AN LẠC TẬP
Thích Đạo Xước soạn
Thích Nhất Chân dịch

doahong

 

QUYỂN THƯỢNG

Bộ An Lạc Tập này trọn một bộ gồm 12 đại môn, môn nào cũng đều trích dẫn các Kinh và Luận ra để chứng minh, nhằm khuyến khích người học tin tưởng mà cầu nguyện vãng sinh [về tây phương Cực Lạc thế giới.]

Đại môn thứ nhất

Giờ đây trước hết là vào trong đại môn thứ nhất. Đại môn này tuy văn nghĩa dồi dào, song [trước hết] có thể phân thành chín môn tóm lược [sau đây] để lọc lựa phân loại, rồi sau đó mới viết xuống [thành phần trình bày giải rộng bên dưới:]

I. Thứ nhất là nói về lý do vì sao giáo pháp Tịnh Độ được nói lên: xét theo thời, thích ứng theo căn cơ, mà khuyến khích quy hướng về Tịnh Độ.

II. Thứ hai là căn cứ theo các bộ Kinh Luận Đại thừa để nêu rõ lên các cách thức nói và nghe giáo pháp [một cách chân chính.]

III. Thứ ba là căn cứ theo thánh giáo của Đại Thừa để trình bày về việc phát tâm lâu gần, cúng Phật nhiều ít, của các chúng sinh, cũng vì muốn cho thính chúng ngay đương hội nỗ lực phát tâm.

IV. Thứ tư là bàn về sự khác nhau giữa tông chỉ của các Kinh.

V. Thứ năm là nói về việc các Kinh được tên khác nhau: Như kinh Niết Bàn, Bát Nhã v.v… lấy pháp làm tên. Lại có Kinh theo dụ mà lập tên. Hoặc có Kinh theo sự mà lập tên. Cũng có Kinh theo thời theo xứ mà lập tên, không hề đồng nhất. Nay Quán Kinh này y theo “người” và “pháp” mà lập tên. Phật là tên của người, còn nói Quán Vô Lượng Thọ là tên của pháp.

VI. Thứ sáu là phân loại về người nói [Kinh gồm nhiều loại hữu tình] sai khác nhau: Các kinh được nói lên không ngoài năm loại [hữu tình:] 1) Phật tự nói, 2) thánh đệ tử nói, 3) chư thiên nói, 4) thần tiên nói, 5) biến hóa nói. Trong năm loại [hữu tình] nói Kinh ấy thì Quán Kinh này chính là do Thế Tôn tự nói vậy.

VII. Thứ bảy là lược nói về hai thân là Chân Thân và Ứng Thân, cùng bàn về hai độ là Chân Độ và Ứng Độ.

VIII. Thứ tám là nêu rõ về địa vị [tu Đạo] của Di Đà Tịnh Quốc bao trọn hết [mọi vị thứ] trên dưới, phàm và thánh cùng vãng sinh. Thứ chín là nói về việc Di Đà Tịnh Quốc thuộc hay không thuộc về ba cõi [luân hồi.]

[Trong chín môn trên, hai môn V, VI, không được nói đến trong phần giảng rộng dưới đây.]

I. Môn Thứ Nhất

Trong đại môn thứ nhất này, trình bày về nguyên do [Phật] nói lên giáo pháp Tịnh Độ này. [Đó là Phật do] chiếu theo thời và thích ứng theo căn cơ mà khuyến khích [chúng sinh] quy hướng về Tịnh Độ. [Bởi vì] nếu giáo pháp mà theo đúng với thời và căn cơ, thì [chúng sinh sẽ] dễ tu và dễ ngộ. Nếu căn cơ, giáo pháp, và thời lúc, mà trái nhau, thì khó tu và khó nhập Đạo. Thế nên Chính Pháp Niệm Kinh có nói: “Khi hành giả nhất tâm cầu đạo thì phải luôn quán sát thời và phương tiện. Nếu không đúng thời và không có phương tiện, thì gọi là thất bại, chứ không gọi là lợi ích. Tại sao vậy? Như dùi cây ướt để lấy lửa, lửa sao có được, do không đúng thời vậy. Nếu bẻ củi khô để tìm nước, nước nào có được, do không có trí vậy.”

Do đó Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh có nói: “Năm trăm năm thứ nhất sau khi Phật diệt độ, đệ tử của ta học huệ được kiên cố. Năm trăm năm thứ hai, học định được kiên cố. Năm trăm năm thứ ba, học đa văn đọc tụng được kiên cố. Năm trăm năm thứ tư, tạo lập chùa tháp, tu phúc sám hối được kiên cố. Năm trăm năm thứ năm, bạch pháp ẩn mất, thường hay tranh cãi kiện tụng, ít có thiện pháp, [các sự thể như thế ấy] được kiên cố.”

Lại Kinh này còn nói: “Chư Phật xuất hiện nơi đời có bốn thứ pháp để độ chúng sinh: (1) Một là từ chính miệng [các Ngài] nói ra mười hai bộ kinh, tức là thí pháp để độ chúng sinh. (2) Hai là chư Phật Như Lai có vô lượng tướng hảo quang minh, tất cả chúng sinh chỉ cần chú tâm quán sát, không ai không được lợi ích, đó là thân nghiệp độ chúng sinh. (3) Ba là có vô lượng đạo lực thần thông diệu dụng công đức, đủ thứ biến hóa, tức là dùng thần thông lực mà độ chúng sinh. (4) Bốn là chư Phật Như Lai có vô lượng danh hiệu, hoặc danh chung hoặc danh riêng, bất cứ chúng sinh nào chú tâm xưng niệm, thì không ai không trừ được chướng ngại, đạt được lợi ích, và đều sinh về trước Phật, đó là dùng Danh hiệu độ chúng sinh vậy.”

Xét lại chúng sinh thời nay là đã ở vào giai đoạn năm trăm năm thứ tư sau khi Phật qua đời rồi. Đúng là lúc để sám hối, tu phúc, và phải xưng danh hiệu Phật. Nếu chỉ một niệm thôi mà xưng danh A Di Đà Phật, tức thì sẽ trừ diệt được tội lỗi sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Một niệm thôi mà đã vậy thì huống gì là luôn luôn thường tu niệm. Người ấy chính là người hằng sám hối vậy.

Lại nếu [ở vào giai đoạn] cách bậc Thánh [diệt độ] không xa, tức là [hai giai đoạn một và hai] trước, lấy tu định và tu huệ làm sở học chính yếu, và kiêm học luôn các lối tu [của hai giai đoạn] sau [làm phụ]. Còn như  đã cách xa bậc Thánh rồi, thì tu lối xưng danh thuộc giai đoạn sau đó là chính, và kiêm tu các lối [trong giai đoạn] trước [là phụ]. Cớ gì mà lại vậy? Bởi do chúng sinh cách xa bậc Thánh quá rồi, thời căn cơ nhận hiểu rất nông cạn, ám độn. Thế nên Vi Đề đại sĩ mới vì chính mình và vì thương xót cho chúng sinh trong thời mạt năm trược luân hồi bao kiếp, uổng chịu thiêu đốt đớn đau, nên mới có thể nhân cái duyên đau khổ [của mình] mà mượn dịp thưa hỏi, mở ra con đường thênh thang khoảng khoát. Bậc đại Thánh lại thương đến mà khuyên quy về Cực Lạc. Nếu muốn hướng tiến về đó, [mà sợ] khó vươn tới quả siêu việt ấy, thì duy chỉ có một môn Tịnh Độ này là có thể bằng tâm nguyện của mình mà thể nhập vào đó. Nếu lại muốn tìm tòi trong kinh điển [làm chứng], thời càng thấy các lời khuyên nhủ [vãng sinh] càng nhiều. Thế nên tôi mới gom góp các lời chân thật ấy lại, để giúp cho đường tu vãng sinh thêm được lợi ích. Tại sao lại được thêm ích? Do bởi [làm thế là] muốn khiến cho người đời trước dẫn người đời sau, người đi sau học theo người đi trước, [cứ thế] liên tục không cùng, nguyện không ngưng nghỉ, để mà cho tận cái biển sinh tử vô biên này vậy.

II. Môn Thứ Hai

Môn thứ hai là căn cứ theo các bộ kinh Đại Thừa để nói về các nguyên tắc nói và nghe [pháp.] Môn này gồm sáu phần:

1) Thứ nhất là Đại Tập Kinh nói rằng: “Phải tưởng người nói Pháp là y vương, là để cứu khổ; tưởng Pháp được nói là cam lồ, là đề hồ; tưởng người nghe pháp tăng trưởng sự tin hiểu, được khỏi bệnh. Nếu tưởng được như thế, thì kẻ thuyết người nghe đều có thể làm hưng thịnh Phật pháp và thường sinh về trước Phật.”

2)Thứ hai là Đại Trí Độ Luận nói rằng: “Người nghe Pháp chăm chú theo dõi [Pháp được nói] như khát được uống, nhất tâm nhập vào ý nghĩa của lời nói; [trong khi] nghe Pháp thời hớn hở, tâm hân hoan xúc động. Người nào như thế mới nên nói cho.”

3) Thứ ba là Luận này còn nói: “Có hai hạng người được phúc đức vô lượng vô biên. Đó là hai hạng người nào? Một là người thích nói Pháp, hai là người thích nghe Pháp. Thế nên A Nan bạch Phật rằng: “Cớ sao trí huệ và thần thông do hai ngài Xá Lợi Phật và Mục Liên đắc được lại là tối thù thắng trong hàng thánh đệ tử?” Phật bảo A Nan: “Hai người ấy trong khi còn tu nhân, hễ cứ có nhân duyên nào vì Pháp, mà [phải đi] ngàn dặm [để mà nghe, thì với họ] cũng không có gì là khó. Thế nên ngày nay [pháp mà] họ [đắc được] là tối thù thắng.””

– Thứ tư là Vô Lượng Thọ Đại Kinh có nói: “Nếu ai không gốc thiện, không được nghe Kinh này, người thanh tịnh có giới, mới được nghe chính Pháp.

– Thứ năm là: “Từng có gặp Thế Tôn, thì sẽ tin việc này; phụng sự ức Như Lai, mới thích nghe giáo ấy.”

– Thứ sáu là Vô Lượng Thanh Tịnh Giác Kinh nói rằng: “Thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe nói về pháp môn Tịnh Độ mà tâm sinh hân hoan xúc động, trên thân lông dựng đứng lên như muốn bứt ra, phải biết người ấy trong quá khứ đời trước đã từng thực hành Phật đạo. Nếu lại có người nghe khai pháp môn Tịnh Độ mà không hề sinh tín, thì phải biết người ấy mới từ tam ác đạo ra, tội ác chưa tận, do đó mà không có tín hướng vậy. Ta nói kẻ ấy chưa thể đắc giải thoát được.” Thế nên Vô Lượng Thọ Kinh mới nói:

“Kiêu mạn che, lười biếng, khó tin được Pháp này.”

III. Môn Thứ Ba

Môn thứ ba là căn cứ theo thánh giáo của Đại Thừa mà nói về việc chúng sinh phát tâm lâu mau, cúng dường nhiều đời hay ít đời chư Phật. Như Niết Bàn Kinh có nói: “Phật bảo với Ca Diếp Bồ Tát:  

1. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư Phật nhiều như số cát của sông Hi Liên, tức bằng nửa số cát sông Hằng, thì sau đó mới có thể ở trong đời ác nghe kinh điển Đại Thừa mà không sinh hủy báng.

2. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư Phật nhiều như số cát của một sông Hằng, thì sau đó mới có thể ở trong đời ác nghe Kinh mà đã không khởi hủy báng, [trái lại] còn yêu thích không cùng.

3. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư Phật nhiều như số cát của hai sông Hằng, thì sau đó mới có thể ở trong đời ác đã không báng Pháp này, [trái lại] còn hiểu đúng, tin thích, nhận giữ, đọc tụng.

4. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư Phật nhiều như số cát của ba sông Hằng, thì sau đó mới có thể ở trong đời ác đã không báng Pháp này, [trái lại] còn ghi chép các kinh quyển, tuy có nói cho người khác nghe, song vẫn chưa hiểu rõ được về thâm nghĩa.”

Tại làm sao lại phải đối chiếu so sánh như thế? Vì cốt để cho thấy rõ người ở dưới tòa nghe kinh hiện nay, là đều đã từng phát tâm cúng dường nhiều Phật rồi, và cũng để nêu rõ cho thấy oai lực của Kinh Đại Thừa là không thể nghĩ bàn vậy. Thế nên Kinh mới nói: “Nếu có chúng sinh nào được nghe Kinh điển này, thời ức trăm ngàn kiếp không đọa ác đạo. Tại sao vậy? Bởi bất cứ chỗ nào mà Kinh điển vi diệu này được lưu truyền đến, thì phải hiểu đất chỗ ấy trở thành kim cương, người ở chỗ ấy cũng như là kim cương.” Như thế đủ rõ là người nào nghe Kinh [Đại Thừa] mà sinh tin tưởng, thì đều đạt được lợi ích không thể nghĩ bàn.

IV. Môn Thứ Tư

Môn thứ tư là bàn về sự khác nhau giữa tông chỉ của các Kinh: Như nếu y theo Niết Bàn Kinh thì lấy Phật tính làm tông.  Nếu y theo Duy Ma Kinh thì lấy bất khả tư nghị giải thoát làm tông.

Nếu y theo Đại Tập Kinh thì lấy đà la ni làm tông.

Còn như y theo Quán Kinh thì lấy quán Phật tam muội làm tông. Nếu luận về đối tượng được quán sát [theo Kinh này] thì không ngoài hai báo là y báo và chính báo, như phần dưới [của Kinh] là y theo các quán mà bàn.

