi lại ký ức xưa, khi còn ở trong chúng, cười đùa, mừng, vui, kính thờ thì thuận với ác ác. Nếu “duyên” những việc “có” “không” của ba đời, tức sẽ thuận với nghi.

Giải thích thứ hai, từ thuận với pháp chướng, tịnh tu tâm mình, trong đó có hai:

1/ Do pháp tăng thượng, nên đã lìa chướng kia. Về sau do tự tăng thượng và tăng thượng của thế gian, nên thoát khỏi pháp chướng kia.

Trong phần trước có ba:

1/ Do kinh hành, Từ cái, hôn trầm, thùy miên và thuận với ra khỏi pháp chướng.

2/ Do ngồi yên, từ bốn chướng khác và thuận với thoát ra khỏi bốn pháp chướng.

3/ Tổng kết.

Trong phần trước có ba, do có ánh sáng đều có với tâm và có tia sáng đều cùng với tâm, nghĩa là nước, lửa, sao, trăng, cỏ thuốc, ngọc báu là ánh sáng. Tâm “duyên” tia sáng này, gọi là tia sáng đều có với tâm. Vì mặt Trời hay phát ra ánh sáng, khiến ta được nhìn thấy kể cả sự vật ở chỗ bị che khuất. Mặt trăng v.v… khác thì không như thế!

Theo trong giải thích thứ hai, về ngồi yên, trước hỏi, sau đáp.

Trong phần hỏi: “Từ có bao nhiêu pháp ngăn trở tịnh tu thân mình?” Nghĩa là hỏi về số lượng. “Thế nào là từ pháp chướng kia tịnh tu tâm mình”, đó là hỏi về tướng tu.

Trong phần đáp có hai:

1/ Đáp về số lượng.

2/ Đáp về tướng tu.

Trong phần đáp về tướng tu, trước giải thích rộng từ cái tham dục và thuận với pháp xuất ly. Về sau gồm thâu giải thích từ ba thứ khác và thuận với pháp xuất ly, nghĩa là hoặc quán hài cốt kia, hoặc quán vòng xúc xích kia; hoặc quán móc xương.

Pháp sư Khuy Cơ nêu: “Nên hỏi: Nay xét lại quyển ba mươi có hai lần “Lại nữa” để giải thích về tướng định của bậc hiền thiện?”.

Luận sư Cảnh nói: “Quán tướng nhật định của vô thường chung v.v… cũng được lìa tham. Pháp sư Khuy Cơ nói: tướng định dứt bốn cái này gọi là định của hiền thiện.”

Trong gồm thâu giải thích về xuất ly ba chướng khác, trước nói về ba chướng có khác với chướng đầu. Về sau, lại đối với cái sân khuế, nên nói … “trở xuống, là nói cái kia là đoạn, trường hợp lắng nghe v.v…, đồng có với chướng đầu.

Trong cái nghi của đoạn đầu, “Ta ở quá khứ là từng “có” hay “không” từng ?

Đã làm trong đây, đầu tiên, là nói không tư duy như lý thì ba đời đều nêu. Nghi phẩm hạ, là ba đời có và có nhân duyên, ba đời đều nói chỉ có nghi trong “có” “không” chỉ ở quá khứ, không nói hiện tại, vị lai là có ý gì?

Pháp sư Khuy Cơ nói rằng: “Như nói rộng có ảnh lược để làm rõ trước, sau đều nêu ba đời, trong đây chỉ nói quá khứ là giải thích ảnh lược hiện tại, vị lai. Vì sơ lược, nên không nói. Lại hiện tại là hiện có, không thể nghi “có”, “không”, khó trắc nghiệm (đo lường). Lại, nay cho rằng đã được chánh kiến, vì quả vị lai dứt, nên không cần phải nghi là vị lai “có” hay “không”? Vì quá khứ không đồng với hiện tại, vị lai, nên nói riêng. Nghi “có”, “không”, thật ra có cả ở ba đời”.

Trong quá khứ ta đã đâu từng có, làm sao đã từng có? Trong vấn đề này có hai tư duy:

1/ Tư duy quá khứ đã từng có pháp nào?

2/ Pháp tu duy quá khứ từ đâu đến? Tức câu hỏi trước về thể của pháp. quá khứ đã thế, hai đời cứ theo đây mà biết được hữu vi “có” là có pháp; biết vô vi “không” là vô ngã.

Phần thứ hai nói do hai tăng thượng khác, nên xuất ly ngay trong chướng: 1/ Trước kết, sau sinh, nêu chung cả hai. 2/ Giải thích riêng ca hai.

Tự tăng thượng. Nghĩa là tự mình biết khởi. Cái chẳng phải là pháp thiện, rất đáng xấu hổ, nên hãy xa lìa.

Tăng thượng thế gian. Nghĩa là đối với các Cái, tùy một Cái đã sinh, hoặc ngay khi nó sắp sinh, liền nghĩ rằng: “Nếu ta khởi Cái thì chắc chắn sẽ bị Đại Sư, các trời, bậc Phạm hạnh có trí ở thế gian chê bai, cho nên từ chướng xuất ly, tịnh tu tâm mình.

Từ trên đến đây, nói rộng về ban ngày, kinh hành, ngồi yên, lìa được chướng đã xong.

“Lại, vì che chở giữ gìn các đồ nằm” trở xuống là kế, nói rộng về đầu hôm, kinh hành, ngồi yên, tịnh tu tâm mình, trong đó có sáu:

1/ Giải thích về đầu hôm, kinh hành, ngồi yên, v.v…

Nói: “Vì gìn giữ đồ nằm, nên thuận với cách thức thế gian, v.v…

Pháp sư Khuy Cơ nói: Ý trong đây nói, về phần vị đầu hôm, do kinh hành ban ngày, nên về phần vị gần sáng không cho kinh hành. Kinh hành vào đầu hôm không cho phép đi xa, hoặc đến chỗ kinh hành vào ban ngày, vì hai kẻ trộm đến đánh cắp đồ nằm, cho nên cho kinh hành gần nơi đồ nằm. Lại, dù là nữa đêm, oai nghi cần phải đứng đắn, nên thuận với nghi thức thế gian, mà kinh hành vào đầu hôm. Lại, người thế tục đi vào đầu hôm, cho tăng kinh hành vào đầu hôm, đây là thuận với cách thức của thế gian, cho nên đồng. Kinh hành vào đầu hôm có hai nhân duyên: a/ Vì gìn giữ đồ nằm, cho nên không đi xa. b/ Vì thuận với thế gian, nên kinh hành vào ban ngày.

Nay giải thích: Vì gìn giữ đồ nằm, nên chỉ đi kinh hành vào ban ngày và đầu hôm. Nếu đến nữa đêm trở lại chỗ nằm, lại thuận với thế tục ngũ ngon vào nữa đêm. Chỉ kinh hành, ngồi yên vào đầu hôm, gần sáng. Rạng sáng hôm sau. Vào nửa đêm đúng như pháp nằm ngũ.

2/ Giải thích về cách nằm nghiêng hông bên phải, mà chẳng phải như quỷ khác nằm, trời nằm v.v… Nghĩa là hoặc quỷ thì nằm sấp ngủ, hoặc Trời nằm ngữa, người thọ dụng nằm nghiêng hông trái. Sư tử nằm hông phải.

3/ Giải thích về trụ tưởng ánh sáng.

4/ Giải thích về chánh niệm.

5/ Giải thích về chánh tri.

6/ Giải thích về tư duy khởi trong tưởng:

2- Dùng ba lần “Lại nữa” để giải thích tưởng.

2/ “Phải biết rằng đây v.v…” trở xuống, là nói về ba thứ khác nhau.

Nói rừng Lộc Dã, là loài nai sống nơi hoang dã, chúng rất sợ con người giết hại, nên ngũ không yên ổn. Người có phương tiện khéo léo sẽ bảo cho chúng lúc nằm cũng thế.

Trong nghĩa giản lược, 1/ Trước kết, sau hỏi. 2/ Đáp câu hỏi, chính giải thích.

Trong giải thích có hai:

1/ Nói về bốn việc làm chính đáng.

2/ “Dựa vào bốn thứ” trở xuống, là dẫn văn rộng ở trước, hệ thuộc theo thứ lớp, trong đó có hai:

a/ Theo thứ lớp hệ thuộc gánh vác bốn việc đã làm.

b/ “Trong đây v.v…” trở xuống, là y cứ riêng về việc làm thứ ba, thứ tư, chỉ ngay văn trước.

Trong phần trước gồm có bốn:

1. Nói chung về việc kinh hành, ngồi yên vào ban ngày và lúc đầu hôm.

2. Đều là văn trong quán hạnh, khi mới đầu hôm.

3. Việc làm lúc gần Đến phần thứ hai, y cứ riêng về việc làm ở phần ba, bốn, chỉ phải ở giữa ngày.

4. Lời nói đầu, “ trong đây đã nói trụ tưởng hào quáng sáng, cho đến cho rằng, do chánh niệm và do chánh tri”. Nghĩa là nêu đã khởi hai tư duy trong lúc đầu hôm, với sự ngủ nghỉ là duyên của tâm không có nhiễm ô vào nửa đêm, đều gọi là chánh niệm chánh tri.

Kế là nói “lại do hai duyên cho đến và do tư duy khởi tưởng”, nghĩa là lại do hai tâm từ khi đầu hôm làm duyên khiến cho đến rạng sáng hôm sau, thức dây đúng giờ đã qui định. Không giải thích về thời gian quá chạng vạng, nghĩa là do trụ vào tưởng ánh sáng và tư duy khởi tưởng.

“Đây là thế nào?” trở xuống, là giải thích lại, bốn môn vào lúc đầu hôm: hai là môn ngủ không có nhiễm làm duyên vào nửa đêm; hai môn là duyên cớ thức dậy không quá giờ vào sáng sớm hôm sau.

Thứ tám, là trụ trong chánh tri, đầu tiên, giải thích rộng; kế là sơ lược, sau là kết.

Trong phần đầu có bốn:

  1. Nêu chín môn.
  2. Giải thích rộng.
  3. Phân tích về chín thứ theo thứ lớp trước sau.

– Gồm thâu chín thứ làm hai, nghĩa là lúc đi; lúc đứng: năm thứ trước là đi, bốn thứ sau là đứng.

Nêu chín thứ như văn.

Trong phần giải thích có sáu đoạn:

Giải thích trong qua lại, trước nêu ba câu hỏi: a/ Câu hỏi 1: Qua. b/ Câu hỏi 2: Lại. c/ Câu hỏi 3: Qua, lại, trụ trong chánh tri.

Trong phần đáp gồm có ba: a/ Nói về nghĩa qua lại. b/ Giải thích về qua lại, trụ trong chánh tri. c/ Giải thích đã kết.

Trong giải thích chánh tri có hai:

a/ Lập bốn trường hợp.

b/ Lấy bốn trường hợp này để giải thích bốn trường hợp trước.

Lập bốn trường hợp:

1/ Tự qua, lại trong chánh tri.

2/ Đối tượng nên qua lại trong chánh tri.

3/ Khi qua, lại biết, nghĩa là nếu khất thực quá giờ ngọ, thì khi đã đi, chẳng phải quay trở lại.

4/ Như thế, như thế, nên qua lại. Nghĩa là đi lại là việc nên làm. Nếu vì những việc áo, cơm chửa bệnh cho chính bản thân mình, thì nên qua, lại. Nếu là duyên cớ nẩy sinh phiền não thì không nên qua lại.

Trường hợp thứ hai trong đây là đối tượng nên qua lại, và trường hợp thứ tư: Như thế, như thế, nên qua lại có gì khác nhau? Tức trong phần giải thích lại dưới đây nói rằng: “Như sắc loại, động tác kia, với oai nghi thức lễ khuôn phép thì nên đi lại. Điều này khác với trước.

Trường hợp thứ hai, chỉ thuộc về nhà kia đều nên qua lại. Có năm nhà không nên qua lại, sau là thứ tư là chỗ nên qua lại cũng tự có khuôn phép, nghi thức để qua lại, nếu không có thì chẳng nên qua lại, do đó là khác.

Môn ngắm xem dưới đây đều có bốn, cứ theo tác pháp này. Trường hợp thứ hai đều đồng với nhà kia có thể như vậy, không thể như vậy.

Trường hợp thứ tư, có thể làm rõ về ly trong “có thể như vậy” của trường hợp thứ hai.

Xuất ly: giải thích kia trong trường hợp thứ hai: nhìn thấy nếu không để ý trước, bỗng nhìn thấy sắc, gọi là thấy, tức là đột nhiên nhãn thức và ý thức đồng thời. Nếu để ý trước rồi nhìn thấy sắc v.v… thì gọi là xem là hai thức đẳng lưu.

Nói không nhìn thấy, nghĩa là nữ sắc v.v… Khi biết nhìn thấy, không giải lao, ngũ, hoặc thấy phá hoại, lúc khởi hạnh nhàm chán, tức có thể nhìn thấy, thời gian khác thì không nên. Như đối tượng đáng nên xem thì biết việc mình đã làm là vì sinh trưởng Đạo, nên phải nhìn thấy. Trái lại, nếu thêm phiền não thì không nên nhìn thấy.

Thứ ba, trong giải thích về cử. Chỉ co, duỗi. Nghĩa là co, duỗi tay, chân lúc nhìn thấy sự đi, lại ở trước, cánh tay và chi tiết khác, là sự co duỗi kia.

Biết tự tướng của sự co, ruỗi. Tức là cố ý hoặc là giả vờ. Biết đối tượng co duỗi. Nghĩa là tay chân v.v… Biết thời, nghĩa là phải vổ, tát, hoặc vì giải lao v.v… thời gian khác (dịp khác) thì không nên.

Nếu co duỗi v.v… như thế. Nghĩa là biết cử chỉ co duỗi như thế với ý vốn vì chuyện gì?

Thứ tư, giải thích trong việc mang Tăng-già-chi v.v… Tăng-giàchi, xưa dịch Tăng-già-lê là sai. Ở đây gọi là chung là Đại y, hoặc sáu mười điều, hoặc chín điều v.v… Nếu dựa theo Luật Tứ Phật nói về chín điều cho đến mười chín điều. Nếu có quá số này, cũng nên cất giữ, có chỗ nói không nên cất giữ, văn luật cũng, không nhất định.

Luật Sư Thủ nói: “cũng” là nên, là y cứ ở luật Tát-bà-đa, có ba phẩm, cho đến hai mươi lăm điều, gọi là thượng phẩm y.

Nay theo luậnnày nói: “Hoặc có bốn nói: Y cứ nhiều nhất là sáu mươi điều. Xét trong luật, luận của Năm Bộ, thì chưa thấy may y có điều. Ít nhất là y chín điều, các bộ đều thừa nhận”.

Sáu mươi điều. (Có người giải thích, là “Ca-sa mười lăm điều.

Mỗi điều đều có ba bức dài, một bức ngắn, nên thành mười lăm điều”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hoặc nói thế này” sáu mươi điều, hoặc lại được nhiều nhất là một trăm năm mươi điều. Hoặc cắt rọc thành hai lớp. Hai y còn lại là một lớp. Cũ thì nói là gấp nhiều lớp. Nếu là vật phấn tảo thì nhiều, ít điều tùy ý.

Luật Thập Tụng nói: “Già lê mới; cũ bốn lớp, phải cắt, rọc bỏ bớt.

Đắp Đại y này đi vào xóm và cung vua, hoặc được lên tòa giảng, không được phết dưới đất và lễ bái thầy, bậc tôn trưởng v.v…

Hoặc có Trung y, hoặc có hạ y.

Trung y, tức y bảy điều. Ở dưới Đại y và trên năm điều, gọi là trung y. Ở đây hoặc thọ trì làm y. Hoặc có y dư, y dư có hai: Hoặc chưa thực hành thuyết tịnh; hoặc đã tác, tịnh. Nếu lên thuyết giảng, lễ Phật v.v… thì đắp Trung y. Như lúc đi đường, làm việc v.v… thì đắp tiểu y.

Bát có nhiều thứ, chủ yếu chì có hai:1/ bát bằng sắt, 2/ Bát sành. Bát này gọi là ứng lượng khí. Nếu quá năm đường khâu lại thì không được thọ trì.

