BẤT KHẢ THUYẾT
(Không thể nói)
Tác giả cư sĩ: LÝ NHẤT QUANG
Việt dịch: THÍCH THẮNG HOAN

 

Ở trong sách “Cái gì là Phật Pháp” có một truyện như thế này: “Trước kia có một Hoà Thượng già ở trong phòng đang ngồi rảnh rang vô sự, người đứng sau Hoà Thượng già là một thị giả tiểu sa di. Lúc bấy giờ, ở ngoài cửa có hai Hoà Thượng Giáp và Ất tranh luận về một vấn đề, hai bên kiên trì tranh luận mãi không chịu thôi. Một lát, Hoà Thượng Giáp nổi giận đùng đùng chạy vào phòng, hướng về Hoà Thượng già nói: “Ngài bảo tôi nói cái đạo lý là cần phải như thế như thế, nhưng mà Hoà Thượng Ất lại bảo tôi nói không đúng. Ngài xem là tôi nói đúng hay Hoà Thượng Ất kia nói đúng?” Hoà Thượng già trả lời với Hoà Thượng Giáp rằng: “Ngài nói đúng!” Hoà Thượng Giáp cùng Hoà Thượng Già rất cao hứng đi ra. Qua vài phút đồng hồ, Hoà Thượng Ất cũng nổi giận đùng đùng chạy đến chất vấn Hoà Thượng già kia rằng: “Ngài bảo, ban nãy Hoà Thượng Giáp và tôi biện luận, thấy Hoà Thượng Giáp giải thích căn bản sai lầm. Tôi nói là căn cứ trên Kinh Phật. Ý của tôi là nói như thế như thế. Ngài cho là tôi đúng hay là Hoà Thượng Giáp kia đúng?” Hoà Thượng già trả lời: “Ngài nói đúng!” Hoà Thượng Ất đi ra cũng vui mừng hớn hở. Hoà Thượng Ất chạy về phía sau, đứng bên Tiểu Sa Di, ở sau lưng Hoà Thượng Già, lặng lẽ ghé vào tai Hoà Thượng già khe khẻ nói: “Ngài cần phải xác định là Hoà Thượng Giáp đúng hay là Hoà Thượng Ất đúng, Hoà Thượng Giáp nếu như đúng thì Hoà Thượng Ất nhất định không đúng; Hoà Thượng Ất nếu như đúng thì Hoà Thượng Giáp nhất định không đúng; Ngài không thể nào cho khuynh hướng của hai người đều là đúng cả?” Hoà Thượng già ngoảnh đầu qua đối diện nhìn thẳng vào Tiểu Sa Di nói rằng: “Ông cũng đúng!” Đây là một vấn đề rất có thú vị, đồng thời sự việc cũng rất có ý nghĩa. Đáng được là có một thứ học sinh với trình độ Cao Trung, nhưng dĩ nhiên họ sau khi hiểu rõ vấn đề này, cũng luôn cả vị Tiểu Sa Di kia giống nhau ở chỗ đều nghĩ trái tưởng phải, nói chung là lý do họ tưởng không thông suốt vấn đề “Đều Đúng”. Nơi đó tôi liền vận dụng Đồ Hình (1) chỉ giúp cho người khác xem:

Đồ Hình (1) biểu thị:

Theo Đồ Hình (1) trình bày: Bốn phía của tháp Phật đây, thiết lập bốn trạm và cử bốn người A, B, C, D đứng vào đó. Ngay lúc đó, ông A báo cáo rằng, Tháp thì ở bên phía tây, ông B thì bảo Tháp ở phía bắc, ông C thì bảo tháp ở phiá đông, ông D thì bảo Tháp ở phía nam. Sao anh chỗ báo cáo của chúng nó như thế nào? Là phủ nhận “Đều Đúng” phải không?”. Nếu phủ nhận thì chúng nó chỉ ngửa mặt lên mà cười.

Tôi tiếp tục nói: giả sử có một đồ án như thế (Như Đồ Hình (2) biểu thị):

Đồ Hình (2) biểu thị:

Theo Đồ Hình (2), người ngồi trên chỗ A quán sát thì nói với chúng ta rằng: đồ án đây là khối có sáu Hình Lập Phương bằng nhau (khối có sáu hình lập phương là khối có sáu mặt vuông bằng nhau) tổ hợp lập thành, nhưng người ngồi trên chỗ B quán sát nói là khối có bảy Hình Lập Phương bằng nhau tổ hợp lập thành. (Đồ án đây là trò vui rất có thú vị. Xin đọc giả không ngại thử khảo sát ra sao: trước hết giờ đây căn cứ theo đồ án đã thấy thì chỉ có sáu Hình Lập Phương; nếu như đem đồ án đảo ngược qua để xem thì liền phát hiện thấy có bảy Hình Lập Phương.) Lúc đó chúng ta nên phúc đáp như thế nào mà hai tổ hợp A và B đã cho biết? Bên nào đúng hoặc bên nào không đúng? Như thế chỉ tốt nhất là sử dụng bài thi của Tô Đông Pha để phúc đáp, Thi rằng: “Hoành khan thành lĩnh trắc thành phong, diễn cận cao đê các bất đồng, vị thức Lư Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung.” [tạm dịch: chắn ngang dải núi đỉnh nhô lên, cao thấp gần xa chênh lệch hình, chưa tỏ Lô Sơn chơn diện mục, đích thân chỉ biết núi kề bên]. Sở dĩ nói lập trường của các người không đồng nhau cho nên có các thứ ý kiến không giống nhau. Mỗi mỗi học thuyết trong thế gian, cũng đều là ý kiến riêng tư và chủ quan của cá nhân tham gia, mà không phải bản lai chân thật và công bình vô tư của toàn thể vũ trụ. Nhưng Phật Pháp thì lại khác xa, Phật Pháp là chân thật bản lai như thế của toàn thể vũ trụ. Chỉ là lợi dụng ngôn ngữ khéo léo để bày tỏ quán chiếu hiện thật của bản lai như thế mà thôi. “Bất khả thuyết” của đề mục căn bản chính là một diệu ngữ trong Phật Pháp. Bao nhiêu thí dụ nêu trên đều có thể quy nạp trên vấn đề toạ độ trong số học: như điểm A trong Đồ Hình (3) biểu thị:

Đồ Hình (3) biểu thị:

dh3.jpg

Theo điểm A trong Đồ Hình (3), toạ độ Giáp cho điểm A ở phạm vi khuôn thứ nhất; còn toạ độ Ất thì cho điểm A ở phạm vi khuôn thứ ba. Nguyên vì pháp thế gian đều tự kiến lập toạ độ, mỗi mỗi đều trình bày. Nhưng điểm A đây sử dụng Phật Pháp để giải thích: nếu như toạ độ của nó khiến ông khó dùng ngôn ngữ giảng giải thì nên nói rằng “Bất khả thuyết, bất khả thuyết”.