Còn nếu y theo Quán Phật Tam Muội Kinh thời nói rằng: “Phật bảo phụ vương: chư Phật xuất thế có ba điều ích lợi: 1) Một là miệng nói mười hai bộ kinh làm pháp thí để lợi ích, có thể trừ diệt vô minh ám chướng của chúng sinh, khai mở mắt trí huệ, được sinh về trước chư Phật để sớm được vô thượng Bồ Đề. 2) Hai là chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh, vô lượng diệu hảo, nếu có chúng sinh nào xưng niệm quán sát, hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng, bất kể là thân của Phật hiện tại hay quá khứ, thì đều trừ diệt được bốn tội trọng và năm tội nghịch của chúng sinh, vĩnh viễn quay ra khỏi tam đồ, tùy ý mình thích mà thường sinh về Tịnh Độ cho đến khi được thành Phật. 3) Ba là khuyên phụ vương thực hành Niệm Phật tam muội.

“Phụ vương bạch Phật: Nào là quả đức của Phật địa, chân như, thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, tại sao không bảo đệ tử thực hành các pháp ấy?

“Phật bảo phụ vương: Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, giải thoát, và thần thông, [quả đức ấy] không phải là cảnh giới thực hành của phàm phu, thế nên mới khuyên phụ vương thực hành Niệm Phật tam muội.

“Phụ vương bạch Phật: Công năng niệm Phật trạng thái thế nào? “Phật bảo phụ vương: Như rừng cây y lan vuông vức bốn mươi do tuần, có một hạt ngưu đầu chiên đàn tuy đã có rễ có mầm, song chưa lú ra khỏi đất, nên rừng y lan kia chỉ hôi thối chứ không thơm. Nếu có ai ăn hoa quả của rừng ấy thời phát cuồng mà chết. Sau dần, mầm rễ của chiên đàn bắt đầu phát triển, sắp sửa thành cây, mùi thơm nồng tỏa, mới biến đổi khu rừng ấy trở thành hoàn toàn thơm tho. Chúng sinh ai thấy đều cho thật là hiếm có. “Phật bảo phụ vương: Tâm niệm Phật của tất cả chúng sinh ở trong sinh tử cùng y như vậy, nếu có thể gom hết tâm niệm [quán tưởng đến Phật] không ngừng, chắc chắn sẽ sinh về đến trước Phật. Một phen vãng sinh ắt sẽ biến đổi tất cả mọi điều ác thành đại từ bi, như cây thơm kia làm thay đổi trọn cả khu rừng y lan. Nói rừng y lan đó là dụ cho ba độc, ba chướng, vô biên trọng tội trong tâm chúng sinh. Còn nói chiên đàn là dụ cho tâm niệm Phật của chúng sinh. Sắp sửa thành cây là nói cho tất cả chúng sinh chỉ cần chất chứa niệm không đứt đoạn là nghiệp đạo thành mãn vậy.”

Hỏi: Nếu kể hết công năng niệm Phật của tất cả chúng sinh [hợp lại] thì cũng có thể chấp nhận được tất cả [mọi sự việc như Kinh vừa nói trên.] Song làm sao mà lực của chỉ một niệm lại có thể đoạn trừ hết tất cả mọi chướng, như một cây thơm mà chuyển hết cả một khu rừng y lan bốn mươi do tuần trở thành thơm tho được?

Đáp: [Nay xin] y theo các Kinh bộ Đại Thừa để mà nêu lên cho thấy rõ công năng của Niệm Phật tam muội không thể nghĩ bàn đến thế nào. Như Hoa Nghiêm Kinh có nói: “Ví như có người dùng gân sư tử để mà làm dây đàn, thì khi tấu lên, tất cả các dây đàn khác sẽ bị đứt hết. Nếu người nào hành Niệm Phật tam muội bằng tâm Bồ Đề, thì tất cả các phiền não, tất cả các chướng ngại, đều đoạn diệt hết. Cũng như có người lấy hết tất cả các loại sữa bò, dê, lừa, ngựa, trộn lại để trong bát, nếu cho một giọt sữa sư tử vào đó, thời [giọt sữa sư tử] sẽ xuyên qua [các loại sữa trộn chung kia] không chút khó khăn, và tất cả các loại sữa kia đều sẽ tan ra mà trở thành nước loãng. Nếu ai chỉ cần bằng Bồ Đề Tâm thực hành Niệm Phật tam muội, thời sẽ xuyên thấu qua tất cả các ác ma, chư chướng, không chút khó khăn.”

Lại, Kinh ấy nói: “Ví như có người dùng thuốc ẩn thân đi lại chỗ này chỗ kia, thời tất cả các người khác đều không thấy được. Nếu ai có thể bằng Bồ Đề Tâm mà thực hành Niệm Phật tam muội, thời tất cả ác thần, tất cả các chướng, đều không thấy được người ấy, người ấy đến bất cứ đâu cũng không có gì ngăn ngại được. Cớ sao được vậy? Do Niệm Phật tam muội này chính là vua của tất cả các tam muội vậy.”

V. Môn Thứ Bảy

Môn thứ bảy là nói qua về ý nghĩa của ba Thân và ba Độ.

1. Hỏi: Phật A Di Đà hiện giờ đây là thuộc về Thân nào [trong ba Thân] vậy? Và Nước Cực Lạc kia là Độ nào [trong ba Độ]?

Đáp: Phật Di Đà hiện giờ là Báo Phật, và nước Cực Lạc trang nghiêm chân thật kia là Báo Độ. Nhưng người xưa nay vẫn truyền nói rằng A Di Đà Phật là hóa thân, và Độ cũng là Hóa Độ. Nói như thế là sai lầm lớn. Bởi nếu mà đúng thế, thì uế độ cũng là nơi Hóa Thân ở, mà Tịnh Độ cũng là nơi Hóa Thân ở, vậy không rõ Báo Thân Như Lai phải y vào Độ nào đây?

Nay xin y theo Đại Thừa Đồng Tính Kinh mà bàn định về các vấn đề Báo và Hóa, tịnh và uế vậy. Kinh này nói: “Thân thành Phật trong Tịnh Độ ắt phải là Báo Thân, và Thân thành Phật trong uế độ ắt phải là Hóa Thân.” Kinh này lại nói: “1) Các bậc Như Lai như A Di Đà Như Lai, Liên Hoa Khai Phu Tinh Vương Như Lai, Long Chủ Vương Như Lai, Bảo Đức Như Lai v.v… là các bậc hiện tại đắc đạo và sẽ đắc đạo ở trong các cõi Phật thanh tịnh. Tất cả các ngài ấy đều là Báo Thân Phật vậy. 2) Còn thế nào là Hóa Thân Như Lai? Như hiện giờ đây tất cả các bậc Như Lai như Dũng Bộ Kiện Như Lai, Ma Khủng Bố Như Lai v.v…hiện đang thành Phật và sẽ thành Phật trong đời uế trược, từ trời Đâu Suất xuống, cho đến trụ trì qua suốt mọi giai đoạn chính Pháp, mọi giai đoạn tượng Pháp, mọi giai đoạn mạt Pháp, các hóa sự ấy đều thuộc về Hóa Thân Phật vậy. 3) Còn thế nào là Như Lai Pháp Thân? Chân Pháp Thân của Như Lai không sắc, không hình, không hiện, không dính, không thể thấy được, không thuộc ngôn thuyết, không ở chỗ nào hết, không sinh không diệt. Đó là ý nghĩa của chân Pháp Thân vậy.”

2. Hỏi: Báo Thân của Như Lai vốn thường trụ, vậy tại sao Quán Âm Bồ Tát Thọ Ký Kinh lại nói rằng: “Sau khi A Di Đà Phật nhập niết bàn rồi, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ kế tiếp bổ khuyết vào chỗ Phật.”?

Đáp: Đó chỉ là tướng ẩn chìm đi do Báo Thân thị hiện ra vậy mà thôi, không hề phải là diệt độ [thật] vậy. Như chính Kinh này có nói: “Sau khi A Di Đà Phật nhập niết bàn rồi, sẽ có các chúng sinh gốc thiện thâm sâu vẫn thấy Phật y như xưa.” Thì đó chính là chứng cớ vậy. Lại Bảo Tính Luận có nói: “Báo Thân có năm thứ tướng: (1) nói Pháp và (2) thấy được; (3) các nghiệp không ngừng nghỉ; cùng (4) ngừng nghỉ, (5) ẩn mất; thị hiện không thật thể.” Tức cũng là một bằng chứng nữa vậy.

3. Hỏi: Vậy còn Thích Ca Như Lai, Báo Thân và Báo Độ của Ngài là ở đâu?

Đáp: Niết Bàn Kinh có nói: “Qua khỏi số cõi Phật nhiều bằng bốn mươi hai lần số cát sông Hằng, có thế giới tên gọi là Vô Thắng. Các sự trang nghiêm ở nơi cõi ấy cũng y như Cực Lạc thế giới ở phương tây không hề sai khác. Ta từ nơi cõi ấy mà xuất hiện ra trong đời này, vì để hóa độ chúng sinh mà đến nơi quốc độ Sa Bà này, chứ không phải là ta xuất thân ở nơi cõi này. Tất cả chư Như Lai trường hợp cũng y như vậy.” Tức là bằng chứng vậy.

4. Hỏi: Cổ Âm Kinh có nói là “Phật A Di Đà có cha mẹ.” Như thế đủ rõ là không phải là Báo Phật và Báo Độ vậy?

Đáp: Ông chỉ nghe theo danh từ, chứ không chịu xét kỹ lấy ý chỉ của Kinh, nên mới đến nỗi nghi như thế. Đúng là sai một hào ly lạc cả ngàn dặm. Bởi A Di Đà Phật thì cũng có đủ cả ba Thân. Thân xuất hiện nơi Cực Lạc tức là Báo Thân. Nay mà nói là có cha mẹ, thì đó là thị hiện Hóa Thân có cha mẹ trong uế độ vậy. Như cũng một Thích Ca Phật thôi, mà khi ở Tịnh Độ thì Ngài là Báo Phật, khi ứng thân cõi này thì thị hiện có mẹ cha, thì Ngài là Hóa Phật. Phật A Di Đà cũng thế, khi có mẹ cha là Ngài thị hiện ở uế độ. Lại như Cổ Âm Kinh có nói: “Bấy giờ, A Di Đà Phật cùng chúng Thanh Văn [ở nơi cõi] nước hiệu Thanh Thái, nơi Thánh Vương trụ. Thành ấy dọc ngang mười ngàn do tuần. Cha của A Di Đà Phật là Chuyển luân thánh vương, tên vua là Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, Ma vương tên Vô Thắng, con Phật tên Nguyệt Minh, Đề Bà Đạt Đa tên Tịnh Ý, đệ tử thị giả tên Vô Cấu Xưng.” Thì những gì trích dẫn ở đây đều là các tướng của Hóa Thân, chứ nếu đã là Tịnh Độ, [tức Báo Độ,] thì làm gì có thành quách, luân vương, và nữ nhân như thế. Các điều này văn nghĩa rất rõ ràng, có đâu cần phải phân biệt gì nữa, chẳng qua đều do không khéo xét suy, đến nỗi thành mê nơi danh tự mà thành chấp trước vậy.

5. Hỏi: Nếu Báo Thân mà vẫn có các tướng ẩn chìm, ngưng nghỉ như thế, thì Tịnh Độ phải chăng cũng có chuyện thành hoại hay sao?

Đáp: Câu vấn nạn ấy, từ xưa đến nay vẫn khó mà đả thông cho được ý nghĩa của nó. Tuy thế, giờ đây tôi dám xin trích dẫn Kinh ra làm chứng, thì nghĩa ấy cũng có thể thấy rõ được. Ví như thân Phật vốn thường trụ, mà chúng sinh thấy có Niết Bàn, thì Tịnh Độ cũng vậy, thể [của Tịnh Độ] vốn không phải là thành hoại, song tùy theo chúng sinh thấy mà có thành có hoại. Như Hoa Nghiêm Kinh có nói: “Y như thấy Đạo Sư vô lượng đủ hình sắc; tùy tâm hành chúng sinh, thấy cõi Phật cũng vậy.” Thế nên Tịnh Độ Luận mới nói: “Do một chất cũng không phải, nên có tịnh đầy uế vơi. Khác chất cũng chẳng phải, nên xét tột nguồn thời rõ là một. Không chất cũng chẳng phải, nên theo duyên khởi lên ắt thành vạn hình.” Mới rõ nếu căn cứ theo pháp tính Tịnh Độ thời chẳng luận sạch dơ, còn nếu căn cứ theo Báo Hóa đại bi thì không phải là không có tịnh uế vậy.

Lại nói tổng quát về Phật Độ thôi, thì đối với căn cơ [của chúng sinh khác nhau mà chiêu] cảm [thành các Độ] khác nhau, [tổng quát] có ba loại Độ khác nhau như sau:

1) Từ Chân [độ] mà bày ra Báo [độ], thì gọi là Báo Độ, y như ánh sáng mặt trời chiếu khắp bốn phương. Pháp Thân như mặt trời, Báo Hóa như ánh sáng [của mặt trời].

2) Hai là [đang] không có mà chợt [thành] có, thì gọi là Hóa [độ], tức như trong Tứ Phần Luật có nói: “Định Quang Như Lai hóa ra thành Đề Bà và thành Bạt Đề gần bên nhau, cùng nhau qua lại thân giao. Sau đó bỗng lại hóa lửa thiêu rụi, khiến các chúng sinh thấy rõ vô thường, nên ai cũng đâm chán ngán mà quy hướng về Phật đạo.” Nên trong Kinh có nói: “Hoặc hiện kiếp lửa thiêu, trời đất đều rỗng sạch, chúng sinh nào tưởng thường, chiếu cho rõ vô thường. Hoặc để tế bần khổ, hiện kho tàng vô tận, tùy duyên khắp khai Đạo, khiến phát tâm Bồ Đề.”

3) Ba là ẩn uế đi mà hiển rõ ra Tịnh như Duy Ma Kinh có nói Phật ấn ngón chân xuống đất, thời trọn cõi ba ngàn này không đâu không nghiêm tịnh. Tóm lại Vô Lượng Thọ quốc tức là Báo Độ mà từ Chân [độ] hiện bày ra vậy. Như Quán Âm Thọ Ký Kinh có nói: “Trong vị lai khi Quán Âm thành Phật sẽ thế vào chỗ của Phật A Di Đà.” Theo đó đủ rõ đó là Báo Độ vậy [bởi Quán Âm là chân pháp thân Đại Sĩ hiện ra thành Phật tức Báo Thân vậy.]