Theo Luận Tát-bà-đa v.v… Bát bậc Thượng đựng ba đấu; Bát bậc hạ đựng một đấu; bát bậc trung, rất dễ hiểu. Đây là y theo đấu của đời Tần,

Thứ năm, giải thích trong uống ăn, nuốt, nếm: Vì sao bánh v.v…

là ăn sữa v.v… là uống? Có thể nhai, gọi là nếm; không thể nhai, thì gọi là nuốt. Vì thức ăn thật như bánh v.v… không thể nuốt, nên nhai, nhấm, gọi là nếm. Hoặc dù nói thế, nhưng nuốt hay nếm vẩn không khác.

Thứ sáu, là trong giải thích chung bốn môn sau, Trước là hỏi về bốn tướng, kể cả chánh tri, bốn tướng đó là: thứ sáu, đi, đứng, ngồi, nằm.

Thứ bảy, là thức giấc. Thứ tám là im lặng. Thứ chín là giải thích về giấc ngủ uể oải.

Trong phần đáp, trước giải thích về tướng; sau giải tích về chánh tri. Cũng có bốn trường hợp trước sau. Trong giải thích về bốn tướng, đồ trải ngồi nào có khác với Ni Sư đàn?

Luận sư Cảnh nói: “ Ni-sư-đàn là tọa cụ. Vì sợ bẩn tấm giạ lớn, nên trải một tấm vải lên trên giạ để nằm, gọi là đồ trải”.

Thứ ba nói về chín chánh tri trong thứ lớp trước, sau, trước hỏi, sau giải thích. Trong giải thích có chín:

1/ Nói về qua lại, trong đó có bốn: a- Giải thích qua lại b- Giải thíchvề chỗ nên đi, không nên đi. c- Giải thích về thời gian thích hợp, d- Giải thích việc nên làm.

2/ “Lại, đối với đã đi v.v…” Trở xuống, là thứ hai, giải thích về thấy xem chỉ phân tích về chủ thể thấy xem nên, không nên. Hai trường hợp sau, vì có thể y cứ theo giải thích trước, nên lược qua.

3/ Không giải thích. Bảy thứ khác, so với đây. “không nên lay động thân v.v… “ Trở xuống, là giải thích thứ ba về sự co duổi. Những thứ này, như trong chúng học của luật nói.

4/ “Không nên mở nút v.v…” Trở xuống, là thứ tư, giải thích về mang y bát, không nên mở nút v.v… : Nghĩa là không nên không cài nút lại.

Pháp sư Huyền Trang nói: “hạ y có nút cài, không nên mở ra, nên buộc lại. Y không cắt, không xả, y không rách nát”.

Không như vòi voi: Luận sư Cảnh v.v… Giải thích:” Góc Ca Sa rủ xuống, gọi là như vòi voi, tức đây là đắp y, xếp y, không rủ ngược trở xuống, mà cuốn lên trên, gọi là đầu rồng, hoặc đùn lại ở cổ tay, gọi là như nắm hạt đậu.”

Pháp sư Thái lại giải thích. “Phòng bông lúa trong cây Đa La, ở trong cây phát ra góc Ca-Sa, y mở ra, đều không nên”.

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích “Dù đắp trên bắp vế, không được góc y cao như đầu rồng. Không được cuộn nhầu Ca-sa lại, vắt ở khuỷu tay trông như viên đậu”.

Luật sư Đạo Tuyên nói: “Góc y dưới rủ xuống, trông như cây Đala; góc trên rủ xuống, gọi là như vòi voi.

5/ “Lại nên thứ lớp thọ dụng thức uống ăn v.v…” trở xuống thứ năm, là giải thích về thứ lớp uống, nuốt, nếm. Cũng như thiên chúng học trong luật nói.

6/ “Từ câu: “ Nhà thí chủ v.v… Trở xuống, là phần thứ sáu, giải thích về cử chỉ đi, đứng, ngồi, nằm.

7/ “Về ban ngày v.v…” trở xuống, là phần thứ bảy, giải thích về thức giấc.

8/ “Hoặc nói năng, bàn bạc v.v…” trở xuống là phần thứ tám, giải thích về sự im lặng. Trong đây, Chân như, Pháp giới rất là sâu xa. Tự “Hai không” còn lại và Pháp nhân duyên của các duyên khởi gọi là giống với rất sâu sắc.

9/ “Lại, đối với phần vi nóng v.v…” trở xuống là phần thứ chín, giải thích về sự ngủ nghỉ nhọc mệt.

Trong thứ tư, gồm thâu thứ chín làm hai, văn chia làm ba:

1/ Kết trước, khởi sau.

2/ Giải thích về trụ trong chánh tri .

3/ “Phải biết trong đây v.v…” trở xuống, là nói gồm thâu chín làm hai. Nhưng trong đây nói rằng: “Như thế, gọi là trụ trong chánh tri theo thứ lớp trước sau”, nghĩa là sắp khởi sau, kết lời trước, cũng có thể là câu kết thuộc về trong môn Thứ đệ ở trước.

Lại, đối với phẩm thiện, ở trước chưa thú nhập, cho Đến “Như thế gọi là trụ trong chánh niệm “, nghĩa là trong đây, ý nói là khi chưa thành xong, gọi là chánh tri; thành xong trở đi, gọi là trụ trong chánh tri.

Trong gồm thâu chín làm hai, hai pháp đi, đứng gồm thâu pháp môn ở trước. Pháp gồm thâu này chẳng phải đi đứng ở trước, nghĩa là việc đi, đứng, gọi là hành, chẳng phải đứng đi, gọi là hành, chỗ đứng gọi là đứng. Không phải ở trước nói là trụ, nên được thuộc về pháp.

Không có trở ngại, trong nghĩa giản lược, gồm có ba:

1/ Trước kết, sau hỏi.

2/ Chính giải thích.

3/ Kết.

Trong giải thích, đầu tiên chia làm ba môn; sau là gạn riêng, giải thích.

Giải thích gạn có ba:

1/ Giải thích về nghiệp đi, tức năm thức trước trong chín thứ.

2/ Giải thích về nghiệp đứng, cũng có năm thứ: a/ Thân nghiệp, tức là đi, đứng, ngồi thứ sáu. b/ Ngữ nghiệp, tức là ngữ thứ tám.

c/ Ý nghiệp, tức là nằm thứ sáu, im lặng thứ tám, giải lao, ngủ nghỉ thứ chín.

d/ Nghiệp ban ngày.

đ/ Nghiệp ban đêm. Hai nghiệp này chính là hai nghiệp thân, ngữ của nghiệp đêm, nghiệp ngày trong trung lập thức giấc thứ bảy.

Ở đây nói: “hoặc nằm hoặc im lặng, gọi là ý nghiệp lúc đứng, nghĩa là nằm trong đây lẽ ra ở trong thân nghiệp, vì khi nằm, vì tư duy tưởng ánh sáng, nên gọi là ý nghiệp, chứ chẳng phải nằm là ý. Lại, nếu người nằm thì lời nói này chỉ rõ nghiệp đêm lúc đứng. Lại lấy nằm trong đi, đứng, ngồi, nằm thứ sáu, cũng là nghiệp đêm thứ năm trong năm nghiệp đứng. Nằm ở đây ở trước nhập thuộc về nghiệp đêm, là một pháp có hai tác dụng.

3/ Giải thích về nghiệp đi, đứng chánh tri có bốn. Trong đây theo

Luận sư Cảnh giải thích: a/ Chánh niệm không buông lung. b/ Nên làm thì làm. c/ Hiện tại không có tội. d/ Ở đời đương lai cũng không có tội.

Nếu theo Pháp sư Cơ giải thích thì ở sau hiện tại sẽ không có tội là thứ ba, là được chưa được nhóm hợp tư lương là thứ tư.

 

 (Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 25

Tư lương của hai đạo thế gian, xuất thế gian có mười bốn pháp. Từ thứ chín ở dưới giải thích về tánh của bạn lành, trong đó, trước là giải thích rộng; kế là lược, sau là kết.

Trong giải thích rộng lại có hai:

1/ Nói về bạn lành có đủ tám chi.

2/ Nói do có tám chi, nên thành tựu năm việc thiện.

Trong phần trước, đầu tiên, là nêu tám chi; sau, là giải thích theo thứ lớp.

Giải thích trong học rộng đầy đủ, khéo léo thọ trì chung cho ngữ nghiệp, ý nghiệp.

Nói giỏi, thông suốt, nhạy bén. Nghĩa là ngữ nghiệp tự tại, ý khéo tầm tư, thấy thiện, thông suốt, nói về ý nghiệp tự tại.

Trong giải thích về đối tượng chứng, có bảy:

Chứng đầu tiên có hai mươi tưởng. Xét luận Trí Độ có mười tưởng và chín tưởng: từ tưởng vô thường, cho đến tưởng bất tịnh, là gọi là mười tưởng. Từ tưởng màu xanh, bầm, cho đến quán sát tưởng trống không, là gọi là chín tưởng. Như thế tổng hợp có mười chín tưởng.

Lấy pháp nào làm thể? (Như Ngài Tuệ Viễn nói: “Tưởng của chín tưởng làm thể, thì chỉ “duyên” cõi Dục, tuệ của mười tưởng làm thể thì duyên chung các pháp”.

Nay, giải thích mười chín tưởng đều lấy tuệ làm thể, hoặc gồm giúp sức và niệm, tưởng v.v…, nên giải thích mười tưởng trong luận kia, nói hoặc trí, hoặc niệm, hoặc tưởng. Người kia lại hỏi: “Hai tưởng này có khác gì nhau không?”

Đáp: “Chín tưởng bị ngăn che chưa được thiền định, bị dâm dục che lấp. Mười tưởng, chủ thể trừ diệt ba độc tâm dục v.v… Chín tưởng như trói buộc giặc, mười tưởng như chém giặc. Chín tưởng là sơ học, gọi là nhân; mười tưởng cuối cùng thành tựu quả.

Trong đây, trước là phân tích sự khác nhau của mười tưởng có bốn:

1/ Phân tích về tưởng khác nhau: Tưởng vô thường, khổ, vô ngã, tưởng không đáng vui.

Quán có hai thứ: Quán chung, và quán riêng. Trước quán chung; trong đây quán riêng. Quán riêng có hai:

a/ Quán pháp. b/ Quán hữu tình.

Trước là quở trách pháp quán tất cả. Nay trong đây quán tội ác của quán hữu tình không đồng.

2/ Tưởng chết khác với vô thường, việc này có hai nghĩa:

a)- Quán các hành sau cùng vô thường, gọi là tưởng chết; quán sát

các hành sát na vô thường, gọi là tưởng vô thường.

b)- Quán chấp thọ đâu gọi là tưởng chết? Quán tưởng các hành, gọi là tưởng vô thường.

3/ Phân tích về Bất tịnh, khác với tưởng nhàm chán thức ăn: bất tịnh thì chữa trị tâm tham sân; còn nhàm chán thức ăn, đối trị bệnh tham ăn.

4/ Nói về đoạn ly biệt. Theo Luận Trí Độ giải thích có ba nghĩa:

1/ Dứt trừ ba độc, gọi là tưởng đoạn; vì dứt trừ nhân đường ác, lìa ái, gọi là ly, vì lìa nhân người, trời. Khổ hết, gọi là diệt, vì diệt quả của năm đường.

2/ Tu bốn thiện căn, lìa phiền não, gọi là ly. Tu đạo vô lậu, dứt trừ phiền não, gọi là đoạn. Lúc nhập Niết-bàn, dứt hết các khổ, gọi là diệt.

3/ Dứt trừ phiền não được Hữu Dư diệt, gọi là đoạn. Được vô dư diệt, dứt hết mọi đau khổ, gọi là diệt, hai phương tiện này gọi là Ly”

Hỏi: “Tưởng vô thường, khổ, vô ngã với trí vô lậu đều có; bốn tưởng nhàm chán thức ăn v.v… đều có với tuệ hữu lậu, vì sao trước thì tưởng vô thường v.v… sau nhàm chán cái ăn v.v… ?”

Đáp: “Vì, ba tưởng vô thường v.v… ở nơi kiến đạo phá trừ tà kiến v.v… mà chứng được quả vị Thánh; còn bốn tưởng nhàm chán thức ăn v.v… ở tu đạo vì lìa hẳn các phiền não dâm dục v.v… Nhưng, chính ba tưởng đầu tiên chỉ bày bốn tưởng trong Kiến đạo, biểu dương sáng tỏ tu đạo; ba tưởng sau phô bày đạo vô học. Luận Trí Độ kia lại nói là tưởng vô thường thông qua lậu, vô lậu, chính là được tưởng vô thường là vô lậu; còn Sơ học vô thường là hữu lậu. Nếu vô lậu ở chín địa; hữu lậu ở mười một địa, cho đến ba tưởng sau là hữu lậu, vô lậu, nên thuộc trong tất cả địa.

Tiếp theo, hiện bày chín tưởng: Đối tượng Xúc có hai:

1/ Yêu bản thân mình, quán bất tịnh đối trị.

2/ Yêu thân người khác, dùng chín tưởng để đối trị. Ở đây có bốn thứ:

a/ Oai nghi, dục ái, cử chỉ đi, đứng, nói năng v.v… của người kia.

b/ Dục ái hiển sắc, là những màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… kia.

c/ Dục ái xứ sở, là xứ sở của thân, mắt, tai v.v… của người kia.

d/ Dục ái của sự va chạm vi tế, những cảm xúc tế nhị, trơn láng, mềm mại v.v… của người kia, như đã nói trong kinh Niết-bàn v.v…

Ba tưởng xanh, bầm, máu mũ mục nát thành bùn, chữa trị bệnh tham thứ hai. Ba tưởng chấp nối tĩnh, động mạch, nuốt, ăn, lìa tan, trị tham thứ ba. Một tưởng móc xương trị tham thứ tư. Một tưởng quán không, trị tham thứ nhất.

Luận Trí Độ y cứ theo kinh nói về bốn thứ tham, để chia làm bảy nhiễm:

1/ Ưa tiến tới, dừng lại.

2/ Yêu lời ăn tiếng nói.

3/ Chấp mắc về hình sắc.

4/ Chấp mắc về hình dáng, sắc đẹp.

5/ Chấp mắc về cảm xúc tế nhị.

6/Chấp mắc chung năm thứ trước.

7/ Chấp mắc ở tướng người, nam, nữ yêu nhau. Hai ái sau, do chín tưởng đối trị chung.

Nhưng, vì chín tưởng này nhận lấy tánh tướng, nên “duyên” thân cõi Dục. Phần ít chứng nề sũng v.v… trong thân niệm xứ, đều thuộc về đối tượng trong hai định đầu của cõi Dục. Tưởng tượng về xương thuộc về đối tượng của ba căn bản định cõi Dục, trừ định thứ ba vì tưởng lạc nhiều.

Hỏi: “Đã có mười, thì chín thuộc về chín, còn mười là chín thuộc về mười rồi?”

Đáp: “Theo Luận Trí Độ có ba thuyết:

1/ “Tưởng Bất tịnh trong mười gồm thâu đủ chín tưởng”.

2/ “Ba thứ tưởng Bất tịnh, nhàm chán cái ăn và không thể vui gồm đủ chín”.

3/ “Tưởng, quán gồm thâu chung cả mười tưởng”.

Nay, Luận Du-già này dùng mười chín tưởng để giải thích, lại thêm tưởng tai họa lỗi lần thành hai mươi. 1/ Việc khai, hợp không đồng ý Luận chủ có khác: 2-Chứng tám định; 3- Chứng bốn đẳng; – Chứng ba quả; 5- Chứng năm Thông. Không nói quả thứ tư và lậu tận thông, là vì tồn tại hoặc vì thành tựu trong A-la-hán, nên mới không nói trước. 6- Chứng tám giải thoát; 7- Chứng ba thần biến:

1/ Thần biến thần lực, tức thần thông luân, với các thứ chuyển biến, khiến người quy phục.

2/ Thần biến ký thuyết, tức ký tâm luân, là tha tâm thông, ghi nhận tâm niệm thiện, ác của người, làm cho họ trở về với chánh tín.

