Chí Xuất Trần
Tỳ Kheo Thích Thông Phương

 

Chí Xuất Trần

Buổi khai pháp hôm nay quý thầy nói về đề tài Chí Xuất Trần, nhằm nhắc nhở sách tấn đại chúng trong đầu mùa an cư để tất cả cùng thấy rõ bổn phận của người xuất gia.

1 – Ý NGHĨA XUẤT TRẦN.

Tất cả người tu ai cũng có chí xuất trần? Bởi có chí xuất trần nên mới đi tu, nếu không có thì đã ở ngoài thế gian để thụ hưởng dục lạc thế tục, nên đã đi tu tức là có chí xuất trần. Sao là chí xuất trầ?

Là chí nguyện cao thượng nguyện thoát khỏi trần lao, vượt ra những trói buộc của thế tục, thoát khỏi ngục tù thế gian đã giam hãm chúng ta từ nhiều kiếp đến nay.

Chữ trần có nhiều nghĩa. Trần là bụi bặm, là ô nhiễm là che mờ sự trong sáng nên nó là cái duyên dẫn chúng ta đi trong lục đạo luân hồi, trong biển khổ sinh tử.

Chữ trần, nói cho đủ là tám mươi bốn nghìn trần lao, nói gọn là sáu trần. Người đời vì vô minh không thấy được lẽ thật của thế gian là đau khổ nên tham đắm rồi đuổi tìm những cái vui giả tạm, là gốc sinh ra các thứ phiền não.

Phật dạy chúng sinh giống như con thiêu thân, cứ thấy ánh sáng là lao vào rồi chịu chết. Cho nên ngài Hàn Sơn (Hàn Sơn-Thập Đắc) là hiện thân của Bồ Tát Văn Thù có nói bài thơ:

Ta thấy người thế gian
Bôn ba chạy đường trần.
Chẳng biết việc trong đây
Đem gì làm bờ bến.

Vinh hoa được mấy ngày
Quyến thuộc gần khoảnh khắc.
Dẫu có ngàn cân vàng
Chẳng bằng nghèo dưới rừng.

Ngài thấy người thế gian cứ lo bôn ba chạy theo con đường trần, hướng ra bên ngoài, chẳng biết được lẽ thật, quên mất cái gốc chân thật chính mình, rồi cuối cùng không biết đem cái gì làm bờ bến để nương tựa.

Mãi đuổi theo những vinh hoa phú quý hư ảo, song thời gian có được mấy ngày! Nó mỏng manh vô thường được đó mất đó. Rồi của cải vàng ngọc cũng vậy, đều là tạm bợ không thực quý. Còn bà con quyến thuộc chỉ gần gũi trong khoảnh khắc cũng đâu có bền bĩ.

Cho nên, dẫu giàu có đến ngàn cân vàng cũng không sánh được với người nghèo sống thong thả ở rừng cây vắng vẻ buông xả hết thảy, đời sống xuất trần không vướng bận. Nghèo, được nói ở đây là nghèo các duyên để sống đời xuất gia thanh tịnh.

Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ răn: “Một thuở đua vui, chẳng biết vui là nguyên nhân của khổ, nhiều kiếp đuổi theo trần chưa từng tỉnh trở lại, thời giờ qua suông năm tháng dần già, thọ dụng quá nhiều lợi hưởng càng đậm. Nhiều năm dồn tới chẳng nghĩ buông rời, chất chứa càng thêm, lo giữ gìn thân huyễn.

Tức là, hết kiếp này đến kiếp khác đuổi theo các duyên trần mà chưa từng biết tỉnh lại. Đó mới thật là điều đau buồn. Chúng ta hiện nay cũng được chút tỉnh giác nên mới xuất gia đi tu, nếu không khéo tu lại để ngày giờ năm tháng trôi qua rồi thọ dụng quá nhiều, hưởng lợi càng đậm mà không nghĩ việc xa rời. Cứ mãi tham đắm chất chứa càng ngày càng dính mắc thêm, chỉ lo giữ gìn vóc huyễn, rồi quên mất chí xuất trần của mình.

Tổ cảnh tỉnh người tu, nếu không khéo chỉ lo đuổi theo duyên trần thọ dụng chất chứa cho nhiều, rồi tự bảo hộ rằng: Do có phước nên mới được người cúng dường nhiều. Đâu ngờ sự tham đắm thọ dụng đó càng bào mòn công đức chính mình. Cho nên, đó chỉ làm tăng trưởng lòng tham, mỗi ngày càng lún thêm trong trần mà không hay.

Chúng ta không khéo tuy thân xuất gia mà tâm thì ở trong trần, như vậy chí xuất trần ở đâu?

Ngài Phó Đại Sĩ nói về ý nghĩa xuất gia: “Xuất gia là ra nhà bỏn xẻn, ra nhà tham lam, nhà giết hại, nhà ăn nuốt chúng sinh, ra nhà trộm cướp, ra nhà trái ân bội nghĩa, ra nhà chẳng có khiêm nhường, nhà bàn tán thị phi, cho đến ra nhà tất cả những cái kết hữu vi”.

Xuất trần là như vậy chứ không phải tầm thường. Nếu không thường xuyên kiểm lại bản thân thì lâu ngày chúng ta sẽ quên chí xuất trần, rồi dính trở lại trong trần mà không biết. Như vậy, mỗi người phải thường tự kiểm hoặc khi được nhắc nhở sách tấn, phải ghi nhận và cố gắng tiến tu.

Ngài Động Sơn nói trong bài Quy Giới rất chí thiết: “Sa-môn Thích Tử thì phải lấy cái đức cao thượng làm đầu, đã dứt phan duyên nên theo đạm bạc, cắt ân ái với cha mẹ, bỏ lễ nghĩa về vua tôi, cắt tóc nhuộm áo, cầm khăn bưng bát đi vào nẻo tắt xuất trần, bước lên bậc thang nhập Thánh, trong trắng như sương, thanh tịnh tựa tuyết, rồng thần phải cung kính, ma quỷ quy hàng, vì thế phải chuyên tâm dụng ý báo đền ơn Phật”.

Sa-môn Thích tử là con dòng họ Thích, phải lấy đức cao thượng làm đầu không phải sống theo tình thế gian… Như vậy, đâu phải là tầm thường. Vì thế, phải giữ gìn giới hạnh trong như sương, sạch như tuyết. Có thế, rồng thần mới cung kính, ma quỷ sợ quy hàng.

Ngài nói nếu được như vậy thì “sinh thân của cha mẹ mới được phần lợi ích, chớ đâu được phép kết thác môn đồ, đua đòi bè bạn, giữ việc bút nghiên, trổ tài văn chương, cứ khư khư danh lợi, tất bật hối hả chạy theo trần tục mà chẳng nghĩ đến giới luật, phá hết oai nghi, để chuốc lấy sự thoải mái trong một đời, rồi phải đắng cay trong nhiều kiếp, uổng công mang danh Phật tử”.

Tổ nhắc chúng ta nếu muốn đền đáp được phần nào công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và ơn tái tạo giới thân huệ mạng của Phật Tổ thì phải nỗ lực. Nếu như chỉ lo kết môn đồ bè phái, trổ tài văn chương và ôm chặt danh lợi, tất bật chạy theo trần tục mất hết oai nghi giới luật. Như vậy, là chỉ bám lấy sự thoải mái trong đời này, mà quên mất sự đắng cay khổ đau trong nhiều kiếp.

Ngài nói người tu không khéo thì “uổng công mang danh Phật tử”. Chúng ta mang danh là Thích tử, là đệ tử Như Lai nhưng lại chưa hành đúng theo những gì Phật dạy, nên Ngài nhắc nhở. Do đó, người tu phải có chí xuất trần. Xuất trần tức là sống thanh tịnh, giải thoát, đáng cho người trời cung kính, quỷ thần nể phục, chớ đâu thể buông lung, lo hối hả chạy theo trần tục, quên mất đạo nghiệp giải thoát của chính mình. Điều đó thật đáng hổ thẹn.

Thiền sư Bạch Dương Thuận dạy chúng: “Nhiễm duyên dễ mắc, đạo nghiệp khó thành, chẳng hiểu trước mắt muôn duyên sai biệt. Chỉ thấy gió trong cõi trần ào ạt làm cho rừng công đức tiêu tàn, lửa tâm bừng bừng thiêu hết mầm móng bồ-đề. Nghĩ về đạo giống như nghĩ về tình thì hẳn thành Phật đã lâu rồi.

Ngài nói những lời rất chí thiết. Duyên thế tục dễ nhiễm mắc còn đạo nghiệp thì khó thành. Bởi vì, ngoài đời chúng ta đã có thói quen đó dù nay ở trong đạo nhưng nhiều khi những duyên cũ rất dễ kéo lôi.

Ví dụ như học kinh học luật thì buồn chán nên học lâu thuộc, còn đọc chuyện tiểu thuyết lại thấy thích thú, đọc hoài không biết mệt. Khi nghe giảng kinh nhiều khi nghe quen rồi chán, nhưng khi coi phim kiếm hiệp thì xem không biết mỏi, dù không cố gắng nhớ mà vẫn huân, rõ ràng cái duyên nhiễm dễ mắc còn đạo nghiệp khó thành.

Do vì mới tỉnh ngộ nên đạo nghiệp chưa quen, tu khó thành. Dù chúng ta cố gắng công phu nhưng vẫn trầy trật lên xuống, muốn cho nó quen mà không được, còn cái kia không muốn mà nó cũng quen, nên nói là dễ mắc dễ nhiễm.

Lại nữa, trước mắt mỗi người nhiều duyên sai biệt, nhích một chút là nó dẫn đi liền. Chúng ta tu hành năm mười năm không khéo khi niệm bất giác khởi, gió trần thổi tiêu rừng công đức, có khi cởi áo ra đời. Còn khi lửa sân hận nổi lên đốt cháy mầm bồ-đề chính mình.

Câu sau Ngài nói thật chí thiết: “Nghĩ về đạo nếu giống như nghĩ về tình hẳn thành Phật đã lâu rồi”. Chúng ta phải nghiệm kỹ để khéo ứng dụng. Nếu như nghĩ về đạo mà được như nghĩ về tình thì thành Phật lâu lắm rồi. Nghĩ về tình, lôi kéo tâm ngày đêm, có khi không muốn nghĩ mà nó cũng nghĩ, không cần cố gắng mà nó cũng nghĩ.

Nhiều khi chúng ta lên bồ đoàn tọa thiền, lúc đó đáng lẽ phải nghĩ về đạo nhưng rồi tình cũng xen vào. Nếu nghĩ về đạo mà được như nghĩ về tình thì công phu thành tựu dễ dàng. Vì khi nghĩ về đạo thì quên trước quên sau lúc được lúc mất, còn nghĩ về tình thì không cần dụng công gì hết mà cũng thành sâu đậm.

Vì vậy, người tu phải khéo chuyển ngược trở lại, thay vì nghĩ về tình thì luôn nghĩ về đạo. Nếu chúng ta luôn nghĩ về đạo thì đâu có phiền não nhiều. Người hay phiền não thì biết là còn nghĩ nhiều về tình hơn là nghĩ về đạo, như nghĩ về đạo nhiều hơn thì đâu hay phiền não. Phải khéo chỉnh đốn, phải hổ thẹn để chuyển trở lại. Nếu không, lâu ngày tình mạnh hơn đạo sẽ dẫn chúng ta đi xuống. Một câu nói của người xưa, nhưng khi nghe rồi suy gẫm, thật là thấm thía.