VI. Môn Thứ Tám

Môn thứ tám là nói về việc Di Đà Phật Quốc bao gồm mọi căn tính trên dưới, phàm thánh đều cùng vãng sinh. Nay tuy Vô Lượng Thọ Quốc là Báo Tịnh Độ, song do nguyện lực của Phật nên bao gồm cả các căn cao và thấp, đến mức hàng phàm phu làm thiện thôi cũng đều được vãng sinh. Mà do gồm cả căn cơ cao, thế nên Thiên Thân, Long Thụ, cùng các hàng địa thượng Bồ Tát cũng đều vãng sinh. Thế nên Đại Kinh có nói: “Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật: Chưa rõ ở cõi này có bao nhiêu Bồ Tát bất thối được sinh về nước kia? Phật bảo: Ở thế giới Sa Bà này có sáu mươí bảy ức Bồ Tát bất thối đều sẽ vãng sinh [về nước kia.]” Ngoài ra các phương khác số Bồ Tát vãng sinh cũng bằng như vậy.

Hỏi: Di Đà Tịnh quốc đã nói là địa vị bao gồm luôn cả trên và dưới, bất kể phàm hay thánh đều cùng được vãng sinh. Song chưa rõ là chỉ duy tu vô tướng mới được vãng sinh, hay ngay cả phàm phu hữu tướng cũng được vãng sinh?

Đáp: Phàm phu trí cạn nên phần nhiều phải y theo tướng mà cầu sinh, thì chắc chắn cũng được vãng sinh. Song do thiện mà y theo tướng thì lực vốn nhỏ ít [so với lực thiện dựa trên vô tướng], nên chỉ sinh vào Tướng Độ, tức chỉ thấy Báo Hóa Phật mà thôi. Thế nên Bồ Tát Bổn Hành Phẩm trong Quán Phật Tam Muội Kinh có nói: “Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Phải biết là con nhớ đến vô lượng số kiếp trong quá khứ, khi còn là phàm phu, thuở ấy có Phật hiệu Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai. Khi Phật ấy xuất hiện không khác gì với hiện giờ, Phật ấy cũng cao trượng sáu, thân mầu vàng kim, nói Pháp ba thừa, như Thích Ca Văn. Thời ấy nước nọ có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Trưởng giả có người con tên là Giới Hộ. Khi con còn trong thai mẹ, mẹ do kính tin [Tam Bảo] nên đã thọ tam quy y trước cho con mình. Con sinh ra đến năm tám tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường. Đứa bé thấy Phật, khi làm lễ Phật, tâm hết sức kính Phật, mắt nhìn không rời. Do một phen thấy Phật như thế mà giảm bớt trăm vạn ức na do tha kiếp tội sinh tử. Từ đó trở đi thường sinh về Tịnh Độ, nên được gặp chư Phật nhiều bằng trăm ức na do tha lần số cát sông Hằng. Các Thế Tôn này cũng dùng tướng đẹp độ thoát chúng sinh. Đứa bé thuở ấy thân cận hầu hạ từng vị Phật một không hề bỏ lỡ, lễ bái, cúng dường, chắp tay ngắm Phật. Do lực nhân duyên nên lại được gặp trăm vạn lần vô số chư Phật. Các chư Phật này cũng dùng sắc thân tướng đẹp hóa độ chúng sinh. Từ đó trở đi liền đắc được trăm ngàn ức môn Niệm Phật tam muội, lại đắc được vô số môn đà la ni. Đắc được các pháp như thế rồi, chư Phật mới hiện ra trước mặt mà thuyết Pháp vô tướng cho nghe. Trong khoảng chốc lát liền đắc được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Đứa bé khi ấy chỉ do có thọ tam quy, một phen lạy Phật, mê ngắm thân Phật, tâm không mỏi mệt, mà do nhân duyên ấy gặp vô số Phật, thì huống gì là gom hết tâm niệm, suy xét trọn vẹn, quán sắc thân Phật. Đứa bé thuở ấy nào phải ai khác, chính là thân con vậy. 

“Khi ấy Thế Tôn ca ngợi Văn Thù rằng: Hay thay, hay thay! Ông do một lần lễ Phật mà được gặp vô số chư Phật, huống gì các đệ tử trong vị lai của ta chăm chỉ quán Phật, chăm chỉ niệm Phật.  “Phật bảo A Nan: Ông ghi nhớ lấy lời của Văn Thù mà tuyên cáo khắp hết cho đại chúng và chúng sinh đời vị lai, nếu có ai lạy Phật, nếu có ai niệm Phật, nếu có ai quán Phật, phải biết là các người ấy bằng ngang với Văn Thù Sư Lợi không chút sai khác. Khi xả thân sinh đời khác, các Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi sẽ làm hòa thượng của họ.” Theo đoạn Kinh này làm chứng, thời thấy rõ Tịnh Độ gồm luôn cả việc vãng sinh thuộc Tướng Độ [của phàm phu hữu tướng,] điều này không còn nghi gì nữa.

Còn nếu biết vô tướng tuy lìa khỏi niệm làm thể [của sự tu hành,] song vẫn ở trong duyên mà cầu sinh, thì phần nhiều phải là hàng thượng phẩm sinh. Thế nên Luận của Thiên Thân Bồ Tát có nói: “Nếu quán được hai mươi chín thứ trang nghiêm thanh tịnh, tức tóm lược lại nhập vào một câu Pháp. Một câu Pháp này là câu Thanh Tịnh. Một câu Thanh Tịnh này chính là trí huệ vô vi Pháp Thân vậy.” Tại sao lại cần phải quán rộng và quán lược nhập vào nhau như vậy? Chỉ vì chư Phật và Bồ Tát có đến hai loại Pháp Thân: Một là pháp tính Pháp Thân, hai là phương tiện Pháp Thân. Do từ pháp tính Pháp Thân mà sinh ra phương tiện Pháp Thân, lại từ phương tiện Pháp Thân mà hiển ra pháp tính Pháp Thân. Hai loại Pháp Thân này khác nhau mà không phân hai được, là một mà vẫn không đồng nhất. Hai mươi chín thứ trang nghiêm thanh tịnh, tức hữu tướng, là nói rộng, tóm gom lại thành một Pháp duy nhất, là Pháp thanh tịnh, tức là Pháp Thân vô vi thuộc trí huệ vậy. Vô vi Pháp Thân này tức pháp tính Thân, do pháp tính tịch diệt nên tức là Pháp Thân vô tướng vậy. Do Pháp Thân vô tướng nên không gì lại không phải là tướng, thế nên tướng hảo trang nghiêm tức là Pháp Thân vậy. Cũng như do Pháp Thân vô tri nên không gì không biết, thế nên Trí biết tất cả tức là chân thật Trí huệ vậy. Do đó nói rộng [tức hữu tướng] nhập vào nói lược [tức vô tướng], như thế gọi là “quảng lược tương nhập”, [nghĩa là rộng và lược hòa nhập vào nhau.] Tuy biết rằng theo duyên mà quán thì có tổng quán và biệt quán [khác nhau], song cả hai không thứ nào không phải là thật tướng. Do biết được thật tướng, nên biết được tướng hư vọng của chúng sinh ba cõi. Do biết tướng hư vọng của chúng sinh ba cõi nên khởi lên chân thực từ bi. Do biết được chân thực từ bi, nên khởi lên được chân thực quy y vậy.

Hành giả ngày nay bất kể là tăng hay tục chỉ cần biết được sinh và vô sinh không hề mâu thuẫn với hai Đế, thì phần đông đều sinh vào hàng thượng phẩm.

VII. Môn Thứ Chín

Môn thứ chín là nói về việc Di Đà Tịnh Độ thuộc về hay không thuộc về ba cõi luân hồi.

Hỏi: An Lạc quốc độ ở trong ba cõi là thuộc về cõi nào?

Đáp: Tịnh Độ vi diệu siêu việt, thể tính vượt ra khỏi thế gian. Trong khi ba cõi thật chỉ là căn nhà tối ám của phàm phu sinh tử. Tuy [thế gian này] cũng có sướng khổ khác nhau đôi chút, cũng có [tuổi thọ] dài ngắn chẳng đồng, song tổng quát lại mà xét, thì không cái gì [của thế gian này mà lại] không phải là bến về của hữu lậu. [Các pháp thế gian] nương tựa cậy nhờ vào nhau mà tuần hoàn vô cùng tận. Sinh ra hỗn tạp chung đụng cảm thọ, là cả một dòng điên đảo bốn thứ chạy dài, từ nhân đến quả đều giả dối huân tạp lẫn nhau. Thật là đáng chán ngán hết sức vậy! Thế nên Tịnh Độ không hề thuộc về ba cõi.

Lại y theo Trí Độ Luận có nói: “Do quả báo Tịnh Độ không có dục, nên không phải là cõi Dục. Do sống trên mặt đất nên không phải là cõi Sắc. Do có hình tướng nên không phải cõi Vô Sắc.” Tuy nói là sống trên mặt đất, song [mặt đất đây] rất là tinh vi siêu thắng, vi diệu không cùng. Thế nên Thiên Thân Luận có nói: “Quán tướng thế giới ấy, hơn hẳn đường ba cõi, cùng tột như hư không, rộng lớn không bờ bến.” Cũng thế nên bài tán Đại Kinh ca ngợi như sau: “Diệu Độ rộng lớn ngoài số hạn; bảy báu tự nhiên kết hợp thành; Phật bổn nguyện lực khởi trang nghiêm; khể thủ thanh tịnh đại nhiếp thọ. Thế giới sáng rực đẹp tuyệt diệu; thích thú lạc an không bốn thời; tự lợi lợi tha lực viên mãn; quy mệnh phương tiện xảo trang nghiêm.”

 

Đại môn thứ hai

Trong đại môn thứ hai này có đến ba phen cân nhắc phán định:

I. Nói về phát Bồ Đề Tâm.
II. Phá dị kiến tà chấp.
III. Cho mặc tình hỏi đáp, giải thích dẹp nghi tình.

I. Phát Bồ Đề Tâm

Trong phần phát Bồ Đề tâm  này lại có bốn phen phân loại:

1. Nói lên công dụng của Bồ Đề Tâm.
2. Nói lên danh và thể của Bồ Đề Tâm.
3. Nêu rõ việc phát tâm có khác với các giáo khác.
4. Hỏi đáp giải thích.

1. Công dụng của Bồ Đề Tâm

Thứ nhất là đưa ra công dụng của Bồ Đề tâm: Đại Kinh có nói: “Hễ muốn vãng sinh Tịnh Độ thì cần phải phát tâm Bồ Đề làm đầu nguồn.”

Thế nào là tâm Bồ Đề này? Đó chính là tên gọi của Phật Đạo vô thượng. Nếu muốn phát tâm làm Phật, [thì phải biết là:] (1) tâm này rộng lớn bao trùm pháp giới, (2) tâm này cứu cánh bằng như hư không, (3) tâm này dài lâu tận cùng vị lai, (4) tâm này có đủ sẵn hết [mọi công đức] lìa hai thừa chướng. Nếu mà một phen phát được tâm này, sẽ làm đảo lộn dòng sinh tử “hữu”. Công đức có được mà hồi hướng Bồ Đề, thì đều đến được quả Phật dù là lâu sau này, chứ không hề bao giờ lại bị diệt mất đi.

2. Tên và thể của Bồ Đề Tâm

Thứ hai là đưa ra danh và thể của Bồ Đề. Bồ Đề có ba loại [theo ba tên như sau:] (1) Pháp Thân Bồ Đề, (2) Báo Thân Bồ Đề, và (3) Hóa Thân Bồ Đề.

[Thể của] Pháp Thân Bồ Đề là chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa Không. [Chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa Không này] vốn là tự tính thanh tịnh [của tất cả các pháp], [là bản] thể [vốn] không có uế nhiễm [của tất cả các pháp], [là nguyên] lý xuất phát tự thiên nhiên như thế, không cần phải mượn vào tu hành để mà tạo thành. Gọi chung lại là Pháp Thân, [Pháp Thân này] là bổn thể của Phật Đạo nên gọi là Bồ Đề.

[Thể của] Báo Thân Bồ Đề là [do] tu đầy đủ hết vạn hành mà cảm được quả Báo Phật. Do quả ấy báo đáp lại với nhân nên gọi là Báo Thân, [Báo Thân này] viên thông vô ngại nên gọi là Bồ Đề.

[Thể của] Hóa Thân Bồ Đề là từ Báo Thân khởi lên tác dụng hướng đến ngàn vạn căn cơ [để đáp ứng mà thực hành hóa độ] gọi là Hóa Thân, [Hóa Thân này] viên thông khắp nơi lợi ích vạn vật nên gọi là Bồ Đề.

3. Phát tâm có khác

Thứ ba là hiển rõ ra việc phát tâm có khác nhau: Nghĩa là việc tu nhân phát tâm [Bồ Đề] của hành giả hiện đây có đủ ba loại nhân như sau: (1) Cần phải thấu rõ có và không có từ xưa đến nay tự tính [vốn] thanh tịnh. (2) Theo duyên mà tu vạn hành, như tám vạn bốn ngàn môn Ba la mật v.v… (3) Căn bổn là đại Từ Bi, luôn nghĩ cách cứu độ [chúng sinh] là tâm nguyện. Ba nhân này tương ưng với đại Bồ Đề, nên được gọi là phát Bồ Đề Tâm.

Lại căn cứ theo Tịnh Độ Luận có nói: “Nay nói phát Bồ Đề Tâm tức chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật tức là tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh tức là tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh vào quốc độ có Phật.” Nay đã nguyện sinh Tịnh Độ thì trước hết phải phát Bồ Đề Tâm vậy.

4. Hỏi đáp giải thích

Thứ tư là hỏi đáp và giải thích.