3/ Thần biến giáo đạo, tức thuyết pháp luân, là Lậu tận thông. Nói pháp lậu hết, giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, giúp cho họ chứng được lậu tận. Cũng gọi là ba nghiệp thị hiện:

a/ Thị hiện sự không tư duy bàn luận của thần lực, xoay tà về chánh.

b/ Thị hiện nhận thức được căn cơ mà nội tâm của người khác đã nghĩ đến việc tu thiện.

c/ Bảo cho người khác biết rằng chính mình lậu đã hết, diệt chướng, Niết-bàn không dời đổi bản tòa, thì liền ngộ nhập ngay.

Giải thích ngữ đầy đủ viên mãn, nói về ngữ không có sở y của tám ngữ, nghĩa là không vì mưu toan việc cầu danh, lợi v.v… mà phát ngữ nói pháp.

Từ đây trở xuống, là phần hai, do đủ tám chi, có thể làm năm việc, trong đó, trước là nêu năm danh hiệu; kế là giải thích về năm danh hiệu đó; sau là kết.

Trước là trong giải thích về việc can ngăn, nêu tội, người phạm giới, trái phạm hai trăm năm mươi giới v.v… Vi phạm quỷ tắc. Nghĩa là phạm các quỷ tắc khác chung lẫn nhau của đại chúng. Người có năm đức kia do ba căn, nên có khả năng can ngăn, nêu tội.

Nói năm đức. Tức trong đây nói:

1/ Đủ chân thật.

2/ Hợp thới, đúng lúc.

3/ Đem lại nhiều lợi ích.

4/ Mềm mỏng.

5/ Bạn lành, gọi là tâm từ.

Ba căn, tức là thấy, nghe, nghi. Lúcngăn cấm khởi ác, khiến không khởi, nên gọi là can ngăn. Bày tỏ việc xấu ác của mình đã làm, để cho ăn năn chừa bỏ, nên gọi là “cử”.

Thứ hai, trong giải thích về sự nhớ nghĩ. Trước hết, nêu ba nghĩa; kế là giải thích, sau, là kết.

Giải thích, có ba: Thứ ba, trong niệm khiến nhớ nghĩ về nghĩa đầu tiên, khiến người kia nhớ lại nghĩa văn đã quên. Sau, “Lại, nếu có thiện” trở xuống, là khiến cho người kia nhớ nghĩ về nghĩa lợi tu thiện. Người này đã từng tu điều thiện, vì trải qua thời gian khá lâu nên quên mất, hoặc khiến họ nhớ lại. Người này biết sống lâu, tất nhiên, phải dẫn phạm hạnh và nghĩa lợi khác, cho nên, khiến họ nhớ lại.

Thứ ba, trong giáo hóa truyền trao, trước là nói chung; kế là giải thích riêng, sau, khuyến khích.

Trong phần giải thích riêng có ba:

1/ Nói về ngôn luận khuyến tu năm phần pháp thân.

2/ Nói về ngôn luận giáo hóa, truyền trao tiểu dục hỷ túc.

3/ Ngôn luận khuyên chứng lìa dục hẳn, được vắng lặng.

4/ Quán tạp nhiễm của pháp ác tổn giảm, duyên tánh, duyên khởi mà có ngôn luận. Duyên tánh là nhân; duyên khởi là quả.

Thứ tư, trong dạy răn, trước là trị người có trái phạm, khiến điều phục họ. Hai là, đã điều phục họ xong, giúp họ được lợi dưỡng, gom lại nhiếp thọ. Về sau, giải thích danh nghĩa đối với điều thiện nên làm, để cho hiệnhành. Đối với việc ác không nên làm, khiến cho không hiện hành. Đối với nhiều chất chứa tập ác thì khuyên họ nên từ bỏ, và người không gom góp học tập điều thiện thì khuyến khích họ nên thực hành.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Giải thích về sự giáo hóa, truyền trao, dạy răn ở đây, thường khác với chỗ khác, nghĩa là bốn nghiệp truyền trao giáo hóa ở đây là nói chung, còn chỗ khác thì nói riêng. Bốn nghiệp giáo hóa, truyền trao đều không trái nhau”.

Thứ năm, trong khéo nói chánh pháp, trước nói pháp thế gian, nói về pháp tu thí, giới của thế gian, để cho họ lìa đường ác, được sinh người cõi trời, gọi là việc thực hành đầu tiên. Đối với năm dục, chỉ rõ tai hại lỗi lầm, giúp chúng sinh lìa nhiễm, chấp mắc nên nói thí luận. Đối với cõi ác kia, vì muốn cho chúng xuất ly, nên nói giới luận. Vì muốn cho chúng thoát ly cõi dưới, gá sinh tịnh thiên trên, nên nói Luận tu định sinh thiên,

Trong hai thuyết pháp xuất thế, đầu tiên, là nói về Luận Tứ Đế; hai là nói về ý nói, vì duyên cớ thành thục các hữu tình, nghĩa là thành bay phương tiện. Đối với người được thanh tịnh, giúp họ chứng quả Thánh.

Khiến cho chánh pháp được tồn tại lâu dài. Nghĩa là hoặc giáo hóa, hoặc chứng ngộ, truyền đăng bất diệt.

Do hai nghĩa này, nên nói rộng các pháp tương ưng, giúp sức v.v… Trong đây Luận sư Cảnh nói: “Giáo Pháp Tứ Đế tương ưng với lý. Giáo giúp đở hạnh, gọi là trợ bạn. Tượng giáo lại thuận theo diệt Đế thanh tịnh, gọi là thuận với sự trong sáng, vì hợp với căn cơ, đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên có công dụng tương xứng”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tương ưng, nghĩa là tương ứng với lý, tức “duyên” Như Trí. Trợ bạn, nghĩa là tâm,tâm pháp đồng thời. Thuận theo, tức trí gia hạnh hữu lậu, vì thuận theo chánh trí. Trong sáng phân biệt với lời vẫn đục, rối loạn. Có dụng, nghĩa là được Niết-bàn. Tương xứng, nghĩa là lời nói không trái nhau, nên thuận với danh, cú v.v… mà có lời nói. Lại, ngôn luận này phát ra hợp thời, nghĩa là hợp thời cơ.

Sự ân cần, trân trọng, xoay vần nôi tiếp nhau đều có, nghĩa là khi muốn (định) nói pháp, phải để ý đến việc phục vụ lợi ích cho người, nên gọi là ân cần trân trọng. Trước nói phương tiện, sau nói căn bản, nên gọi là lần lượt. Vì giải thích pháp nghĩa , tất nhiên, cần nhất là lời lẽ câu văn phải liên đới nối nhau, nên nói rằng ngữ nối tiếp nhau, tất sẽ thể hội với nghĩa, nên gọi là “đều có”.

Như thế mới có thể đem lại cho thính giả kia niềm hân hoan, vui vẻ, thậm chí cùng làm cho họ vui mừng, mạnh mẽ hơn lên, không bị quở trách, xua đuổi. Dưới đây nói bốn thứ không có lỗi:

“Do người kia đã thành thục tám chi như thế v.v…” trở xuống, là kết luận, do tám chi, nên được tốt lành, có thể nói lời can ngăn người khác v.v…”

Pháp sư Khuy Cơ cũng nói: “Do thành thục tám chi như thế”, nghĩa là chính lại là ngôn luận này phát ra hợp thời trở xuống, hoặc theo cách giải thích đầu tiên ở trước là tám giỏi hay nêu can ngăn.

Trong nghĩa giản lược, đầu tiên, là trước kết, sau hỏi; kế là giải thích; sau kết.

Trong giải thích có bốn nghĩa: 1/ Ưa vì lợi ích an vui.

2/ Nói về lợi, lạc lìa điên đảo.

3/ Nói về phương tiện tốt lành, khéo léo lợi lạc, có thể khiến chúng sinh chứa nhóm, dẫn phát công đức.

4/ Nói về lợi ích yên vui là tánh ưa thích phát siêng năng tinh tấn.

Thứ mười, trong nghe chánh pháp, trước, giải thích về chánh pháp; sau, giải thích về sự lắng nghe.

Trong phần trước, 1/ Nêu chung; 2/ Giải thích riêng; sau là tổng kết.

Chánh sĩ, nghĩa là bốn hướng; chánh chí nghĩa là bốn quả. Đức Phật và đệ tử, gọi là chung là Chánh Thiện Trương Phu.

Y cứ trong giải thích riêng, trước là: giải thích mười hai phần giáo; thứ hai, do ba tạng gồm thâu mười hai.

Đầu tiên giải thích Khế kinh, văn có ba:

1/ Nói đức Thế tôn tùy căn cơ, nói tản mát, trong đó, trước là nói về năm uẩn, mười hai xứ, mười hai duyên khởi; bốn cách ăn, Bốn Đế; mười tám giới ngữ.

2/ Ngài nói về ngữ của ba thừa, tiếp theo nói về ngữ của phẩm Đạo.

3/ Sau, nói về ngữ phương tiện nhập Thánh Bất tịnh, tức niệm v.v… Ở đây có hai giải thích:

1/ “Bất tịnh, sổ tức là nói năm pháp quán dừng tâm. Niệm, nghĩa là nói ngữ niệm chung riêng. Các người học chứng tịnh, là nói bốn ngữ tịnh Bất hoại”.

2/ “Bất tịnh, nghĩa là quán Bất tịnh. Tức niệm, nghĩa là Trì tức Niệm. Các học là ba học. Ngoài ra như trước đã nói.

Kế là nói về pháp Kiết tập, nghĩa là An bố kiết tập, tuyết minh rộng về duyên khởi. Như Tập Tạng Truyện v.v… Sau là giải thích về danh từ Khế kinh. Đại khái có hai nghĩa:

a/ Xuyên suốt v.v… tức nghĩa kết tràng hoa.

b/ Nghĩa dẫn lợi v.v… tức là nghĩa xuất sinh. Tạp Tâm nói có năm nghĩa, Luận Minh liễu nói có bảy nghĩa. (Giải thích rộng như hai Luận đó).

2/ Ứng bài Tụng. Nghĩa là Đức Phật nói kinh được phân nữa, hoặc sau cùng, vì người Đến sau, nói lại bằng Già-đà, Ta vì người độn căn, nghe nói văn xuôi cũng chưa rõ nghĩa. Hoặc đến lúc nữa chừng, hoặc sau cùng, nói lại Già-đà”.

Ngài Tam Tạng nói: “Về Văn xuôi, Đức Phật nói lược chưa rõ ràng, gọi là nghĩa chưa rõ, cho nên ở khoảng giữa hoặc sau cùng, Ngài nói lại bằng Già-đà để cho rõ ràng hơn, nên nói rằng: “Hoặc lại giảng nói nghĩa kinh chưa rõ, cũng chưa nói về cốt yếu, vì người đến sau, hoặc vì độn căn, mới nói lại”.

Pháp sư Thái nói: “Ưng bài Tụng có ba:

1/ Khoảng giữa của nghĩa đã nói, nên dùng kệ, để bài Tụng lại nghĩa trên.

2/ Đối với nghĩa đã nói, sau cùng, bài Tụng lại nghĩa trước.

3/ Bài Tụng và văn xuôi trong các kinh, vì kinh chưa rõ nghĩa, phải phân biệt lại, nên gọi là ứng tụng.”

Pháp sư Khuy Cơ thuật lại lời ngài Tam Tạng: “Chẳng phải kinh chưa rõ, nghĩa là thính giả chưa nghe rõ, đây là nghe của chưa.”

Thứ ba, là ký biệt v.v… nghĩa là ghi nhận mạng đã qua và sẽ đến của đệ tử, gồm nói rõ về việc thọ ký Niết-bàn, đều gọi là ký biệt. Hoặc là văn xuôi tùy nói nghĩa của pháp nào, tức rõ ràng, cũng gọi là ký biệt.

Thứ tư, phúng bài Tụng v.v… nghĩa là chẳng phải văn xuôi nói thẳng, chỉ dùng lời lẽ mầu nhiệm, khéo léo, điều hòa kết hợp âm vận với câu, hoặc đặt hai câu cho đến phúng bài Tụng sáu câu v.v… để nói pháp, là không bài Tụng lại bài Tụng Già-đà, không đồng với bài Tụng Thất-lộ-Ca, bất luận có nghĩa hay không có nghĩa, chỉ đủ ba mươi hai chữ dùng làm một bài tụng, là phương pháp luận số của kinh.”

Thứ năm, tự nói: nghĩa là không có người thỉnh. Vì muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài, nên không thỉnh mà vẫn nói, như pháp gồm thâu bài Tụng v.v…

Thứ sáu, là nhân duyên. Nhân thỉnh mà nói, tức tất cả kinh, luật, phải có người thỉnh mới nói, đều gọi là kinh Nhân duyên.

Nói: “Và có các Tỳ-nại-da v.v…” Nghĩa là mười hai năm về trước, đại chúng chưa có ai phạm, chỉ dạy răn đại khái. Sau mười hai năm, do đại chúng có phạm, nên mới nói rộng về giới kinh, gọi là kinh Nhân Duyên.

Thứ bảy, là thí dụ: dẫn pháp cạn để so sánh với với pháp sâu để giúp cho chúng sinh được tỏ ngộ, gọi là kinh Thí dụ.

Thứ tám, là Bản sự v.v… Nghĩa là nói chung về nhân. Địa của Đức Thế tôn, sự kiện mà Ngài đã từng trải qua khi chưa phát tâm. Và những sự việc đời trước của chúng sinh khác, gọi là Bản sự.

Thứ chín, là Bản sinh. Đây là nói về nhân địa của đức Thế tôn, kể từ khi mới phát tâm, khởi sự tu hành đến nay, đã từng dấn thân trong chết sống, thực hành những công hạnh khó làm v.v… gọi là Bản sinh.

Thứ mười, là Phương Quảng: Nghĩa là kinh này chỉ nói về sự kiện chứng đắc Bồ-đề của tất cả Bồ-tát. Gọi là Phương Quảng.

Thứ mười một, là pháp Hy hữu. Nghĩa là nói về tất cả công của Đức Phật và bảy chúng, hoặc cộng, bất cộng, vì vượt hơn những pháp khác, nên gọi là pháp hy hữu. Nếu bảy chúng kia vì mong cầu Niết-bàn, dứt ác, tu thiện, được sinh công đức, cảm gần người, trời, đồng với phần pháp khác, nên gọi là “cộng”. Do đây vì xa cách, Niết-bàn xuất thế, nên gọi là “bất cộng”. Do bất cộng, nên vượt hơn công đức của ngoại đạo khác. Dù chiêu cảm chung người, Trời, nhưng vì vượt hơn trong người, trời, nên gọi là vượt hơn các thế gian biết nghĩa vượt hơn. Tất cả ng trí đều đồng ý thừa nhận là phước vĩ đại thật là mầu nhiệm ít có. Chử “đẳng” ở đây là gồm thâu những chỗ khác đã nói: “Con Thanh ngưu (bò xanh) đi trong bát sành mà không va chạm nhau, chó trắng nghe pháp; khỉ dâng mật v.v…” gọi là pháp ít có.

Thức-Xoa-Ma-Na, Hán dịch nói là Chánh học, vì học sáu pháp.

Mười hai Luận nghị. Nghĩa là nghiên cứu về nghĩa kinh, giảng nói rộng về cương yếu của tông.

Ma-đát-lý-ca, Hán dịch Bản mẫu, lấy trong phần thuộc tạng thứ hai. Nay văn này nói là mười phần thuộc Tố-Đát-Lãm; nhân duyên thuộc tạng Tì-nại-Da; luận nghị thuộc về tạng A-tỳ-đạt-ma.

Ở đây nói rằng nhân duyên thuộc về tạng thứ hai, nghĩa là y cứ theo nhân duyên đã nói ở trên.

Nghĩa trước nên thuộc về ba Tạng chung. Nay y cứ theo nghĩa sau, chỉ thuộc về Tì-Nại-Da.

Quyển hai mươi mốt chép: “Chư Phật vì thương xót các Thanh văn, nên dựa vào bốn Thánh Đế, nói rộng về Khổ, Tập, Diệt, Đạo chân thật, vô lượng giáo pháp, đó là Khế kinh, Ưng bài Tụng; Ký Biệt, Phúng Bài Tụng; Tự Thuyết, Nhân Duyên; Phương Quảng, Hy Pháp; Luận Nghị.”