Thời Tống, Thiền sư Từ Thọ ở Đông Kinh một hôm sau buổi tọa thiền dạy chúng: “Các ông nhất thiết phải xa danh và lợi lấy khổ nhọc làm vui, tâm danh lợi thế gian giảm xuống thì niệm đạo thanh tịnh tự nhiên tăng trưởng. Như Hoà Thượng Biển Đảm Sơn suốt đời ăn trái lịch để sống (trái rừng). Còn Đại sư Huyền Giác không ăn rau trồng, bởi trồng thì phải cuốc đất sợ tổn thương tiểu trùng, đồng thời kính trọng giọt mồ hôi khổ nhọc của người nông phu. Pháp sư Huệ Hưu ba mươi năm chỉ một đôi giày, gặp đất bằng thì đi chân đất. Các ông hiện tại y phục đầy đủ, thọ hưởng đủ thứ chưa đói đã ăn, chưa lạnh đã mặc thêm áo, chưa dơ đã tắm, chưa buồn đã ngủ. Như vậy thì đường sinh tử chưa thấu rõ, cấu nhiễm chưa trừ tận, hoặc chướng không đoạn lấy gì để tiêu của đàn na tín thí”.

Ngài dạy: Các ông phải lìa xa danh lợi…, chớ có lấy cái sung sướng thoải mái nhất thời làm vui, cần chịu khó, chịu khổ nhọc để tiến tu thì tâm danh lợi thế gian mới giảm xuống. Mà tâm thế gian giảm thì niệm đạo thanh tịnh tự nhiên được tăng trưởng.

Dẫn hạnh ngài Huyền Giác chỉ ăn rau rừng không ăn rau trồng tưới. Ngài nói trồng thì phải cuốc đất mà cuốc đất là làm chết tiểu trùng, tổn thương sinh mạng chúng sinh, thêm nhọc nhằn khổ công người trồng trọt. Khi đi qua chỗ gò, đất sỏi khó khăn thì Ngài mới mang giày, còn những nơi bằng phẳng thì Ngài cởi giày đi chân trần, cho nên ba mươi năm mà đôi giày chưa hư.

Chúng ta kiểm lại xem có được giống như vậy không? Đúng theo Luật thì ngày ăn một bữa, còn ngày nay có đàn na thí chủ cúng thức ăn dư sẵn, đôi khi hơi nhiều được phát về tăng đường, lâu lâu đi ra đi vô buồn bốc bỏ vào miệng một chút, như vậy không phải là chưa đói mà đã ăn hay sao? Cũng gọi là ăn phi thời. Còn chưa lạnh mà đã mặc thêm áo, chưa dơ đã tắm, chưa buồn ngủ đã ngủ. Ngài bảo người xưa tu hành miên mật, còn các ông hiện tại y phục đầy đủ, thọ hưởng cũng nhiều, chưa đói đã ăn rồi. Nếu mà như vậy thì đường sinh tử làm sao thấu rõ, cấu nhiễm cũng chưa trừ, não phiền chưa đoạn thì lấy gì mà tiêu của đàn na tín thí. Những lời nhắc nhở thật là chân thiết.

Lời Ngài nhắc có đúng với bệnh của chúng ta hiện nay không? Đối với chí nguyện xuất trần có khế hợp được gì? Xuất trần mà như vậy hay sao? Nói xuất trần mà có thực xuất hay chưa? Hay là mình xuất trần này rồi vào trần kia? Như vậy, chúng ta vẫn y như cũ, vẫn bụi bặm đầy mình, có thấy xấu hổ hay không?

Cho nên phải xem, quán trở lại chí nguyện xuất trần của mỗi người với sự thật trong cuộc sống hằng ngày như thế nào? Để rồi thúc liễm bản thân tiến tu.

Xuất trần là một ý nghĩa quan trọng, theo chúng ta trong suốt cuộc đời này, chứ không phải một ngày một bữa lúc có lúc không. Mà đúng ra thì không phải chỉ một đời này mà kéo dài nhiều đời khác nữa cho đến thành Phật thôi! Đó là ý nghĩa thứ nhất của xuất trần.

2 – SINH TỬ SỰ ĐẠI.

Sinh tử là việc lớn, không phải là chuyện đùa chơi. Nhiều khi học lý nói: “ Ừ! Sinh tử như mộng” hoặc “sinh tử nhàn nhi dĩ”, tức sinh tử nhàn mà thôi! Tuy nói như vậy mà chúng ta chưa thật như vậy. Chúng ta phải biết lúc nào nên nói và lúc nào chưa nên nói. Chuyện này không phải là chuyện đùa chơi hoặc là chuyện lý luận trên miệng.

“Sinh tử là một việc lớn” Câu này không biết phát xuất từ đâu, nhưng đọc Kinh Pháp Bảo Đàn thì thấy khi Ngũ Tổ bảo môn đệ trình kệ thì Ngài có nhấn mạnh điểm này: “Ta nói cho các ông rõ đời người “sinh tử là việc lớn”, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền mà chẳng cầu ra khỏi biển khổ sinh tử. Nếu mà tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu được. Mỗi người hãy đi rồi tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát nhã ở nơi bản tâm mình, mỗi người hãy tự làm một bài kệ rồi trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý thì ta sẽ truyền y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu”.

Ngũ Tổ nhấn mạnh đời người sinh tử là việc lớn cần giải quyết cho xong chớ chỉ lo cầu phước điền. Đây là điểm cần phải nhớ, phải ý thức cho đậm. Phải nhớ “việc mình chưa sáng cũng như đưa đám tang cha mẹ”. Nghĩa là việc mình chưa sáng thì phải băn khoăn, khắc khoải, nôn nóng như đưa đám tang cha mẹ, chứ không nhàn nhã được. Đời người sinh tử là việc lớn, khi chưa giải quyết xong thì chưa thể nhàn nhã qua ngày, cũng như chưa thể yên tâm ăn ngủ. Do đó, người xưa khi chưa giải quyết được sinh tử thì quên ăn quên ngủ.

Việc này, tôi cũng có kinh nghiệm. Ngày trước, khi mới hạ thủ công phu thì tôi cũng như vậy. Khi cảm nhận được sự vô thường, sự chết bức bách kề bên, lúc đó có cái gì thúc đẩy ghê sợ lắm, tưởng chừng như không còn đủ thời gian để mà tu nữa. Đây, không phải chỉ hiểu lý vô thường theo kinh điển Phật dạy, mà đây là sự cảm nhận sâu trong lòng. Cho nên, hạ thủ công phu phải quyết chí, quên ăn quên ngủ, như Lục Tổ nói “giống như người ngơ ngơ”. Nhiều khi gặp bà con khách xa đến, liền ngó lơ đi không thèm chào hỏi. Nhờ vậy, qua thời gian dài thiết tha công phu, mới thực sự có kết quả chứ không phải dễ dàng.

Ở đây Tổ nhắc: Sinh tử là việc lớn phải có sự thức tỉnh nơi mình. Có khi nhìn các vị cứ lo ngủ gà ngủ gật, bàn ăn bàn uống món này món kia thì thấy run sợ, vì lơ là cái chuyện lớn của mình đi. Phật dạy: “Sinh tử giống như ngục tù”. Ngục tù sinh tử này đã nhốt chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay. Xét kỹ thật đáng sợ chứ không phải tầm thường. Nếu chỉ nói trên lý “sinh tử như mộng”. Như mộng khi nào mình đã thấu suốt được nó. Cho nên, quán kỹ lại mỗi một lần sinh tử là một lần chồng thêm cái mê cách ấm cho mình, qua một lần sinh tử thì quên một lớp, qua một lần nữa thì quên một lớp nữa.

Như vậy qua một lần sinh tử thì thêm một lớp quên, rồi càng tạo nghiệp sâu thêm, có khi quên mất gốc. Có những người chừng hai mươi hai mấy tuổi sớm phát tâm xuất gia vào chùa, nhưng do sinh vào gia đình tạo nghiệp sát sinh như lưới cá v.v..,thì lúc nhỏ ở gia đình người này cũng đã tạo thêm nghiệp.

Quán kỹ rồi thấy sợ. Hôm nay chúng ta ngồi chung ở đây, ngày mai bỏ thân này rồi đi đâu? Không biết có còn xuất gia tu hành, còn được nhắc nhở nhau tiến tu như vầy nữa hay không? Vì vậy, Quốc Sư Vô Nghiệp có dạy: “Lúc lâm chung mà còn một mảy tình phàm lượng thánh chưa sạch, một chút bụi tư niệm chưa quên thì theo niệm thọ sanh. Năm ấm nặng nhẹ gá vào thai lừa bụng ngựa cho đến chốn địa ngục. Một phen vào lò lửa vạc sôi thì những điều ghi nhớ nghĩ tưởng, kiến giải trí tuệ từ trước nhất thời đều mất hết, rồi y như trước trở lại làm thân con muỗi con kiến.

Ngài dạy đến lúc lâm chung mà tình phàm lượng thánh chưa hết, vẫn còn chút mảy bụi tư niệm chưa quên thì liền theo niệm đó mà thọ sanh. Ví dụ như lúc chúng ta sắp chết mà còn nhớ tiếc một cái gì đó thì nguy, hoặc lúc đó mà còn một chút niệm bực tức thì liền theo đó mà thọ sanh. Rồi theo năm ấm nặng nhẹ mà đi vào các đường thọ sanh. Nặng thì vào thai lừa bụng ngựa hoặc vào chốn địa ngục dầu sôi… Lúc đó, quên hết những điều ghi nhớ, những kiến giải trí tuệ từ trước, lý thiền lý đạo, thảy đều mất hết. Lúc đó không thể tự nói “Tự tánh của ta vốn thanh tịnh, địa ngục giống như là mộng” mà chỉ nhớ cái khổ thôi! Rồi y như trước làm thân con muỗi, con kiến.

Chúng ta buông lung thân tâm, tu không khéo một phen đi lạc vào đó rồi thì nguy hiểm. Đây không phải nói để hù dọa mà đó là lẽ thật. Trong kinh Pháp Cú có câu chuyện: Lúc đức Phật ở tinh xá Kỳ Viên, ngài dạy các Tỳ kheo phải luôn tinh tấn tu tập đạo nghiệp để dứt trừ mê mờ, giải thoát các khổ. Có vị Tỳ kheo tâm trí không được thông suốt, cả ngày ăn xong rồi vào phòng đóng cửa nằm ngủ, chỉ quý cái thân huyễn mà không lo tu. Vì không biết mình chỉ sống được bảy ngày nữa thôi. Phật biết sau khi chết ông sẽ đọa vào đường dữ nên thương xót, mới đi đến phòng lúc ông còn đang ngủ, Ngài gõ cửa đọc bốn bài kệ để cảnh tỉnh:

Bài thứ nhất

Ôi! hãy dậy đừng mê
Loài rận ốc trai mọt.
Ẩn mình trong bất tịnh
Mê hoặc chấp làm thân.

Phật cảnh tỉnh: Hãy dậy đừng có mê, giống như loài rận loài trai loài mọt sống trong bóng tối. Con rận sống trong quần áo của người, trong bóng tối. Con trai nó khép hai cái vỏ vào cũng là sống trong bóng tối, loài mối mọt cũng vậy. Chúng đều ẩn mình trong bất tịnh.

Bài thứ hai

Đâu có bị chém thương
Mà tâm như trẻ bệnh.
Đối trước bao ách nạn
Lại tham đắm ngủ nghê.

Tức là, đâu phải người bị chém bị thương tật gì, mà tâm như đứa trẻ bị bệnh cứ lo ngủ.

Bài thứ ba

Biết nghĩ không buông lung
Lo học đạo từ bi.
Do đó không ưu sầu
Thường nhớ trừ vọng tưởng.

Đây là đánh thức. Người mà khéo biết nghĩ thì không có buông lung, lo học đạo, do đó mà không có ưu sầu.

Bài thứ tư

Chánh kiến luôn trau dồi
Là ánh sáng giữa đời.
Sinh ra phước đầy đủ
Chết không đọa ác đạo.

Khi ấy, Tỳ kheo đang ngủ nghe bài kệ giật mình thức dậy, trông thấy Phật trước cửa hoảng sợ đứng dậy đảnh lễ. Phật mới hỏi: -Ông có biết kiếp trước của ông là gì không?

Vị Tỳ kheo thưa:

– Dạ! Bạch Thế Tôn con vì ấm cái (ấm là năm ấm, cái là ngũ cái) nó che ngăn đâu thể biết được.