Hỏi: Nếu tu đủ vạn hành cảm được Bồ Đề đắc thành Phật, tại sao Chư Pháp Vô Hành Kinh lại nói rằng: “Nếu ai cầu Bồ Đề, tức không có Bồ Đề, người ấy xa Bồ Đề, y như trời với đất!”? Đáp: Chính thể của Bồ Đề theo lý mà cầu, thì vốn là vô tướng, nay theo tướng cầu nên không đúng lý thật, nên mới gọi người ấy là xa vời. Nên Kinh có nói: “Bồ Đề ấy không thể dùng tâm mà đắc, cũng không thể dùng thân mà đắc.” Nay ở đây có nghĩa là hành giả tuy biết tu hành cầu vãng sinh, rành rành biết rõ [trên phương diện] lý thể vốn không có cầu, song vẫn không hoại “giả danh” [mà cầu], thế nên tu đủ vạn hành, nhờ vậy mà cảm được Bồ Đề.

Thế nên Đại Trí Độ Luận mới nói: “Nếu ai thấy Bát nhã, người ấy bị trói cột, ai không thấy Bát nhã cũng vẫn bị trói cột. Nếu ai thấy Bát nhã thì ấy là giải thoát, ai không thấy Bát nhã cũng là giải thoát thôi.” Long Thụ Bồ Tát giải thích như sau: “Trong nghĩa ấy, nếu ai không lìa khỏi bốn câu thời người ấy bị trói cột, còn ai lìa khỏi bốn câu thì người ấy được cởi thoát.” Nay cầu Bồ Đề chỉ cần tu hành như thế, tức là không hành mà hành, hành mà không hành, không mâu thuẫn với đại đạo lý của hai Đế vậy.

Lại y theo Thiên Thân Tịnh Độ Luận có nói: “Hễ ai muốn phát tâm thấu tỏ vô thượng Bồ Đề thời sẽ có hai nghĩa: (1) Trước hết cần phải lìa ba loại pháp mâu thuẫn với cửa Bồ Đề, (2) hai là phải biết ba loại pháp thuận với cửa Bồ Đề.

“Thế nào là ba? (1) Một là y theo cửa Trí Huệ, tức không cầu sướng cho riêng mình, bởi [Trí Huệ này] lìa xa tâm [chấp] ngã, tham đắm vào chính thân mình. (2) Hai là y vào cửa Từ Bi, tức nhổ hết tất cả các khổ cho chúng sinh, do [Từ Bi này] lìa xa tâm không làm cho chúng sinh được an lạc. (3) Ba là y theo cửa Phương Tiện, tức là tâm thương xót tất cả chúng sinh, do bởi [Phương Tiện này] lìa xa tâm [ham thích] cúng dường cung kính cho bản thân mình vậy. Như thế gọi là lìa xa ba loại pháp mâu thuẫn với cửa Bồ Đề.

“Còn thuận theo cửa Bồ Đề là Bồ Tát lìa xa ba loại pháp mâu thuẫn với cửa Bồ Đề như thế rồi, thời sẽ đắc được ba loại pháp tùy thuận với cửa Bồ Đề. Thế nào là ba? 

“(1) Một là tâm thanh tịnh vô nhiễm, do vì [tâm y theo cửa Trí Huệ nên] không cầu các sướng cho chính thân mình nữa.” Bồ Đề là chỗ thanh tịnh vô nhiễm, nếu cầu sướng cho bản thân mình tức đi ngược lại với cửa Bồ Đề, thế nên tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận theo cửa Bồ Đề. 

“(2) Hai là tâm thanh tịnh an, do vì [tâm y theo cửa Từ Bi nên] muốn nhổ hết tất cả khổ đau cho chúng sinh vậy.” Bồ Đề là chỗ thanh tịnh làm cho tất cả chúng sinh đều được an ổn, nếu không phát tâm kéo hết tất cả chúng sinh lìa khỏi sinh tử khổ, thì sẽ đi ngược lại với Bồ Đề, thế nên nhổ hết các khổ cho tất cả chúng sinh là thuận với cửa Bồ Đề. 

“(3) Ba là tâm thanh tịnh lạc, do vì [tâm y theo cửa Phương Tiện nên] muốn khiến cho tất cả chúng sinh đắc đại Bồ Đề, muốn nhiếp trọn chúng sinh cho sinh về cõi nước kia vậy.” Bồ Đề là chỗ cứu cánh thường an lạc, nếu không làm cho tất cả chúng sinh được cứu cánh thường an lạc ắt sẽ đi ngược lại với cửa Bồ Đề. Cái an lạc cứu cánh thường hằng này y theo đâu mà đắc được? Phải y theo cửa đại nghĩa. Cửa đại nghĩa này chính là cõi Phật An Lạc kia vậy. Thế nên khiến nhất tâm chuyên nhất nguyện sinh cõi nước kia là muốn cho mau chứng vô thượng Bồ Đề vậy.”

II. Phá dị kiến tà chấp

Thứ hai là nói về việc phá các dị kiến tà chấp. Trong phần này có đến chín phen phân phán biện định:

1. Thứ nhất là phá dị kiến thiên chấp vào vô tướng trong Đại Thừa.

2. Thứ hai là giải tỏa các nghi vấn về ái kiến đại bi của Bồ Tát.

3. Thứ ba là phá chuyên tâm quán rằng ngoài tâm không có pháp.

4. Thứ bốn là phá nguyện sinh uế quốc không nguyện vãng sinh Tịnh Quốc.

5. Thứ năm là phá quan điểm cho rằng nếu sinh về Tịnh Độ phần nhiều sẽ ham đắm vào hưởng lạc.

6. Thứ sáu là phá quan điểm cho rằng cầu sinh về Tịnh Độ là tiểu thừa.

7. Thứ bảy là phá quan điểm cầu sinh Đâu Suất chứ không khuyến khích sinh Tịnh Độ.

8. Thứ tám là giải tỏa khúc mắc nếu cầu sinh về mười phương Tịnh Độ không bằng sinh về tây phương Tịnh Độ.

9. Thứ chín là phán xét về ý nghĩa “vào một lúc khác” [tức “biệt thời ý”.]

1. Phá vọng chấp về vô tướng trong Đại Thừa

Thứ nhất là phá vọng chấp về vô tướng trong [giáo lý của] Đại Thừa. Tựu trung gồm hai phần: (1) Đưa ra vấn đề một cách tổng quát: muốn khiến cho kẻ học đời sau thấu rõ được phải trái, bỏ tà hướng chính. (2) Chiếu theo mọi chỗ tình chấp rồi hiển chỗ chính ra để mà phá đi tình chấp.

– Thứ nhất là vấn đề tổng quát: Trong tạng Đại Thừa thâm sâu, danh nghĩa nhiều như cát bụi, thế nên Niết Bàn Kinh có nói: “Một danh có vô lượng nghĩa, một nghĩa có vô lượng danh.” Do đó cần phải cứu xét hết mọi kinh điển thì mới sáng tỏ được ý chỉ của các kinh, không phải như kinh sách của tiểu thừa cứ chiếu theo văn là thấu nghĩa. Với ý gì mà nói như vậy? Do bởi Tịnh Độ thẳm sâu, Kinh Luận thì ẩn hiển, đến nỗi phàm tình đủ thứ lượng độ, e sẽ lạc theo lời lẽ dối gạt mà thành trăm thứ mù mịt chấp lệch, rối loạn không tỏ, làm chướng ngại vãng sinh. Nay chỉ nêu ra vài trường hợp để theo đó mà phá.

– Thứ hai phá tình chấp, thì trước hết là phá vọng chấp về vô tướng trong Đại Thừa:

Hỏi: Như có người cho rằng nghĩa vô tướng của Đại Thừa là đừng niệm đây kia. Nếu nguyện sinh Tịnh Độ thời chính là giữ lấy tướng, càng làm tăng thêm sự trói buộc thuộc hữu lậu, thì cầu sinh mà làm chi?

Đáp: Quan niệm như thế, xin nói là không được chuẩn lắm. Vì sao?  Tất cả chư Phật khi nói về pháp yếu đều có đủ hai duyên: (1) một là y thật lý thuộc Pháp tính, (2) hai là phải thuận theo hai Đế. Người kia chấp vào vô niệm của Đại Thừa, chỉ y theo Pháp tính, song lại bài báng sự cầu sinh vốn thuộc về nhân duyên, thì như thế tức là không thuận theo hai Đế. Người thấy như thế là đọa vào hạng diệt không. Thế nên Vô Thượng Y Kinh mới nói: “Tất cả chúng sinh mà khởi ngã kiến như núi Tu Di ta cũng không sợ. Tại sao vậy? Vì các người ấy tuy chưa được xuất ra [khỏi luân hồi] ngay, song họ luôn không hoại nhân quả, không mất quả báo. Còn như khởi lên cái thấy Không dù chừng như hạt cải, ta không bao giờ chịu chấp nhận. Tại sao vậy? Cái thấy ấy phá mất [đi lý] nhân quả, phần nhiều là đọa ác đạo, vị lai sinh ra nơi đâu cũng đều chối bỏ không chịu ta hóa độ.” Nay xin khuyên các hành giả, lý tuy là vô sinh, song theo đạo lý của hai Đế thì không phải là không có cầu [sinh] theo nguyên tắc nhân duyên… tất cả đều được vãng sinh vậy (câu này dường như lạc lõng, chắc do văn bị sót mất mà ra.) Thế nên Duy Ma Kinh có nói: “Tuy quán chư Phật Quốc, cùng chúng sinh đều Không, song thường tu Tịnh Độ, giáo hóa các quần sinh.” Kinh ấy còn nói: “Tuy thực hành vô tác song vẫn thị hiện thọ thân, đó là sự thực hành của Bồ Tát. Tuy thực hành vô khởi song vẫn khởi lên tất cả các sự thực hành thiện, đó là sự thực hành của Bồ Tát vậy.” Đó là những chứng cớ rõ ràng nhất.

Hỏi: Nay trong thế gian có người thực hành lý vô tướng của Đại Thừa, họ cũng chẳng giữ đây kia, hoàn toàn không giữ gìn giới tướng. Sự việc ấy như thế nào?

Đáp: Quan niệm như thế, thật là hết sức tai hại! Tại sao vậy? Như Đại Phương Kinh có nói: “Phật đặt ra giới cho Ưu Bà Tắc không cho phép đến nhà quả phụ, gái tơ, hàng quán rượu, hàng thợ nhuộm, hàng ép dầu, hàng thuộc da, mọi hàng quán ấy đều không được lai vãng. 

“A Nan bạch Phật rằng: Thế Tôn vì những người loại nào mà đặt ra các giới như vậy? 

“Phật bảo A Nan: Hành giả có hai loại. Một là thực hành ngay tại thế gian, hai là thực hành ra khỏi thế gian. Đối với người thực hành ra khỏi thế gian, ta không đặt các giới ấy cho họ làm chi. Song với người thực hành tại thế gian, thời nay ta mới đặt ra. Tại sao vậy? Tất cả chúng sinh đều là con của ta, Phật là cha mẹ của tất cả chúng sinh. Ngăn chặn câu thúc là để cho họ sớm ra khỏi thế gian mà đắc được Niết bàn vậy.”

2. Giải tỏa vấn đề ái kiến đại bi của Bồ Tát

Thứ hai là giải tỏa nghi vấn về ái kiến Đại Bi của Bồ Tát:

Hỏi: Theo như thánh giáo của Đại Thừa, Bồ Tát đối với chúng sinh nếu lại khởi lên đại bi thuộc về ái kiến, thì phải tức thời xả bỏ ngay. Nay khuyên chúng sinh cầu sinh về Tịnh Độ, thì đó không phải là ái nhiễm chấp tướng hay sao, làm sao tránh khỏi trần lụy?

Đáp: Pháp mà Bồ Tát thực hành có hai công dụng. Hai công dụng nào? Một là chứng Bát Nhã thuộc Không huệ, hai là đủ trọn Đại Bi.

Một do lực tu không huệ Bát Nhã nên tuy nhập vào sáu đường sinh tử mà không bị trần nhiễm trói buộc. Hai do Đại Bi tưởng đến chúng sinh nên không trụ vào Niết bàn. Bồ Tát tuy ở [một lúc] cả hai Đế, song thường vi diệu xả cả có không, lấy bỏ, [nhờ đó] đắc được Trung [đạo], nên không trái gì với đại Đạo lý vậy. Thế nên Duy Ma Kinh có nói: “Ví như có người muốn xây dựng nhà cửa nơi khoảng đất trống, thì cứ tùy theo ý mình mà xây không gì trở ngại. Nếu lại ở trong không mà xây, thì rồi ra sẽ không thể nào xây lên nổi. Bồ Tát cũng như vậy, vì muốn thành tựu chúng sinh nên mới nguyện [đảm nhận] lấy Phật quốc. Nguyện [đảm nhận] lấy Phật quốc, thời không phải ở nơi không [mà nhận lấy Phật quốc được] vậy.”

3. Phá ngoài tâm không có pháp.

Thứ ba là phá chuyên tâm quán bên ngoài không có pháp nào hết. Tựu trung gồm hai phần: (1) Phá quan điểm thuộc tình chấp, (2) hỏi đáp để giải thích.

1) Hỏi: Có người cho rằng cảnh tịnh mà chúng ta quán ấy là chiếu theo nội tâm [mà xác định là có cảnh, thế nên cảnh giới] Tịnh Độ dung thông chẳng qua chính là do tâm chúng ta tịnh mà thôi. Ngoài tâm ấy ra chẳng có pháp gì, thì cần chi phải thể nhập về cõi Tây?

Đáp: Nếu chỉ nói về Pháp Tính Tịnh Độ mà thôi, thời trên mặt lý vốn không hư dung khắp, nơi bản thể lại không hề thiên tư cục hạn. Với cõi đó thời chính là cái sinh của không sinh, phải là bậc thượng sĩ mới thể nhập vào nổi. Thế nên Vô Tự Bảo Khiếp Kinh có nói: “Thiện nam tử, lại có một pháp là pháp Phật giác. Đó là các pháp không đi không lại, không nhân không duyên, không sinh không diệt, không tư không không tư, không tăng không giảm.” [Nói rồi] Phật bảo La Hầu La: Ông nay có thọ trì cái ý nghĩa của chính pháp do ta vừa nói đó không? 