Lại có vấn đề quan hệ nơi không gian như Đồ Hình (4) biểu thị:

Đồ Hình (4) biểu thị:

Thí dụ năm ngoái chúng ta mở hội nơi địa điểm nào đó theo Đồ Hình (4) biểu thị, nhưng năm nay chúng ta lại mở hội cũng nơi địa điểm cũ. Nếu theo quan niệm của một người, hội trường năm ngoái và năm nay đều ở tại cùng một không gian giống nhau, hình dáng của hội trường cho đến tất cả bố trí trước mắt so với cùng năm ngoái cũng giống hệt nhau. Đương nhiên có thể bảo rằng: “Địa điểm mở hội tạo một không gian giống nhau.” Đây là mãi mai không có vấn đề. Đồng ý câu nói này cũng là không đáng để khảo nghiệm. Nhưng người sẵn có chút thiên văn thường thức, đương nhiên trong con mắt của họ có thể thấy đến như Đồ Hình (5) biểu thị:

Đồ Hình (5) biểu thị:

Người có đôi mắt thiên văn khi thấy được Đồ Hình (5) sẽ hội ý biết rõ: Địa cầu không đứng yên, tự xoay chuyển và xoay chuyển quanh mặt trời, cho đến chính Thái Dương Hệ cũng bị chuyển động luôn. Nhân đây, hội trường cũng đang xoay chuyển theo. Chỉ trong nháy mắt đã không biết được không gian hoàn toàn thay đổi bao nhiêu lần. Cho nên khiến ông ấy rất khó hội ý: Ý kiến về “Địa điểm mở hội nơi cùng một không gian”. Vậy ai đúng? Chúng tôi không có lý do thiên về một bên, chỉ đáp rằng: “Bất khả thuyết!”

Trong đây trở lại dùng thí dụ cho dễ hiểu, vấn đề trên nếu lý giải sâu thêm một lớp nữa và căn cứ theo sự vận động để trình bày thì được giải thích như sau:

Đồ Hình (6) biểu thị:

dh6.jpg

Theo Đồ Hình (6) biểu thị: “Chiếc xe hơi đây có khả năng vận tốc mỗi giờ 40 cây số.” Chủ xe luôn luôn cho là chưa bao giờ có sai lầm! Phải đấy nhà thiên văn nói với chúng ta rằng: Đây chỉ là đối với vận tốc của địa cầu mà nói; nguyên nhân địa cầu mỗi ngày ngoại trừ vận tốc mỗi giờ là 1000 dậm Anh, trục của nó tự chuyển động xoay quanh một lần, mỗi năm ngoài vận tốc mỗi giây đồng hồ là 20 dậm Anh, nó đi quanh mặt trời một vòng, ít người tham gia để hiểu biết thêm về sự xoay chuyển khác của nó,……… Vận tốc toàn bộ Thái dương hệ trong mỗi giây đồng hồ là 13 dậm Anh và vận động chỉ trong phạm vi trung tâm tập đoàn tinh tú; toàn bộ ngân hà (do vô số tinh hệ tạo thành) vận tốc mỗi giây đồng hồ là 100 dậm Anh. Như thế nói lại, ai có thể quyết định vận tốc của chiếc xe hơi này? Ai có thể xác định được chiếc xe hơi này vận tốc chạy tiêu chuẩn mỗi giờ 40 cây số? Cho nên chỉ nói rằng vận tốc của chiếc xe hơi này là “Bất khả thuyết”.

Nếu đem ba chữ “Bất khả thuyết”, lý giải sâu thêm một lớp nữa, chúng ta có thể lợi dụng “danh từ không định nghĩa” trong Tân Số Học của Cao Trung đi giải thích ba chữ “Bất khả thuyết” trong Phật Pháp, kia và đây có chỗ tương tợ phi thường. Trong bảy mươi tám năm trước Trung Học Kỷ Hà Giáo Bổn có bốn nguyên tố quan hệ là: Điểm, Tuyến, Diện, Lập Thể. Nay chỉ nêu ra định nghĩa của “Điểm” để thảo luận: “Điểm chỉ có vị trí, không có chiều dài, chiều rộng, chiều sâu.” Nhưng ở năm gần đây trong Cao Trung Tân Số Học Giáo Bản nói rằng: “Điểm, Trực tuyến [đường thẳng], Diện đều là tập hợp của điểm, không gian là tập hợp của tất cả điểm.” Theo giải thích trên có thể nói, giả sử Trực Tuyến là tập hợp của Điểm, như thế không chừng Điểm tất nhiên phải có đầy đủ dài ngắn, nhưng thật tế Điểm thì không có dài ngắn, làm sao có thể tập hợp để thành Tuyến [đường] được? Nếu như “Điểm” liền biến thành “Tuyến” thì Điểm không thể gọi là “Điểm”! Lý do giống nhau, Điểm tức là Diện (mặt), tức là không gian, có thể Điểm chính là nét chấm. Nhân đó định nghĩa của Điểm không thể thành lập. Bất luận ông nói như thế nào cũng không định nghĩa được của Điểm; cho nên trong Tân Số Học đem “Điểm” “Tuyến” “Diện” gọi là “Danh từ không định nghĩa”. Nhưng trong Tân Số Học Giáo Bản đều chưa giải thích qua như thế. Trái lại trong Phật Pháp sớm đã có một đoạn biện luận tuyệt vời như thế: “Như học giả Duy Thức đả phá ngoại sắc (vật chất) không có cực vi thật tại (vật chất cực nhỏ). ——- Giả sử ông chấp sắc cực vi là thật có để bàn luận, như thế chúng ta lại hỏi ông: có phân chia sáu phương vị hay không?(chỉ cho sáu phương vị đông, nam, tây, bắc, thượng, hạ, phân chia sáu phương vị là chỉ cho không gian chỗ chiếm hữu của vật chất.) Nếu như có sáu phương vị để bàn luận thì nó lại có thể bị chia cắt; nhưng nó có thể bị chia cắt đông tây thế này thì làm sao gọi cực vi được? Còn như ông thì nói không có sáu phương vị thì tôi lại hỏi ông, không có sáu phương vị (nghĩa là ý nói không có không gian chiếm hữu) thì làm sao có thể bảo có sắc cực vi tồn tại được? Còn nói không có không gian chiếm hữu thì sao lại có vật cất tồn tại được? Đây chính là mâu thuẩn lẫn nhau. Nơi học giả Duy Thức sau khi đả phá xong cực vi của ngoại sắc liền xây dựng lập trường cho chính mình là chỉ có nội tâm biến hiện từng sát na một. Ý đây nói ngoại sắc (tức là vật chất, sơn hà đại địa) chính là do ý nghĩ của tâm thức nội tâm trong mỗi sát na sát na sanh diệt biến hiện. Thế gian nguyên là không vật chất nhưng cũng có thể có vật chất, do sự giống nhau nói trên, có người lợi dụng phương pháp giống nhau đó liền bị sát na của học giả Duy Thức đả phá. Tâm niệm sát na của ông kiến lập có hay không có sự sai biệt của thời gian trước sau. Nếu như nói có thời gian trước sau thì đây không thể gọi là sát na, nguyên vì thời gian có thể bị phân chia thì sao gọi sát na được? Còn nếu ông nói không có phân biệt trước sau, như thế thì thành ra đồng thời, đã đồng thời sao có thể gọi là sát na được? Đó cũng là mâu thuẩn. Vì thế ngay cả thời gian, không gian, vật chất đều không thể kiến lập, cho nên gọi là “Bất khả thuyết.”