Phật bảo:

– Vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, ông đã từng xuất gia nhưng vì tham lợi dưỡng, lo ngủ nghỉ, cung phụng cái thân huyễn này chẳng chịu tu hành, không nhớ lẽ vô thường. Khi chết, đọa làm loài rận năm chục ngàn năm, kế đó sinh vào loài trai loài sò và sâu mọt ở trong cây, mỗi loài cũng năm chục ngàn năm. Bốn loài này nó đều sinh trưởng trong bóng tối, nó thích chỗ kín đáo tối tăm lấy đó làm nhà, không thích ánh sáng giống như là mê ngủ thích chỗ tối tăm. Quý vị nghĩ nếu chúng ta đọa với khoảng thời gian như vậy thì sao? Năm chục ngàn năm mỗi loại như vậy, đến lúc thoát ra thì chỉ thích bóng tối. Ông nhờ hết nghiệp sinh làm người, được làm Sa-môn thì sao không biết nhàm chán lại ham ngủ?

Khi ấy, vị Tỳ kheo này nhờ uy lực của Phật nhớ lại đời trước của mình. Bây giờ có ai trong đây nhớ lại đời trước của mình chừng năm đời đã từng làm trâu làm heo thì chắc tu tiến lắm. Còn ở đây, nương oai lực của Phật vị Tỳ-kheo nhớ mình năm chục ngàn năm làm rận, năm chục ngàn năm làm trai sò sâu mọt nên vị Tỳ kheo ấy quá hoảng sợ. Ông hổ thẹn sợ hãi tự trách mình và nỗ lực quán xét tu hành nhờ vậy mà ngay hiện đời trừ sạch ngũ cái, chứng A-la-hán.

Đó là một bài pháp rất chí thiết với chúng ta.

Thân này là thân huyễn, vậy mà cứ nuôi dưỡng cưng chìu cung phụng cho nó. Lo cho nó ngủ tức là cưng chìu nó chứ gì? Rồi cho nó ăn uống, nó đòi hỏi ăn uống thế này thế kia, tức là cung phụng cho nó. Nhưng mà nó là cái thân huyễn, cuối cùng vì nó mà chúng ta bị sa đọa thì thật là đau đớn. Cho nên, tu đạo giác ngộ là phải đi đến chỗ sáng, không đi vào chỗ tối. Vậy sao có người vẫn thích ở trong bóng tối? Đó là kiểm để nhắc nhở tất cả đừng lo cưng chiều cái thân huyễn, dung dưỡng nó mà không lo tu hành để thành tựu chí xuất trần của mình.

Khi nghĩ đến con đường sinh tử, chúng ta không thể nào xem thường mà sinh tâm tự mãn. Hiện tại chúng ta đang mở mắt tỉnh táo hoàn toàn đây, mà đối với tình phàm vẫn chưa làm chủ được, thì khi bệnh hoạn đau yếu nghị lực nó cũng yếu theo, lúc nhắm mắt sẽ ra sao? Ít ai chịu nghĩ đến điều này. Điều mà tất cả chúng ta rồi cũng sẽ đi tới!!!

Thiền sư Đại Huệ từng bảo: “Như tôi lúc mà chưa ngủ thì những điều Phật dạy, những điều Phật ngợi khen tôi y theo đó mà làm. Điều Phật quở trách thì chẳng dám vi phạm. Trước kia y chỉ theo thầy tự thực hiện công phu được chút sở đắc thì lúc tỉnh thức đều được thọ dụng. Nhưng mà đến lúc lên giường mơ màng nửa thức nửa ngủ thì làm chủ tể không được. Mộng thấy vàng bạc thì mừng rỡ vô hạn, mộng thấy người dùng dao gậy bức hiếp và các cảnh giới dữ dằn thì thấy sợ hãi kinh hoàng. Tôi tự nghĩ thân này hãy còn chỉ có ngủ mà làm chủ không được, huống là đất nước gió lửa phân tán, các thứ khổ bừng dậy thì làm sao chẳng bị lôi kéo. Nghĩ đến đây mới bắt đầu lo lắng”.

Chính ngài Đại Huệ mà còn than, lúc tỉnh thức thì được thọ dụng, nhưng khi lên giường ngủ mơ mơ màng màng thì làm chủ không được. Ngài Đại Huệ tự thực hiện công phu có chút sở đắc còn như vậy, chúng ta có như vậy không? Thật chưa có công phu gì? Vậy thì khi sắp chết, lúc mà đất nước gió lửa phân tán, các thứ khổ nó kéo nhau tới thì chúng ta sẽ ra sao? Nghĩ đến đó rồi mới thấy lo lắng.

Cho nên, mỗi người chúng ta phải tự xét lại xem có đáng lo sợ hay không? Trong lúc tỉnh táo có ai làm chủ thực sự chưa? Đó là chưa nói đến lúc ngủ. Nếu chưa được vậy thì đâu tránh khỏi bị sinh tử dẫn đi. Rồi chí xuất trần của chúng ta có bảo đảm thẳng đường mà đi không? Hay chỉ ngày qua ngày vẫn thấy bình thường không lo tu hành.

Tổ Xà Dạ Đa ở Ấn Độ thuật lại: “Ngài đã năm trăm đời làm chó, chỉ có hai lần được ăn no mà lại bị nạn, bị chặt đầu”. Thật đáng sợ. Cũng như ngài An Thế Cao độ sư huynh. Vị sư huynh là người thông suốt kinh điển nhưng tâm hay sân hận. Đi khất thực mà gặp thí chủ nào cúng dường không vừa ý thì nổi giận. Ngài An Thế Cao khuyên hoài không được. Nên nói: Ông hãy cố gắng nếu không về sau sẽ đi đường xấu. Quả thật sau vị sư huynh chết làm thần miếu ở Cung Đình Hồ tại Trung Hoa. Tuy là thần miếu nhưng thân là đại mãng xà. Ngài An Thế Cao nhớ tình đồng đạo, nên đến độ thoát cho.

Vì vậy, mỗi lần nghĩ đến kiếp luân hồi này, rồi kiểm lại đời tu của mình chưa có công phu gì đáng kể, đạo nhãn cũng chưa sáng thì quảû bất an vô cùng, chứ không phải dễ!

Trong bài Tiểu Tham của Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp Xương, dạy: « Nghiệp thức mênh mông không gốc có thể tựa, ăn năn lại chẳng kịp. Thọ báo theo duyên thay đầu đổi mặt đều chưa thể định được. Đâu chẳng thấy các bậc Bồ-tát học Bát-nhã ngày trước chớ có tự lừa dối chính mình phải rất cẩn thận, còn một mảy may chẳng hết là chưa thoát khỏi luân hồi. Một chút tình niệm chưa quên đều theo đó mà chìm đắm. Ông muốn biết loài mang lông đội sừng chăng? Chính là ông lúc bình thường làm chủ tể tầm bậy. Còn ông muốn biết địa ngục rút lưỡi không? Chính là lừa dối trong đường mê. Ông muốn biết băng lạnh vạc dầu sôi ư? Chính là ông lạm dụng của tín thí. Ba đường dữ tám nạn khổ đều là tự tâm ông làm ra hết. Chỉ vì con mắt đạo chưa sáng mới thành ra như vậy

Tức là nghiệp thức mênh mông không bờ mé, nếu chúng ta tu không khéo trôi theo nó thì ăn năn không kịp. Rồi theo duyên thọ sanh, lúc đó thay đầu đổi mặt, bây giờ mang thân này nhưng không biết qua đời sau mang thân nào? Đừng nghĩ loài mang lông đội sừng nó ở đâu xa, chính là chúng ta lúc bình thường làm chủ tể sai lầm, hành động sai lầm nên không khéo đi vào các loài đó. Nếu lúc ra đi còn một tình niệm chưa quên bị nó dẫn đi, đến lúc đó thì không thể nói lý, không thể nói sinh tử như mộng hoặc tự tánh Niết-bàn. Trong khi chúng ta hiện nay tình niệm còn nhiều, nghiệp thức còn khá mà không lo tận tâm tinh tấn để công phu thì sẽ đi đến đâu? Rồi ý nghĩa xuất trần nó sẽ được thành tựu ra sao? Đó là điều mà tất cả chúng ta đều phải kiểm lại. Cho nên chúng ta phải quán kỹ, nhớ kỹ việc sinh tử là việc lớn chứ không phải là chuyện tầm thường.

3 – THỆ NGUYỆN GIẢI QUYẾT  CHO XONG VIỆC SINH TỬ.

Chúng ta đã biết rõ ý nghĩa xuất trần, nỗi khổ của kiếp sinh tử, sự trói buộc của đám trần lao hệ lụy này rồi, thì chúng ta không thể tu lừng chừng cho qua ngày tháng. Chúng ta không thể sinh tâm buông lung, dễ duôi để phước ngày càng tổn, càng mỏng dần. Nên nhớ rằng: Chớù có xem thường việc nhỏ. Một ngày mình buông lung một chút là nó tổn phước một chút, cộng lại nhiều lần thì phước tổn sâu. Khi tổn phước rồi sẽ ảnh hưởng đến công phu tiến đạo, đến đạo tâm của mình. Cho nên ý thức được trách nhiệm bổn phận, ngay đây chúng ta phải phát tâm mạnh mẽ thề giải quyết xong vấn đề sinh tử này, chứ không thể dễ duôi được.

Người xưa có câu: «Đời này chẳng thẳng đời này độ, còn đợi đời nào mới độ thân». Nghĩa là ngay đây không chịu độ mà còn hẹn chờ đợi đến đời nào nữa. Đợi đến đời sau thì đời sau ai vào đó để độ? Cũng là mình thôi chứ đâu ai vào đó độ thay cho mình, vậy thì tại sao ngay đây không độ liền đi? Khỏi phải tốn thời gian thêm nữa. Trong khi qua một thời gian thì nó tạo thêm nghiệp mới nữa. Ngay đây độ liền có phải là bớt ít thời gian hơn không? Nếu còn hẹn đời sau, chính là tạo cơ duyên cho tâm giải đãi. Khéo là phải ngay đây bắt tay vào liền chứ không có đợi chờ.

Hoà Thượng Thủy Am dạy chúng: «Xưa các ngài Đại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Long Nha kết bạn với nhau để cùng đến tham vấn ngài Phần Dương. Tức là ngài Phần Dương Thiện Chiêu, ngài ở vùng đất Hà Đông, nơi đó rất lạnh. Một số người ở đó chịu không nổi bỏ đi, chỉ có ngài Từ Minh là người có chí học đạo ngày đêm không lười mỏi. Ban đêm ngồi thiền buồn ngủ ngài bèn lấy cái dùi tự đâm vào thân và than rằng: Cổ nhân vì việc lớn sinh tử mà không ăn không ngủ còn ta là hạng người nào mà dám phóng túng buông lung. Lúc sống thì vô ích lúc chết không để tiếng tăm về sau. Ấy là tự bỏ mình vậy.»

Ngài Từ Minh tự nhắc mình, người xưa vì việc lớn sinh tử là như vậy đó. Cho nên, đâu thể hèn yếu so đo tính toán chần chừ để nuôi lớn tâm sinh tử thêm. Xưa các ngài chỉ một đao mà chặt đứt không ngó lại, phải dũng mãnh như vậy để mà tiến tới. Chính trong bản Thanh Quy của Thiền viện, Hòa Thượng cũng khẳng định điều đó:

Thứ nhất là tính dứt khoát. Dứt khoát tức là đời ra đời đạo ra đạo, tu phải đến nơi đến chốn, không có thái độ lưng chừng mà phải quyết tu đến sáng đạo, phải dứt khoát như vậy.

Thứ hai là tính kiên quyết. Dù khó khăn chướng ngại do ngoại cảnh hay bản thân tạo ra đều khẳng định vượt qua, kiên quyết thực hiện kỳ được giải thoát viên mãn mới thôi. Không đổ thừa là tại ngoại cảnh làm cho khó tu rồi chuyển đổi thoái tâm, hoặc do bệnh hoạn gì đó hay do cái gì trở ngại, đều khẳng định vượt qua hết, phải tu đến giải thoát viên mãn mới được, kiên quyết dứt khoát.