“Lúc ấy có chín ức Bồ Tát trong khắp mười phương liền bạch Phật rằng: Chúng con đều có thể trì giữ được pháp môn này, và sẽ vì chúng sinh mà lưu thông pháp môn ấy đến không cùng. 

“Thế Tôn đáp rằng: Các thiện nam tử này như thế là đưa hai vai ra mà gánh vác lấy Bồ Đề. Các vị ấy sẽ được biện tài không dứt, sẽ khéo thanh tịnh được [thế giới của riêng mình để trở thành] thế giới chư Phật. Vào lúc mạng chung sẽ được thấy rõ A Di Đà Phật và chư thánh chúng hiện ngay trước mặt, tức được vãng sinh vậy.” [Đó là sự vãng sinh của các hàng thượng sĩ.] Song vốn còn có các hàng căn tính trung và hạ chưa thể phá tướng được, nên cần phải y theo nhân duyên tin Phật mà cầu sinh Tịnh Độ. Tuy đến cõi nước kia rồi song vẫn còn ở nơi Tướng Độ.

Lại xin nói thêm rằng: Nếu gom hết duyên lại để quy theo gốc, thời ngoài tâm quả thật không có pháp. Song nếu phân hai Đế ra để nói rõ về nghĩa, thời Tịnh Độ là pháp ngoài tâm hoàn toàn không có gì trở ngại.

2) Hai là hỏi đáp để giải thích.

Hỏi: Ở trên có nói là cái lý “sinh thuộc không sinh” thì chỉ có các bậc thượng sĩ mới có thể thể nhập được, còn hàng trung và hạ thì không kham nổi. Nói như thế là do căn cứ thẳng nơi người rồi chiếu theo pháp mà phán, hay là cũng có thánh giáo nào đó làm chứng cho chăng?

Đáp: Y theo Luận Trí Độ có nói: “Bồ Tát khi vừa mới phát tâm [Bồ Đề], căn cơ và kiến giải còn yếu ớt, nên tuy nói là phát tâm song phần nhiều là nguyện sinh Tịnh Độ. Như thế là ý nghĩa gì vậy? Ví như con trẻ nếu chẳng ở gần cha mẹ nuôi dưỡng, thì hoặc sẽ ngã xuống hố rơi vào giếng, gặp rắn gặp lửa các nạn, hoặc do thiếu sữa mà chết. Nên cần phải nhờ nơi cha mẹ tắm rửa chăm nuôi mới có thể lớn khôn mà tiếp nối gia nghiệp. Bồ Tát cũng vậy, nếu đã có thể phát Bồ Đề tâm, thì phần nhiều nguyện sinh Tịnh Độ để gần gũi chư Phật, tăng trưởng Pháp thân, thì mới có thể tiếp nối gánh vác gia nghiệp của Bồ Tát được, mà ra công cứu tế khắp mười phương. Vì ích lợi ấy nên phần nhiều là nguyện sinh vậy.” Luận ấy lại nói: “Ví như chim con lông cánh chưa thành, thì không thể nào ép buộc bay lên cao được. Trước hết phải nương theo rừng, truyền theo cây. Khi lông cánh đã đủ, sức lực có thừa, thì mới có thể lìa rừng mà dạo bay trong không. Bồ Tát vừa phát tâm cũng vậy, trước hết cần phải theo nguyện mà cầu sinh về trước Phật. Pháp thân trưởng thành rồi thì mới tùy theo cơ cảm mà tìm đến làm lợi ích.”

Lại như A Nan bạch Phật: “Vô Tướng Ba la mật này được nói ở chỗ nào?” Phật nói: “Pháp môn như thế được nói trong tầng bậc A tì bạt chí. Tại sao vậy? Có các Bồ Tát vừa phát tâm mà nghe môn Vô Tướng Ba la mật này, thời bao nhiêu thiện căn thanh tịnh mà họ có được sẽ tiêu tán mất hết.”

Lại chỉ cần đến được nước kia thì mọi sự đều trọn thành, thì việc gì cứ phải tranh cãi mãi cái lý nông sâu này mà làm gì!

4. Phá quan điểm nguyện sinh uế độ chứ không nguyện sinh Tịnh Độ

Thứ tư là phá quan điểm nguyện sinh uế độ giáo hóa chúng sinh, chứ không nguyện sinh Tịnh Độ:

Hỏi: Hoặc có người cho rằng nguyện sinh uế độ để giáo hóa chúng sinh, chứ không nguyện vãng sinh Tịnh Độ. Vấn đề ấy là thế nào?

Đáp: Các hạng người này [không phải là ít, mà] cũng có cả một giới với nhau vậy. Đó là hạng người nào? Nếu là các bậc thân ở [vào địa vị] từ [tầng bậc] không còn thối chuyển nữa trở lên, thì vì để giáo hóa các chúng sinh tạp ác, thời mới có thể ở trong nhiễm mà không nhiễm, hội ngộ ác mà không biến đổi, như vịt ngỗng vào nước mà nước không làm ướt được. Các người như thế mới có thể ở trong uế độ mà cứu khổ được.

Còn nếu vốn thật là phàm phu, thì chỉ e là tự mình thực hành còn chưa xong, gặp khổ là biến chuyển, muốn cứu chúng kia [trong uế độ], mà rồi cùng nhau chìm lỉm, như bắt gà mà cho vào nước thì không ướt làm sao được. Thế nên Trí Độ Luận có nói: “Nếu phàm phu phát tâm mà tức thì nguyện tại uế độ cứu tế chúng sinh, thì thánh ý không chấp nhận như vậy.” Như thế là nghĩa thế nào? Long Thụ Bồ Tát giải thích: “Như một khối băng vuông vức bốn mươi dặm, một người lấy một thăng nước sôi đổ lên đó. Thoạt đầu dường như băng có giảm bớt, nhưng qua đêm cho đến sáng thì chỗ ấy băng đóng còn nhô cao hơn các chỗ khác. Phàm phu ở [uế độ] đây mà phát tâm cứu khổ cũng y như vậy, do cảnh giới nghịch thuận khơi dậy tham sân quá nhiều, thế nên tự khởi phiền não mà lại thành đọa ác đạo vậy.”

5. Phá quan điểm cho rằng sinh Tịnh độ sẽ đắm vào lạc

Thứ năm là phá quan điểm cho rằng nếu sinh Tịnh Độ thì vì nhiều vui nên sẽ đắm vào hưởng lạc:

Hỏi: Hoặc có người cho rằng ở trong Tịnh Độ chỉ có hưởng lạc, vui nhiều nên đắm vào hưởng lạc, làm trở ngại, bỏ bê việc tu Đạo, thì cần gì phải nguyện vãng sinh vậy?

Đáp: Đã nói là Tịnh Độ thì có đâu ra các uế nữa. Nếu bảo [ở Tịnh Độ mà] tham đắm các lạc, thì thành ra là phiền não tham ái rồi, còn gì là Tịnh nữa. Thế nên Đại Kinh mới nói: “Người trời ở nước kia qua lại, tiến dừng, không chút trói buộc trong tình [thức].” Lại Nguyện thứ bốn mươi tám có nói: “Người trời ở mười phương mà khi đến nước ta rồi, nếu còn khởi tưởng niệm tham chấp vào thân, thời ta không chịu nhận lấy chính giác.” Đại Kinh lại nói: “Người trời ở nước kia [đối với mình] không có gì là thân hay sơ hết.” thì lẽ nào lại có chuyện đắm vào lạc được.

6. Phá quan điểm cho rằng sinh Tịnh Độ là tiểu thừa

Thứ sáu là phá quan điểm cầu sinh Tịnh Độ tức là tiểu thừa:

Hỏi: Hoặc có người cho rằng cầu sinh Tịnh Độ chính là tiểu thừa vậy, thì cần gì phải tu Tịnh Độ nữa?

Đáp: Nói thế không chuẩn tí nào. Tại sao vậy?  Bởi vì giáo lý tiểu thừa hoàn toàn không hề nói gì về Tịnh Độ hết.

7. Giải tỏa nghi vấn nguyện sinh Đâu Suất, không về Tịnh Độ.

Thứ bảy là giải tỏa nghi vấn nguyện sinh Đâu Suất chứ không khuyên quy về Tịnh Độ:

Hỏi: Hoặc có người cho rằng nguyện sinh Đâu Suất chứ không nguyện quay về Tây. Vấn đề ấy ra sao?

Đáp: Ý nghĩa ấy không được chuẩn. [Thoạt nghe mà so sánh thời sinh về hai nơi ấy] dường như cũng có ít phần giống nhau, song nếu căn cứ nơi bản thể [của sự việc mà xét] thì khác nhau rất xa. Có bốn điểm không được hoàn thiện lắm [nếu nguyện sinh về Đâu Suất chứ không sinh Tịnh Độ.] Đó là những điểm nào?

– Di Lặc Thế Tôn vì các thiên chúng ở đó mà chuyển Pháp Luân bất thối. Người nào nghe Pháp mà sinh lòng tin thì được lợi ích. [Điểm này nếu so với người sinh về Tịnh Độ thì có thể] gọi là tín đồng. Song số người đam mê hưởng lạc không tin Pháp không phải là ít. Lại những người ấy tuy sinh Đâu Suất, song địa vị vẫn còn ở chỗ thối thất, thế nên Kinh mới nói: “Ba cõi không yên y như nhà lửa.”

– Vãng sinh về Đâu Suất tuổi thọ có được chính thức [chỉ] là bốn ngàn năm. [Lại nữa] sau khi mạng chung không tránh khỏi phải thối đọa.

– Trên trời Đâu Suất tuy cũng có nước, chim, cây rừng, hòa reo êm ái, song đó chỉ là duyên cho chư thiên sinh hoan lạc, thuận theo năm dục chứ không trợ cho Thánh Đạo.

Trong khi nếu hướng về Di Đà lạc quốc mà một phen được sinh rồi, thì đều là A tì bạt chí, [tức bậc không còn thối chuyển nữa,] và sẽ không bao giờ còn ở chung với hạng người còn thối chuyển nữa. Lại nữa địa vị khi ấy chính là vô lậu, vượt ra khỏi ba cõi, không còn luân hồi nữa. Nói đến tuổi thọ thì lâu dài bằng ngang với Phật, chẳng phải toán số có thể biết được. Còn chim, nước, cây rừng, thì đều nói pháp được, khiến người [nghe] sinh ngộ giải mà chứng hiểu lý vô sinh.

– Căn cứ theo Đại Kinh, thì cứ lấy riêng phần âm nhạc ra để mà so sánh [giữa Tịnh Độ và các cõi trời thì cũng sẽ thấy.] Trong bài tán Kinh ca ngợi như sau: “Từ vua cõi thế đến sáu trời; tám bậc âm nhạc mỗi càng hay; càng cao càng tuyệt hơn ức bội; âm cây báu hơn gấp đó lần; lại có âm nhạc tự nhiên trổi, tiếng pháp trong êm sảng khoái thần; thanh tao dìu dặt siêu mười cõi; thế nên khể thủ nhạc thanh tịnh.”

8. So sánh sinh về mười phương Tịnh Độ không bằng về Tây phương

Thứ tám là so sánh cho thấy sinh về mười phương Tịnh Độ không bằng quy về Tây phương:

Hỏi: Hoặc có người cho rằng nguyện sinh về Tịnh quốc trong mười phương chứ không nguyện quay về Tây phương. Ý nghĩa ấy thế nào?

Đáp: Ý nghĩa ấy không được chuẩn. Ở đây có ba điểm không được hoàn thiện lắm. Ba điểm gì?

– Mười phương Phật quốc không phải là bất tịnh, song cảnh rộng quá thời tâm tưởng sẽ mù mờ, [ngược lại, sinh về Tây phương] cảnh hẹp thì tâm ý sẽ chuyên chú hơn. Thế nên Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sinh Kinh có nói: “Phổ Quảng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn, Mười phương Phật độ đều rất nghiêm tịnh mà tại sao các Kinh lại cứ hay ca ngợi tây phương A Di Đà quốc, khuyến khích vãng sinh về đó?

“Phật bảo Phổ Quảng Bồ Tát: Tất cả chúng sinh phần nhiều là kẻ trược loạn, phần ít mới là người chính niệm. [Các Kinh do vì] muốn cho chúng sinh có chỗ chuyên chí, thế nên mới tán thán nước kia một cách riêng rẽ như thế. Nếu có thể y theo nguyện mà tu hành thì không ai không được lợi ích.”

– Mười phương Tịnh Độ tuy đều là tịnh, song nông sâu khó biết được. Trong khi Di Đà tịnh quốc lại chính là cửa ngỏ đầu tiên để bước vào Tịnh Độ. Sao biết được là như vậy? Theo Hoa Nghiêm Kinh nói: “Một kiếp ở thế giới Sa Bà bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực Lạc. Một kiếp ở thế giới Cực Lạc bằng một ngày một đêm ở thế giới Ca Sa Tràng…” Cứ thế mà đối chiếu hơn kém với nhau, thì có đến cả mười a tăng kỳ [cõi Phật hơn lên nữa.] Nên đủ thấy rõ Cực Lạc là cửa đầu tiên để vào Tịnh Độ, thế nên chư Phật hay khuyên sinh về đó. [Chính vì vậy] Phật quốc ở các phương khác đều không được nhiệt thành nhắc nhở đến như thế. Cho nên là người có lòng tin thì phần nhiều hay nguyện vãng sinh về Cực Lạc.