Quyển ba mươi tám chép: “Nói là phần Phương Quảng, chỉ cho tạng Bồ-tát; các phần còn lại, có tạng Thanh văn”.

Quyển tám mươi lăm chép: “Trong mười hai phần giáo, trừ phần Phương Quảng, các phần còn lại, được gọi là Khế kinh tương ưng với Thanh văn. Phần Phương Quảng, gọi là Khế kinh tương ưng với Đại thừa.”

Kinh Niết-bàn quyển ba chép: “Người giữ gìn Đại thừa, là người thọ trì chín bộ. Người ấy tự nói: “Chỉ không có Nhân duyên; Thí dụ, Luận nghị”.

Pháp Hoa quyển thứ nhất nói: “Thanh văn có chín bộ, chỉ không có Phương Quảng; Tự thuyết và Ký biệt, Đối pháp nói: Khế kinh, Ứng Tụng, Ký biệt Phúng tụng, và tự thuyết, năm pháp này thuộc tạng TốĐát-Lãm trong tạng Thanh văn . Duyên khởi; Thí dụ, Bản sự và Bản sinh, bốn pháp này, đều thuộc về quyến thuộc của tạng Tỳ-nại-da trong hai tạng. Duyên khởi là chính, ba pháp còn lại là quyến thuộc.

Phương Quảng, pháp Hy hữu, hai pháp này thuộc về tạng Tố-Đátlãm trong tạng Bồ-tát . Còn Luận nghị thuộc tạng A-tỳ-đạt-ma trong hai tạng Thanh văn, Bồ-tát”.

Hỏi: “Vì sao các giáo không đồng?”

Đáp: “Đối với thật Đại, Tiểu thừa đều đủ mười hai, dựa vào xứ như thế và hai mươi mốt, ba mươi tám Thanh văn, Bồ-tát đều đủ mười hai. Tám mươi lăm Bồ-tát chỉ có Phương Quảng; Thanh văn có mười một. Nghĩa là Phật, Bồ-tát đã có mười một phần khác, đều là phần đem lại lợi ích rộng rãi cho hữu tình. Và ý sâu, pháp rộng, đều là nghĩa văn rộng rãi. Vì đủ ba nghĩa này nên đều gọi là Phương Quảng. Chẳng phải trừ mười một phần còn lại, vì Thanh văn không có ba nghĩa trước, nên chỉ có mười một, không có Phương Quảng. Nếu y cứ về mặt lý thì chính văn của Phương Quảng đa số gọi là cộng, nên Thanh văn cũng có Phương Quảng, như quyển hai mươi mốt nói. Kinh Niết-bàn quyển ba chép: “Bồ-tát không có nhân duyên, Thí dụ, Luận nghị, vì Bồ-tát phần nhiều từ xưa đến nay không có phạm, nên không có nhân duyên chế giới. Lại, phần nhiều đức Như lai thường vì nói pháp, không cần nhân duyên khuyến thỉnh; phần nhiều những người nghe pháp đều tỏ ngộ, hiểu biết, nên không nhọc công thí dụ. Phần nhiều hay thể ngộ lý sâu sắc, nên không cần nhờ Đức Như lai bàn luận, phân biệt. Cho nên nói Đại thừa không có ba bộ này.

Pháp Hoa nói: “Sở dĩ Thanh văn không có ba bộ này, là vì họ không có khả năng đem lại lợi ích rộng cho hữu tình, và vì ý hẹp hòi, nên không có Phương Quảng. Hơn nữa, do căn cơ kém cỏi, phần nhiều đức Như lai đợi thỉnh mới nói, nên không có tự thuyết. Dù có ghi nhận riêng những việc thuộc đời đương lai của đệ tử, nhưng chẳng phải như Đại thừa nói rộng về sự kiện thọ ký”.Luận Đối Pháp nói: “Tạng Bồtát trừ năm phần đầu, chỉ có bảy phần còn lại. Thanh văn trừ Phương Quảng và pháp Hy hữu, có mười phần còn lại, vì Phương Quảng với lý sâu, đem lại lợi ích rộng lớn cho hữu tình.

Về sự khác nhau của pháp Hy hữu, khó tư duy vì tương ưng với oai đức rộng lớn hơn hết, nên chính là thuộc tạng Bồ-tát, chứ chẳng phải tạng Thanh văn. Dù trong tạng Bồ-tát, cũng có năm phần đầu như khế kinh v.v… nhưng đều thuộc về pháp hy hữu của Phương Quảng, nên không nói tên riêng.”

Hỏi: Luận sớ mà phàm phu đã soạn có thuộc về kinh luận nghị này không?”

Giải thích: “Luận này Quyển tám mươi mốt chép: “ở chỗ này, đức Thế tôn tự phân biệt rộng về thể tướng các pháp. Lại, ở nơi này, đệ tử các bậc Thánh đã thấy dấu ấn Đế, đối với điều mình đã chứng, không phân biệt thể, tướng của các pháp không có trái ngược. Đã nói rằng, người thấy dấu ấn của Đế đã soạn ra, tức biết luận sớ mà phàm phu đã soạn, đều chẳng phải thuộc về kinh Luận Nghị.”

Luận Đại Trí Độ chép: “Luận mà phàm phu soạn, cũng là kinh luận Nghị.”

Thứ mười một, trong tư duy chánh pháp, trước là hỏi, kế là giải thích; sau là kết.

Trong giải thích có hai:

1/ Nói về xa lìa chỗ không nên tư duy.

2/ Nói về phần đầu, phần giữa chỗ nên tư duy.

Chỗ không nên tư duy có sáu:

1. Vì thể của “ngã” là không, nên không nên tư duy.

2. Hữu tình giả lập, vì cũng không có chân thật, nên không nên tư duy.

3. Như khí thế giới trong thế gian, đã được bố trí an định như thế, như tánh của bốn đại “pháp nhĩ” (tự nhiên) như thế, cũng không nên tư duy.

4. Quả nghiệp của hữu tình chỉ có Đức Phật mới biết. Nghiệp lực trong mười lực của Đức Phật rất sâu, vì chẳng phải cảnh (đối tượng) của Thanh văn, nên không nên tư duy.

5. Cảnh giới thần thông được tĩnh lự phát ra, chứ chẳng phải cảnh tư lương, vì thế, không nên tư duy.

6. Vì cảnh giới của Chư Phật chẳng phải cảnh giới của Thanh Văn, cho nên không nên tư duy.

Trong giải thích chỗ nên tư duy, trước giải thích sơ lược, sau giải thích rộng:

Tự tướng, cộng tướng : là lược nói có ba:

1. Lại như mười một tên khác trong sắc uẩn là tự tướng. Đồng có ba nghĩa đổi thay, hư hoại tức là cộng tướng (tướng chung) (khái niệm).

2. Năm uẩn, đều khác nhau, gọi là tự tướng (tướng riêng, cụ thể). Vì đồng có nghĩa giản lược chung của chứa nhóm, nên gọi là cộng tướng.

3. Tướng tánh của năm uẩn như sắc v.v… đều khác, gọi là tự tướng.

Lý vô thường; Khổ, Không; Vô ngã đều đồng, gọi là cộng tướng.

Trong giải thích rộng, được chia làm ba:

  1. Biện biệt chung về tư duy có hai môn.
  2. “Đây là thế nào? Trở xuống, là giải thích rộng hai môn.
  3. Tổng kết.

Nếu tư duy của uẩn tương ưng với ngôn giáo: nghĩa là chính nói dùng hai môn để quán sát năm uẩn. Nếu lại tư duy những điều đã nói như trước, nghĩa là so với pháp khác đều dùng hai môn để phân biệt quán sát.

Trong giải thích rộng, trước, y cứ năm uẩn, để nói về hai môn.

Sau, so sánh với pháp khác.

Trong phần trước đầu tiên:

Dựa vào môn toán số, quán tưởng năm uẩn, nêu lên khác nhau của năm uẩn để làm rõ số, tức môn toán kế.

Nói: “Hoặc là do đây” cho đến “xoay vần khác nhau …” nghĩa là nếu sắc uẩn có nhãn trong mười một có nhiều thứ, cho đến sắc pháp xứ, cũng chẳng phải một thứ v.v…

2/ Lấy hình tướng xứng lượng để quán năm uẩn, trong đó có ba: a/ Nêu lên bốn lý. b/ Giải thích. c/ Kết.

Trong giải thích gồm có ba:

1/ Nói về đạo lý quán đãi: gọi là phương tiện Đạo lý Du-già v.v… Như người quán đãi tu Du-già này, vì biết rõ phương tiện, nên lập làm đạo lý quán đãi, gọi là phương tiện Du-già.

2/ Đạo lý của tác dụng. Nghĩa là sáu căn trong các uẩn có tác dụng chấp cảnh. Sáu trần có tác dụng của cảnh hữu vi, cho đến pháp là cảnh của ý, hoặc là mười bảy giới khác là cảnh giới của ý, là đối tượng hoạt động của ý.

So sánh như thế, để giải thích tám thức đều từ nhân duyên sinh. Phân biệt rõ về tác dụng của tự cảnh cũng thế.

3/ Đạo lý chứng thành. Rằng, do ba lượng, nên như thật quán xét:

a/ Dựa vào Thánh quả để chứng uẩn vô thường, bởi vì thánh giáo nói là uẩn từ duyên sinh, đều là Vô thường.

b/ Dựa vào hiện lượng để chứng minh uẩn là vô thường, do dựa vào định, phát trí khổ, vô thường, để chứng minh uẩn là vô thường.

c/ Do tỷ lượng này, xét nghiệm uẩn vô thường, như đối với Số luận lập tiếng vô thường, vì tư duyên tạo tác, cũng như điện v.v…

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Ở trước nói rằng lời bậc Thánh nói; nay nói là Chí giáo, tức giáo chí cực, do lý chí cực, bất luận nội giáo, ngoại đạo, đều gọi là Chí giáo”.

Trước nói rằng lời Thánh nói thì không như thế.

Lời nói của bậc Thánh trong ba mươi hai thứ lời nói có mười sáu, cần gì phải là lời Phật, gọi là Thánh ngôn. Do trước đây chỉ nói Bậc thánh, Phật, Bồ-tát v.v… nay nói chí giáo, tức không có đối tượng phân biệt về tướng.

4/ Đạo lý pháp nhĩ. Rằng, do bản tánh các pháp kia lẽ ra như thế v.v… Bản tánh nên như thế, nghĩa là từ vô thỉ đến nay, tự tánh các pháp lẽ ra như thế, không đợi các duyên (không đối đãi với các duyên) Đạo lý pháp tướng của pháp tánh nên như thế.

Hoặc tức như thế; hoặc khác như thế, Nghĩa là như bốn Đại với tánh rắn chắc tức là đất, cho đến tánh lay động tức là gió, gọi là “tức” như thế. Chẳng hạn như nói đất có khả năng gìn giữ, cho đến gió hay bày ra v.v… Đây là nói tác dụng của nghiệp khác với thể của bốn Đại; gọi là “khác như thế”.

Như chỗ của sắc, hình là đất, lắng trong là nước, ngọn lửa bốc cháy cũng gọi là lửa, sự va chạm nhẹ là gió. “Duyên” theo sắc sở tạo vốn chẳng phải bốn đại, mà giả nói là bốn đại, gọi là “chẳng phải như thế”. Do nhân gió tăng, tạo nên sự va chạm nhẹ đó chẳng phải là phong đại v.v…

Thứ mười hai, trong không có chướng, trước nêu chung cả hai trong, ngoài đều không có chướng. Sau nói rộng, trong đó có hai:

1/ Nói về chướng.

2/ Nói trái lại là không có chướng.

Trong phần trước có ba: Đầu tiên, giải thích rộng, kế là sau là kết.

Trong phần giải thích rộng, trước nói về, về chướng bên trong; sau nói về chướng bên ngoài. Chướng bên trong có ba:

1/ Thiếu thốn tiền của, thêm đủ tham, sân, si.

2/ Do nghiệp trước và do nhân bất bình đẳng trong hiện tại. Phần nhiều là do các bệnh tật triền miên.

3/ Nhiều sự nghiệp, với đủ các thứ vui chơi, chấp mắc.

Chướng bên ngoài lại có hai:

1/ Theo đuổi bạn xấu ác, không có thầy lành dạy bảo.

2/ Ở chỗ ác, ngày đêm ồn ào phức tạp; hoặc tiếp xúc với kẻ xấu ác, hoặc gặp phải nhiều sự sợ hãi.

Trong nghĩa giản lược, sơ lược về hai chướng trong ngoài ở trước. Phân biệt làm ba: chướng Gia hạnh, chướng viễn ly; chướng Tịch tĩnh. Ba chướng này đều từ đối tượng chướng mà đặt tên.

Trong chướng Gia hạnh, rất nhiều chứng bệnh lên sởi, cách đêm đọng lại ở thân là nội chướng ở trước làm che lấp. Hoặc bị rắn, rít v.v… căn là chướng ngại ở trước làm che lấp. Lại, không thể được áo cơm v.v…, lại là nhằm vào nội chướng ở trước làm che lấp.

Trong chướng Xa lìa có tám:

1/ Ăn thô, nặng.

2/ Làm ra rất nhiều việc.

3/ Ưa nói năng, tức là nói ưa lời nói chấp mắc ở trên.

4/ Ưa ngủ nghỉ, tức là ưa chấp mắc ngủ nghỉ nói ở trên.

5/ Ưa làm ồn chúng, tức là ưa làm ồn chúng nói trên.

Nói dâm nữ hạng luận. Pháp sư Thái, Cơ đồng nói: “Việc dâm nữ là nói dâm nữ hành dâm ở trong hẻm nhỏ hẹp”.

6/ Lại phần nhiều ưa thích vui đùa với chúng hội, tức là phần nhiều với chúng hội nói trên.

7/ Ưa ở chung lẫn lộn với nhau.

8/ Ưa cười giỡn vui đùa.

Trên đây cũng đều là sự việc trong chướng nội.

Trong chướng vắng lặng. Trước hết phát ra đối tượng chứơng, thể của vắng lặng, tức là chỉ, quán. Tiếp theo phát ra chủ thể chướng, tức bốn pháp sau cùng trong chướng nội.

Che lấp chỉ, tức là buông lung và dừng lại ở phi xứ. Che lấp quán, cáigọi là ưa tự cậy, đề cao, kể cả điệu cử, tán loạn. Trong đó, trước hết, giải thích về tự cậy thế đề cao. Sau, giải thích điệu cử, tán loạn, tổng kết.

Thứ mười ba, trong tuệ xả. Trước, là nêu ý thí, sau, hỏi đáp, giải thích.

Nêu ý thí. Nghĩa là vì trang nghiêm tâm vô lậu. Vì dùng làm giúp đỡ cho tâm vô lậu; vì giúp đỡ tu Du-già; và vì nghĩa trên hết của Niếtbàn, nên tu bố thí.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Vì tâm trang nghiêm, nghĩa là được tâm vô lậu. Vì tâm giúp đỡ, nghĩa là thấm nhuần tác ý v.v… vô lậu.

Bốn nghĩa thí này chính là đồng với nghĩa thí vượt hơn thứ tám trong tám thí của Bà-sa. Chỉ có Luận Trí Độ nói tám thí có lỗi lầm khắp.

Nghĩa là vì trừ bỏ chấp có sở đắc, nên nói chung là lỗi lầm.” Trong hỏi đáp, giải thích thì hỏi có sáu:

1/ Hỏi người năng thí (chủ thể thí).

2/ Hỏi vế người thọ thí.

3/ Hỏi vế vật xả.

4/ Hỏi về thể tưởng của thí.

5/ Hỏi về nhân thí.

6/ Hỏi về duyên thí, cũng gọi là ý thí.

Phần đáp tức có sáu:

Trong đáp câu hỏi thứ hai: Phân tích câu: “Giáo dẫn lợi ích, an vui.” Pháp sư Cơ nói: “Nói, chỉ bày, gọi là giáo, thân làm và khuyến khích, gọi là dẫn.