Ngài Hám Sơn cũng từng nhắc nhở: «May thay trong kiếp này nhờ sự trợ giúp và chỉ dạy của Chân sư, hạt giống Bát-nhã ở trong chư vị có cơ tăng trưởng. Nhờ thế lòng mộ đạo và quả quyết của chư vị được thức tỉnh, nhưng chư vị phải nhận thức rằng không dễ gì nhổ được, lấp được các gốc rễ luân hồi đã ăn sâu trong chư vị từ thời vô thủy. Công việc này không phải là tầm thường, chỉ có những người có ý chí và sức mạnh, đủ can đảm để mà đảm đương cái gánh nặng như vậy. Và dấn thân tới trước không chút do dự hay rụt rè thì mới vào được đạo.»

Tức là chúng ta cũng còn có duyên tốt trong kiếp này, nhờ được các bậc Chân sư nhắc nhở đánh thức cho nên hạt giống Bát-nhã trong tâm mới có cơ hội nẩy mầm, tăng trưởng nhưng không phải ngay đó sạch hết các gốc luân hồi. Vì gốc luân hồi đã ăn sâu từ vô thủy rồi không phải một lúc mà sạch hết. Phải là những người có sức mạnh và ý chí can đảm, sẵn sàng dấn thân tới trước mới mong vào được đạo, nào phải việc tầm thường.

Qua đó, chúng ta mới thấy chư Tổ đều như nhau, luôn luôn thúc đẩy người tu phải có sự quyết tâm mạnh mẽ để tinh tiến vượt lên, chứ không thể lừng chừng hẹn nay hẹn mai. Chúng ta mê lầm huân tập từ vô thủy kiếp cho đến ngày nay, đâu thể một ngày hai ngày mà dứt trừ được. Tuy nay chúng ta cũng có được cái duyên tốt, được thầy bạn tốt nhắc nhở đánh thức hạt giống Bát-nhã trong tâm, để có cơ hội phát khởi tăng trưởng, nhưng những nghiệp tập nó đâu có một lần mà hết được. Thỉnh thoảng nó sống dậy, do đó chúng ta phải có một ý chí sức mạnh vươn lên, sẵn sàng tiến tới chứ không thể ỷ lại, không thể chần chờ. Phải có sự quyết tâm thề nguyện giải quyết xong việc lớn sinh tử, không phải vào chùa an nhàn chỉ một thời sám hối hai thời ngồi thiền vậy là đủ trả nợ. Mà chúng ta phải giải quyết xong việc lớn sinh tử này, phải sáng tỏ được đạo, chứ không phải chỉ bấy nhiêu đó đủ rồi.

4- CHỈ THẲNG TRỞ VỀ NGUỒN TÂM.

Trước kia chúng ta vốn từ tâm mê mà tạo nghiệp vào sinh tử, thì ngày nay cũng phải từ tâm mà giải quyết sinh tử chứ không con đường nào khác. Chúng ta theo dòng tâm chạy ra ngoài đuổi theo duyên trần, theo cảnh là quên mất cội nguồn chân thật nơi mình, đó là đi vào sinh tử luân hồi là theo chiều mê, nhà thiền gọi là mất trâu. Tức theo duyên theo cảnh rồi quên mất trâu. Từ một niệm bất giác ban đầu đến nay, chúng ta đã đi theo con đường sinh tử mê lầm chịu nổi chìm, lên xuống ở trong biển sinh tử trầm luân quá lâu. Nếu kiểm lại thấy thật là khủng khiếp chứ không phải thường. Có khi chúng ta nổi lên một lúc rồi chìm xuống, cứ lẩn quẩn trong đó kiểm lại thấy rất đáng sợ.

Nay chúng ta được duyên tốt, phải mau tỉnh ngộ trở về. Tuy gọi là mất trâu quên gốc nhưng mà sự thật dấu vết nó vẫn còn. Nghĩa là chúng ta vẫn còn có thấy có biết, còn có thấy biết tức là vẫn còn có tâm, như vậy dấu vết vẫn còn đó. Chúng ta khéo theo dòng thấy biết này để trở về, trước kia theo dòng thấy biết này chạy theo duyên ra ngoài, đi vào sinh tử quên gốc; Bây giờ cũng theo cái dòng thấy biết này quên duyên để đi ngược trở lại cội nguồn, ra khỏi trần lao sinh tử.

Một hôm trời đang mưa, Thiền sư Cảnh Thanh hỏi vị tăng:

– Bên ngoài là tiếng gì?

Vị tăng thưa:

– Tiếng mưa rơi.

Ngài bảo:

– Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.

Vị tăng thưa:

– Còn Hoà Thượng thì thế nào?

Ngài bảo:

– Vẫn chẳng quên mình.

Theo như chúng ta cũng sẽ đáp như vậy. Hỏi tiếng gì? Đang mưa thì đáp tiếng mưa rơi. Nhưng bị ngài quở ngay: Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.

Chỉ một chút thôi mà xem như hai khung trời cách nhau rất xa. Cũng một chút đó mà chuyển đổi cả một chuỗi dài vô lượng kiếp lầm mê. Cũng ngay cái mê lầm này mà chúng ta nghe theo tiếng, tức quên mất mình. Khi hỏi tiếng gì? Chỉ nghe tiếng mưa rơi thôi, quên mất chính mình ở đây, quên sự hiện hữu đang nghe rõ ràng vì chỉ nhớ cái tiếng, đó gọi là theo trần, lang thang ở quê người là vào luân hồi.

Thiền sư Cảnh Thanh cũng nghe nhưng khi nghe chẳng quên mình, không chạy theo tiếng mưa rơi vẫn có mặt sự hiện hữu sáng ngời đó. Nghe mà vẫn nguyên vẹn là nghe, đó gọi là trở về nguồn tâm. Ngay đó chúng ta hiện ở quê nhà, còn nhớ theo tiếng thì ở quê người. Cho nên hàng tỉ tỉ kiếp đến nay, chúng ta mới nghe được cái điều kỳ diệu này đâu phải là việc dễ dàng. Nghe được điều này là một nhân duyên hy hữu với mình chứ không phải tầm thường. Nếu không nghe được những điều này thì chúng ta chỉ nghe những điều ở thế gian thôi. Tức là ở đời cứ nghe những chuyện theo duyên theo cảnh, chứ không bao giờ nghe được cái chuyện trở về này. Cho nên chúng ta phải thật sự để tâm xét kỹ, gọi là trăm kiếp ngàn đời không dễ gì gặp. Phải khéo quán để trở về. Tất cả ai đều cũng có đủ cơ hội để trở về chứ không thiếu.

Cũng ý nghĩa này, Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn, nhân một đêm có vị tăng đi vào thất của Sư, Sư hỏi:

– Ai?

Vị tăng im lặng không đáp.

Sư bảo:

– Ta đã biết được ngươi rồi. Ngay đó ông tăng cười. Sư liền bảo:

– Lại đâu phải người nào khác (tức đã lộ ra rồi). Rồi Sư nói bài kệ:

Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi.
Tri giả chỉ kim mãnh đề thủ.
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.

Dịch

Bước chân nhè nhẹ ngại người hay.
Cười nói rõ ràng có gì nghi.
Kẻ trí hiện nay gắng gìn giữ
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.

Nghĩa là, bước chân nhè nhẹ sợ người ta hay nhưng mà ông cười nói rõ ràng là đã lộ ra rồi có gì đâu mà nghi. Ngay đó đã lộ bày cái mặt thật của ông, bản lai diện mục của ông trong đó chứ không đâu xa. Người trí ngay đó nhận liền, còn chần chờ để cho tình thức chen vào là mất mình. Ngay bước chân đây, ngay chỗ nói cười đó là cái gốc xưa đã hiển lộ ra, đâu có gì giấu diếm. Khéo thì ngay đó nhận ra nó là xong. Ai cũng đều có cơ hội để trở về hết. Còn chần chừ suy nghĩ rồi so đo hoặc tính toán là mất ngay, tức là lúc đó để tình thức chen vào. Ngay đó cũng là quê nhà mà ngay đó cũng là xứ người. Chỉ một chút xíu đó thôi mà nó cách biệt rất là xa. Ngay cái nghe đó mà chỉ nhớ theo tiếng, theo duyên là ở xứ người, ngay cái nghe đó mà vẫn chẳng quên mình, nghe vẫn nghe rõ ràng nhưng không có theo duyên theo tiếng, vẫn rõ ràng hiện hữu thì đó là quê nhà. Chỉ cần khéo một cái chuyển là xong. Con đường trở về là như vậy.

Chúng ta đầy đủ nhân duyên với nhau, cùng gặp gỡ trong một pháp hội, được nghe được nhắc những lẽ thật này thì quả là nhân duyên hy hữu trong đời mình, hay nói rõ hơn là trong kiếp luân hồi này.

Bởi vì, chúng ta còn nghe được chỗ để trở về, chứ không phải nghe để đi vào luân hồi. Nếu không khéo chuyển để trở về thì thật là đáng buồn đáng tiếc. Đây đã chỉ hết tình với nhau rồi, đâu có giấu diếm gì. Đâu phải như ngoài đời là còn phải giấu nghề sợ người ta hay hơn, rồi bội phản mình. Còn trong đạo thì không có chuyện đó. Có gì là chỉ hết để rồi tất cả chúng ta cùng sống cùng trở về lẽ thật, cùng giải thoát để gặp nhau trong ánh sáng chân thật, đó là niềm vui lớn nhất.

Như vậy bậc tu hành giải thoát thì ai cũng đều có chí xuất trần. Có chí xuất trần mới đi tu, mà tu là tu hạnh giải thoát. Đây là sức mạnh để chúng ta vươn lên từ trong trần lao. Trong thế tục mà chúng ta vươn lên, trong bùn lầy của thế gian mà vọt ra, thì đâu có yếu ớt cũng không phải là tầm thường.

Dù thế nào thì chúng ta cũng phải nhớ đến chí nguyện này, trong mọi hành động mọi cử chỉ mọi ý nghĩ đều phải nhớ đến chí nguyện xuất trần. Làm gì chúng ta cũng phải nhớ đến chỗ đó chứ không để lơ lỏng xen hở. Ý nghĩa xuất trần phải luôn sát bên mình trong suốt cuộc đời này, không những suốt cuộc đời này mà trong suốt các kiếp sinh tử còn lại của mình cho đến khi viên mãn, phải vậy mới được. Giữ sao cho ngày trước mình nghĩ đến cái tình như thế nào, thì bây giờ đây mình nghĩ đến đạo cũng như thế đó. Phải thực hiện cho kỳ được cái chí nguyện này ngay trong cuộc sống. Đó là việc bổn phận của mỗi người chúng ta, không ai thay thế cho mình cả cũng không chờ đợi ai được. Phải quyết tâm như vậy, không để phải hổ thẹn với cái chí xuất trần mà chúng ta đã có.

Hoà Thượng Thiên Như có dạy một đoạn: “Thời gần đây có một hạng xuất gia tuy nói là lìa tục mà thói tục chẳng trừ. Trọn nói xuất trần mà duyên trần chẳng cắt đứt. Kinh giáo vốn không rõ biết, tham thiền lại chẳng nhận hiểu, tâm vượn chạy mãi, ý ngựa ruổi rong thành bầy thành đội ồn ào cả ngày. Chẳng những luống hao của tín thí cũng là chôn vùi tính linh chính mình. Đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu, thật là uổng vào nơi cửa không, sống đã vô ích chết lại lạc loài”.

Tu xuất trần mà như vậy sao? Kinh thì không thông suốt, tham thiền cũng chẳng có hiểu rõ, cứ để tâm vượn ý ngựa nó chạy thành bầy thành đội ồn ào cả ngày. Thấy đau buồn không? Nói lìa tục xuất trần mà chưa có xuất gì hết, có khi còn dây dưa trở lại để rồi chôn vùi cái tính linh của mình. Cho nên Sư bảo đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu. Thật là uổng vào cửa KHÔNG, tức là vào cửa giải thoát. Nên Sư mới nói « sống đã vô ích chết lại lạc loài ». Sống vô ích không có công phu, chết lạc loài bơ vơ. Như vậy có buồn không? Chúng ta nghe nhắc như vậy rồi phải kiểm lại để mà thúc đẩy mình tiến tu đạo nghiệp, thế mới xứng đáng là người có tâm cầu đạo giải thoát.