– Di Đà tịnh quốc đã là cửa đầu tiên để vào Tịnh Độ, thì Sa Bà thế giới tức chính là chỗ cuối cùng của uế độ. Sao biết được là như vậy? Như Chính Pháp Niệm Kinh có nói: “Từ đây đi theo hướng đông bắc có một thế giới tên là Tư Ha, ruộng vườn toàn là sỏi đá ba góc. Một năm có ba kỳ mưa, mỗi kỳ thấm ướt không quá năm tấc. Chúng sinh cõi ấy chỉ ăn trái cây, vỏ cây làm áo, cầu sống chẳng xong mà cầu chết cũng chẳng được. Lại có một thế giới, tất cả mọi loài cọp sói cầm thú, cho đến rắn rết cũng đều có cánh bay qua bay lại, gặp là nuốt sống lẫn nhau chẳng kể thiện ác.” Đó không phải là các chỗ khởi đầu của uế độ đó hay sao. Trong khi y báo của Sa Bà là ở chung cùng với hiền thánh. Theo đó thì chính là chỗ cuối cùng của uế độ rồi. An Lạc thế giới đã là cửa đầu tiên vào Tịnh Độ thì dĩ nhiên phải tiếp giáp với biên cảnh của cõi này, [nếu thế thời] vãng sinh rất là tiện, thì tại sao lại không đi?

9. Phán xét về câu nói “ngụ ý một lúc khác”

Thứ chín là căn cứ sự mâu thuẫn giữa Nhiếp Luận và [Quán] Kinh này để cân nhắc phán định về câu nói “ngụ ý một lúc khác”:

Nay trong Quán Kinh Phật có nói: “Người sinh vào hạ phẩm hiện tại tạo tội nặng, đến lúc mạng chung gặp thiện tri thức, mười niệm thành tựu, liền được vãng sinh.” Trong khi y theo Nhiếp Luận lại nói: “Phật nói như thế là có ý nói vào một lúc khác [mới được vãng sinh chứ không thể vãng sinh liền được.]”

Lại các nhà luận giải xưa nay phần nhiều cân nhắc phán định đoạn văn này như sau: Mười niệm vào lúc lâm chung chỉ tạo thành được cái nhân vãng sinh mà thôi, chứ chưa sinh [Tịnh Độ ngay] liền được. Thế nên [lời nói đó của Quán Kinh] mới được gọi là câu nói với “ngụ ý vào một lúc khác.” Sao biết được là như vậy? [Nhiếp] Luận có nói: “Như dùng một đồng vàng buôn bán đổi chác mà thành ngàn đồng vàng, đâu phải một ngày là được ngay đâu.” Nên thấy rõ là “mười niệm thành tựu” [trong Quán Kinh] chỉ mới thành được nhân, chứ chưa sinh liền được, do đó mới gọi là câu nói với “ngụ ý vào một lúc khác.”

Giải thích như thế tôi cho rằng chưa hẳn đã là vậy. Bởi sao? Thông thường khi Bồ Tát làm Luận hay giải thích Kinh ý đều nhằm muốn phò trợ ý của Phật, và khế hợp với tình Thánh. Nếu lại có văn luận nào đi ngược lại với Kinh, điều này không thể có vậy. [Thế nên] nay xin giải thích câu nói với “ngụ ý vào một lúc khác” đó như sau:

Lối thuyết pháp thông thường của đức Phật đều chỉ rõ là trước nhân sau quả, lý lẽ, số hạng gì đều rõ ràng mạch lạc. Nay trong Kinh này chỉ nói là một đời tạo tội, vào lúc lâm chung mà thành tựu được mười niệm thời liền được vãng sinh, bất kể là quá khứ có nhân hay không có nhân. [Nếu thế thì] đúng là Thế Tôn dẫn tiếp các hạng tạo ác trong tương lai, khiến họ lâm chung bỏ ác quay về thiện, theo niệm mà vãng sinh, thế nên mới ẩn các nhân đời trước của họ đi [mà không nói ra.] Đó là Thế Tôn ẩn đầu mà hiển cuối, che nhân mà luận quả, thì [như thế được] gọi là câu nói “ngụ ý vào một lúc khác.”

Sao biết được là vậy? Bởi chỉ cần mười niệm thành tựu, [thì thành tựu được như thế] đều là do đã có nhân trong quá khứ rồi. Như Niết Bàn Kinh có nói: “Nếu ai ở trong quá khứ đã từng cúng dường chư Phật nhiều bằng một nửa số cát sông Hằng, lại từng phát tâm [với bằng đó số chư Phật] thì mới có thể ở trong đời ác nghe nói về kinh giáo Đại Thừa, song chì có thể không khởi hủy báng chứ chưa đạt được công dụng gì khác. Nếu từng cúng dường chư Phật nhiều bằng số cát của một sông Hằng và từng phát tâm [với bằng đó số chư Phật] thì sau đó nghe kinh giáo Đại Thừa mới không phải chỉ không hủy báng mà còn rất là thích thú nữa…” Đem các Kinh như thế ra mà nghiệm, thời đủ rõ là mười niệm thành tựu đều phải có nhân trong quá khứ, điều này không hề hư dối. Nếu kẻ ấy không có sẵn nhân trong quá khứ, thì đến thiện tri thức cũng chẳng thể gặp được, chứ nói gì đến mười niệm mà mong thành tựu nổi.

Còn trong Luận nói lấy một đồng vàng đem buôn đổi thành ngàn đồng vàng, đâu phải là trong một ngày mà thành tựu được, thì nếu căn cứ theo ý Phật là muốn khiến cho chúng sinh tích góp nhiều nhân thiện, rồi liền theo niệm mà vãng sinh. Còn nếu chiếu theo luận chủ thì nhằm khai ra nhân trong quá khứ, thì lý cũng không có gì sai trái. Nếu hiểu như thế thì trên thuận theo Kinh Phật dưới hợp với Luận ý, như thế tức Kinh và Luận phù trợ cho nhau, con đường vãng sinh trở nên thông suốt, không còn nghi hoặc gì nữa.

III. Hỏi Đáp Để Giải Thích Trừ Bỏ Nghi Tình

Thứ ba là nói về phần hỏi đáp giải thích rộng rãi. Dưới đây là thể theo Đại Trí Độ Luận mà cho ra đủ các hỏi đáp [thắc mắc].

1. Hỏi: Song tất cả chúng sinh từ biết bao kiếp nay tạo đủ hết các nghiệp hữu lậu trói buộc vào ba cõi [luân hồi], thì tại sao nay không đoạn nghiệp trói buộc vào ba cõi ấy mà chỉ cần trong ít phút giây niệm A Di Đà Phật là được vãng sinh ngay và thoát khỏi ba cõi? Vậy thì cái nghiệp trói buộc kia là muốn nêu lên ý nghĩa gì vậy?

Đáp: Có hai cách giải thích [để trả lời câu hỏi này:] (1) Một là dựa trên pháp mà phá [cái nghi ấy]. (2) Hai là mượn thí dụ để hiển [rõ ra ý nghĩa vãng sinh.]

– Nói dựa trên pháp nghĩa là chư Phật Như Lai có Trí không thể nghĩ bàn, là Trí đại thừa rộng lớn, là Trí siêu thắng tối thượng không gì ngang không gì bằng. Năng lực của Trí không thể nghĩ bàn này có thể khiến ít thành nhiều, khiến nhiều thành ít, khiến gần thành xa, khiến xa thành gần, khiến nặng thành nhẹ, khiến nhẹ thành nặng. Chư Phật có các loại Trí như thế đến mức độ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn được.

– Phần hai trở xuống gồm có bảy lượt đều mượn thí dụ để hiển rõ nghĩa như sau:

– Thí dụ thứ nhất, như có trăm người tích tụ củi khô trong trăm năm trời cao cả ngàn thước, chỉ cần một đốm lửa nhỏ chừng như hạt đậu cháy trong nửa ngày là tiêu sạch hết. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “củi khô chứa cả trăm năm thì không thể hết trong vòng nửa ngày” hay không?

– Thí dụ thứ hai, như người có tật chân mượn thuyền người khác chở, lại nhân nơi sức của gió và buồm, nên trong một ngày mà vượt qua cả ngàn dặm. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “kẻ tật chân thì làm sao một ngày vượt được ngàn dặm” hay không?

– Thí dụ thứ ba, như kẻ nghèo nàn hạ tiện bắt được một vật quý đem hiến cống vua. Vua mừng được vật quý nên trọng thưởng cho người kia. Người ấy trong bỗng chốc phú quý tràn ngập. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “Người có học mấy chục năm ra hết sức cần khổ mà còn chẳng đạt được gì về, thì nói gì kẻ nghèo hèn kia mà giầu có trong phút chốc, làm gì có chuyện ấy!” hay không?

– Thí dụ thứ tư, như kẻ yếu đuối tự mình lên lừa còn chưa nổi, song nếu theo Luân Vương mà đi, thì nương hư không mà bay lượn tự tại. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “Với sức kẻ yếu thì không thể nào bay lên hư không được” hay không?

– Thí dụ thứ năm, như dây cuốn mười vòng ngàn người cũng chịu [không làm gì nổi,] song đứa bé vung kiếm thì thoáng cái đã đứt đôi. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “sức của đứa bé thì bứt gì nổi dây” hay không?

– Thí dụ thứ sáu, như loài chim chậm mà bơi vào nước, thì cá sò gì cũng lật ngược ra mà chết, sừng tê mà cho vào bùn thì kẻ chết rồi cũng còn sống lại. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “tính mạng một khi chết rồi thì không thể sống lại được nữa” hay không?

– Thí dụ thứ bảy, như chim hoàng hộc gọi Tử An mà Tử An sống dậy. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là “ngàn năm trong mộ rồi thì chắc chắn không thể sống lại được nữa” hay không?

Tất cả vạn pháp đều có [đủ hết mọi trường hợp] tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, ngàn [trường hợp] khai [mở thông được,] vạn [trường hợp] bế [tắc chẳng thông,] vô lượng vô biên [trường hợp sai khác nhau như thế.] Thì ông lẽ nào lại đem cái thức chướng ngại ra mà nghi cái pháp vô ngại kia được.

Lại trong năm pháp không thể nghĩ bàn thì Phật Pháp là pháp không thể nghĩ bàn tối thượng. Ông cho nghiệp trói buộc vào ba cõi là nặng mà nghi chỗ niệm Phật trong chốc lát của người kia là nhẹ, nên [cho rằng người ấy] không được vãng sinh An Lạc quốc nhập vào tụ chính định. Sự việc này thật đâu phải như [ông nghĩ] vậy.

2. Hỏi: Đại Thừa Kinh có nói: “Nghiệp đạo như bàn cân, bên nào nặng thì kéo sang bên đó trước.” Tại sao chúng sinh trong suốt một đời hoặc trăm năm hoặc mười năm, cho đến ngay ngày hôm nay, ác nào cũng tạo, thì sao lại khi lâm chung gặp thiện tri thức, rồi liên tục mười niệm, là liền được vãng sinh. Nếu quả đúng như thế, thì cái ý nghĩa “nghiệp nặng kéo trước” ở trên làm sao tin được đây?

Đáp: Ông cho rằng nghiệp ác một đời là nặng và cho chỗ thiện mười niệm của người hạ phẩm là nhẹ. Nay tôi xin theo nghĩa so sánh cái nghĩa nặng nhẹ này để cho thấy rõ là [nặng với nhẹ vốn] do tại tâm, tại duyên, tại quyết định [dứt khoát], chứ không do tại thời tiết, xa gần, nhiều ít vậy.

– Tại tâm là thế nào? Nghĩa là người kia khi tạo tội là do tự họ y chỉ theo tâm điên đảo hư vọng mà sinh. Trong khi mười niệm này là y theo thiện tri thức phương tiện an ủi và nghe pháp thật tướng mà sinh. Một đàng thật một đàng hư, thì lẽ nào lại đem so sánh với nhau được. Tại sao? Ví như phòng tối đã ngàn năm song ánh sáng chỉ tạm chiếu vào là lập tức sáng chưng, thì có thể nói được rằng tối đã ở trong phòng cả ngàn năm rồi nên sẽ không tan biến vậy được không? Thế nên Di Nhật Ma Ni Bảo Kinh mới nói: “Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Chúng sinh tuy là đã bao ngàn vạn ức kiếp ở trong ái dục, bị tội lỗi che chùm, nếu nghe được Phật kinh mà chỉ một niệm quay trở về thiện, thì bao tội lập tức tiêu diệt hết.” Như thế đó gọi là [nặng nhẹ] tại tâm.

– Tại duyên là thế nào? Nghĩa là khi người kia tạo tội là do tự họ y chỉ theo vọng tưởng, và y theo phiền não, quả báo, chúng sinh, mà sinh. Nay mười niệm này là y chỉ theo tâm tín vô thượng, và y theo danh hiệu có vô lượng công đức, vừa chân thật vừa thanh tịnh, của A Di Đà Như Lai, mà sinh. Ví như có người bị tên độc bắn trúng thấu gân thấu cốt, nếu được nghe tiếng trống thuốc diệt trừ [độc] thì lập tức tên [tự động] nhổ ra và độc [tự] trừ diệt. Có thể nào lại nói được rằng tên kia sâu độc rất nguy hiểm thì nghe tiếng trống không thể nhổ được tên và trừ được độc hay không? Như thế gọi là [nặng nhẹ] tại duyên.

– Tại quyết định [dứt khoát] là thế nào? Khi người kia tạo tội là tự họ y chỉ theo tâm có tiếp sau và tâm có gián đoạn mà sinh. Nay mười niệm này là y chỉ theo tâm không tiếp sau nữa và tâm không gián đoạn mà khởi. Như thế gọi là quyết định [dứt khoát.] Lại Trí Độ Luận có nói: “Tất cả chúng sinh vào lúc lâm chung thời gió đao làm rã thân, khổ chết đến bức bách, thật hết sức sợ hãi.” Thế nên gặp thiện tri thức phát đại dũng mãnh, tâm tâm liên tục trong vòng mười niệm, đó chính tức là thiện căn tăng thượng, liền được vãng sinh. Lại như có người đối địch lâm trận, nên vận hết sức cả một đời ra mà tận dụng. Mười niệm thiện này cũng y như vậy. Lại nếu người nào khi lâm chung mà sinh một niệm tà kiến, thì đó là ác tâm tăng thượng, tức thì có thể làm sụp đổ cả phúc đức ba cõi mà nhập ngay vào ác đạo vậy.

3. Hỏi: Đã nói lâm chung mười niệm thiện có thể lật đổ sạch ác nghiệp cả một đời mà được sinh Tịnh Độ. Song chưa rõ khoảng bao lâu là mười niệm?