Một đoạn trên là lợi dụng phương thức khó đả phá, dùng hai mặt giáp công khiến ông không có đường để chạy, buộc ông phải đầu hàng nơi “Bất khả thuyết.” Lý đây dành riêng một phương thức chứng thật ba chữ “Bất khả thuyết”, để tiện suy rộng ra đến thế gian vạn sự vạn vật đều ở trong “Bất khả thuyết”. Nói thêm vấn đề vận tốc chiếc xe hơi trong tiết mục trên, theo Phật Pháp nói vận tốc chiếc xe hơi đó là không có và cũng không chạy. Là thế nào? Nguyên do “Chạy đi chạy lại” cũng là bất khả thuyết. Nếu ông nói: Bộ phận chiếc xe hơi này từ sườn núi đến Đài Nam chạy 40 cây số, 40 cây số đây phải chăng là có “Chạy”? Nó thật không có “Chạy”. Nguyên do lộ trình sớm đã thuộc về quá khứ thì đoạn nào chiếc xe đã “chạy” qua 40 cây số, phàm sự việc của quá khứ sớm đã không còn tồn tại, sự việc đã không còn tồn tại thế này thì có thể thành lập được sao? Cho nên nói là không có “Chạy”. Nếu ông nói: chiếc xe hơi ở nửa đường, nghĩa là chiếc xe hơi đang ở vị trí 20 cây số, như thế cũng không phải là có “Chạy”? Kỳ thật đã là không có “Chạy”, nguyên do 20 cây số đã chạy thì thuộc về quá khứ! Còn 20 cây số chưa chạy sự thật còn chưa thành lập. Sự việc chưa thành lập thì làm sao có thể nói có “Chạy”? Nếu ông nói: hiện tại đang chạy, nếu hiện tại đang chạy thì sao lại bảo có chạy? Kỳ thật hiện tại đang chạy cũng là không có chạy; đang chạy là thời gian đã chạy cùng chưa chạy và không phải đã chạy lại là chưa chạy. Lý đây chúng ta cần phải trở lại vận dụng sự quan hệ của “Điểm” và “Đường” nơi tiết mục trên để chứng minh: nguyên nhân Đường là do Điểm di chuyển mà thành. Nhưng “Điểm” thì không có dài có ngắn. Điểm nếu như có dài có ngắn để thành đường thì không thể thành điểm; còn Điểm nếu như không có dài có ngắn thì làm sao có thể thành Đường được? Lý do giống nhau nói trên như Đồ Hình (7) biểu thị:

Đồ Hình (7) biểu thị:

Theo Đồ Hình (7) biểu thị: Giả thiết chiếc xe hơi đây từ điểm A di chuyển đến điểm B, trung gian có một đoạn khoảng cách thích hợp. Đương nhiên chiếc xe hơi khi đang ở điểm A liền không có khả năng đồng thời cùng đang ở điểm B được và ngược lại cũng thế. Nói cách khác, chiếc xe hơi đương nhiên không được trong một thời gian cùng ở trên hai điểm A và B. Như thế lại có khoảng cách không gian và khoảng cách thời gian, nơi những khoảng cách trên, không ngại đem chỗ bất đoạn này phân chia ra, phân chia mãi đến khi không thể phân chia thêm nữa——- liền thành là Điểm. Đối với trên mỗi điểm mỗi điểm đây mà xem, nguyên nhân ở chỗ kia đang ở chỗ kia, nghĩa là căn bản chưa một mảy may di động. Do đó nói là “Không đi”. Như thế “Không đến” cũng là đạo lý giống nhau “Không đi”.