Mong rằng, chúng ta không phải là người như thế. Mà tất cả chúng ta đều sẽ là những người thành tựu được bản nguyện giải thoát của mình và cùng vui với niềm vui xuất trần. Đó là điều mong mỏi của tất cả chúng ta khi phát chí nguyện xuất trần, vượt khỏi trần lao nguyện làm người Thượng Sĩ.

Quyết Tâm Tiến Đạo

I. ĐẦY ĐỦ HỔ THẸN

Người tu chúng ta phải có sự quyết tâm tu tiến, muốn vậy đầu tiên phải có đủ lòng hổ thẹn, điều này quan trọng, vì biết hổ thẹn mới có tâm cầu tiến. Nhiều khi chúng ta chỉ tu lừng chừng, hoặc buông lung mà không hề có lòng hổ thẹn nên dần dà đi xuống hoặc trở lui về thế tục. Thế nên, người xuất gia tu hành thường phải có lòng hổ thẹn để cảnh tỉnh bản thân mình tiến lên.

Trong lời văn Thích Nạn của Thủ tọa Hy Nhan, có đoạn nhắc: “Bậc xuất gia làm tăng đâu phải là việc nhỏ, chẳng phải để cầu sự an ổn, thảnh thơi, chẳng phải để cầu sự no ấm, chẳng phải cầu danh lợi. Mà vì sanh tử, vì chúng sanh, vì dứt phiền não, ra khỏi bể tam giới, nối huệ mạng Phật. Ngày nay cách Phật đã xa, chánh pháp suy đồi, ngươi dám làm càn như vậy ư?”.

Ngài nhắc rõ người xuất gia làm tăng, không phải là việc nhỏ, đó là vì mục đích giải thoát sanh tử, độ chúng sanh dứt phiền não ra khỏi ba cõi, tiếp nối hệ mạng Phật. Nếu vậy thì làm tăng đâu phải là chuyện tầm thường, muốn giải thoát sanh tử mà tu lừng chừng làm sao được? Nguyện độ chúng sanh mà tự mình chưa độ được mình thì làm sao để độ chúng sanh? Muốn ra khỏi ba cõi mà tu lơ mơ làm sao thành tựu? Không phải chúng ta vào chùa để cầu sự an ổn thảnh thơi qua ngày, hoặc cầu no ấm, danh lợi v.v… những thứ đó đâu xứng đáng để chúng ta hy sinh cuộc đời mình.

Đây, Ngài nhấn mạnh hiện tại cách Phật đã xa, chánh pháp cũng suy tàn, ngươi dám theo đó làm càn hay sao? Rồi dẫn kinh Bảo Lương nói: “Tỳ-kheo mà chẳng tu pháp Tỳ-kheo, thì cả đại thiên không có chỗ phun nước miếng”. Là hết chỗ chê trách, không còn chỗ nào để chê trách.

Tỳ-kheo mà không tu pháp Tỳ-kheo, thì làm gì? Ngài cũng nhắc thêm: “Mang tấm thân sáu thước mà không trí tuệ, Phật gọi là si tăng. Có ba tấc lưỡi mà không thuyết pháp được, Phật gọi là á dương tăng. Còn tợ tăng chẳng phải tăng, tợ tục không phải tục, Phật gọi là điểu thử tăng, cũng gọi là cư sĩ trọc”.

Đó là ba hạng tăng không xứng đáng danh xưng. Mang thân sáu thước mà không trí tuệ gọi là si tăng, là ông tăng ngu si, tăng không trí tuệ. Có ba tấc lưỡi mà không thuyết pháp là á dương tăng, ông tăng dê câm, vậy có xứng đáng không? Tợ tăng không phải tăng, tợ tục không phải tục, là xuất gia rồi, vào chùa nhưng tăng không ra tăng, tục không ra tục, lúc giống tăng lúc giống tục, thì thật rất đáng hổ thẹn!

Chúng ta xét lại mình như thế nào, có nằm trong ba hạng đó không? Có xứng đáng danh xưng Tỳ-kheo là đệ tử Phật chưa? Đó là chỗ mà mỗi người phải luôn quán chiếu để hổ thẹn, nếu thấy mình còn có chỗ khiếm khuyết, thì phải có sự hổ thẹn sửa đổi để tiến lên.

Bởi vì việc xuất gia được làm tăng đâu phải chuyện nhỏ, đâu phải vào chùa để cầu an ổn qua ngày. Xuất gia là việc mà người xưa gọi là “Phi tướng tướng chi sở năng vi”. Nghĩa là xuất gia không là việc của người làm tướng có thể làm được. Dù là tướng cũng không dễ dàng làm được việc người xuất gia. Đây là việc giải thoát sanh tử, ra khỏi ba cõi, gọi là việc làm siêu xuất thế gian, rất cao thượng mà chúng ta lại xem thường, làm hạnh tầm thường đưa đến giảm giá trị của người xuất gia hay sao?

Mỗi vị phải tự kiểm xem, lâu nay chúng ta xuất gia ở chùa bao nhiêu năm rồi? Thời gian ba năm, năm năm, hoặc mười năm mà đã tu tập thành tựu được bao nhiêu?

Đã ở chùa nhiều năm, thì tu hành cũng phải theo số năm tiến lên, sự giải thoát cũng như vậy mới xứng đáng, còn không được thì phải có đầy đủ lòng hổ thẹn. Đâu phải mặc chiếc áo người tu, cạo tóc, ở chùa qua ngày rồi cho là đủ. Nếu đã vào chùa mà tập khí thế gian vẫn còn sống trở lại, không kiểm soát được, chỉ biết theo nó thì cuộc đời xuất gia mất hết ý nghĩa. Nếu như vậy chúng ta có đáng nhận bát cơm, mặc chiếc áo, nằm chiếc đơn, đạp trên gạch, núp dưới mái nhà của đàn na thí chủ hay không? Việc này đâu phải chuyện thường. Đó là chỗ tự xét lại của mỗi người, không thể để việc tu học lừng chừng, được vậy thì sự tu hành mới có ý nghĩa.

Ngài Hàn Sơn có làm bài thi nói về người xuất gia:

Lại thấy kẻ xuất gia
Có sức và không sức
Bậc thượng thượng tiết cao
Quỷ thần trọng đạo đức.
Vua chúa chia chỗ ngồi
Chư hầu lễ nghênh đón
Đáng làm ruộng phước đời
Người đời cần tiếc giữ.

Người xuất gia phải là bậc có chí tiết cao thượng nên quỷ thần trọng đạo đức, vì “Đức trọng quỷ thần kinh”. Danh từ Tỳ-kheo còn có nghĩa là Bố-ma, nghĩa là ma phải sợ và quỷ thần kính trọng, cả đến vua chúa cũng chia chỗ ngồi, chư hầu đều lễ nghinh đón cung kính. Như vậy mới đáng làm ruộng phước điền cho đời và người đời luôn quý kính. Xuất gia vậy mới xứng đáng.

Kẻ ngu thấp hạ hạ
Dối hiện nhiều tìm cầu
Quá đục liền biết được
Ngu si thích sắc tài.
Khoác mặc áo phước điền
Ruộng gieo tìm áo cơm
Tạo nợ cho trâu cày
Vì sự chẳng trung trực.

Người ngu kẻ hạ hạ, dối hiện nhiều tìm cầu”. Ngài nói người xuất gia rồi, khởi tâm tham cầu đủ thứ, không biết đủ, dối hiện tướng xuất gia nhưng bên trong dính trở lại thế gian. Ngoài chạy theo sắc theo tài. Mặc áo ruộng phước này chỉ để tìm áo cơm, không lo tu hành. Về sau khó tránh khỏi làm trâu kéo cày đền nợ cho thí chủ, thật là đáng sợ.

Sáng sáng hành tệ ác
Sống lưng đau nhức luôn
Chẳng khéo biết nghĩ lường
Địa ngục vô cùng khổ.
Một mai mắc bệnh trói
Ba năm nằm liệt giường.
Cũng có chân Phật tánh
Lại thành giặc vô minh
Nam mô Phật-đà-da
Xa xôi cầu Di-lặc.

Mỗi ngày thức dậy chỉ theo tập khí làm những điều tệ ác. Vì lười biếng nên sống lưng đau nhức luôn, lại không biết xét nghĩ, không biết về sau quả địa ngục khổ đến vô cùng! Một mai mắc bệnh phải nằm liệt giường lúc đó mới thấy khổ, thì khi ấy lấy gì chống chọi lại?

Ngài nhắc mỗi người đều có Phật tánh chân thật sáng suốt, tại sao lại để thành giặc vô minh che mờ hết, đáng tiếc. Nếu người tu hành như vậy thì kết quả thật còn quá xa xôi, quả là đáng buồn, đáng tiếc!

Ngài nhắc nhở những lời này khiến người xuất gia chúng ta tự kiểm lại, soi xét lại mình để có lòng hổ thẹn. Đúng là bậc xuất gia thì sẽ làm Thiên nhân sư là thầy trời người. Quỷ thần cung kính, vua chúa đón mời, không phải chuyện thấp hèn. Trái lại, người xuất gia nhưng không làm đúng theo hạnh của người xuất gia, hình tướng giống người xuất gia mà tâm quá đục, là đang tạo nợ, để rồi đi xuống, thật đáng sợ!

Khi kiểm lại, chúng ta thấy được hạnh xuất gia của mình rồi, thì phải quyết tu không thối chuyển, không để đưa đến sự chê trách như vậy, không để cuộc sống xuất gia trở thành sống mà như chết, sẽ bị Phật quở trách.

Xưa có thầy Sa-di tên Sánu, xuất gia một thời gian thì việc tu hành lơ lỏng thối thất, định hoàn tục trở lại thế gian. Có một quỷ Dạ-xoa, kiếp trước cũng từng là mẹ của thầy Sa-di, khi thấy được tâm ý vị này bị thối thất chuẩn bị hoàn tục, nên đến báo cho bà mẹ hiện tại biết để bà khích lệ con.

Khi thầy Sa-di về nhà gặp mẹ, thấy mẹ hiện dáng sầu khổ, thầy nói bài kệ với mẹ:

“Thưa mẹ, người ta khóc
Là khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
khi sống không được thấy?
Thưa mẹ, con đang sống
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?”

Nghĩa là người ta khóc vì người chết hay người sống nhưng không được thấy mặt. Còn con đang hiện tại có mặt đang về thăm mẹ, tại sao mẹ lại khóc cho con, vậy khóc vì lý do gì.

Bà mẹ đáp lại bài kệ:

“Người ta khóc cho con,
Là khóc cho con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng
Lại trở lui đời này,
Này con người ta khóc
Là khóc cho người ấy”

Bà mẹ nhắc khéo con là, khi người ta khóc là khóc vì người đã chết hoặc người đang sống mà không được thấy mặt; nhưng nếu người đã bỏ dục vọng, bỏ tham muốn thế gian, tu hạnh xuất gia giải thoát mà còn trở lui lại đời này, tức là đã vượt qua nhưng rồi rớt lại, hoàn tục trở lại. Đây là trường hợp người ta khóc cho người đó.

“Vì người đó được xem,
Còn sống cũng như chết.
Này con, được kéo ra
Khỏi than hầm, lửa rực
Lại còn muốn rớt vào
Đống than hồng ấy chăng?”

Bà mẹ nói rất thắm thiết, nói là bà khóc cho người đó, người đã vượt ra khỏi vòng dục vọng nhưng còn trở lùi lại, nên người đó tuy được xem còn sống mà cũng như đã chết rồi!

Vậy chúng ta sống đời xuất gia làm sao cho khỏi phải mang tiếng sống cũng như chết, sống mất hết ý nghĩa. Nên nhớ, người xuất gia ví như người được kéo ra khỏi hầm lửa ngũ dục đang cháy đỏ rực, rồi lại còn muốn rơi trở vào đống lửa than hồng đó sao? Vậy là người trí hay ngu?