Đáp: Như Kinh có nói: “Một trăm lần sinh diệt là một sát na. Sáu mươi sát na lấy là một niệm.” Đó là y theo Kinh Luận mà giải thích tổng quát về niệm vậy.

Còn giải thích ở đây về niệm thời không căn cứ theo thời gian như thế, mà chỉ cứ nghĩ tưởng tới A Di Đà Phật, hoặc tướng tổng quát hoặc tướng riêng tư của Ngài. [Lấy tướng ấy] làm duyên cho tâm tùy theo đó mà quán, trải qua mười niệm mà không niệm tưởng gì khác xen tạp vào, thì đó là nghĩa “mười niệm” vậy.

Lại xin nói là “mười niệm liên tục” đó chỉ là một con số [tượng trưng] của bậc thánh [nói ra] vậy thôi. Miễn sao có thể tích góp niệm lại, ngừng hết tư lự không duyên theo bất cứ sự gì khác, khiến cho nghiệp đạo hoàn tất là được rồi, không cần gì phải nhọc công ghi nhớ cho đủ [mười] số. Lại xin nói thêm là nếu người nào thực hành đã lâu rồi thì khi niệm cứ nên y theo đó mà hành, còn người mới thực hành thì nhớ đủ số cũng rất tốt. Điều này cũng là y theo thánh giáo mà nói.

4. Hỏi: Nay như muốn nghe theo lời khuyên mà thực hành Niệm Phật tam muội, song chưa rõ tướng trạng hoạt động của niệm ấy là như thế nào?

Đáp: Ví như có người đang ở giữa nơi hoang vắng xa lạ bỗng gặp giặc cướp rút đao hung hăng xông tới giết mình. Người ấy chạy thẳng một mạch thấy có con sông đàng trước phải vượt qua. Chạy chưa đến sông đã nghĩ như sau “đến bờ sông ta cởi áo bơi qua hay cứ để nguyên áo mà lội. Nếu cởi áo để bơi thì e là không kịp, còn nếu để nguyên áo mà lội thì chỉ sợ là đầu cổ khó an toàn.” Khi ấy người kia chỉ có một tâm niệm là tìm cách nào qua sông mà không có một tâm tưởng nào khác xen vào. Hành giả cũng thế, khi niệm A Di Đà Phật thì cũng giống như người kia niệm qua sông, niệm niệm liên tục không có tâm tưởng nào khác xen vào. Hoặc niệm Pháp Thân của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm Trí huệ của Phật, hoặc niệm hào tướng của Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật, hoặc niệm bổn nguyện của Phật. [Hay trường hợp] xưng danh [hiệu của Phật] cũng y như vậy, miễn sao có thể chuyên nhất liên tục không đoạn, thì chắc chắn sẽ sinh về trước Phật.

Nay xin khuyên các người học đời sau nếu muốn hiểu ra lý lẽ của hai Đế, thì cần phải hiểu rằng “niệm niệm không sao có được” thì đó là cửa Trí huệ, song còn “gom hết tâm niệm liên tục không đoạn” thì đó là cửa công đức. Thế nên Kinh mới nói: “Bồ tát Ma ha tát luôn dùng công đức và trí huệ để tu tâm mình.” Nếu là người mới học chưa phá được tướng, thì cứ y theo tướng mà chuyên chí [nhất tâm] thời không ai là không vãng sinh. Điều này không nên nghi ngờ vậy.

5. Hỏi: Vô Lượng Thọ Đại Kinh có nói: “Mười phương chúng sinh hết lòng tin tưởng thích thú muốn sinh về nước tôi, thì cho đến mười niệm thôi mà không sinh được, xin nguyện không nhận lấy chính giác.” Nay có người đời nghe thánh giáo này, trọn một cuộc sống hoàn toàn chẳng để ý, tính là đến khi lâm chung mới hầu tu niệm. Sự việc ấy là thế nào?

Đáp: Luận như thế không được chuẩn. Tại sao vậy? Kinh nói “mười niệm liên tục” nghe dường không khó, song các phàm phu tâm như ngựa hoang, thức tựa khỉ vượn, theo đuổi sáu trần có bao giờ ngưng. Thế nên mỗi người cần phải phát khởi tín tâm, chuẩn bị tự mình chế phục tâm niệm, khiến niệm ấy tích tập thành tính, [trở thành] gốc thiện kiên cố vậy. Như Phật bảo đại vương: “Con người tích tập các việc làm thiện, khi chết mà không có niệm ác, thì như cây nghiêng trước rồi, thì khi đổ ắt tùy theo hướng nghiêng ấy [mà đổ].” Nếu một phen gió đao thổi đến, trăm khổ kéo đến thân, nếu huân tập [thiện] trước không có, thì ôm giữ niệm cũng có làm được gì. Thế nên mỗi người cần phải cùng năm ba vị đồng một chí hướng với nhau chuẩn bị giao kết thiết yếu rằng khi có người mạng chung thì thay họ mà nhắc nhở cho họ, xưng danh hiệu Di Đà cho họ, nguyện họ sinh An Lạc quốc, từng âm thanh liên tiếp làm cho [tâm họ] thành mười niệm. Ví như ấn bằng sáp ấn vào đất bùn, ấn tuy hoại mà văn thành, khi mạng họ chấm dứt cũng tức là lúc sinh về nước An Lạc vậy. Một phen nhập vào tụ chính định thì còn gì phải lo nữa. Mỗi người phải nên cân nhắc kỹ cái lợi ích lớn ấy, [và đã cân nhắc rồi,] thì sao không chuẩn bị mà khắc chế niệm của mình đi.

6. Hỏi: Các Kinh Luận lớn đều nói: “Tất cả chúng sinh mà xét cho cùng cực thì đều không có sinh y như hư không.” Thế thì tại sao Thiên Thân, Long Thụ Bồ Tát lại đều nguyện vãng sinh vậy?

Đáp: Nói “chúng sinh xét cho cùng thời không có sinh y như hư không” đó thời gồm có hai nghĩa: (1) Một là như người phàm phu nhìn thấy, thật sự có chúng sinh, thật sự có sinh tử v.v… Song nếu nhìn theo Bồ Tát thì vãng sinh xét cho cùng thời y như hư không, như sừng thỏ. (2) Hai là “sinh” mà nói ở đây chính là sinh do nhân duyên. Do nhân duyên sinh, thế nên sinh này [là giả chứ không có thật, chỉ có danh từ “sinh” mà thôi, được gọi] giả danh sinh. Do chỉ giả danh sinh nên tức chính là [không có sinh, hay gọi là] vô sinh. Như thế thì “sinh” này không hề mâu thuẫn gì với lý của đại Đạo, và không hề phải như phàm phu cho là có thật chúng sinh, có thật sinh tử vậy.

7. Hỏi: Thường thì sinh là nền tảng của các cõi “hữu”, nên chính là nguồn gốc của mọi buộc ràng. Nếu ai biết được sinh có lỗi như thế nên bỏ sinh mà cầu vô sinh thì mới mong có ngày thoát được. Giờ đây lại khuyên sinh Tịnh Độ, tức là bỏ [vô?] sinh mà cầu sinh, thì sinh làm sao hết được?

Đáp: Song [sinh] Tịnh Độ kia chính là cái sinh mà không sinh do bổn nguyện thanh tịnh của A Di Đà Như Lai [mà khởi], không phải như cái sinh của chúng sinh trong ba cõi do ái nhiễm, hư vọng, chấp trước, nên sinh. Tại sao vậy? Thường thì thể tính của Pháp vốn thanh tịnh, xét cho cùng không hề có sinh mà vẫn nói là sinh như thế, [thì chẳng qua] là thể theo phương diện “tình” của người sinh mà nói vậy.

8. Hỏi: Như trên có nói nếu ai biết rõ sinh vốn không hề có sinh thì sẽ sinh thượng phẩm. Nếu vậy thì người sinh hạ phẩm do nương theo mười niệm vãng sinh kia không phải là người sinh theo lẽ thật có sinh đó hay sao? Nếu người ấy là thật có sinh, thời không khỏi sẽ kẹt vào hai mối nghi như sau: một là sợ không được vãng sinh, hai là cái thiện theo tướng ấy không thể nào làm nhân cho vô sinh được.

Đáp: Có ba cách giải thích. (1) Một là ví như ngọc ma ni trong suốt mà đặt vào trong nước đục, do năng lực của ngọc nước lập tức lắng trong. Người ta tuy có vô lượng tội sinh tử đục ngầu, song nếu nghe được danh hiệu như ngọc báu thanh tịnh cùng cực vô sinh của A Di Đà Như Lai bỏ vào trong tâm đục kia, thì trong từng niệm một tội sẽ diệt tâm được tịnh, và lập tức được vãng sinh.

– Hai là như ngọc ma ni trong sạch mà lấy khăn huyền hay vàng bọc lại, rồi bỏ vào trong nước, nước sẽ thành mầu huyền hay vàng y hệt mầu của khăn. Cõi Phật thanh tịnh kia có danh hiệu như ngọc báu vô thượng của A Di Đà Như Lai, và dùng khăn vô lượng công đức đã thành tựu mà bọc lại, rồi bỏ vào trong nước tâm của người vãng sinh kia, thì không thể chuyển sinh kia thành ra trí vô sinh được hay sao?

– Ba là cũng như trên băng mà đốt lửa, lửa mạnh ắt băng tan, băng tan ắt lửa tắt. Người hạ phẩm vãng sinh kia tuy không biết rằng thể tính của pháp vốn không có sinh, song do lực xưng danh Phật, khởi ý vãng sinh nguyện sinh cõi kia. Khi đã đến cõi vô sinh rồi, thì cái lửa thấy [là có] sinh kia sẽ tự nhiên mà diệt.

9. Hỏi: Y theo thân nào mà nói nghĩa vãng sinh này?

Đáp: Ở cõi này, nơi con người giả [không thật, chỉ có] danh [tự thôi] mà tu các môn thực hành. Niệm trước làm nhân cho niệm sau. Cái người giả danh ở uế độ và người giả danh ở Tịnh Độ không được dứt khoát nói là một, không được dứt khoát nói là khác nhau. Tâm trước và tâm sau cũng y như vậy. Tại sao vậy? Nếu dứt khoát là một ắt không có nhân quả nữa. Nếu dứt khoát là khác thời không còn là liên tục nữa. Do vì ý nghĩa này nên ngang dọc có khác nhau, song trước sau chỉ là một hành giả mà thôi.

10. Hỏi: Nếu người ta chỉ cần xưng danh hiệu Phật là có thể trừ các chướng được, nếu đúng thế thời ví như có người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, thì ngón tay này cũng phải phá tối ám được vậy.

Đáp: Các pháp có muôn vàn sai khác, không thể lấy một [trường hợp] mà áp dụng cho tất cả [các trường hợp khác] được. Tại sao? Vốn có các danh tức chính cũng là pháp [mà danh ấy chỉ cho], cũng vốn có các danh song lại khác với các pháp [mà nó chỉ cho.] Có các danh tức chính là pháp là như danh hiệu của chư Phật và Bồ Tát, các âm từ chú cấm, các câu cú của Tu đa la v.v… chính là các danh này vậy. Như lời cấm chú nói rằng: “Mặt trời mọc phương đông chợt đỏ chợt vàng, giả như dậu hợi hành cấm, thì bệnh hoạn cũng khỏi.” Hay như có người bị chó cắn thời cứ hơ nóng xương hổ lên mà chườm thì chỗ đau sẽ hết. Hoặc lúc nào không có xương thì cứ lấy tay xoa lên, miệng vừa gọi “Hổ tới! Hổ tới!”, thì cũng hết đau. Hoặc có người nào chân bị vọp bẻ, hơ nóng cành đu đủ rồi chườm lên thời sẽ lành ngay. Hoặc nếu không có cành đu đủ, thì hơ nóng tay rồi xoa lên chỗ đau, miệng vừa gọi “đu đủ! đu đủ!” thì đau cũng hết. Cái công hiệu ấy chính tôi đã từng trải qua. Tại sao lại có công hiệu như thế? Do bởi [trong các trường hợp này] danh tức chính là pháp vậy.

Còn danh khác với pháp là như trường hợp lấy tay mà chỉ mặt trăng vậy.

11. Hỏi: Nếu người ta chỉ cần xưng niệm danh hiệu Di Đà là có thể trừ diệt hết vô minh đen tối của mười phương chúng sinh mà được vãng sinh, song có chúng sinh xưng danh ức niệm mà vô minh vẫn còn, không được như nguyện, là nghĩa gì vậy?

Đáp: Do tu hành không đúng như thật, không tương ưng được với danh và nghĩa. Cớ sao như vậy? Nghĩa là không biết được rằng Như Lai là thân thật tướng, mà cho là thân vật chất.

Lại có ba trường hợp không được tương ưng: (1) Một là do tín tâm không thuần khi còn khi mất. (2) Hai là do tín tâm không như nhất, nghĩa là không dứt khoát vậy. (3) Ba là do tín tâm không liên tục, nghĩa là có niệm khác xen tạp vào. Ba tính chất này thu nhiếp lẫn nhau: Nếu liên tục được thì sẽ thành nhất tâm, chỉ cần nhất tâm thì tức chính là thuần tâm. Đủ ba tâm ấy mà không vãng sinh thì không có lẽ nào như thế được.

Đại môn thứ ba

 

Trong đại môn thứ ba này trước sau gồm bốn lần cân nhắc phán định:

I. Lần thứ nhất bàn về đạo khó hành và đạo dễ hành.
II. Lần thứ hai nói về thời kiếp lớn nhỏ khác nhau.

III. Lần thứ ba nói về việc từ vô thủy thế kiếp đến nay ở trong năm nẻo thuộc ba cõi luân hồi, nương theo hai nghiệp thiện ác, thọ hai báo khổ và sướng, luân hồi không cùng, chịu sinh vô số.