Phật Pháp trình bày: “Chân lý thì có thể chứng biết, nhưng không thể nói năng.” Do một lời nói qua liền thành đối đãi. Là như thế nào? Dùng thí dụ đã nêu trên để chứng minh do lời nói mà có đối đãi. Nếu đem những thí dụ này mỗi mỗi phân tích liền biết trước hết đều đã có “Ngã” hoặc “Chủ quan của ngã” (tức là Ngã Chấp); sau đó lại ở chỗ đứng trên lập trường đi quan sát tất cả sự vật. (Lập trường tức là tọa độ, cũng tức là pháp chấp của Phật Giáo chủ trương.) Cho nên chúng ta ngày thường trong sinh hoạt mỗi mỗi cử động, không thời không khắc nào là chẳng bị một đạo lý toạ độ (pháp chấp) của vô hình trói buộc mà khiến chúng ta vĩnh viễn không giác ngộ. Vì thế chỗ tạo tác chỗ hành vi đều cho là thích hợp, nhưng trên thực tế đều bị đối đãi mà có toạ độ gông cùm xiềng xích, vĩnh viễn không được tự tại. Nhưng đạo lý toạ độ đây đều không phải nhà tù không thể phá, bản thân họ cũng là dựa vào đồ vật không an trụ, là một thứ giả tướng, là thứ hư vô mù mịt. Cho nên Phật Pháp báo chúng ta rằng, “Toạ độ” đây tức là chướng ngại do tư tưởng của tự thân phát khởi mà thiết lập. Nhưng Toạ độ vô hình đây cũng có thể đả phá bằng cách buông thả chướng ngại trên tư tưởng của tự thân! Quả như chúng ta thật có thể buông thả thì tự tại như thế nào? Đáp rằng: “Bất khả thuyết!”

Nguyệt San Bồ Đề Thọ, kỳ 8, Nguyên Tải thứ 21.

Dịch xong ngày 8 tháng 12 năm 2014.

*******

DÙNG TÂM SAI LẦM

 

-Cổ Đức nói: “Đều không thể tham thiền là do dùng tâm sai lầm!”

-Hỏi rằng: “Dùng tâm sai lầm là gì?”

-Đáp rằng: “Tưởng cần phải khai ngộ là dùng tâm sai lầm,

“Tưởng cần phải chứng được nhất tâm bất loạn là dụng tâm sai lầm,

“Tưởng cần phải minh tâm kiến tánh là dùng tâm sai lầm,

“Tưởng cần phải thành Phật tác Tổ là dùng tâm sai lầm,

“Tưởng cần phải giảng Kinh thuyết Pháp là dùng tâm sai lẩm,

“Đi đứng nằm ngồi cũng là dùng tâm sai lầm,

“Ăn cháo ăn cơm là dùng tâm sai lầm,

“Đi tiêu bỏ phân cũng là dùng tâm sai lầm,

“Động tịnh đến đi đều là dùng tâm sai lầm,

“Nghĩ thiện nghĩ ác toàn là dùng tâm sai lầm,

“Lại có một dùng tâm sai lầm khác: chính là ông tưởng cần phải lánh xa nó, từ lâu đã là thứ hoàn toàn dùng tâm sai lầm!”

-Hỏi rằng: “Thế thì cuối cùng bằng cách nào mới không khỏi dùng tâm sai lầm?”

– Đáp rằng: “Cách ông hỏi, cách tôi đáp cũng là cách dùng tâm sai lầm!”

Như thế lại nói, trên không đối đãi, dưới cũng không đối đãi, bên trái không

đối đãi, bên hữu cũng không đối đãi; cho nên ép buộc được ông không đường để chạy. Tạm thời không nên trực tiếp phúc đáp, giờ đây thử dùng “Mộng” để nói rõ vấn đề trên. Ông và tôi đang ở trong mộng: Tâm lý chúng ta mỗi khi tưởng cần phải khai ngộ thì trong tâm lúc đó hoàn toàn có ý nghĩ “Khai ngộ” tồn tại và ý nghĩ khai ngộ đây tiền lôi kéo ông và tôi không dứt bỏ được cái “Mộng”, mãi mãi chạy theo trong chốn cảnh mộng mơ từ hồi lâu đời đến nay. Vì thế mới nói: Tưởng cần phải minh tâm kiến tánh, tưởng cần phải thành Phật tác Tổ, tưởng cần phải…………, tất cả của tất cả đây đều là do ý niệm của ông và tôi mà khởi lên trong cảnh mộng. Cũng có thể nói, đã có ý niệm sai lầm này thì huyễn cảnh đây lập tức xuất hiện ngay. Cái huyển cảnh đây liền tạo thành: thành Phật tác Tổ, minh tâm kiến tánh, giảng kinh thuyết pháp…….hết thảy những sự việc đó hoàn toàn ở trong mộng cả, cho nên nói đều là “Dùng tâm sai lầm.”

Nguyên do ngay cả ông và tôi đều dùng tâm sai lầm nên mới có sanh già bệnh chết, nguyên do ngay cả ông và tôi đều dùng tâm sai lầm nên mới có địa cầu tự chuyển và chung nhau chuyển; nguyên do ngay cả ông và tôi đều dùng tâm sai lầm nên mới có sơn hà đại địa này; ngay cả ông và tôi đều dùng tâm sai lầm nên mới có sai biệt đây dài kia ngắn! Giảng đến vấn đề đây, hoặc cả ông và tôi hợp lại thì tự mình một mặt cũng sẽ không tin tưởng, xin hỏi những thứ gì đều do nơi dùng tâm sai lầm của chính mình sanh khởi? Đó là điều khiến cho chúng ta vẫn còn phải tiếp tục quán sát kỹ càng theo trong thí dụ Đồ Hình (1) biểu thị để có thể lãnh hội được đích thực rõ ràng hơn:

Đồ Hình (1) biểu thị:

dh1.jpg

Theo như Đồ Hình (1) biểu thị, ba trụ cột cây gỗ 1,2,3 vốn không có dài ngắn, làm thế nào ông và tôi có thể thấy ra được là trụ cột 2 đây so sánh với trụ cột 1 thì trụ cột nào tương đối dài hơn và trụ cột 3 đây so sánh với trụ cột 2 thì trụ cột nào lại dài hơn? Hơn nữa vấn đề Tịnh và Động như Đồ Hình (2) biểu thị:

Đồ Hình (2) biểu thị:

dh2.jpg

Theo Đồ Hình (2) biểu thị, một cái quạt máy rõ ràng là chuyển động không ngừng, nhưng mà ông và tôi đang từ trong đĩa quay cùng nhau quan sát, liền biết được quạt máy đều không có động. Là sao thế? Địa cầu mỗi ngày vận tốc mỗi giờ là 1000 dậm Anh dùng cho trục quay tự chuyển một lần; mỗi năm vận tốc mỗi giây đồng hồ là 20 dậm Anh dùng cho việc quay một vòng chung quanh mặt trời, mà chúng ta đứng trên địa cầu này một tí cũng không biết được nó đang chuyển động không ngừng. Nhà Khoa Học nói rằng: “Giả sử đem một vật thể nào đó đã có trong vũ trụ chọn lấy sao chép ra để nó tự dùng tốc độ riêng của chính nó trong mỗi giây đồng hồ trải qua 10 vạn 8000 dậm Anh tiến vào thái không, hoặc bảo nó đứng yên một chỗ không di động. Bất luận nó động hoặc tịnh, không người nào có thể xác định được nó là động hay là tịnh. Chỉ khi nào nó vận động tương đối một chút thì chúng ta mới có thể xác định được nó tịnh hoặc động.” Nhân đây ông và tôi bình thường nhận thức đều cho là dài, là ngắn, là động hoặc là tịnh, thật tại chỉ dựa trên chỗ không trụ của sự vật nương tựa riêng biệt. Ông và tôi lại có một thứ khuynh hướng nội tại, thường thường dựa trên cảm quan theo trình độ cảm giác liền cho là chân thật; đây phải chăng hoàn toàn tiếp nhận chỗ đánh lừa của cảm biết có giới hạn hay sao? Thứ “Đánh lừa” đây chính là kết quả gặt hái được của ông và tôi do dùng tâm sai lầm! Như thế lại nói, hoặc vẫn không thể hiểu biết được tất cả vạn tượng trên thế giới đều là do dùng tâm sai lầm tạo thành; đó là điều khiến ông và tôi phải nêu trở lại một thí dụ thật tế khác: như sự động tác của nhân vật trong điện ảnh, ông và tôi xem đến lúc vui thích và lúc chán chê; có thể là máy điện ảnh chuyển động phim phát hình tốc độ luôn luôn đều nhau, mức độ mỗi giây đồng hồ phát ra là hai mươi lăm bức hình. Mà nhân vật động tác có vui thích có chán chê, đấy chính là chỗ phát khởi nơi vọng tâm của ông và tôi. Nếu như dùng một máy “Âm Thoa” điều chỉnh tốc độ để quán sát, liền thấy được hiện tượng tốc độ đều nhau của nó xuấn hiện. Lúc này ông và tôi cũng sớm đã hiểu rõ nguyên lý động tác giả của nhân vật trên màn ảnh. Nhưng ở trên sự thật tâm lý của ông và tôi thì hoàn toàn nhận lấy chỗ lừa dối của nó; cũng chính là nói cảm tình của ông và tôi thì hoàn toàn chuyển biến theo sự mừng, giận, buồn, vui của nhân vật trong tuồng kịch; hiện giờ chính tự mình không có một chút phương pháp nào nắm vững con đường chao động của tình cảm trụ lại. Ai ai cũng đều biết đây là kịch giả của điện ảnh trình diễn, mà ông và tôi xem nó khó có thể không bị ảnh hưởng, huống chi thế giới cho là chân thật làm sao có mặt trong sinh hoạt thường ngày? Hiện tại cần nói thế giới này là giả tướng, nó đều dựa vào “Dùng tâm sai lầm” của ông và tôi tạo thành, ai là người có thể tin được? Liền khiến một số người có khả năng lãnh hội được một chút liền nói, đúng là cảnh giới khi thúc đẩy chỗ bất đoạn hướng về ông và tôi, mà tinh thần của ông và tôi sớm đã bị cảnh giới bất tri đó thu hút đến chỗ nào rồi đấy! Làm sao có thể phát hiện được cái “Dùng tâm sai lầm” này?

Cái gì biết có “Dùng tâm sai lầm?” Cần phải hiểu nguyên nhân và cũng bởi do không sáng suốt được cái đạo lý phát khởi, tức là hồ đồ đấy mà trong Phật Pháp gọi là “Vô Minh”. Do vô minh cho nên các thống khổ phát khởi bức bách và các thống khổ lại do nơi hành nghiệp từ trước thúc đẩy; hành nghiệp đây cũng chính là do “Dùng tâm sai lầm” trước kia tạo thành. Cho nên nói nhân sanh (hữu tình) càng bị nhốt vào trong chỗ xoay vần không dứt. Do thống khổ bức bách khiến ông và tôi dùng tâm sai lầm, do dùng tâm sai lầm liền dẫn đến hành vi xung động mù quáng; kết quả của hành vi xung động mù quáng là mang theo sự thống khổ và sự thống khô đây lại kích thích ông và tôi dùng tâm sai lầm và đi đến thực tại là cảnh xoay vần đây mãi mãi không bao giờ đình chỉ. Thí dụ như: vấn đề ăn uống luôn luôn bức bách nơi trên sinh lý hoặc tâm lý của nam nữ, sự thống khổ của ăn uống bức bách đây thúc đẩy dùng tâm sai lầm, tức là đi tìm cầu giải quyết cái khổ đang bức bách này. Nhưng kết quả lại khiến mọi người kêu lên “khổ thấu trời”. Cho nên có một Thi sĩ sáng tác câu thi nói lên cái khổ thế này: “Tôi trước kia khi chưa sanh, ở nơi chỗ tối tăm không biết; ông trời cưỡng ép sanh tôi ra, sanh tôi ra để làm gì? Không có quần áo khiến tôi lạnh lẽo, không có cơm ăn khiến tôi đói khát; trả tôi lại ông trời, trả tôi lại khi chưa sanh!” Giả sử nhân loại nếu là do Thượng Đế vạn năng (Ông Trời) tạo ra, như thế Thượng Đế cũng hoàn toàn là do dùng tâm sai lầm; nguyên do ông làm gì tạo tôi ra không có quần áo khiến tôi bị lạnh lẽo? Ông làm gì tạo tôi ra không cơm ăn khiến tôi bị đói khát? Cho nên Thượng Đế cũng là do dùng tâm sai lầm tạo ra nhân loại! Phật Pháp mách cho chúng ta biết rằng: “Tự tạo tác thì trở lại tự thọ nhận”. Đó chính là nói, tự mình dùng tâm sai lầm dẫn đến hành vi lầm lạc, do sự lầm lạc của hành vi, kết quả mang lại sự thống khổ của đói lạnh. Giả sử trước kia không có dùng tâm sai lầm và lại không có hành vi lầm lạc thì kết quả của sự thống khổ làm sao có thể sanh ra được. Đây là sự lý rất bình thường mà ai ai cũng đều dễ biết.