Đó là điều cảnh tỉnh cho tất cả người xuất gia tu hành chúng ta không thể là kẻ đã ra khỏi hầm lửa lại rơi vào trở lại, chỗ khác gọi là nhổ nước miếng xuống đất rồi muốn liếm trở lại.

Như vậy, điều kiện thứ nhất của người quyết tâm tiến đạo là phải đầy đủ lòng hổ thẹn, phải luôn kiểm lại để tự nhắc nhở cảnh tỉnh sách tấn mình tiến lên. Bởi vì, có thể lâu ngày chí xuất trần dần trở thành lạnh nhạt, những tập khí cũ sống dậy, lâu lâu cũng muốn liếm trở lại nước miếng mình đã nhổ ra, thấy hổ thẹn không? Nếu người còn biết hổ thẹn là tốt, không hổ thẹn mới là nguy; còn hổ thẹn là còn tiến lên, còn không biết hổ thẹn, là rất nguy hiểm. Đó là điểm mỗi vị cần luôn cảnh tỉnh chính mình.

II. THẲNG CẦN LIỄU NGỘ, TRỪ NHỮNG TẠP HẠNH

Thứ hai là phải quyết tâm thẳng tiến cầu liễu ngộ, phải quyết tu sáng tỏ việc lớn của mình, liễu ngộ sanh tử, chuyên ròng một hạnh giải thoát để tiến lên. Còn những hạnh tạp nhạp thế gian, phải trừ nó không để vướng bận trở lại. Bởi lúc chúng ta còn mê thì khác, nay đã tỉnh, đã phát tâm đi xuất gia để tu đạo giác ngộ giải thoát của Phật, thì phải ngược với lúc còn mê. Khi đã tỉnh, biết phát tâm tu như vậy, phải quyết tiến cầu cho sáng tỏ Phật tâm, liễu ngộ việc lớn sanh tử, chớ không thể gọi là cầu an qua ngày. Đâu phải vào chùa để tạm an qua ngày tháng, tạo duyên cho phóng túng, lười biếng dễ đưa đến sa đọa.

Thiền sư Pháp Loa là vị Tổ thứ hai của dòng Thiền Trúc Lâm, có lần Ngài nhắc dạy: “Này các người, bên trong đã bỏ cha mẹ, bên ngoài thì không thông Phật pháp, tự xưng là tu hành, vậy tu hành cái đạo gì?”.

Nghĩa là có vị khi đi tu cha mẹ không cho liền trốn bỏ cha mẹ để thực hiện cho được chí xuất gia cao thượng. Nhưng vào chùa ít lâu thì những chuyện nhỏ nhặt lại vượt qua không nổi. Đối với cha mẹ là sợi dây luyến ái rất mạnh của thế gian, trói cột rất chặt còn dám dứt khoát nhưng vào đây thì tại sao những chuyện nhỏ lại vượt không qua?

Bên trong đã như vậy, còn bên ngoài thì Phật pháp không thông, không sáng được đạo lý, nên Ngài hỏi vậy xưng tu hành là tu đạo gì?

Ngài lại nhắc rất thống thiết: “Các chú đã vào trong chùa làm ông đạo, làm học trò, lại chỉ cầu danh tự mà chẳng chịu tham cứu đến chỗ cái gì là chỗ hạ thủ của Phật Tổ? Cái gì là chỗ dụng tâm của ngoại đạo, Tiểu thừa, luống để cho ngày qua tháng lại, lăng xăng tìm cầu bên ngoài, một phen cái chết đến rồi thì phải làm sao, đâu là nơi an thân lập mạng?”.

Mỗi người hãy tự xét, đã vào chùa xuất gia làm ông thầy lại chỉ cầu danh tự, không chịu tham cứu lẽ thật để sáng tỏ việc lớn, liễu ngộ sanh tử thì sẽ ra sao? Nếu cứ lăng xăng tìm cầu bên ngoài để cho ngày tháng trôi qua, thì một phen cái chết đến phải làm sao, lấy chỗ nào nương tựa, lúc đó sẽ hoảng hốt lo sợ. Thật khó nói hết!

Mỗi vị đã nghe được những lời của các Ngài nhắc nhở nên soi lại rồi thức tỉnh. Nếu vào đây tu hành mà cứ mãi chạy theo cảnh đời, tâm sanh lăng xăng đuổi theo cảnh bên ngoài, bị vật che mờ, trở lại dính kẹt lợi danh, tâm trở lại trần tục lúc nào không hay. Thế là xuất nhà này lại vào nhà kia, chỉ lẩn quẩn trong đó. Cho nên, người xuất gia cần phải có chí lớn, tâm nguyện vượt lên thẳng cầu đến chỗ liễu ngộ sanh tử, để vượt thoát được vòng luân hồi này, mới xứng hạnh xuất gia giải thoát của mình.

Muốn vậy, phải có sức mạnh, không thể yếu đuối, khéo trừ những hạnh tạp làm mờ chân tánh, làm lụt chí xuất trần của chúng ta. Vì thế, lâu lâu phải kiểm lại mình, nếu không khéo tu thì những tập khí theo chiều thế tục sống dậy.

Đã là người xuất gia phải chuyên tâm tu hành, buông hết thị phi, chớ đuổi theo dục trần, nói năng hỗn tạp. Ngài Quy Sơn dạy: “Ăn rồi dụm ba hợp bảy bàn nói chuyện tạp làm cho loạn tâm”; hoặc đã xuất gia không lo hạnh xuất gia, lo đọc sách truyện, tiểu thuyết, đó là hạnh tạp nhạp làm mờ chí xuất gia, phải khéo trừ hạnh đó để quyết tiến tu, thành tựu chí xuất trần của mình.

Hòa Thượng Ngũ Tổ-Pháp Diễn kể lại: “Thiền sư Tú ở Viên Thông tức Viên Thông Pháp Tú Thiền sư, nhân thấy tuyết rơi mới bảo: “Tuyết rơi có ba hạng tăng: người bậc thượng thì ở tăng đường tọa thiền, người bậc trung thì mài mực chấm bút làm thơ về tuyết, người bậc hạ thì vây quanh bên lò nói chuyện ăn”. Tôi vào mùa đông năm Đinh Mùi ở Hổ Khâu, đích thân thấy ba hạng tăng này, bất giác bật cười, mới biết lời của bậc tiền bối không hư dối”.

Mỗi người tự kiểm lại xem, mình thuộc hạng người nào trong đó? Nếu người có tâm quyết tiến tu, nhân tuyết rơi không làm công tác bên ngoài, ngồi không chẳng làm gì nên lợi dụng thời gian đó tọa thiền tu để bòn mót thêm công đức, đó là người bậc thượng có chí tu hành. Còn người bậc trung thì nhân tuyết rơi liền chấm bút làm thơ đưa đến loạn tâm, trở về hạnh tạp nhạp sanh tử, chớ đâu được điều bổ ích cho việc giải thoát sanh tử. Bậc hạ còn đáng trách hơn nữa, nhân tuyết rơi không biết làm gì ngồi chung với nhau nói chuyện ăn uống, nói xong cãi vả sanh phiền não ồn ào.

Đúng ra, người quyết chí tiến tu mà chưa tỏ ngộ, thì phải luôn quý tiếc thời gian của mình, đâu để thời gian trống rỗng vô ích. Những lúc rảnh rang là vô cùng quý, lợi dụng để tu thêm, để bòn thêm công đức, được vậy mới xứng đáng. Chớ không phải do rảnh rỗi rồi làm thơ, nói chuyện tạp cho vui, đó là hạnh tạp chẳng ích lợi, không khéo tâm bị quỷ thần xem thấy, càng chê trách thêm nữa.

Như câu chuyện về Thiền sư Vĩnh An, người nối pháp Quốc Sư Đức Thiều. Sư thường ngồi thiền, tâm định rất mạnh. Một hôm, trong định thấy hai ông tăng đang đứng tựa lan can điện Phật nói chuyện. Lúc đó có vị thần hộ vệ lắng nghe cung kính, lát sau chợt có mấy ác quỷ đến mắng nhiếc, phủi quét dấu chân tỏ vẻ khinh thường chê trách. Đến khi Thiền sư Vĩnh An xuất định, Sư tìm đến hai vị tăng hỏi, mới biết nội dung hai người bàn luận là: Đầu tiên nói chuyện Phật pháp, khi nói hết chuyện Phật pháp rồi, mới bàn chuyện thế tục. Do đó ban đầu thiên thần hộ vệ lắng nghe cung kính, nhưng sau đó vì bàn qua chuyện thế tục tạp nhạp nên quỷ tới mắng phủi quét dấu chân, khạc nhổ, chê trách.

Đó là tấm gương nhắc cho tất cả người tu chúng ta, đã là người xuất gia không lo tu hành, lo bàn những chuyện thị phi tốt xấu ở thế gian để loạn tâm, bị quỷ thần xem thấy chê trách khinh khi, rất xấu hổ. Trong chúng hãy kiểm lại mình lâu lâu có chuyện đó không? Ở trong tăng đường ngồi bàn chuyện, nhất là mấy vị trước có tập khí thế tục hay đem việc này việc kia ra bàn, làm những người mới tu bị động tâm. Hoặc có vị lâu lâu đi thành phố về, đem chuyện đời ra bàn làm loạn tâm những người trong đây, rồi người ở đây lại sanh tâm đi thành phố nữa. Đó chính là mình không ra gì lại làm ảnh hưởng đến huynh đệ đang thanh tịnh, thật không xứng đáng, phải tự hổ thẹn.

Quí vị đừng nghĩ là mình nói chuyện không ai biết, vì cạnh bên mình còn có quỷ thần, những vị thần hộ giới, hộ pháp. Do đó, nên khi chúng ta khởi những tâm niệm xấu dở, phải biết hổ thẹn không khéo quỷ thần xem thấy. Cũng đừng nghĩ là không ai biết, rồi cứ làm cứ nghĩ, khiến huân sâu dần thành tổn phước trí, sanh ra thoái đọa, thật là nguy hiểm! Biết rồi, mỗi người phải thường xuyên nhắc nhở kiểm tra mình để cảnh tỉnh.

Ngài Huyền Trang có một lần thấy mấy thầy Sa-di hăng say nói chuyện đùa giỡn, mới bảo: “Trong kinh chẳng nói ư? Là người xuất gia chính vì pháp vô vi, há lại luôn luôn làm trẻ con để đùa giỡn, đáng gọi là uổng mất trăm năm”. Nên những ai xuất gia rồi còn hay nói chuyện tạp, phải lấy lời răn đó soi lại mình không khéo phải mất một thời gian dài rất đáng tiếc.

Hòa Thượng Thiên Như nói rằng: “Thời gần đây có hạng xuất gia, tuy nói lìa tục mà thói tục chẳng trừ; trọn nói xuất trần mà duyên trần chẳng cắt đứt. Kinh giáo vốn không rõ biết, tham thiền lại chẳng nhận hiểu. Tâm vượn chạy mãi, ý ngựa ruổi dong thành bầy, thành đội ồn ào cả ngày. Chẳng những luống hao của tín thí, cũng chôn vùi tánh linh của chính mình, đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu. Thật là uổng vào nơi cửa không, sống đã vô ích chết lại lạc loài”.

Thấy thật đáng buồn! Người xuất gia mà thói tục chẳng trừ, nói xuất trần mà duyên trần không cắt đứt, vì mãi duyên theo đó hoài. Kinh giáo không rõ biết nghĩa lý, tham thiền không nhận hiểu, không sáng được tâm, cứ để tâm vượn chạy mãi, ý ngựa ruổi rong thành bầy, thành đội ồn ào cả ngày, nên uổng hao của thí chủ. Thử hỏi xuất gia như vậy xứng đáng không? Cuối cùng đến khi nhắm mắt thì đường trước mờ mờ không biết đi đâu, uổng vào nơi cửa không, sống đã vô ích chết lang thang không biết lạc đường nào, không chỗ bám nương. Người xuất gia như vậy thì ma đâu sợ, trái lại còn sợ ma, bị ma dẫn nên đáng buồn thương.