“Là sự nghiệp mà các Bồ-tát đã thể hiện” là đáp trong câu hỏi thứ ba, chẳng phải là ý đã thừa nhận thí v.v… trong nghĩa này.

Luận sư Cảnh nói “Đây là giải thích về vấn nạn nghi ngờ. Nạn rằng: “Bồ-tát thực hành thí cho vốn vì đem lại sự yên vui cho người trước mà làm tuệ thí, sau lại gây bức não cho vợ con, thậm chí con trai lớn, con gái lớn v.v… làm cho chúng phải khổ não khi sắp bị đem thí cho người khác?”

(Vì thông suốt qua vấn nạn này nên nói rằng: “Các Bồ-tát này không bao giờ bức não vợ con thực hành việc thí cho, chẳng phải là ý đã thừa nhận thí cho trong đây, vì không có gây bức não người này để tạo sự yên vui cho người kia.”

“Nếu vậy thì vì sao xưa nói đem cả vợ, con để thí cho?”

Để đáp lại câu hỏi này, nên ý đáp dưới đây là: “Bồ-tát có ba nhân duyên đem vợ con thí cho người:

1/ Có năng lực tự tại, có khả năng chế phục người kia, lúc chế phục đem cho người khác, tự biết không có tội.

2/ Dùng phương tiện khuyến dụ, dẫn dắt, giáo hóa, làm cho họ không có nghi ngờ, hờn dỗi.

3/ Biết người được vợ con ta, thì sẽ không bị tổn não.

Do đủ ba nghĩa này, mới đem vợ, con thí cho, thiếu một không thể được.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Ý trong đây nói là khi Bồ-tát dùng vật của số hữu tình trước để thí, tất nhiên, phải dùng tâm hoan hĩ thí rồi, mới dùng vật để thí, chư chẳng phải là người kia sinh nghi, hờn dỗi, rồi Bồtát vì muốn tự ý cho, liền đem vợ con để thí” (đọc tiếp theo đoạn văn dưới đây):

Nay, đại ý văn này nói, đầu mắt, tay, chân v.v… của thân mình, tùy nguyện thí cho, là việc rất khó có thể làm, là việc mà các Bồ-tát đã thể hiện, chứ chẳng phải là phần của Thanh văn. Nếu có loại hữu tình kia, do đủ ba nghĩa, nên đem vợ, con v.v… thí cho, gọi là số hữu tình thí không có tội. Đây cũng là phần của Thanh văn.

Đá mã não nhiều mầu: tức một vật, vì đá mã não có nhiều mầu.

Sắc sinh có thể nhiễm: Vàng là sắc sinh, bạc là có thể nhiễm.

Có người nói là tiếng Phạm. Chỉ Ngài Huyền Ứng nói: “Sinh tức là sắc vàng không thể thay đổi, nên gọi là vàng ròng, vàng y, còn sắc trắng có thể nhuộm, thay đổi, nên tức là bạc, gọi là có thể nhuộm.

Vòng xoắn của ngọc đỏ. Nghĩa là văn sức của ngọc này, xoay vòng về bên phải.

Trong phần đáp câu hỏi thứ tư, nói về thể tướng của thí cho, tức Tư tương ưng với Vô tham và nghiệp thân, ngữ. Hoặc tự nối tiếp nhau, hoặc người khác nối tiếp nhau. Hoặc tự thí cho hoặc khuyên người khác thí cho.

Trong Sa-môn trang nghiêm, quyển mười bốn, trước là Tụng và văn xuôi, nêu mười bốn môn, tiếp theo, là dựa vào thứ lớp của môn để giải thích. Sau, là kết thành.

Mười bốn môn trang nghiêm là:

  1. Chánh tín.
  2. Không có nịnh hót.
  3. Ít bệnh.
  4. Tinh tấn.
  5. Tuệ.
  6. Ít muốn, hỷ túc.
  7. Dể nuôi, dể đầy.
  8. Công đức đỗ-đa.
  9. Đoan nghiêm.
  10. Biết lượng.
  11. Pháp của Thiện sĩ.
  12. Có tướng thông minh.
  13. Nhẫn nhục, nhu hoà.
  14. Thành tựu pháp hiền, thánh.

Trong giải thích thành tựu tuệ mầu nhiệm, nói rằng, câu sinh giác tuệ, gia hạnh giác tuệ, tức phương tiện thiện của sinh đắc thiện.

Trong giải thích dể nuôi, dể đầy. Nếu theo thuyết của Bà-sa nói thì khó nuôi, khó đầy: Lựa chọn thức uống, ăn, gọi là khó nuôi; thường ăn uống, nhiều, gọi là khó đầy. Tự có ăn nhiều, thì gọi là dễ đầy, như có một người ăn rất nhiều trong một lúc mà không thường ăn, tự có ăn ít mà là khó đầy. Như một người ít ăn mà thường thường ăn.

Trong giải thích đỗ-đa, gồm có bốn:

1/ Nêu số danh. 2/ Nói về tướng. 3/ Giải thích danh từ Đỗ-đa. 4/ Nói về trị riêng tham dục.

Trong nêu danh, số nói: “Y chỉ như thế, hoặc ăn, cho Đến hoặc mười ba thứ v.v… nghĩa là nếu theo giải thích của Luận sư Cảnh, thì nêu danh thuộc về mười hai, gồm thâu làm ba loại. Có năm trong xứ của thực bốn, y ba, gọi là chung là đồ trải.

Thứ năm trong xứ, thường kỳ hạn chỗ ngồi đoan chánh, như thường ngồi.

Nếu trong khất thực thứ lớp, sẽ được chia làm hai:

1/ Tùy theo được khất thực.

2/ Khất thực theo thứ lớp từng nhà, tức có mười ba. Nếu dựa theo khất thực không có tánh khác nhau, thì chỉ có mười hai. Do tùy theo được khất thực, vì nhập chung gồm thâu trong khất thực theo thứ lớp.

Lại, Pháp sư Cơ nói: “Mười hai thực Đỗ-đa, bốn y có ba, ngồi có năm, nêu danh và trong giải thích dưới đây được chia làm mười ba. Do triển khai riêng thường kỳ hạn chỗ ngồi ngay ngắn như thường ngồi là hai, ở đây chỉ là một, thường ngồi, không nằm. Như kinh Thập Nhị Đỗđa nói.

Trừ chướng dưới đây và trong giải thích rộng, dù lại triển chia, trừ chướng riêng mà vẫn là một.

Nay, giải thích nêu danh có mười ba, gồm thâu làm ba loại, có sáu trong Xứ (thực bốn, y ba). Do thường kỳ hạn khất thực, tức gọi là tùy theo được khất thực. Thứ năm trong xứ, gọi là thường kỳ hạn, ngồi thẳng.

Thứ sáu, gọi là xứ, vì như thường ngồi. Nhưng vì danh của Đỗ-đa này thường khai hợp không đồng. Nếu theo luật Tứ phần thì thức ăn bốn, y hai, xứ sáu, cộng chung có mười hai.

Thực bốn, nghĩa là khất thực, không thực bằng cách khác. 1- Tòa thực; 1- Sủy thực (ăn lường). Y hai, nghĩa là nạp Y, Y ba. Khất theo thứ lớp kia thuộc về khất thực. Quá giữa trưa không uống nước, trái cây ép thuộc về một tọa. Xứ sáu như thường giải thích.

Y ba, Thực ba; Xứ sáu, trong kinh Niết-bàn là mười hai.

Phẩn tảo, Điệp Y, ba Y, gọi là Y ba. Khất thực một tọa, một sủy, gọi là thực ba. Xứ, đồng với luật giải thích.

Luận Trí Độ chép: “Y hai, Thực năm, Xứ năm là mười hai.

Y hai là Nạp, sắc. Thực năm: là thuộc về một tòa. Xứ năm, nghĩa là trừ tùy theo ngồi. Hoặc có kinh nói là mười sáu Đỗ-đa, hoặc có chỗ nói mười một Đỗ-đa. Tuy nhiên nhiều chỗ nói là mười hai. Nay, Luận này chính thức nói là mười hai, gồm chia ra mười ba; trong đó khất theo thứ lớp, thuộc về khất thực. Không thực hành thực khác, thuộc về thực một tòa. Thức tiết, lượng, thuộc về trước chỉ, sau thực. Lược qua không có Y nạp.

Thứ hai, trong phân nói về tướng, văn giải thích khất thực có hai:

1/ Chia ra làm hai.

2/ Giải thích riêng có hai.

Sau, nói về ý khai, hợp.

Tùy theo được khất thực. Pháp sư Thái bói: “Tùy môn cũ, “Từ”đi, lại nhà, khất thực theo thứ lớp”. Đại sư Viễn Công nói: “Phàm phu ngu muội, vì tham vị nên bỏ người nghèo, Đến với người giàu, người Nhị thừa vì tâm bi hẹp hòi, nên bỏ người giàu có, theo kẻ nghèo hèn. Công hạnh của Đại sĩ lìa tham, bỏ hẹp, không phân biệt người giàu, kẻ nghèo, vì thế, nên gọi là khất theo thứ lớp. Nhưng theo văn này, Thanh văn cũng nên không lực chọn giàu, nghèo mà theo thứ lớp lớp khất thực.

Trong giải thích về ba Y. Ba Y thì dùng vải tốt cắt rọc, xếp chồng lên mà may thành.

Tăng già. Chi ở đây phải có nghĩa trên, nghĩa là khi vào cùng vua, thôn xóm y này được mặt trên hết, nên có nghĩa trên.

Cụ túc, nên nói là tăng già chi bà sam, bà-sam-y.

Ốt-đác-la-tăng-già, cũng có nghĩa mặt trên, nghĩa là ở trong chùa thì mặc bảy điều ở trên năm điều. Cụ túc, nên nói là Ốt-đác-la tănggià-ba-sam. Bà-sam gọi là y.

An-đát-bà-sam, Hán dịch là nội y. An Đắc, gọi là nội; Bà Sam, gọi là y, nghĩa là chỉ ba y. Năm điều choàng thân thể nên gọi là y nội.

Về thuế y (y dệt bằng lông chim). Pháp sư cảnh nói: “Kết lông dê, gọi là thuế. Dùng lông để dệt thành ba y. Hoặc có người chỉ giử y này, hoặc có người chỉ giử ba y phấn tảo, đều gọi là Đỗ-đa” (đầu đà)

Ngài Viễn công nói: theo kinh Niết-bàn thì: “ Lông chim, thú nhuyển, gọi là thuế. Người tu hành, nếu không có phấn tảo, thì có thể được lấy đây làm y.”

Pháp sư Khuy Cơ lại nói: “Bất luận lông chim, thú nhuyễn đều gọi là thuế, e rằng, ba y dùng vật không có giá trị để may chồng lên, nên lấy lông dê để làm.

Văn này nói hoặc là y dư, nên biết Đỗ-đa cũng có y dư, nên phải nói là tịnh.

A-luyện-nhã, gọi là chỗ trống, nhàn nhã, cách thôn khoảng một Câu-lô-xá rưởi. Chỗ, như chỗ thường ngồi. Xưa nói: “Tùy ngồi, tùy chỗ đất có cỏ, được chỗ thuận tiện mà ngồi, nên không đồng với luận này.

Thứ ba, trong giải thích về danh.

Xưa gọi là Đầu-đà là sai.nay, gọi là Đỗ-đa, Hán dịch là Tu trị, hoặc dịch là Đẩu tẩu; hoặc dịch là Tẩy hoán.

Trong giải thích về kham nhẫn, nhu hòa, rơi vào trong bát, là thuộc về bát. Pháp sư Thái nói: “Thức ăn đặt vào bát, gọi là rơi vào bát. Theo pháp thanh tịnh của Bà-la-môn, bôi một ít đất lên trên bát để ăn, chỉ ăn vào trên đất bôi thì được thuộc về bát.”

“Sáu thứ như thế rất đáng ưa, rất đáng yêu v.v… tức sáu hòa kính.

Ba nghiệp trước là ba, hòa đồng thọ dụng thành một, giới, kiến đều là một, nên thành sáu.

Trong văn kết thành trang nghiêm nói: “Phàm trăm, nghĩa là gồm nhiều”.

BẢN LUẬN QUYỂN 26

Thứ hai, là Xứ Du-già, văn chia làm hai:

1/ Văn xuôi và Bài Tụng, nêu chung mười chín câu hỏi.

2/ Dựa theo thứ lớp câu hỏi để giải thích.

Câu thứ năm trong bài tụng nói: “Sư Du-già tác tu”, trong đó có hai giải thích:

a/ “Sư Du-già sáng tác tụng ở trước, Văn xuôi đã sáng tác câu hỏi thứ mười. Câu hỏi thứ mười một của Bài Tụng Du-già có bao nhiêu thứ tu tức câu hỏi thứ mười hai của Bài Tụng về tu”.

b/ Theo kinh, luận khác, thì bài Tụng ở trước Văn xuôi, chưa hẳn là thứ lớp. Vì thế nên văn bài Tụng này kết Văn xuôi trước, không thuận với thứ lớp, vì tùy theo lời nói thuận tiện. Cho nên Tụng của Sư Du-già là câu hỏi thứ mười một; soạn tụng, câu hỏi thứ mười: Tu tụng là câu hỏi thứ mười hai. Dựa vào trong giải thích, có mười bảy đoạn. Trước giải thích về phẩm loại sai biệt cuả Bổ-đặc-già-la, trong đó, nêu ra danh số, giải thích hai mươi tám người.

Đầu tiên, giải thích về người độn căn: người này có cả Học, Vô học. Độn căn này lại có hai hạng:

1/ Năm thứ tánh trước của độn căn từ xưa đến nay.

2/ Chưa thể chuyển căn thành thứ sáu, lợi căn cũng có cả Học, Vô học. Lợi căn này cũng có hai hạng:

  1. Bản tánh bất động.
  2. Khách Tánh bất động.

Kế có năm người như tham tăng v.v… và bình đẳng. Sáu người này có cả người chưa nhập Thánh và đã nhập chủng tánh Thanh văn.

Hướng có hai hạng:

  1. Thứ đệ hướng.
  2. Siêu việt hướng.

Về quả cũng có hai:

  1. Quả thứ đệ.
  2. Siêu việt.

Lấy quả thứ hai, thứ ba, trừ quả đầu.

Y cứ ở hạnh có siêu việt. Lại, có siêu việt, là lấy La-hán, tức dứt chung tu hoặc của chín địa.

Thời giải thoát thứ chín trụ ở quả thứ tư. Trong giáo lý của Tiểu thừa không có việc đó.

Người tùy tín hạnh. Người này ở kiến đạo trở xuống, tu giai vị bảy phương tiện. Tùy pháp hạnh cũng thế. Nếu nhập Kiến đạo, thì gọi là vô tướng hạnh, không đồng với phái Tát-bà-đa ở kiến đạo từ gốc đặt tên, gọi là Tùy tín, pháp hạnh. Lại đồng với bốn địa vị Hiện nhẫn của Luận Thánh Thật, gọi là tùy tín hạnh v.v…

Nhập thánh, gọi là Vô tướng hạnh. Luận Đối pháp chép: “Thông qua Kiến đạo, gọi là tín pháp hạnh, thuận với Tát-bà-đa.

Luận Trí Độ nói: “Kiến đạo, gọi là Vô tướng hạnh, đồng với Bátma nói, túc tùy tín hạnh trước, lúc trụ quả, gọi là Kiến trí. Hai người này từ căn lập danh hiệu, gọi là Tín căn và Tuệ căn”.

Thân chứng. Nghĩa là vô tâm thứ tám trong tám giải thoát, dựa vào thân mà chứng.

Giải thoát thứ ba thành tựu ở thân, gọi là thân chứng, do vượt hơn ba địa vị trước. Lại, rốt ráo của giới địa không được đem làm thể lệ chung cho năm giải thoát còn lại.

Người thân chứng được năm giải thoát, cũng có thể chứng sắc v.v… kia và “duyên” chân như sắc v.v… mà không bằng “câu giải thoát”.

Cực thất phản Hữu. Nghĩa là người được Sơ quả rồi, không dứt “tu hoặc”, trừ thân mới đắc đạo, lại thọ thân người, trời, đều qua, lại sinh tử bảy lần, gọi là “cực thất hữu”. Trời tự có bảy, người có sáu, Trời sáu, người năm v.v… Không đầy bảy hữu mà được Niết-bàn. Nay, vì y cứ ở những lần rất nhiều, gọi là Cực thất phản hữu.