Trong vấn đề này xin đem một cốt truyện để chứng minh lý do đích thật “Dùng tâm sai lầm”. Câu truyện gọi là “Tâm huyết”. Câu truyện như thế này: Đông Bộ của tỉnh Chiết Giang, có một “Nhà buôn” qua buôn bán, không biết ông tên họ gì. Ông đem theo một vợ và hai con gái, đến ở khách trọ tại địa phương “Nam Hào” của Tô Châu tỉnh Giang Tô. Chỗ ở là nhà lầu, mặt tiền hướng về đường sông qua lại.

Có một vị người ở Hồ Bắc, thật tại cũng không biết tên họ gì, giấy tờ người ghi gọi ông là “Sở Châu Sanh”. Sở Châu Sanh, đại khái là con nhà dòng dõi, sanh ra đẹp đẽ tài ba, hào phóng lanh lợi, mặt mày như bức tranh. Một câu thành ngữ là: “Công tử đẹp trai phong nhã độc nhất trên đời”, diện mạo xinh đẹp của công tử kia e sợ không đủ để hình dung. Sở Châu Sanh nhân công việc đến Tô Châu bằng đường thủy, chỗ cập bến thuyền của công tử đúng ngay trước mặt nhà lầu nơi tạm cư của “Nhà buôn”.

Một sáng sớm kia, con gái lớn của Nhà buôn, trang điểm buổi sáng vừa xong, cuốn bức rèm mở cửa sổ, đổ nước ra bồn rửa mặt. Thình lình cô xem thấy một thiếu niên đẹp trai đang ngồi trong khoang thuyền, dựa cửa sổ nhìn ra, lúc đó toàn thân của cô giống như bị chạm điện, tức khắc cảm giác bị tê giật. Bồn chứa nước và nước trong bồn rửa mặt của cô đồng loạt rớt xuống đất làm vỡ tan. Ông Sở Châu Sanh nghe tiếng động trên lầu ngó lên thấy một thiếu nữ liền giật mình la hoảng, đương nhiên có cảm giác giống nhau của cô con gái, nhân vì việc đó là một thiếu nữ diện mạo đẹp như hoa, tròn như trăng rằm, cũng không phải là bậc tầm thường. Từ đó cô cuốn bức rèm, dựa cửa sổ, viết sách, thêu thùa, lặng lẽ như thế, tương đối cũng không biết rõ có bao nhiêu ngày.

Ông Sở Châu Sanh có bằng hữu họ Tưởng, gần đây cũng ở tại Tô Châu. Có một ngày, đặc biệt ông Tưởng lên thuyền thăm viếng ông Sở Châu Sanh. Ông Tưởng đến xem thấy tình hình này, đây là vấn đề to lớn chắc chắn “Quan hệ danh tiết” trên hết, khuyên ông Sở Châu Sanh mau dời thuyền cập bến chỗ khác. Ông Sở Châu Sanh tiếp nhận thiện ý của bằng hữu liền dời thuyền đến Tư Môn; vài ngày sau, ông liền trở về quê nhà.

Không bao lâu, binh mã của Hồng Tú Toàn quấy nhiễu đến địa phương Tô Châu và Nam Hào, thiêu đốt sát hại nhà cửa và nhân dân hai nơi này rất thê thảm. Lại bất hạnh là: người thiếu nữ và mẫu thân cùng em gái đều đồng loạt chôn thân nơi lò lửa.

Nạn dân sống sót sau tai hoạ, nhà tan cửa nát, không làm sao sống được khi vựa lúa tập trung nơi phía đông một đống, nơi phía tây một đống giữa đống gạch ngói vụn, đồng thời khai thác vật dụng đánh giá tiền bạc, như trao đổi vàng bạc để đổi lấy một đấu thóc hay một lít gạo. Tại đó có một số người con buôn cư ngụ nhà lầu nằm chỗ mặt trước, đào khoét ra được một miếng giống như thịt mà không phải thịt, trên khắt dưới khoan đã thành một vật. Có một Đại Gia chuyên môn trao đổi hàng hoá đang trông thấy, theo dõi rốt cuộc không hiểu là thứ gì? Vừa lúc đó có vị quan binh, trên thân đang mang con dao, do đi qua đấy nhìn thấy ở nơi đó mọi người xoay quanh xếp thành một đám đông bàn luận xôn xao, họ cũng chen chân vào trong đó, kết quả suy nghĩ thấy được câu chuyện: Có một nạn dân trong tay chuyển giúp người khác cái quái vật. Quan binh liền nắm tay của nạn dân rút ra một con dao, đem vật quái lạ này tháo ra. Nhìn một cách cẩn thận, kỳ lạ thay! Trong đó bề mặt của con dao hiện rõ cửa sổ chiếc thuyền hình vuông, giữa cửa sổ nghiễm nhiên có một hình thiếu nam; mà lại có một cành dương liễu, lay động phe phẩy ở trên mui thuyền. Tuy nhiên nhìn tỉ mỉ một lúc thì thấy cũng rất tốt; Đại Gia kia thì không biết là vật gì, trái lại ra khỏi đám đông được một lúc rồi bắt đầu đi lặng lẽ.

Có sự việc xảy ra vừa đúng lúc là ngay khi ấy họ Tưởng bằng hữu của Sở Châu Sanh cũng từ trong đám đó đi qua, xem thấy một đại binh, trên tay đang cầm cái gì đó và còn quan sát nhiều lần rất kỹ; họ Tưởng cũng tụ tập lại gần chỗ đông người để xem, tức khắc hiểu rõ ngay, đây là quả tim của một thiếu nữ, nguyên do hình ảnh của thiếu niên rõ ràng là ông Sở Châu Sanh. Chỉ là họ Tưởng không tiện nói rõ, vì chính ông lấy con dao của đại binh nào đó, cắt ra hai miếng mang chạy về nhà, đem một miếng khắc quả tim của một thiếu nữ, dùng cái hộp bằng cây trang điểm đẹp đẽ, sai người đưa giúp ông Sở Châu Sanh. Ông Sở Châu Sanh mở hộp ra nhìn thấy trong cái hộp không có vật gì, chỉ là một vết máu tanh màu đỏ sẫm mà thôi. (Chú thích).