Mỗi vị phải có ý chí tiến lên, quyết cầu liễu ngộ việc lớn sanh tử của mình. Nếu quyết chí chuyên tâm miên mật dù đời nay chưa xong cũng vẫn không mất, nó tạo thành tích lũy nghiệp rất mạnh. Lỡ như tuổi thọ chúng ta đến nơi mà công phu chưa viên mãn, sức mạnh đó kéo dài qua đời sau, khi sanh ra thức tỉnh sớm, một nghe ngàn ngộ, không hề uổng phí. Nếu tu hành lơ mơ không huân tập chủng tử sâu đậm trong tàng thức, lại bị duyên tạp nhạp che mờ bớt. Khi chết qua đời sau bị cái mê cách ấm, nhiều duyên tạp nhạp che, dẫn đi xa thì rất đáng sợ!

Để nhắc nhở người xuất gia cần phải ý thức mà quyết tâm tiến tu, Ngài Hoàng Bá một hôm thượng đường, đại chúng nhóm họp xong, Sư bảo: “Các người muốn cầu gì đây?” rồi Sư cầm gậy đuổi chúng giải tán hết. Đại chúng không chịu giải tán, Sư ngồi lại bảo: “Các người toàn là bọn ăn hèm, thế mà xưng hành khước để cho người chê cười. Tôi thà cam thấy tám trăm, một nghìn người giải tán, chớ không thể chịu sự ồn náo này. Tôi khi đi hành khước, hoặc là gặp dưới rễ cỏ có cái ấy, liền đem hết tâm tư xem xét, nếu biết ngứa ngáy thì khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường. Trong lúc đó nếu dễ dàng như các người hiện giờ, làm gì có việc ngày nay, các người xưng là hành khước, cần phải có chút ít tinh thần như thế mới có thể biết đạo”.

Ngài quở tăng chúng lúc ấy toàn là bọn ăn bã rượu, tức nhai cặn bã bị người chê cười. Lại nhấn mạnh: Người xuất gia quyết cầu tiến đến liễu ngộ, không thể lưng chừng, thà thấy tám trăm, một nghìn người giải tán, chứ không chấp nhận ở cho đông ồn náo vậy.

Ngài nhắc khi xưa đi hành khước nếu gặp được ở rễ cây có cái đó thì hết tâm tận lực xem xét tham cứu, để sáng tỏ chớ không thể bỏ qua. Phải hết lòng tham học tận tâm như vậy mới có việc lớn ngày nay chớ đâu dễ dàng. Mỗi vị nơi đây nên lấy đó để mà cảnh tỉnh, sách tấn chính mình.

Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ dạy: “Nghiên cùng pháp lý, dĩ ngộ vi tắc”. Nghĩa là xét tột pháp lý, lấy ngộ làm chừng mực. Phải tu làm sao lấy ngộ làm mức đến của mình, làm sao tỏ ngộ mới xứng đáng là người xuất gia, chớ không phải hiểu sơ sơ chút giáo lý rồi tự mãn.

III. DỨT KHOÁT TIẾN LÊN

Điểm cần nhấn mạnh là phải dứt khoát tiến lên, chứ không lưng chừng, do dự, lần lựa, lui sụt thì không được.

Thiền sư Tử Tâm ở Hoàng Long bảo: “Thân này khó được, Phật pháp khó nghe”. Hoặc “Thân này chẳng thẳng đời này độ, đợi đến đời nào mới độ thân”. Tức là được thân này không phải dễ dàng, nên nói thân người khó được Phật pháp khó nghe. Nay đã được thân này rồi thì ngay đây cần độ liền, đừng đợi đời nào nữa, lỡ mất thân người khó gặp lại.

Lại nói: “Các người muốn tham thiền ư! Hãy buông xuống đi, buông bốn đại năm uẩn, buông hết tất cả bao nhiêu nghiệp thức, từ vô thủy kiếp đến nay hãy xét tột gốc gác của chính mình xem, đó là đạo lý gì?”.
Đây Ngài nhắc, nếu muốn tham thiền, phải buông xuống bốn đại, năm uẩn, buông tất cả những nghiệp thức từ vô thủy kiếp, phải có tâm mạnh mẽ như vậy. Bởi vì đời nay được duyên lành, mang thân này được xuất gia trong pháp hội tăng chúng đông vầy, cùng nương nhau tiến tu thì duyên này không phải dễ gặp. Đời sau sanh ra lỡ quên sanh nhằm vào xóm chài lưới, từ nhỏ đã theo nghiệp chài, tạo bao nhiêu tội sát sanh, càng che mờ chân tánh. Hoặc sanh vào xóm rượu chè, rồi cuốn theo rượu chè, lúc đó chân tánh bị che mờ tạo nghiệp mê huân tập vào tâm thức thêm nữa.

Cho nên, đời này có duyên lành hy hữu thế này, phải tận dụng làm cho đến nơi không thể hẹn hò gì nữa. Ngay thân này độ liền, không đợi đời nào nữa. Độ là độ cái ngã hư dối này, khiến buông bốn đại, năm uẩn không chấp, không điên đảo, không bao che, trì trệ khiến cho nó sống dậy những tập khí hư hèn, tệ xấu. Nhiều khi không có sức tỉnh giác nên bao che việc sai quấy của mình, làm sống dậy những tập khí hư hèn, nên phải độ nó, buông nó.

Thiền sư Tử Tâm dạy sẵn sàng buông hết bốn đại, năm uẩn cùng cả những tập khí, những nghiệp thức mênh mông xa xưa từ vô lượng kiếp, buông tột tới đáy. Nhờ vậy, ngay đó liền sống dậy cái không thể nghĩ bàn, nhổ được gốc vô minh, xứng đáng hạnh người xuất gia giải thoát.

Thiền sư Thoại Lộc ở Bổn Tiên dạy kỹ hơn: “Các ông nếu muốn tham học thì phải chân thật tham học. Lúc đi, đi tham; lúc đứng, đứng tham; lúc ngồi, ngồi tham; lúc nằm, nằm tham; lúc nói, nói tham; lúc nín, nín tham; lúc làm tất cả công việc cũng tham. Đã lúc nào cũng tham được như trên thì thử nói xem: ai tham? Tham cái gì? Đến đây cần phải có chỗ minh bạch. Nếu chẳng như thế thì bị gọi là bọn hấp tấp, vội vàng, ắt không được yếu chỉ tham cứu hoàn tất vậy”.

Chúng ta tham thiền được như vậy, bảo đảm công phu tỏ ngộ đâu có khó; đi, đứng, ngồi, nằm cũng đều tham thiền, cho đến lúc nói nín cũng tham v.v… không có chỗ nào xen hở. Nếu tu hành công phu miên mật như vậy thì bảo đảm ít phiền não, vì đâu có chỗ hở để phiền não xen vào. Nếu như để tạp hạnh xen vào nhiều quá, lâu lâu ngồi nói chuyện phào, nghĩ lung tung sanh tạp niệm, rồi sanh phiền não có khi phải thoái tâm.

Vì thế, chúng ta phải luôn khéo thực hành, công phu chuyên tinh như vậy, thì bảo đảm con đường tiến lên của mình ngay trước mắt, đâu phải đợi lên bồ đoàn mới thiền. Như vậy, đây là những điểm cảnh tỉnh sách tấn chúng ta, mỗi vị nghe rồi cần soi xét lại chính mình, để có sức mạnh vươn lên, sự tu hành kỹ hơn, có tâm quyết cầu giác ngộ và nhớ là phải có tâm dứt khoát tiến lên.

Chính ngài Đức Sơn cũng nhắc: “Nhơn giả, các ông chớ dụng thân tâm, vì không thể được. Chỉ cần trong tất cả thời chớ kẹt nơi thinh sắc, những hành lý từ trước một lúc ném hết đi, chóng thoát khỏi xiềng xích, hằng lìa cái, triền (ngũ cái, thập triền là những thứ trói buộc). Một niệm không sinh, mé trước mé sau dứt, không nghĩ không nhớ, không một pháp hợp tình”.

Tu phải được như vậy. Không có một pháp để hợp tình, dứt khoát buông những hành lý từ trước, một lúc ném hết. Hành lý là những hành động tạo tác của mình từ trước, buông sạch ném hết, không để một pháp hợp tình, như thế thì còn chỗ nào để cho tâm sanh, còn chỗ nào buông lung được. Sở dĩ tâm sinh là nó có nhiều chỗ hở, còn tâm không sinh không một pháp hợp tình, ngay đó là giải thoát Niết-bàn. Chúng ta hiện giờ thì dính cái này, cái kia, thấy gì tốt thì thích ngay, nên đủ thứ hợp tình. Khi thấy xấu cũng hợp tình. Tức là tốt thì thích, xấu thì không ưa, là hợp tình yêu ghét, nên tâm bị dính mắc, thì làm sao giải thoát được.

Nếu gặp việc gì cũng đều cho qua mới không hợp tình, có yêu có ghét có hợp tình là có dính hết. Phải như lá sen, lá môn nước đổ trôi hết là không hợp tình, còn như đổ đâu dính đó là hợp tình, thì chỗ nào giải thoát được?

Xét lại, tất cả người tu chúng ta xuất gia là cầu giải thoát, chớ đâu phải cầu dính mắc hợp tình. Khi kiểm rồi mới thấy hổ thẹn, thật mâu thuẫn với hạnh xuất gia của mình, nên tất cả phải quán sát mới có sức tỉnh để tiến lên, nếu không thì tự mâu thuẫn với hạnh, với đường đi của chính mình.

Thời Phật, có một vị Tỳ-kheo tên EKA-VI HÁRIZA, làm bài kệ nói lên chỗ quyết tâm tiến tu của mình:

“Ta cột áo giáp lại,
Sẽ vào trong rừng sâu.
Ta không ra khỏi rừng,
Nếu chưa đạt lậu tận.
Trong khi gió nhẹ thổi,
Mát lạnh, thơm mùi hương,
Ta ngồi trên chỏm núi,
Ta sẽ phá vô minh”

Ngài cột áo giáp lại vào rừng sâu, buông lại đằng sau những việc thế gian, nếu tu chưa đạt lậu tận, chưa chứng quả A-la-hán, chưa giải thoát sanh tử thì dứt khoát không ra khỏi rừng.

Tu hành phải có ý chí dứt khoát mạnh mẽ, như vậy thì bảo đảm sẽ tiến thôi. Còn như chúng ta vào chùa tu ít bữa nhớ thành phố, nhớ nhà thì đâu có dứt khoát. Ở đây, vị Tỳ-kheo này vào rừng tu rồi, dứt khoát buông hết, nếu không đạt lậu tận thì không ra khỏi chỗ này. Tu như vậy thì đâu ai lôi kéo được.

IV. SO SÁNH ĐỂ TIẾN LÊN

Hiện tại, đại chúng đều được nghe nhắc lại những gương hạnh tinh tấn của người xưa, chúng ta cũng phải biết nhận định những lời nhắc nhở trên, để rồi gắng tiến tu. Có nhiều vị do tâm buông lung, nên ít để ý xem xét cảnh chung quanh để rồi nhìn lại mình mà sửa đổi tiến lên.

Lại có trường hợp là, người vừa hơi buông lung, mới bỏ một thời thiền liền bị người lớn nhắc rầy. Người này nhìn thấy huynh đệ khác ít ngồi thiền mà không ai nhắc, còn mình chỉ một chút là bị rầy nên phiền não. Pháp so sánh như vậy là không đúng, là đi xuống. Chúng ta phải nên so sánh khi thấy những huynh đệ trong chúng có những lúc làm nhọc, đáng lẽ nghỉ ngơi mà cũng đi ngồi thiền, còn mình hơi mệt là muốn nghỉ tọa thiền rồi, thật xấu hổ. So sánh như vậy, mới đi lên, còn so sánh phân bì kiểu đó là đi xuống.