Thân đầu tiên của bảy hữu, được gọi là dừng ở bờ mé khổ.

Nói dứt ba kiết được Dự Lưu. Nghĩa là chỉ dứt trừ ba kiết đoạn, mà không dứt trừ thân kiến của tu đoạn. Nêu cắt đứt ba phược (trói buộc), cũng dứt Tùy chuyển, mà thành pháp không có đọa, pháp không có đọa vào đường ác.

Những pháp này, như Luận Thành thật nói: “Gồm có mười bốn sinh, vì không thừa nhận Trung hữu”. Đại thừa và Tát-bà-đa nói có hai mươi tám sanh phải thọ trung hữu.

Gia gia: Nghĩa là như Tạp Tâm nói: “Nếu dứt trừ ba, bốn thứ, sẽ thành tựu đối trị kia. Hai sinh còn lại gọi là Gia gia. Nghĩa là nếu dứt trừ ba phẩm, sẽ có. Nếu dứt bốn phẩm thì có hai đời. Số chung của người, trời, chỉ có bảy đời; số riêng của người, trời có mười bốn đời.

Nay, lại y cứ ở bảy sinh của số hợp chung để lập pháp. Tu hoặc của cõi Dục có chín phẩm kia:

1/ Một phẩm tổn nhuần hai đời.

2/ Thấm nhuần chung hai đời.

3/ Phẩm chỉ tổn nhuần một đời.

4/ Cùng tổn nhuần một đời.

5/ 6/ Tổn nhuần chung một đời

7/ Một phẩm chỉ tổn nhuần nữa đời.

8/; 9/ Cùng tổn nhuần nửa đời.

Nay, dứt trừ phẩm đầu trong chín phẩm, tổn hai đời, còn có năm đời. Nếu dứt phẩm thứ hai, thứ ba, hoặc lại tổn hai đời, còn có ba đời. Nếu dứt phẩm thứ tư, lại tổn một đời, hai đời khác. Nếu dứt ba, bốn phẩm thì hai đời, ba đời còn lại là gọi là Gia Gia. Nếu dứt phẩm thứ năm, thì trong một đời tất nhiên đoạn phẩm thứ sáu. Lại, tổn một đời, một đời khác , gọi là quả Nhất lai.

Gọi là môt lần qua lại kia. Là y cứ vào mười bốn sinh để nói, nếu y cứ bảy đời mà luận, thì, hoặc gọi là một lần qua. Trong người, được quả thứ hai; một lần sanh lên cõi trời, tức nhập Niết-bàn. Nếu được sinh lên cõi trời lần thứ hai, thì chỉ một lần đến trong cõi người là nhập Niết-bàn. Nếu dứt phẩm thứ bảy, thì chỉ tổn nửa đời, trong mười bốn đời chỉ tổn một đời. Vì dứt hai phẩm tám, chín cùng tổn nửa đời trong bảy đời. Trong mười bốn đời chỉ tổn một đời. Vì hoặc của hai phẩm tám, chín chỉ gọi là một chủng tử, nên biết phẩm trên trong ba phẩm dưới chỉ nhuần tổn, phẩm trung, hạ đều bị tổn, tức giống với ba phẩm trên, ba phẩm Trung.

Hoặc phẩm thượng chỉ thấm nhuần, tổn riêng; phẩm Trung, hạ thấm nhuần tổn chung, do việc dứt “hoặc” của ba phẩm trên, vẫn còn có ba đời. Cho nên biết phẩm Trung có ba, phẩm Trung thượng thấm nhuần, tổn riêng một đời. Dứt năm tức dứt phẩm thứ sáu trong bảy đời, lại tổn một đời. Cho nên, biết trong ba phẩm Trung, hai phẩm hạ Trung, đều có một đời thấm nhuần, tổn chung của hai phẩm Hạ, trung. Như phẩm Trung thượng của ba phẩm Trung, nhuần thấm, tổn riêng một đời; phẩm Trung, Hạ tổn, thấm nhuần chung một đời. So sánh biết được sức phẩm Thượng trong ba phẩm trên mạnh hơn trong bảy đời, nhuần thắm, tổn riêng hai đời. Sức của phẩm trung hạ yếu hơn hai đời tổn, thắm nhuần chung. Trong đó, chỗ nguyện cầu sở dĩ phó thác ở sức mạnh, yếu mà thông suốt qua.

Bậc Thánh nhàm chán chỗ sinh, nên ở chỗ một nhà xuất hiện, đặc biệt không còn sinh. Nếu sinh trong loài người thì từ một nhà đến một nhà để thọ hai đời, ba đời, đều thay đổi cha, mẹ, không chịu sinh lại, không bỏ chỗ chủ trương đồng tánh. Hai nhà Đông Tây phô trương riêng, cũng được sinh lại. Thọ sinh trong cõi Trời, nhà trời rất nhiều, hoặc hay đổi loại Tứ Thiên vương để thọ sinh, hoặc đổi thay trong sáu loại trời trên, dưới để thọ sinh. Phải biết rằng hai gia gia của người Trời này dù thọ sinh trong nhất lai hướng, nhưng vì kèm theo Sơ quả nên gọi là Dư Lưu.

Tạp Tâm cũng nói: bậc Tu-đà-hoàn vượt hơn gọi là Gia gia, vì lên dứt hoặc kinh sanh, hơn kia trụ quả kinh sanh gọi là Thắng. Pháp sư Thái nói: “Tường phu nhân, Thiên gia Tây phương có hai thuyết. Luận sư Nan-Đà nói: “Hoặc đi, hoặc đến hai cõi người, trời”

Luận sư Giới Hiền nói: “Gia gia hai lần thọ sinh, chỉ hai lần thọ sinh qua lại trên cõi trời. Ba lần thọ sinh, y theo đây.

(Hỏi: “Đoạn” “hoặc” của phẩm một, hai là từ gia đến gia. Vậy, vì sao không gọi là Gia Gia?” Đáp: Xưa nói Gia gia có bốn

  1. Dứt một trụ tám.
  2. Dứt hai trụ bảy.
  3. Dứt ba trụ sáu.
  4. Dứt bốn trụ năm.

Pháp sư Huyền Trang nói: Giải thích này không đúng, theo kinh Đại phẩm thì chỉ dứt một hai phẩm là người trung gian, khiến có bốn thứ, Tu-đà-hoàn y theo dị thuyết nào gọi là Gia gia. Pháp sư Hưng nói nếu người chứng quả Dự Lưu dứt được ba phẩm vượt hơn quả Dự lưu, thì gọi là Gia Gia. Nhưng nếu người kia đã không có vượt hơn, thì thuộc về Bất tịnh rồi, nên không gọi là Gia Gia.”

Nhất gián. Nghĩa là chỉ được một lần thọ sinh là đã gián cách, vì không được Niết-bàn, nên gọi là “Nhất gián”. Gian là xen hở, ngăn cách. Xưa gọi là một hạt giống, là không đúng. Vì lẽ, dựa theo bản Phạm nói: “Ế-ca-tỷ-thân Ca, có thể nói rằng một hạt giống, nhưng ở đây nói “Ế-ca-tỷ-chỉ-ca, Hán dịch là “nhất gián”, cho nên, không được nói là một hạt giống.”

Trong mỗi người này được quả Nhất lai, tiến đến dứt “hoặc” của phẩm thứ bảy. Dứt “hoặc” của hai phẩm thứ tám, thứ chín, chỉ “hoặc” của phẩm thứ chín đã thấm nhuần nghiệp trời, nên chỉ thọ một thân trời, liền nhập Niết-bàn. Lại, không trở lại đời sống sau trong loài người, nên gọi là Nhất gián.

Trong đây, là y cứ ở người được quả Nhất lai sanh lên cõi trời, nhập Niết-bàn. Nếu ở trên cõi trời được quả Nhất Lai thì sanh xuống loài người chỉ thọ một thân, liền nhập Niết-bàn, gọi là Nhất gián.

Nói “Dứt hẳn phẩm thượng, phẩm trung.” Gom chín thành ba phẩm thượng, trung, dứt hết nên nói là dứt phẩm Thượng Trung. Đối với triền phẩm hạ sinh chưa dứt hết, gọi là còn thừa.

Ba người của Trung bát phẩm Hạ:

1/ Người lợi căn, mới bỏ tử uẩn cõi dục.

2/ Lại Đến trong mười sáu xứ cõi Sắc, tùy một Trung hũu hiện ở trước, liền dứt trừ “hoặc” thừa mà nhập Niết-bàn. Đây là Niết-bàn Hữu Dư .

3/ Người thứ ba chưa dứt trừ kiết còn thừa, mà không tự biết, chỉ thọ ý chi Trung hữu qua đến Sinh hữu. Theo Tạp Tâm nói: “Ba thứ Trung bát đều thu hướng sinh hữu.

1- Cõi Dục không xa. Thì nhập Niết bàn hữu dư 2- Hành phân nữa. 3- Lên đến cõi Sắc, mới nhập Niết bàn Hữu Dư. Vì chưa dứt kiết, mà không tự biết, nên đều thu hướng sinh hữu.

Sinh Bát. Nghĩa là ở mười sáu xứ cõi Sắc và Bốn Không Địa, tùy sinh bất cứ một xứ nào, nhanh chóng dứt trừ kiết thừa, liền nhập Niết bàn Hữu Dư. Vô hành tức đạo Thánh vô công dụng hiện ở trước vượt hơn, nhờ vào sức tác dụng hữu hành bát, mới thu hướng, nên ở trước hữu hành bát, không thể mới sinh, tức dứt phiền não, nhanh chóng nhập Niết-bàn, nên Sinh Bát về sau mới nói. Ở đây đồng với Câu-xá: “Vô hành là vượt hơn”, không đồng với Tạp Tâm nói: “Hữu hành bát là vượt hơn”. Hữu Hành Bát dù không có đạo tinh tấn nhanh chóng, nhưng đạo phương tiện siêng năng, gọi là “Hữu Hành”. Người vô hành bát, cả hai tu đều không có, gọi là không có hành, vì kém nên về sau sẽ nói.

Thượng lưu có hai:

1. Ưa tuệ. Tạp tu tĩnh lự, vì có huân tu nghiệp, nên đến Sắc cứu cánh là tột đỉnh.

2. Ưa Định. Không có tạp tu nghiệp, sinh về cõi Vô Sắc, đến Phi Tưởng là cùng cực. Nhưng hai người này đối với Sắc cứu cánh, hoặc đối với phi tưởng, có người hoàn toàn vượt qua phân nửa, vượt kịp Nhất thiết xứ rồi mất.

Người được thời giải thoát chung cho cả năm chủng tánh, người nây căn độn vì phải chờ đợi thời gian mới được giải thoát, nên gọi là thời giải thoát. Năm người, như văn, theo thứ lớp phối hợp.

Bất động, tức người căn trên hết thứ sáu, không bị duyên khác như phiền não v.v… làm dao động, nên được gọi là Bất động.

Người được tuệ giải thoát, như luận Bà-Sa nói: “Tự có tuệ giải thoát dựa vào định Vị chí , có khả năng dứt hết các lậu, nhưng không có khả năng nhập tám định căn bản. Hoặc có người dù nhập một, hai, ba, bốn Tĩnh lự căn bản mà vẫn không thể nhập định của Bốn Vô sắc, cho đến hoặc có khả năng khởi nhập định căn bản mà không thể khởi Diệt Tận giải thoát. Trong đây cũng thế, cho nên nói rằng: “Đối với tám giải thoát, chưa có năng lực thân chứng đầy đủ, an trụ, gọi là tuệ giải thoát.

Câu Giải thoát. Nghĩa là chướng phiền não và giải thoát đều hết, gọi là “Câu giải thoát”.

Chướng Phiền não tức Kiến, tu phiền não của chín địa. Giải thoát chướng: Tức tánh không thành tựu tám giải thoát.

Luận Đối Pháp Quyển mười ba chép; “Sự khác nhau của Bổ-đặcgià-la có hai mươi bảy, đó là: Tín giải, Kiến chí, Nhân chứng, tuệ giải thoát, Câu giải thoát, Dự lưu hướng, quả Dự Lưu , Nhất lưu hướng; quả Nhất lai , Bất hoàn hướng, quả Bất hoàn , La-hán hướng, quả La-hán , Cực thất phản hữu, Gia gia, Nhất quán, Trung Bát Niết-bàn, Sinh Bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn, Hữu hành bát Niết-bàn, Thượng lưu bát Niết-bàn, La-hán Thối pháp , La-hán Trụ bất động , La-hán Kham Đạt , và La-hán Bất Động .”

Luận Hiễn Dương quyển ba thì nói có hai mươi chín, tức thêm Tùy tín hạnh và Tùy pháp hạnh. Hai mươi chín người kia, tức trừ chín người trong hai mươi tám người. Số còn thừa thuộc về mười chín người sau.

Nếu theo Tát-bà-đa thì có hai mươi bảy thứ lấy, bỏ hơi khác, như luận Thuận Chánh Lý, quyển sáu mươi lăm chép: “Ruộng phước có hai: 1/ hữu học; 2/ Vô học. Hữu học có mười tám, nghĩa là bốn hướng; ba quả, tức là bảy. Và Tùy Tín, Tùy Pháp, Tín Giải, Kiến Chí, Gia Gia, Nhất Gián; Trung Hữu; Sinh Hữu; Hành, Vô Hành và Thượng Lưu gọi là mười tám.

Vô học có chín, nghĩa là Thối Pháp, Tư Pháp, Hộ Pháp, An Trụ, Kham Đạt, Bất Động, Bất Thối tuệ và Câu Giải Thoát, gọi là chín, Hữu Học, Vô Học hợp thành hai mươi bảy.

Theo Kinh Bộ cuối, Luận sư Thành Thật, thì các vị Hiền, Thánh này cũng có khác nhau. Phẩm Hiền, Thánh thứ hai Luận Thành Thật chép: “Hữu học mười tám, vô học chín” Hữu học mười tám là:

1/ Tùy Tín Hạnh ở giai đoạn Văn, Tư.

2/ Tùy pháp hành ở bốn thiện căn.

3/ Vô tướng hạnh, tức hai người trước nhập Kiến Đạo.

– Ba người này gọi là Dự Lưu Hướng.

4/ Quả Tu-đà-hoàn.

5/ Nhất lai hướng.

6/ Quả Nhất lai .

7/ Bất hoàn hướng.

8/ Quả Bất hoàn.

– Quả Bất Hoàn có mười một vị:

  1. Trung Bác.
  2. Sinh Bác.
  3. Hữu Hành Bát.
  4. Vô Hành Bát.
  5. Ưa Định.
  6. Ưa tuệ.
  7. Chuyển thế.
  8. Hiện Bát.
  9. Tín Giải.
  10. Kiến Chí.
  11. Thân Chứng và bảy người trên, hợp thành mười tám, gọi là Hữu Học.

Vô học có chín:

  1. Tướng Thối Pháp.
  2. Tướng Thủ.
  3. Tướng chết.
  4. Tướng trụ,
  5. Tướng khả tiến,
  6. Tướng Bất Hoại,
  7. Tuệ giải thoát,
  8. Câu giải thoát,
  9. Tướng bất thối.

Luận Trí độ nói Hữu học có mười tám, Vô học có chín. Hữu học có mười tám là:

  1. Tín hành,
  2. Pháp hành,
  3. Thất sanh,
  4. Gia Gia.
  5. Trung Gian Hữu.
  6. Hiện diệt.
  7. Thứ Đệ Hướng Hạnh.
  8. Nhất Lai Quả.
  9. Một Hạt giống Hữu.
  10. Thứ Đệ Hướng.
  11. Hiện Bát.
  12. Trung Bát.
  13. Sinh Bát.
  14. Hữu Hành Bát.
  15. Vô Hành Bát.
  16. Ưa định Thượng Lưu.
  17. Ưa tuệ Thượng Lưu.
  18. Thân Chứng.

Trên đây là Hữu Học.

Vô học có chín, đồng với Luận Thành Thật.