Truyện đây hoàn toàn không phải đặc biệt kỳ lạ mà chỉ là sự luyến ái thường tình của ngàn vạn nam nữ, cũng vì thế mới bị người có cơ hội phát hiện mà thôi. Có thể bằng chứng đích thực của kết quả sau khi bình thường dùng tâm sai lầm. Xin xem lại Tông Cảnh Lục: “Ba Chất Đa Gia, gọi đây là tâm tập khởi, Thức thứ tám tích tập chủng tử sanh khởi hiện hành”. Cũng chính là nói tâm đây có hai phương diện tác dụng:

Một phương diện tác dụng tập khởi. Cái gì là tập khởi? Tập là tập trung, là ý nghĩa tập hợp; cũng chính là bình thường đem chỗ tư tưởng, lời nói, việc làm, hành động, xem thấy, nghe tiếng, xúc chạm…… của chúng ta mỗi mỗi chỗ đều đem nó thâu góp lại để phát khởi, chứa vào trong tâm điền lớn vô hạn đây.

Một phương diện chủng tử tác dụng hiện hành. Chủng tử tức là chủng tử bình thường của tư tưởng, của lời nói……tiến vào nằm trong tâm điền. Thí dụ như chủng tử hạt đậu nằm trọn trong đất, liền sanh ra mầm đậu, rể đậu, lá đậu, hoa đậu, trái đậu. Mầm, rể, lá, hoa, trái đây đều là tác dụng “Hiện Hành” của chủng tử hạt đậu. Tâm đây thì cũng như thế, đem chủng tử của tư tưởng, của lời nói…. ở quá khứ chứa nhóm nơi trong tâm điền đây, cũng giống như cốt truyện “Máu Tim” đã kể trên; chủng tử một khi gặp được cơ duyên, liền sanh khởi hiện hành. Hiện hành tức là xuất hiện thế giới hiện thật này, vũ trụ cùng nhân sanh đều hiển hiện ra! Tập khởi của tâm cùng hiện hành hai thứ tác dụng, có thể đem máy điện ảnh của cận đại ra để chứng minh: máy điện ảnh có hai bộ phận là máy nhiếp ảnh và máy phóng ảnh. Tác dụng của máy nhiếp ảnh vừa tác dụng tập khởi tương tợ như tâm, đã thế máy phóng ảnh lại cùng tâm tác dụng tương tợ khi chủng tử hiện hành. Máy nhiếp ảnh của điện ảnh có thể thâu lấy sơn hà đại địa cho đến nhân vật các sắc, có âm thinh, có hình sắc; mà tâm chúng ta hằng ngày đang nhiếp ảnh thì lúc nào cũng đang nhiếp ảnh, giờ phút nào cũng đang nhiếp ảnh, giây phút nào cũng đang nhiếp ảnh, từng giây từng phút không ngừng ở chỗ nhiếp ảnh. Từ xưa đến nay nhiếp ảnh có thiện, có ác, có tốt cũng có xấu, có thất tình như, mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn..v..v….. Chủ yếu nhất là hoàn toàn không thoát khỏi nhiếp ảnh vào những cốt truyện trên một tình trường nam nữ ân ái. Cho nên trong tâm của mỗi người đều có tồn tại một bộ phim ảnh tình trường này, bất luận là người thanh niên hoặc thậm chí kể cả ông già một trăm tuổi cũng đã hoàn hảo, nghĩa là họ đã bảo tồn một đoạn phim xuân tình đấy. Cho nên tục ngữ có nói: “Người già tâm không già”, cũng chính là chỉ cho cái dục của nam nữ. Vì thế mỗi lần sau khi tử vong lập tức sẽ bị nghiệp lực của sắc đẹp đây lôi cuốn. Chỗ gọi là nghiệp lực lôi cuốn, giống như phim điện ảnh đã chụp lấy rất tốt, nhất định đang có cơ hội chiếu lên biểu diễn. Nhất định chiếu lên biểu diễn đây cũng có thể cho là chịu chi phối bởi tâm lý của quần chúng nhìn xem; sự chi phối đây cũng tức là sự lôi cuốn của nghiệp lực. Mà phim ảnh trong tâm của chúng ta cũnh như thế, nghĩa là cũng chịu sự chi phối bởi tâm lý sai lầm của chính mình. Do lôi cuốn nên bị đi đầu thai trở lại theo như Đồ Hình (3) biểu thị:

Đồ Hình (3) biểu thị:

dh3.jpg

Theo Đồ Hình (3) biểu thị, vì nghiệp lực lôi cuốn cho nên phải đi đầu thai trở lại, trước hết hình thành vào trong thai, ở trong thai, sanh ra, lớn lên để rồi chết đi. Sau khi chết thì phải đi đầu thai tiếp……….. và cứ như thế mãi xoay vần không dứt. Thí dụ như điện ảnh chiếu lên ảnh thế giới này và đồng thời cũng thâu lấy ảnh thế giới này. Đây chính là nói chiếu ảnh ra rồi lại thâu ảnh vào, thâu ảnh vào rồi lại chiếu ảnh ra, chỗ chiếu ra thâu vào mãi cứ như thế không đình chỉ. Hiện tượng này trong Phật Pháp của chúng ta gọi là Luân Hồi. Nói đi nói lại đều là do nơi việc làm quái gở của dùng tâm sai lầm mà sanh khởi các thứ nhận thức lầm lạc. Bởi không biết vạn sự vạn vật trên thế giới này đều là do nhân duyên tập hợp lại thành hình, duyên tụ tập thì có mặt, duyên ly tán thì diệt vong, không có thật thể của bản lai. Do đạo lý không sáng suốt đây nên sanh khởi vọng chấp (dùng tâm sai lầm) các thứ. Vọng chấp đây liền mang đến phiền não các thứ, do phiền não các thứ phát động hành vi tội hoặc phước của thân miệng và ý. Hành vi đây cũng giống như cái bật điện của nhiếp ảnh không khác: Phim hoạt hoạ, phim châm biếm! Tình cảnh thâu lấy bên trong và bên ngoài, nhân đó, sanh mạng của hữu tình (bao gồm sanh mạng con người) mãi mãi ở trong dòng sông dài sanh sanh tử tử chuyên làm công việc thâu vào và chiếu ra không bao giờ dừng nghỉ. Có thể nói chỗ thâu vào đích thực cũng là chỗ các màn ảnh liên tiếp chiếu ra, con người đang diễn kịch trên sân khấu trần đời và đang nô đùa mãi mãi không hoàn tất; nghĩa là chúng ta lúc nào cũng ở nơi dùng tâm sai lầm, thời khắc nào cũng ở nơi dùng tâm sai lầm, nguyên vì không giây phút nào ngừng duyên nơi chỗ dùng tâm sai lầm.