Có bài kinh, Đức Thế Tôn thuyết giảng cho Tôn giả A-nan nghe về thời Phật Ca-diếp, Ngài nói: “Thời Phật Ca-diếp, có vị môn đệ tên là Gavesin. Thầy hướng dẫn một số cư sĩ tại gia, nhưng cả thầy và trò không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Ông thầy không nghiêm trì giới luật nên trò bắt chước theo. Một thời gian sau, vị thầy nghĩ là chính ta đã hướng dẫn những vị cư sĩ tại gia tu hành, vậy ta đã là người dẫn đầu mà tất cả những người ấy và ta đều chẳng nghiêm trì giới luật. Vì vậy, ta và họ đều như nhau, không ai hơn ai hết, họ không trì giới, ta không trì giới, thầy trò như nhau, ta không có chi hơn họ cả, vậy thì ta cố gắng tu thêm chút nữa mới có thể hướng dẫn cho họ tu hành”. Đó mới là so sánh để tiến lên.

Thấy mình không trì giới, học trò cũng không, mình như họ, họ như mình; mình cầm đầu hướng dẫn họ mà có hơn đâu, so sánh vậy nên cố gắng tu thêm chút nữa để hướng dẫn họ. Nghĩ xong, vị thầy đến tìm những cư sĩ tại gia và báo rằng: “Bắt đầu từ nay tôi sẽ thọ trì giới luật”. Khi ấy, những người cư sĩ liền nghĩ: “Nếu thầy biết giữ gìn giới luật lẽ nào chúng ta không làm theo”. Thế là, tất cả đều xin thọ trì giới luật như thầy hết. Nhóm cư sĩ này cũng biết so sánh để tiến lên.

Thầy quyết nghiêm trì giới luật, thì trò cũng nghiêm trì giới luật. Thấy thế vị thầy nghĩ: “Nếu mà như vậy ta và nhóm cư sĩ kia cũng đồng nhau, họ cũng nghiêm trì giới luật, ta cũng không có gì hơn cả, ta nên cố gắng thêm một chút nữa”. Như lần trước vị thầy đến báo với họ là: “Bắt đầu từ hôm nay, tôi sẽ sống theo các bậc phạm hạnh, ngụ nơi thanh vắng, lánh xa tình dục”. Nhóm cư sĩ nghe vậy tự nghĩ rằng: “Lẽ nào chúng ta chẳng làm theo”. Rồi cả thảy đều hành theo phạm hạnh, ngụ ở nơi vắng vẻ, lánh xa tình dục.

Vị thầy này thấy vậy lại nghĩ: “Nếu thế ta và nhóm cư sĩ kia đồng nhau, ta không có chi hơn họ cả. Vậy ta phải cố gắng thêm chút nữa, đã là thầy họ thì phải làm sao hơn họ, mới xứng đáng làm thầy, nếu mình cũng như họ thì lấy gì để làm thầy người”. Vị thầy lại đến báo rằng: “Xin báo cho các người biết từ hôm nay tôi mỗi ngày ăn một lần, tôi bỏ ăn chiều và không ăn sái giờ”. Nhóm cư sĩ kia nghĩ: “Lẽ nào chúng ta lại chẳng làm theo”.

Đức Phật bảo A-nan: “Hỡi này A-nan! Vị thầy đó liền ôn lại những hành vi của mình và cư sĩ giống nhau, bèn nghĩ rằng ta và họ đồng nhau, ta không có chi hơn họ, nếu vậy ta phải cố gắng thêm chút nữa. Vị thầy đó đến bạch Phật Ca-diếp xin Phật cho phép xuất gia hành theo chánh giáo. Thấy vậy, cả nhóm cư sĩ cũng xin xuất gia hành đạo theo. Không bao lâu thầy đắc quả A-la-hán. Ông nghĩ đây là điều rõ rệt, vậy ta có thể đạt được sự an vui, giải thoát theo sở nguyện, không chi khó khăn, ta mong cho tất cả hàng xuất gia kia cũng được toại nguyện như ta vậy”.

Ngài thành tựu được sở nguyện của mình nên Ngài cũng mong những vị xuất gia kia cũng được toại nguyện như Ngài.

Trong thời gian sau nhóm Tỳ-kheo do thầy Gavesin này hướng dẫn, cố gắng tinh tấn để hết năng lực vào các pháp hành cao thượng cho đến khi được hoàn toàn giải thoát”. Tức chứng A-la-hán.

Nhờ so sánh như vậy mà thầy Gavesin cố gắng tu tập, để hết năng lực về pháp hành cao thượng, thành tựu được sở nguyện hoàn toàn giải thoát, chứng A-la-hán và những vị trong nhóm do Ngài hướng dẫn cũng được toại nguyện như Ngài.

Phật bảo này A-nan: “Vì lẽ ấy ông nên trau dồi các pháp cao thượng nên cao thượng thêm, các pháp tinh tấn được tinh tấn thêm, cố gắng tấn hóa luôn luôn, cho đến khi được hoàn toàn giải thoát. Này A-nan! Ông nên trau dồi giới hạnh như thế”.

Như thấy người kia nhiều xấu dở sao mà không ai nhắc, còn mình mới phạm chút lỗi thì lại nhắc, so sánh kiểu đó là đi xuống, phải hiểu vậy đó để luôn cảnh giác tiến tu. Phật nhắc nhở ngài A-nan là phải nên trau dồi các pháp cao thượng làm cho nó cao thượng thêm, các pháp tinh tấn khiến cho tinh tấn thêm. Được vậy thì mới luôn tấn hóa cho đến giải thoát hoàn toàn, chứ không thể đứng dừng một chỗ. Tu vậy bảo đảm kết quả đều sẽ được như ý.

V. TÓM KẾT

Tất cả chúng ta là người đã quyết chí xuất gia, đi trên đường giác ngộ của Phật, Tổ thì phải có chí khí lớn của người xuất gia, tâm quyết tiến để vươn lên đến chỗ giác ngộ thật sự, chớ không phải giác ngộ trên chữ nghĩa, hoặc chỉ giải thoát trên hình tướng.

Chúng ta đã cạo tóc, bỏ cha mẹ vào chùa, mặc áo hoại sắc đó là giải thoát trên hình tướng. Còn giải thoát thật sự là tâm giải thoát, phải thắng phục được những phiền não, không yếu đuối buông thả qua ngày. Thế nên, người tu chưa tỏ ngộ, chưa sáng được đạo, chưa liễu ngộ sanh tử, thì phải băn khoăn thao thức. Việc lớn làm chưa xong, chí xuất gia của mình chưa thành tựu, nên ngủ thao thức, ăn ngủ không yên, đâu có an ổn qua ngày.

Xưa, ngài Cao Am ở Vân Cư, mỗi khi thấy người xuất gia vào thất của mình tham vấn không khế hợp, không tỏ ngộ được, Ngài liền nắm áo người ấy, nghiêm sắc mặt, trách: “Cha mẹ nuôi thân ông, thầy bạn tạo thành chí cho ông, ông không bị sự đói lạnh làm bức bách, không bị nhọc nhằn lính tráng (không phải đi lính). Thế mà ông chẳng kiên cố tinh tấn cho thành đạo nghiệp, ngày sau mặt mũi nào nhìn cha mẹ, thầy bạn”.

Ai vào tham học mà không tỏ ngộ trở ra Ngài đều nắm áo kéo lại trách lời như trên. Ngày nay, chúng ta kiểm lại mình, có mặt mũi nào nhìn cha mẹ, thầy bạn hay không? Tâm đã dứt khoát hay chưa. Đó là điểm mà mỗi người phải có tâm chí cương quyết dứt khoát để tu tiến lên. Như câu chuyện về Ngài Bàn Khuê tại trạm đổi ngựa, tỏa ra một ý chí dứt khoát, một gương cảnh tỉnh người học sau này rất lớn lao.

Một thời khi ngài Bàn Khuê còn đi hành khước tham thiền, lần đó bị mỏi chân đi đến trạm ngựa thuê con ngựa cưỡi đi. Thuê xong, vừa lúc đó lại có khách hàng giàu có đi đến cũng thuê ngựa. Trạm đã hết ngựa cho thuê, nhưng người chủ trạm ngựa nổi lòng tham muốn cho người nhà giàu thuê giá đắt hơn, được bồi dưỡng nhiều hơn, nên đổi ý liền đến lôi Sư xuống ngựa, không cho thuê. Sư đã ngồi trên ngựa rồi mà bị lôi xuống để cho người nhà giàu thuê, vì được lợi nhuận lớn hơn.

Ngài Bàn Khuê xuống ngựa liền ngồi kiết già ngay trạm ngựa. Người chủ trạm đến an ủi Sư, hỏi: “Thầy có giận không thầy?”. Thiền sư Bàn Khuê trả lời: “Vì việc lớn mong cầu giác ngộ, tôi đã từ bỏ quê nhà, chống lại ước muốn cha mẹ, mà nay tôi lại bất mãn vì chuyện nhỏ nhặt này, tôi cảm thấy rất hối hận”. Nói xong, Sư liền đứng dậy bỏ đi. Từ đó về sau, Sư thường nói với trong chúng: “Từ lúc ấy trở đi, tôi tuyệt gốc giận dữ”.

Người xưa dứt khoát như vậy, còn chúng ta kiểm lại thì sao? Lâu lâu gặp một hai chuyện nhỏ, hoặc máy móc, phim truyện vẫn còn chưa dứt khoát được. Còn Sư cho việc ngược đãi đóù là việc nhỏ không đáng giận dữ nhưng Sư lại giận, chỉ một lần đó thôi là dứt tuyệt gốc. Mới thấy được chí người xưa như thế nào? Bởi vậy người xưa tu mau đắc đạo, còn chúng ta tu lâu đắc đạo bởi vì không dứt khoát nổi.

Đó là những tấm gương sáng của người xưa, khi nghe rồi mỗi người cần soi lại chính mình. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có bao nhiêu lần phiền não vì chuyện nhỏ nhặt không đâu, rồi có hối hận không? Có nhớ lại chí nguyện ban đầu khi chúng ta dứt khoát mạnh mẽ như thế nào? Tại sao ban đầu lại có chí nguyện lớn, sẵn sàng bỏ hết, vượt qua hết. Còn nay vì một hai chuyện nhỏ nhặt lại vượt qua không nổi. Mỗi khi hơi buồn, phải trách phải xét lại chỗ này, hỏi chí nguyện cao cả của mình nó nằm ở đâu rồi?

Tóm lại, để nhắc tất cả người xuất gia cần phải luôn giữ tâm ngay thẳng chân thật. Chân thật xuất gia, chân thật giải thoát, chân thật với chính mình để không cong, không quẹo, không trái với chí nguyện xuất gia ban đầu. Phải một lòng chân thật thiết tha tiến đạo, thì đường đi của chúng ta mới bảo đảm đến nơi, có kết quả.

Một lần khác, Thiền sư Bàn Khuê bảo với môn đệ: “Những thiền sinh thường trong mười điều có thể nắm bắt được bảy tám điều, nhưng không thể vượt qua được hai, ba điều còn lại”. Môn đệ hỏi: “Có cách nào vượt qua hay không?”. Sư đáp: “Không cách nào vượt qua”. Môn đệ hỏi: “Lỗi nằm ở chỗ nào?”. Thiền sư Bàn Khuê im lặng một lúc rồi nói: “Nói cho cùng chính là lòng khát khao đạt đến chân lý còn yếu”.

Hai ba điều còn lại mà vượt qua không nổi là bởi vì lòng khát khao đạt đến chân lý còn yếu nên thành khó, vượt qua không nổi. Còn nếu lòng khát khao quá mạnh, thì sẵn sàng vượt qua hết, cái gì cũng vượt qua hết, phá tan hết các rào cản.

Xét lại, tất cả chúng ta tu hành không đạt kết quả là sao? Không sáng tỏ được đạo là sao? Cũng chính vì lòng khát khao đạt đến chân lý còn yếu, chỉ mong tu an ổn qua ngày được rồi. Cho nên, tất cả chúng ta cần bổ túc hai, ba điều còn lại đó, thì bảo đảm con đường đi của chúng ta sẽ đến nơi. Cả bài giảng trên chỉ cô đọng lại chỗ này thôi.