Trong đây dựa vào Tát-bà-đa, kinh Hiện Bát Đa chép: “Quả Bất Hoàn của Sinh Đắc cõi Dục một, không sinh cõi trên, vì hiện thân bác (nhập) nên gọi là người Hiện Bát. Hoặc tức nhập thân Thánh, không trải qua tử, sinh, được quả Bất Hoàn, hiện thân nhập diệt, gọi là người Hiện Bát, cũng gọi là chuyển thân, không đồng với xưa nói là chuyển thế, thuộc về Bất định. Ở trong cõi không có nghiệp định, chỉ có thuận với bất định nghiệp của ba cõi, chỗ duyên hợp, thì được nhập, nên gọi là Bất định. Vì đã bất định, nên cũng không lầp riêng.

Bất hoàn của Vô Sắc kia, nghĩa là trừ người Trung bát thuộc bốn người còn lại trong năm Bất hoàn. Người bất định kia, có cả năm Bất Hoàn.

Theo Luận Thành Thật, Bất Hoàn của Vô Sắc có cả Tín giải, Kiến chí.

Giải thích về Bất định có hai:

1/ Chuyển thế Bất định, tức người bảy đời, không đủ bảy đời, nhập Niết-bàn v.v…

2/ Thượng Lưu bất định. Vì đối với ưa tuệ, ưa Định, đều không nhất định (trong Đại thừa chưa thấy văn nào nói).

Pháp sư Tuyển nói: “Trai qua sinh cõi dục, được quả Bất Hoàn, gọi là bất định. Nếu nhập thân Thánh tức là nhập Niết-bàn, gọi là Hiện bát. Về lý, thật sự nên nói.”

Trong hai mươi bảy vị lược qua không nói. Tương truyền từ xưa đến nay, y cứ vào năm hạng Bất hoàn hiện hữu để phân biệt lợi, độn khác nhau.

Ngài Tam Tạng nói: “Năm hạng Bất Hoàn đều có sáu thứ chủng tánh khác nhau, khó nhất định lợi, độn (Nhạy bén, chậm lụt).

Từ đây trở xuống là phần thứ hai, trong kiến lập: Trước là nêu chung; kế là giải thích; sau kết.

Ngài Tam Tạng nói: “Dù có mười một đạo lý, nhưng không ngoài chín, bởi vì chúng sai biệt, vì hành tích cũng thuộc về sự khác nhau của đạo quả”.

Luận sư Cảnh nói: “Trong mười một người này, chẳng phải là nói hai mươi tám hạng người trên sự kiến lập kia, mà là nói chung về nghĩa kiến lập đa số người. Trong khác nhau của giải hành.”

Rằng, lại triền tham này trụ ở trong thân, chúng nối tiếp nhau qua thời gian lâu , cho đến bị pháp đáng yêu chế phục, không thể chế phục pháp đáng yêu kia. Trong đây ý nói vì bị tham trói buộc, bị cảnh chế phục tâm, chứ chẳng phải tâm có khả năng khuất phục cảnh. Như tham phẩm hạ, sân, mạn phẩm trung, văn y cứ theo đây nên giải thích.

Dưới đây, trong giải Thích-câu hỏi rộng, phần của bạc Trần hành giả không giải thích v.v… vì ở trên đã nói, lại vì sơ lược, nên không nói.

Trong giải thích về sự khác nhau của nguyện, đầu tiên, là hỏi, kế là giải thích; sau kết.

Trong giải thích có bốn:

1/ Nói về phát nguyện của Ba thừa khác nhau.

2/ Nói về người phát nguyện Ba thừa, mỗi nguyện đều chung cho căn tánh của ba thừa.

3/ Nói về tánh nhất định của Thanh Văn, dù phát Độc giác và nguyện của Đại thừa, những về sau, nhất định sẽ trở lại bỏ Độc giác và nguyện của Đại thừa, bám trụ vào nguyện của Thanh văn. Độc giác của tánh nhất định và căn Đại thừa, nên biết cũng như thế. Nhưng trong văn này chỉ nói về ba thừa của tánh nhất định, không nói về người có tánh bất định, một người thành hai, thành tánh của ba thừa. Gặp duyên liền tỏ ngộ Thánh đạo v.v… của thừa kia, nghĩa là sơ lược.

4/ Phân biệt về lấy nghĩa của địa, rằng, nay, trong nghĩa này, phải biết rằng, chỉ nói về chủng tánh v.v… của Thanh Văn, nguyện của thừa Thanh văn. Pháp sư Thái nói: “Ba thừa đều có tánh định, bất định nhưng vì biện biệt về địa Thanh văn trong nghĩa này, nên chỉ nói về chủng tánh của Thanh văn.”

Luận sư Cảnh nói: “Chỉ nói nguyện của người Thanh văn.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: chỉ lấy người có chủng tánh nguyện của Thanh văn, trong giải thích Gia hạnh, Pháp sư Cảnh nói “Do thấy gia hạnh ở trước có khác, nay ở kiến đạo, từ phương tiện kia lập hai người Tín, Pháp. Trong kiết nói chỗ nêu nghĩa là đã nêu mười một đạo lý. “Đã mở bày là giải thích.

Thứ ba, trong sở duyên (đối tượng duyên), trước chia ra bốn chương; kế giải thích, sau là kết.

Trong giải thích đầy khắp, trước là hỏi, kế là giải thích; sau là kết.

Trong giải thích, trước là giải thích về bốn câu đối tượng duyên đầy khắp. Kế là giải thích riêng về bốn trường hợp khác của kinh. Sau dẫn hai bài tụng trong kinh để chứng thành.

Trong phần trước, trước là nêu, kế là giải thích, sau kết thành đầy khắp.

Trong phần nêu bốn đối tượng duyên:

1/ Hữu phân biệt ảnh tượng, đây là Noãn v.v… cảnh của bản chất giống với tướng phần sở duyên của tuệ trong định, gọi là ảnh tượng. Phân biệt tánh của tuệ, gọi là phân biệt ảnh tượng.

2/ Vô phân biệt ảnh tượng, tức là nhuyễn v.v… định vô phân biệt của tướng phần tâm định, gọi là vô phân biệt ảnh tượng.

3/ Tánh biến tế của sự . Nghĩa là phần vị ở Kiến đạo đã duyên Chân như, gọi là tánh biến tế của sự .

4/ Việc phải làm đã làm xong. Nghĩa là địa vị ở Vô học, đối với ba cảnh trước đều được tự tại, gọi là việc làm đã xong.

Trong giải thích riêng dưới đây, được chia làm bốn đoạn:

1. Trong giải thích Hữu phân biệt ảnh tượng: Trước hết nêu Văn, Tư: lắng nghe chánh pháp của ba phương tiện trước, hoặc nghe bên Giáo Thọ sư v.v… làm đối tượng nương tựa; hoặc đối với chỗ thấy, nghe khác, trong đó phân biệt. Đối với sự sở tri, thì có “Đương tâm”, đồng phần ảnh tượng, dường như bản chất, gọi là đồng phần. Đây là ảnh tượng phân biệt, của đối tượng duyên (sở duyên) của tán tâm Văn, tư sinh đắc tuệ. Do đây làm duyên sinh ở địa Noãn v.v…

Nói “Do Địa Tam-Ma-Hý-Đa, Tỳ-bát-xá-na, hạnh quán sát phân biệt v.v… Nghĩa là lại dựa vào tuệ trong định Vị Chí, quán sát lực chọn ảnh tượng sở duyên trong tâm Văn, tư.

“Sự Sở tri” trở xuống, phát ra sự sở tri gốc của Văn, Tư ở trước, nghĩa là năm pháp quán dừng tâm; năm thiện xảo; sáu hạnh quán; Bốn Đế, gọi là sở tri.

“Sự Sở tri này v.v… “ trở xuống, là nói do nghe pháp với tâm tán làm duyên, khiến cho tác ý trong định kia hiện ở trước. Hoặc “duyên” giáo pháp mà khởi thắng giải; hoặc “duyên” giáo hạ đã giảng nói về sự sở tri mà khởi thắng giải.

Nói: “bấy giờ, người kia đối với sự sở tri, như hiện lãnh thọ thắng giải mà chuyển” v.v… Nghĩa là do tiền phương tiện “duyên” sự sở tri, nay, ở trong định Noãn v.v… đối với sự sở tri, như hiện lãnh thọ.”

Hỏi: “Sở tri trong định như Noãn v.v… chỉ là ảnh tượng tùy tâm định khởi, vốn chẳng phải là bản sự sở tri của tâm tán, sao lại nói là đối với sự sở tri, như hiện lãnh thọ”

Vì giải thích vấn nạn này, nên kế ý đáp sẽ phải ở vào thời gian Noãn v.v… mà vốn là sự sở tri, dù chẳng phải là hoà hợp với sự lãnh thọ hiện tiền, cũng chẳng phải lìa vốn sở tri, vật loại khác lãnh thọ hiện ở trước. Nhưng do Thắng giải trong định, đã lãnh thọ vốn là sự sở tri của tâm tán, vì dường như ảnh tượng, nên nói là đối với sự sở tri, như hiện lãnh thọ. Do tướng phần của tâm định như Noãn v.v… này, giống như bản sự sở tri kia, gọi là ảnh tượng đồng phần của sự sở tri.

Người tu quán hạnh tìm kiếm ảnh tượng trong định, có lỗi của đức. Hiện vốn sở tri cũng có thể xét định công đức, lỗi lầm.

2. Trong giải thích vô phân biệt ảnh tượng: Trước giải thích ảnh tượng, sau giải thích tên gọi.

Nhận chấp tướng của ảnh tượng như thế. Xong, là nhắc lại hạnh Noãn ở trước vốn đã phân biệt, không còn quán sát, lựa chọn v.v… nữa, nghĩa là dùng Xa-ma-tha vận hành tâm vắng lặng, lại không tìm cầu lực chọn công đức, lỗi lầm, chỉ lấy chín thứ hành tướng để cho tâm được an trụ. Bấy giờ người kia tùy tâm quyết định có tướng phần riêng, trở thành đối tượng duyên của ảnh tượng vô phân biệt.

Giải thích tên gọi, có tám, cũng gọi là Tam-ma-địa khẩu v.v… Luận sư Cảnh nói: “Do “duyên” dòng định nối tiếp nhau của tướng phần trong mỗi niệm, như thức ăn dựa vào miệng, nối tiếp nhau vào bụng. Dụ gọi là pháp, gọi là Tam-ma-địa khẩu. Như người nương vào cửa mà được ra vào. Như thế, tâm định dực vào “duyên”ảnh tượng để nhập định, xuất định, nên gọi là môn Tam-ma-địa.”

Pháp sư Thái nói: Cảnh năng sinh ra tâm, như miệng bình phát ra vật, nên gọi là tướng của sự sở tri của miệng định, lấy định làm thể, gọi là thể phân biệt, làm cho sự hiểu biết rõ ràng sáng tỏ, nên gọi là quang ảnh (bóng sáng).

3. Giải thích Biến Tế của sự: Tất cả việc sở tri, thuộc về bốn Thánh Đế. Nay, trong Đại thừa Hư không phu Trạch diệt vì lấy “như” làm thể, nên đều thuộc về diệt Đế.

Trong tánh như sở hữu, trước là nói về Chân như, tức là “Lý như”. “Do bốn đạo lý” trở xuống, là nói về “sự như” kia. Nhưng “Tánh tận sở hữu” này và tánh “như sở hữu” có sáu môn không đồng nhau:

1/ Chỗ này nói: “Tánh tận sở hữu” là ngoài ắc uẩn, không còn có sắc nào khác. Ngoài bốn uẩn: như Thọ v.v… không còn có thọ v.v… nào khác”. Rằng: “Như Tánh sở hữu”, nghĩa là tánh chân như và tánh của bốn đạo lý như Quán đãi v.v…

2/ Quyển tám mươi lăm chép: “Thế nào là do hai tướng quán sát tất cả tạp nhiễm, thanh tịnh? a/ Do tánh như sở hữu. b/ Do tánh tận sở hữu.

Tánh như sở hữu. Nghĩa là đối với các hạnh, hoặc ái vị; hoặc tai họa lỗi lầm; hoặc xuất ly.

Tánh tận sở hữu. Nghĩa là ở tong các hạnh, tận sở vị hữu ái ; tận tất cả tai họa lỗi lầm và tận tất cả xuất ly.

3/ Theo quyển sáu mươi bảy chép: “Tận sở hữu là y cứ vào mười một trong, ngoài, thô, tế v.v… của ba đời, để nói. Hoặc “Như tánh sở hữu” là nối theo ở Chân như”.

4/ Quyển chín mươi ba chép: “Như Tánh sở hữu”, nghĩa là các pháp duyên sinh vô minh v.v… Với thể tánh, nhân quả lần lượt thích hợp với nhau. Và vì có nhân chưa dứt này, nên mới có quả chưa dứt kia. Vì nhân chưa dứt này sinh, nên quả chưa dứt kia sinh. Như thế gọi là “Như Tánh sở hữu”.

Tánh tận sở hữu. Nghĩa là các “duyên” như vô minh v.v… sinh ra hành, tất cả thứ tướng, như vô tri v.v… của mé trước vô minh kia.

5/ Luận Hiển dương quyển năm chép: “Tánh tận sở tri, nghĩa là cùng tận bờ mé của tất cả thứ sai khác trong pháp tạp nhiễm, thanh tịnh, gọi là nghĩa tận sở tri, như năm số uẩn, sáu số nội xứ, như thế v.v…

Nghĩa như sở tri. Tức thật tánh Chân như trong pháp tạp nhiễm, thanh tịnh, gọi là nghĩa Như sở tri.

Lại, bảy thứ này, nghĩa là lưu chuyển Chân như cho đến chánh hạnh Chân như.

6/ Luận Đối Pháp quyển mười một chép: “Tánh tận sở hữu, là uẩn, giới, xứ. “Như Tánh sở hữu, nghĩa là Bốn Thánh Đế; mười sáu hạnh Chân như, tất cả hành vô thường; tất cả Hành Khổ; tất cả pháp vô ngã; Niết-bàn vắng lặng; không, vô nguyên; vô tướng”.

Hỏi: “Vì sao các giáo như thế không đồng?”

“Vì hai nghĩa “tùy” này không nhất định: hoặc chỉ tự tướng của phần nhiễm so sánh như quyển chín mươi ba nói; hoặc tướng hữu vi; vô vi, so sánh như quyển sáu mươi bảy nói. Vì các pháp không nhất định như thế, nên các Luận không đồng.

4. Trong giải thích về đối tượng tạo tác thành xong:

“Ảnh tượng của các duyên tất cả tác ý đều được viên mãn, cho đến vì được “chuyển y”, nên vượt qua ảnh tượng v.v… Ý trong đây nói, hễ có vô phân biệt ảnh tượng, thì đều chưa chứng chân, vì đều có ảnh tượng.

Nhập Kiến đạo gọi là Tánh tận như sở hữu của việc Bờ mé.

Nay, đến việc làm của Vô học đã thành xong, được “chuyển y”, chứng vô lậu viên mãn, siêu việt qua ảnh tượng, thì tâm vô lậu không có ảnh tượng.

Phân biệt “có” “không”, hoặc định, hoặc tuệ, văn của luận Đối Pháp dù có mà văn của ảnh tượng thì không. Người phương Tây giải thích có ba:

Tùy ý lấy nghĩa này, tâm vô lậu kia có ảnh tượng, rằng, giải thích văn này siêu việt qua ảnh tượng, nghĩa là Pháp hữu lậu siêu vượt này chấp ảnh tượng, chư chẳng phải tâm vô lậu không có ảnh tượng.

Lại, không có nghĩa ảnh tượng, dùng văn này làm chứng. Rõ ràng như văn của Luận kia.

Văn này thì chứng minh rằng, nhân tâm vô lậu có quả của ảnh tượng, tâm vô lậu không có nghĩa ảnh tượng.

Trong đoạn kết nói rằng: “Sự hệ thuộc nhau của nhân, quả, nghĩa là ngay trong nhânhạnh này đã được quả là việc đã làm thành xong.”

Từ đây trở xuống, là phần thứ hai giải thích riêng bốn trường hợp của kinh khác, trong đó trước là nêu lúc gặp là hỏi. Sau, thuết minh về Phật đáp.