Nơi đây xin phúc đáp trở lại vấn đề trước như: “Tưởng cần phải khai ngộ là dùng tâm sai lầm, tưởng cần phải chứng được nhất tâm bất loạn là dùng tâm sai lầm…………, ăn cháo ăn cơm đều là dùng tâm sai lầm……….” Tại sao thế? Vấn đề này có thể mượn tình hình thâu ảnh và chiếu ảnh của máy điện ảnh để giải đáp: Ngay khi ông và tôi có cái “Tưởng cần phải” đây là vì đã có ý niệm của cái “Tưởng cần phái” đó liền tác dụng thâu nhận chứa đựng tồn tại nơi tâm. Khi đã có thâu nhận thì tâm cảm nhận sáng suốt nhanh nhẹn gần giống như phần mềm của phim, lập tức thâu lấy cảnh vật bên ngoài. Đã có cảnh vật thâu vào thì sẽ có thời cơ chiếu ra trình diễn. Những cảnh vật chiếu ra trình diễn đây chính là y chánh hai báo (Y chánh hai báo nghĩa là y báo và chánh báo; chánh báo là chỉ cho nhân sanh; y báo là chỉ cho thế giới hiện thật). Đã có chỗ cảm ứng hai báo này thì tiếp theo lại cần đến thâu lấy không ngừng. Nói như thế có nghĩa là bị trầm luân ở trong biển khổ, vẫn luân hồi trong lục đạo như cũ; cho nên người tham thiền không thể có “Dùng tâm sai lầm” chính là lý này.

Hơn nữa nói trở lại: Đúng như trên, người niệm Phật nguyện sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương cần phải như thế nào? Đấy không phải là cũng “Dùng tâm sai lầm” sao? Vấn đề đây cũng có thể dùng hai bộ phận tác dụng thâu ảnh và chiếu ảnh của máy điện ảnh đã trình bày trên để giải đáp: Người niệm Phật, làm những việc như xây dựng Phật Đường nguy nga đàng hoàn, trang nghiêm Phật tượng, cho đến đem bảy thứ cúng dường như nước, hương, hoa, đèn, đồ hương, trái cây, âm nhạc..v..v…. và lễ Phật thì như thế nào? Người không rõ đạo lý sẽ nói chúng ta đang lạy thần tượng. Nhưng đọc qua chỗ tâm thâu ảnh và chiếu ảnh trình diễn giải thích qua ở trên thì cũng chính đã minh bạch được dụng ý tâm thành kính của người niệm Phật! Cho nên người niệm Phật thường thường cần niệm Phật, giờ phút cúng Phật lễ Phật, cũng chính là ống kính thường thường thâu lấy niệm Phật và lễ Phật. Giả sử như có cách quãng khiến những tạp sự của người khác đang thâm nhập; tâm như thế liền lập tức thâu lấy những tạp sự và những tạp niệm đó ngay. Sau này khi chiếu ra trình diễn thì cũng như thế, những thứ tạp sự và tạp niệm lập tức sanh ra vô cùng hỗn tạp không thanh tịnh! Cho nên người niệm Phật cần phải niệm nhất tâm bất loại, thâu vào đều là thế giới Tây Phương Cực Lạc, sau này chiếu ra trình diễn cũng hoàn toàn là thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như thế mỗi lần đã vãng sanh Tịnh Độ thì thâu vào rồi lại chiếu ra, chiếu ra rồi lại thâu vào; thâu đi thâu lại và chiếu đi chiếu lại đều là thế giới Tây Phương Cực Lạc; cho nên vĩnh viễn sanh vào cõi Phật nào đó cũng là lý này. Người học Mật Tông đương quán tưởng tự mình cùng tất cả chúng sanh đều là Phật và Bồ Tát; đã thường thường thâu vào cõi Phật thanh tịnh thì đương nhiên kết quả chỗ chiếu lên trình diễn đều là chư Phật, chư Bồ Tát làm bạn lữ, tự mình nhờ đó có thể sanh Phật quốc tịnh độ, chính là lý tức ở đây vậy. Cho nên Kinh Bát Nhã nói rằng: “Nơi tất cả pháp, tâm thì khéo dẫn đường. Nếu có thể biết được tâm, tất nhiên biết các pháp, các thứ pháp thế gian đều do tâm.”

Chú Ý:

(Các bài như: Nhân Duyên Không Tánh, Quán Như Mộng, Quán Tương Đối Của Sắc Không, Sắc Tức Là Không Không Tức Là Sắc, Lược Thuật Không Sanh Không Diệt, Quán Tương Đối Không Sanh Không Diệt, Không Thường Cũng Không Đoạn, Thế Gian Của Giả Tướng, Bất Khả Thuyết, Dùng Tâm Sai Lầm cùng một Tác Giả Lý Nhất Quang đều trích trong quyển Phật Pháp Dữ Khoa Học Đích Tỷ Giảo Xiển Thích, do nhà xuất bản Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội ấn hành, địa chỉ: Lầu 11, hiệu 55, Đoạn 1 Nam Lộ, Hàng Châu, Thị Trấn Dài Bắc. Điện Thoại: (011) 3951198. Để làm phong phú cho nền văn học Phật Giáo Việt Nam, Thắng Hoan xin trích dịch những tư tưởng hay của tác giả trong những bài kể trên làm tài liệu nghiên cứu. Thắng Hoan dịch theo lối thoát văn và thêm bớt đôi chữ cũng như giải thích thêm trong dấu ngoặc […] nhằm làm sáng tỏ vấn đề mà không mất ý tưởng tác giả, xin tác giả tha thứ cho.)