Hiệt-Lệ-Phạt-Đa, Hán dịch là “Ngộ thời”, vì được sinh vào đời có Phật. Về phần hỏi có ba câu:

1- “Vì sao mà “duyên” tâm trụ?” 2- Công dụng của pháp trụ tâm? 3- An trụ tâm khéo đầy đủ vào lúc nào?

Y cứ trong lời Phật đáp có ba:

  1. Khen, răn, nghe.
  2. Chính đáp.

Trong phần đáp ở trước chia ra bốn trường hợp, kế là giải thích; sau kết đáp lại ba câu hỏi. Chia ra bốn câu:

1/ Hoặc ưa tạo ra năm dừng tịnh hành phiền não. Hoặc ưa tu uẩn, xứ, giới, duyên khởi xứ, phi xứ thiện xảo. Hoặc ưa giải thoát các lậu của ba cõi. Vì có ý này, nên đối với “duyên” tương xứng an trụ tâm mình.

2/ Đối với duyên giống nhau, an trụ tâm mình.

3/ Đối với duyên không trái ngược, an trụ tâm mình.

4/ Đối duyên không xả tĩnh lự. Trong đây, hoặc ưa tịnh hạnh, cho đến khiến tâm giải thoát các lậu, nghĩa là đáp lại câu hỏi đầu tiên.

“Đối với duyên tương ứng an trụ tâm mình”. Trở xuống, là bốn câu đáp lại câu hỏi thứ hai. Dựa vào bốn câu này tu tập hoàn thành viên mãn, nên ở phần sau cùng, kết rằng: “Gọi là khéo an trụ,” lời đáp an trụ này là đáp lại câu hỏi thứ hai”.

Y theo giải Thích-câu đầu rằng, nếu ngu đối với nhân kia, trụ ở nơi khéo léo vì nhân môn nghĩa, nên luận đối pháp nói: “Thành tựu nhãn giới, vì không thành tựu nhãn v.v… Nên nói người ngu nhân, phải quán ở giới. Ngu duyên trụ xứ nghĩa là môn mười hai xứ y cứ ở cảnh giới của duyên tăng thượng, vì “duyên” môn sinh ra thức, cho nên người ngu duyên, nên quán về “xứ”. Nếu ngu vô thường, khổ, không, vô ngã, thì nên đói với duyên khởi xú, phi xứ, thiện xảo. An trụ tâm mình. Nghĩa là duyên khởi định với nghĩa xứ, phi xứ trao dồi nhau: Khéo biết vô minh sinh ra hành; Hành sinh ra thức, cho đến sinh ra sinh, già, chết, gọi là ở nơi duyên khởi, khéo biết nhu nghĩa chân thật, kể cả khéo hành hay vẫn sinh thức v.v… cho đến sinh ra chi sinh, già chết của Người, Trời, gọi là “xứ”. Nếu cảm chi sinh, già chết của đường ác, thì gọi là “phi xứ”.

Vì thế, đối với duyên khởi và thiện xảo xứ, phi xứ, thì biết hữu vi, hữu lậu, Khổ, Không, kể cả Vô thường, Vô ngã.

Nếu một người ưa thông suốt và ưa giải thoát. Luận sư Cảnh nói: “Nghĩa là nếu người ưa thông suốt về nhân quả của thế, xuất thế và ưa giải thoát thân hữu lậu ba cõi v.v… thì đối với bốn Đế như khổ v.v… an trụ tâm mình”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nếu người ưa thông suốt, nghĩa là dứt trừ dục của cõi Dục. Lại nghĩa là nhập Kiến đạo và ưa giải thoát v.v… trở xuống, gọi là Tu đạo, thấy giống như duyên trụ trong tâm, ý nói rằng, Bí-sô kia ở trong tâm định. Đối với sự sở tri trước của tâm phân tán kia, vì muốn phân biệt, lựa chọn lúc tư duy quán sát khắp, do tâm phân tán ở trước đã có sức tăng thượng thấy, nghe, hay, biết, nên khiến tác ý của tâm định phân biệt mà khởi thắng giải.”

Hỏi: “Lúc tâm định khởi có đối tượng phân biệt tướng phần của tự tâm, không biết cảnh sở tri xưa của tâm tán, sao ở đây lại nói là tâm định phân biệt từng là sự sở tri?”. Vì đáp lại câu hỏi này, nên nói rằng: “Thức từ tâm định dù đối với sự sở tri ở trước, vẫn không thể hoà hợp với sự quán sát hiện ở trước. Nhưng vì tướng phần được biến ra trong tâm định giống với gốc nên được nói là phân biệt sự sở tri gốc.

Ở trên, y cứ sự sở tri, để nói về sự giống nhau rời, dưới đây, lại đối với thời gian v.v… của thời gian, y cứ ở tâm năng quán nhằm nói về sự giống nhau; tức là công hạnh thường khởi chỉ, quán. Về sau, lại khởi lên giống như công hạnh trước, gọi là trụ giống nhau, tất cả thô nặng đều dứt mất, tùy theo được đối tượng nương tựa (sở y) xúc chứng thanh tịnh v.v… Đây là giải thích bốn thanh tịnh:

1/ Thân tịnh. Trong đây gọi là sở y (đối tượng nương tựa). 2/ Sở duyên (đối tượng duyên). 3/ Tâm. 4/ Trí Kiến thanh tịnh.

Thứ ba, dẫn hai bài Tụng của kinh để chứng thành nghĩa trước.

Trong dẫn bài Tụng thứ nhất, tụng lại câu thứ tư: “không bỏ tĩnh lự” trong bốn câu sau.

Câu thứ hai tụng lại: “tánh Bờ mé của việc thứ ba” trong bốn câu trước.

Câu thứ ba tụng lại câu thứ hai trong bốn câu trước.

Câu thứ tư tụng lại câu thứ tư: “việc làm thành xong” trong bốn câu trước.

Trong bài Tụng thứ hai, câu đầu kết ba câu đổi tên thuyết khác trong bốn câu trước.

Bốn câu sau của bài tụng trong câu thứ hai.

Trước là ưa đoạn, tức là ưa giải thoát các lậu. Ưa tu, tức là hoặc ưa tịnh hạnh, ưa thiện xảo.

Câu thứ ba (chung cho) thứ tư trong bốn câu sau: “không xả vô gián ân cần trân trọng tĩnh lự, vì tu gia hạnh, nên được tâm thanh tịnh, trí thanh tịnh v.v…

Giải thích về sự đầy khắp đã xong.

Từ đây trở xuống, là phần thứ hai, trong sự sở duyên của tịnh hạnh, trước hỏi, kế giải thích, sau là kết.

Trong phần giải thích, nêu năm môn, tức là môn năm độ quán. Sau giải thích theo thứ lớp.

Quyển này từ trên đến nay, chỉ giải thích hai môn trước, đầu tiên, trong giải thích bất tịnh có ba:

1/ Nêu rộng cử đối tượng duyên của sáu bất tịnh.

2/ Đem sáu đối tượng duyên bất tịnh để trừ năm thứ tham.

3/ Phân biệt lấy pháp đã nói.

Trong phần trước, trước là nêu, sau giải thích:

Phần nhơ bất tịnh có hai:

1/ Dựa vào trong, tức quán thân mình có ba mươi sáu vật bất tịnh.

2/ Dựa vào ngoài, thì quán thân người có mười sáu việc bất tịnh.

Khổ não bất tịnh, tức khổ thọ của cõi Dục.

Nói thuộc về thọ, nghĩa là đồng thời các thân nghiệp, ngữ nghiệp v.v…

Bất tịnh thấp kém là pháp mười tám giới của cõi Dục. Bất tịnh quán đãi là pháp của hai cõi trên. Bất tịnh phiền não là hoặc của ba cõi.

Nhanh chóng hư hoại bất tịnh, thì năm thủ uẩn vô thường.

Thứ hai, trong phần nói về trị tham, trước là nêu năm thứ tham:

  1. Là tham, ái dục đối với thân mình.
  2. Đối với thân người, vì sự dâm dục, mà khởi tham dâm.
  3. Tham các tư cụ của ngoài cõi Dục.
  4. Tham cõi Sắc.
  5. Đối với ba cõi, có thân khởi tham.

Ở đây, Pháp sư Thái nói: “Đầu tiên đối với trong thân, khởi dục, vì dục nhẹ, nên gọi là dục dục. Tiếp theo khởi dục tham nặng, gọi là tham dục. Lại, đối với thân người, đầu tiên, là khởi dâm nhẹ, nên gọi là dâm dục. Kế là, khởi dâm nặng, nên gọi là tham dâm.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đối với trong thân, lần đầu khởi dục vi của cõi Dục, nên gọi là “Dục Dục”. Kế là vì khởi tham nặng cõi Dục, nên gọi là tham dục”. Cách giải thích này đồng với Pháp sư Thái.

Lại, giải thích: “Trong thân là pháp mà mình mong muốn, nên nói: “Đối với trong thân “. Dục ở trong thân , khởi dục nên dục là tâm của chủ thể dục, đây gọi là tham dục. Chử “Dục” đầu, thuộc về đối tượng dục (Sở dục); chữ Dục thứ hai thuộc về chủ thể dục (năng dục); chữ dục thứ ba là kết tên.

Thứ hai, là nói đối trị nhau. Trước, là nói chung về đối trị. Sau nói riêng về hai pháp:

1/ Trị tham ban đầu. Nghĩa là dựa vào bất tịnh bên trong để chửa trị bệnh tham của trong thân.

2/ Trị tham thứ hai, trong đó, trước là nói lược là do bất tịnh bên ngoài, nhằm chưa trị bệnh tham dâm ở ngoài thân. Kế là nói rộng về phương pháp đối trị chứng tham dâm. Sau là dẫn các thuyết để chứng thành.

Trong phần nói rộng, trước là nêu tham dâm có bốn:

1/ Tham hiển sắc. Nghĩa là yêu sắc mặt ửng hồng v.v…

2/ Tham hình sắc. Nghĩa là tham lưng eo, ngón tay thon dài, trán bằng phẳng, mày cao v.v…

3/ Tham sự xúc chạm êm ái.

4/ Tham thờ phụng.

Sau, nói về đối trị lẫn nhau. Nếu nói theo chánh lý, thì một quán một bộ xương đối trị cả bốn tham; vì không có cảnh bốn thứ tham trong một bộ xương. Nay luận này chỉ nói rằng chửa trị “Tham xúc chạm êm ái. Pháp sư Thái nói: “Nếu theo giải thích về duyên chết của Tiểu thừa, thì đầu tiên là quán màu xanh, sau biến thành màu đỏ, trắng. Nay, Đại thừa giải thích màu đỏ của da, v.v…, bỏ đi hình sắc của da, thịt, gọi là biến thành màu đỏ.

Đối trị tham tướng mạo. Pháp sư Cơ lại giải thích: “Đối với tham hiển sắc trắng trẻo, hồng hào, thì dùng sắc xanh, bầm tím v.v… để đối trị. Đối với hình sắc, khởi tham dài, ngắn, vuông, tròn v.v… thì dùng trừ khử da, thịt để đối trị. Nếu Tiểu thừa nói rằng, biến đổi tướng màu đỏ, nghĩa là thây chết lúc đầu xanh, sau đổi sang màu đỏ, biến thành thân có máu đỏ, để trừ tham hình sắc”. Đại thừa giải thích: “Ở trước, màu da thịt đỏ, bỏ đi hình sắc da thịt, gọi là đổi thành màu đỏ, ngay khi biến đổi thành đỏ. Dưới đây, dẫn thuyết để chứng thành, đều dựa vào bốn thứ đường như sợ hãi v.v… Thới, Pháp sư Thái Cơ v.v… đồng nói: “Dùng hai nghĩa để giải thích:

1/ Đặt thây chết vào chỗ im lặng, vắng vẻ không có người lui tới, nên gọi là sợ khiếp đảm. Vì thực hiện quán bất tịnh, là khả năng dẫn đến Niết-bàn, nên gọi là con đường.

2/ Trước hết, con đường run sợ đầy khiếp đảm là nhìn thấy thây chết nọ trải qua bảy ngày, bỉ chim chóc v.v… cắn ăn rút rỉa, để so với thân của cảnh dâm, cũng có tánh chất giống như thế.

Vì dùng kinh để chứng minh cho luận, nên gọi là “hiển thị”. Một trong ba câu dưới đồng với nghĩa này, về tướng văn rất dễ hiểu.

3/ Đối trị tham thứ ba. Nghĩa là do thứ bất tịnh khổ não thứ ba, cho đến bất tịnh thấp kém thứ ba, làm cho tâm tham phi tình bên ngoài được thanh tịnh.

4/ Đối trị tham thứ tư. Nghĩa là do quán hạnh bất tịnh thứ tư, làm cho tâm tham đối với cõi Sắc được thanh tịnh.

5/ Đối trị tham thứ năm, nghĩa là do phiền não bất tịnh thứ năm. Và với bất tịnh hư hoại nhanh chóng thứ sáu, khiến cho tham có thân của ba cõi được thanh tịnh.

“Tham này làm đối tượng duyên của tịnh hạnh”, là thứ ba kết.

Thứ ba, trong phân biệt lấy đối tượng đã nói, với đại ý là như thế. Nếu y cứ trong năm pháp quán dừng tâm, thì “dừng” đầu tiên hay tịnh hành tham, nói chung là tất cả tham dục. Vì chung cho công hạnh đối trị, nên nói sáu thứ đối tượng duyên bất tịnh mà thôi.

Nay, bản ý trong nghĩa này, chỉ lấy thứ bất tịnh mục rã, nhơ nhớp. Năm thứ bất tịnh còn lại, tự là đối tượng duyên hành tham của chủ thể tịnh khác kia, chư chẳng phải đối tượng mà luận này nói.

Từ bi thương Xót thứ hai, tức là chủ thể tịnh hành sân, qua đó, trước hỏi, kế là giải thích và sau là kết.

Trong giải thích có ba:

1/ Nói chung về duyên từ. Ý ưa thích của ba phẩm hữu tình là bình đẳng, yên vui, lợi ích, công năng dẫn sinh ba phẩm: Diệu lạc, Địa định và Thắng giải.

2/ Giải thích bốn câu trong kinh đã dẫn.

3/ Nói về cảnh duyên của Từ bi với Hỷ không đồng.

Trong phần trước, đầu tiên, là nói, dựa vào ý ưa lợi ích của cõi dục, tâm “duyên” ba phẩm lợi ích bình đẳng của con người, dẫn sinh ba phẩm vui sướng của địa định, kể cả thắng giải.

Trong phần thứ hai, là giải thích về câu chung ở trước có hai chủ thể duyên, đối tượng duyên riêng: Cõi Dục là phương tiện của Từ; cõi Sắc là căn bản. Người tu hành do khởi tâm từ bình đẳng cho vui, cứu khổ. Đối với bản thân mình, tự động có thể được dẫn sinh ba phẩm thượng, trung, hạ, vui sướng thắng giải.

Kế là trong dẫn chứng bốn câu kinh, gồm có:

1/ Nêu ý ưa thích lợi ích, đối tượng duyên của ba phẩm.

2/ Chỉ rõ về ý ưa lợi ích có ba thứ tướng: không có sự oán ghét là chung; không có kẻ thù địch và không gây tổn hại, là giải thích.

3/ Nói về đối tượng dẫn. Tĩnh lự thứ ba v.v… trở xuống, là ba thứ vui sướng. Tĩnh lự thứ tư trở lên, vì không có vui sướng cho nên không nói.

4/ Chỉ rõ về chủ thể dẫn sinh diệu lạc, thắng giải của Địa định. Lại nữa chủ thể dẫn sinh an vui, thắng giải của địa định này đều hiện hành với tác ý của ý ưa thích tăng thượng.

Dưới đây là phần nói về cảnh duyên (Đối tượng duyên) không đồng, so với luận Trí Độ kia.

Bốn tâm vô lượng đều gọi là Từ Bi Quán. Luận này muốn giữ lấy nghĩa ấy, nên phân biệt về cảnh duyên Từ, Bi, Hỷ không đồng, do Xả là chung , nên không nói về cảnh kia.