IV. Lần thứ tư đem thánh giáo ra chứng rõ để khuyên đời sau sinh tín mà cầu vãng sinh.

I. Bàn Về Đạo Khó Hành Và Đạo Dễ Hành

Thứ nhất là bàn về đạo khó hành và đạo dễ hành. Trong mục này gồm có hai phần: (1) Một là đưa ra hai loại đạo. (2) Hai là hỏi đáp để giải thích.

– Tôi vốn đã ở trong cõi lửa [thiêu đốt,] thật sự nghĩ đến mà hãi hùng. Nhờ trên đại thánh với ba xe an ủi vời về. Song xe dê, xe nai mà chuyên chở, thì chỉ tạm thời ngơi nghỉ, chứ chưa phải là [thật sự] đến nơí đến chốn. Phật mắng các tà chấp làm chướng ngại việc trên cầu Bồ Đề, dù sau đó có quay lại hướng về [Bồ Đề], thì vẫn bị coi như là xa tắp mù xa. Nếu noi theo xe lớn, thì cũng chỉ là đi theo một đường. Chỉ sợ hiện ở địa vị còn thối chuyển, thì vẫn chỉ là trên đường hiểm nghèo tít xa. Chính mình đức lập còn chưa xong, thì khó mà có thể thăng tiến được. Thế nên Long Thụ Bồ Tát có nói:

“Có hai con đường đạo để cầu A tì bạt chí. Một là con đường đạo khó hành và hai là con đường đạo dễ hành. 

“1) Con đường đạo khó hành là ở trong đời năm trược, lúc không có Phật mà cầu a tì bạt chí thì rất là khó. Cái khó này rất nhiều mặt, nói tóm lại gồm năm điều. Năm điều là những gì?: (1) Một là các thiện sự thuộc về tướng của ngoại đạo làm loạn pháp [thiện thuộc thật tính] của Bồ Tát. (2) Hai là hướng tự lợi của Thanh Văn làm chướng ngại đại Từ Bi [của Bồ Tát.] (3) Ba là các kẻ ác không có đại nguyện phá mất công đức thù thắng của người khác. (4) Bốn là các thứ thiện quả điên đảo thuộc cõi trời người hoại mất phạm hành [thanh tịnh] của người [tu.] (5) Năm là chỉ có tự lực, chứ không có tha lực chống đỡ cho. Như năm điều này [ngày nay] nhìn đâu cũng thấy. Ví như đường bộ mà lại còn đi bộ thì rất là khổ cực, nên mới gọi là “con đường khó đi” hay con đường đạo khó hành.

– Con đường đạo dễ hành là dùng nhân duyên tin Phật mà nguyện sinh Tịnh Độ, khởi tâm nguyện ấy lập thành đức hạnh của mình mà tu các hành nghiệp [thiện.] Do nhờ lực bổn nguyện của Phật mà lập tức được vãng sinh. [Vãng sinh rồi, lại] do nhờ lực Phật chống giữ được vững chắc, nên nhập ngay vào tụ chính định của Đại Thừa. Tụ chính định ấy chính là địa vị a tỳ bạt chí không thối chuyển vậy. Ví như đường thủy mà lại đi thuyền thì rất là sướng thích, nên mới gọi là “con đường dễ đi” hay con đường đạo dễ hành.”

2) Hỏi: Bồ Đề vốn là một, nên khi tu nhân cũng không hề có hai. Tại sao ở cõi này tu nhân hướng về Phật quả thì gọi là khó hành, còn vãng sinh Tịnh Độ cầu đại Bồ Đề thì mới gọi là đạo dễ hành vậy?

Đáp: Tất cả các hành pháp được trình bày trong các kinh Đại Thừa đều có [đủ hai phương diện] tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp.

Thế nào là tự lực? Ví như có người sợ hãi sinh tử nên phát tâm xuất gia, tu định phát thần thông dạo khắp bốn phương, thì gọi là tự lực.

Thế nào là tha lực? Như có kẻ yếu đuối, tự sức mình leo lên lừa còn chưa nổi, song nếu theo Luân Vương thì có thể bay trên không mà dạo khắp bốn phương. Thì đó chính là oai lực của Luân Vương, nên gọi là tha lực.

Chúng sinh cũng vậy, ở cõi này khởi tâm lập hành, nguyện sinh Tịnh Độ, thì đó là tự lực. Vào lúc lâm chung, A Di Đà Như Lai với đài sáng đến nghinh tiếp, liền được vãng sinh, thì đó chính là tha lực. Nên Đại Kinh có nói: “Người trời ở mười phương mà muốn sinh về nước ta, thì không ai lại không do lực nghiệp đại nguyện của A Di Đà Như Lai làm duyên tăng thượng.” Nếu không đúng thế, thì bốn mươi tám nguyện đặt ra chẳng để làm gì. Nên xin nói cùng các kẻ học sau này rằng: Đã có tha lực để nương theo rồi, thì không được cứ bo bo phận mình, ở trong nhà lửa chẳng ích gì vậy.

II. Nói Về Kiếp Số Đại Và Tiểu

Thứ hai là nói về kiếp số lớn nhỏ: Như Trí Độ Luận có nói: “Kiếp có ba loại: một là tiểu, hai là trung, ba là đại. Như một cái thành vuông vức, mỗi bề bốn mươi dặm, cao thấp gì cũng đồng đều như vậy. Trong thành chứa đầy hạt cải. Có chư thiên ở cõi trời trường thọ cứ ba năm thì lấy đi một hạt cải, cho đến khi lấy hết không còn sót hạt cải nào, thì [khoảng thời gian ấy] gọi là một kiếp. Hoặc một thành cao thấp vuông vức mỗi bề đồng đều dài tám mươi dặm, chứa đầy hạt cải, chư thiên như trước lấy hết hạt cải, thì [khoảng thời gian đó] gọi là một trung kiếp. Hoặc một thành cao thấp vuông vức mỗi bề đồng đều dài một trăm hai mươi dặm, chứa đầy hạt cải, rồi cũng theo cách trên mà lấy cho sạch, thì [khoảng thời gian ấy] mới gọi là một đại kiếp.

“Hoặc có khối đá cao thấp đồng đều tám mươi dặm dài, có chư thiên trời trường thọ cứ ba năm dùng y trời phất một cái trên khối đá. Y trời nặng chỉ ba thù (24 thù là một lạng). Cứ thế phất mãi [cho đến khi] khối đá phải mòn hết, thì gọi [khoảng thời gian ấy] là một trung kiếp. Khối đá thuộc tiểu kiếp hay đại kiếp thời cứ chiếu theo trường hợp trung kiếp này mà luận, không cần phải kể ra hết chi cho nhọc.”

III. Trong môn thứ ba này có đến năm phần: 

1) Thứ nhất nói về [chúng sinh] từ vô thủy kiếp cho đến nay, ở trong cõi này luân hồi không cùng, chịu vô số thân vậy. Như Trí Độ Luận có nói: “Ở trong cõi người hoặc thuộc nhà họ Trương chết, lại sinh vào nhà họ Vương. Ở nhà họ Vương chết, lại sinh vào nhà họ Lý. Cứ thế [mà sinh] khắp hết [mọi nhà của] cõi Diêm Phù Đề. Hoặc sinh trở lại họ trước hoặc sinh vào nhà họ khác, hoặc chết ở nam Diêm Phù Đề lại sinh về tây Câu Gia Ni. [Chết rồi sinh] ở Diêm Phù Đề ra sao, thì [chết và sinh ở] ba cõi thiên hạ kia cũng y như vậy. Như chết sinh ở bốn thiên hạ này ra sao, thì [chết sinh ở] trời Tứ Thiên Vương cũng y như vậy. Hoặc ở trời Tứ Thiên Vương chết rồi sinh lên trời Đao Lợi. Ở trời Đao Lợi chết sinh ra sao, thì bốn trời cao hơn chết rồi sinh cũng y như vậy. Cõi Sắc có đến mười tám tầng trời, cõi Vô Sắc có bốn tầng trời, chết đây sinh kia mọi thứ mọi nơi đều y như thế. Hoặc chết ở cõi Sắc mà sinh vào địa ngục A tỳ. Chết ở địa ngục A tỳ rồi sinh vào các địa ngục nhẹ tội hơn. Lại chết trong địa ngục nhẹ tội hơn, rồi sinh vào loài súc sinh. Chết trong loài súc sinh lại sinh vào đường ngạ quỷ. Chết trong đường ngạ quỷ hoặc sinh vào cõi trời người. Cứ thế sáu đường luân hồi, chịu hai báo sướng và khổ, sinh tử không cùng.

Thai sinh đã thế, ba sinh kia cũng chẳng khác gì. Thế nên Chính Pháp Niệm Kinh có nói: “Bồ Tát hóa sinh bảo các thiên chúng rằng: Người phàm trải sinh trăm ngàn lần, ham sướng buông lung chẳng tu Đạo, nào hay phúc xưa cạn dần hết, lại đọa ba đồ chịu mọi khổ.” Thế nên Niết Bàn Kinh cũng nói: “Thân này là các khổ tích tập lại [mà thành.] Mọi thứ của thân đều bất tịnh, là gốc gác của các trói buộc, lở lói v.v.., chẳng có ý nghĩa hay ích lợi gì, lên đến thân của các cõi trời cũng đều y như thế.” Thế nên Kinh ấy lại nói: “Khuyên hãy nên tu đừng buông thả. Tại sao vậy? Thường thì phóng dật buông thả là gốc của mọi điều ác. Không buông thả phóng dật mới là mạch nguồn của các thiện. Như ánh sáng của mặt trời mặt trăng là sáng nhất trong các ánh sáng, pháp không phóng dật cũng giống như vậy, là tối thượng hơn hết trong các thiện pháp. Tại sao vậy? Tất cả các pháp ác là do phóng dật mà sinh, còn tất cả thiện pháp thời lấy không phóng dật làm gốc.” 2) Thứ hai.

Hỏi rằng: Tuy nói [chúng sinh] từ vô thủy kiếp nay luân hồi khắp sáu đường không hạn cuộc thời gian, song chưa rõ là trong một kiếp phải chịu số thân là bao nhiêu mà nói là lưu chuyển?

Đáp: Như Niết Bàn Kinh có nói: “Lấy hết cỏ cây trong tam thiên đại thiên thế giới cắt ra làm các thẻ dài bốn tấc để đếm số cha mẹ mà mình thọ thân, mà đếm còn không hết.” Hoặc nói: “Số sữa mẹ mình uống trong một kiếp còn nhiều hơn nước của bốn biển lớn.” Hoặc nói: “Xương cốt của thân mà tích tụ lại trong một kiếp thì cao như núi Tỳ Phú La.” Cứ thế bao kiếp lâu nay uổng chịu sinh tử cho đến ngày nay mà vẫn cứ phải mang thân phàm phu, có bao giờ biết nghĩ đến mà cảm thương thở than hay chăng?!

– Thứ ba. Hỏi: Đã nói là bao đại kiếp nay chịu thân vô số, [thì nói thế] là cứ một cách tổng quát như thế mà nói nhằm khiến cho người ta sinh chán [ngán kiếp sinh tử,] hay là cũng có kinh văn nào đó để làm chứng hay không?

Đáp: Nói thế vốn đều có các văn từ của thánh giáo minh chứng. Những thánh giáo nào? Như Pháp Hoa Kinh có nói: “Cả đại kiếp trong quá khứ lâu xa không thể nói được có đức Phật xuất thế hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như lai. Ngài có mười sáu vị vương tử. Mỗ vị đều lên pháp tòa giáo hóa chúng sinh. Mỗi một vương tử giáo hóa số chúng sinh nhiều bằng sáu trăm vạn ức na do tha số cát sông Hằng.” Phật ấy sau khi diệt độ đến nay vô cùng lâu xa không thể đếm hết mà biết được. Sao lại vậy? Như Kinh nói: “Lấy hết đất đai trong ba ngàn đại thiên thế giới mài ra làm mực. Phật nói: cho người cứ đi qua khỏi một ngàn cõi nước thời mới chấm một chấm lớn bằng một bụi nhỏ. Cứ thế mà đi lần lượt chấm hết chỗ mực từ đất đai mài ra ấy. Phật lại nói: Giờ lại gom hết các cõi nước có chấm mực và không có chấm mực ấy mài hết ra làm bụi nhỏ. Lấy một bụi làm một kiếp. Từ lúc Phật kia diệt độ đến nay còn lâu hơn cả con số đó.” Chúng sinh ngày nay chính là các chúng sinh từng thọ giáo pháp dưới tòa của mười sáu vương tử thuở ấy. Thế nên Kinh nói: “Do vì nhân duyên ấy nên [Phật] mới vì họ mà nói Pháp Hoa Kinh.” Niết Bàn Kinh còn nói: “Một người là vương tử, một người là kẻ bần hàn. Hai người như thế hỗ tương qua lại.” Nói vương tử ấy chính là Thích Ca Như Lai ngày nay, cũng chính là vị vương tử thứ mười sáu của thời ấy. Còn nói kẻ bần hàn thì chính là các chúng sinh ngày nay.

Thứ tư. Hỏi: Các chúng sinh kia đã nói là lưu chuyển nhiều kiếp, song trong ba cõi ấy nẻo luân hồi nào [chúng sinh] thọ thân nhiều nhất?

Đáp: Tuy nói là lưu chuyển, song thường là thọ thân trong ba ác đạo là nhiều hơn hết. Như Kinh nói: “Ở giữa hư không đo lấy một khoảng vuông tròn tám khuỷu tay. Rồi từ mặt đất này lên cho đến trời Sắc Cứu Cánh, chúng sinh có thể nhìn thấy được trong khoảng không ấy còn nhiều hơn là thân người trời trong khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.” Do đó đủ biết là thân chúng sinh trong ác đạo là nhiều. Tại sao lại như vậy? Chẳng qua vì ác pháp dễ khởi, thiện tâm khó sinh vậy. Hiện tại chúng ta đều thấy là các chúng sinh được giầu sang thời chỉ toàn phóng dật phá giới. Trong cõi trời thì các kẻ ham hưởng thụ là nhiều. Thế nên Kinh mới nói: “Các chúng sinh mà lưu chuyển thì luôn lấy ba đường ác làm nhà.

Cõi người trời thì chỉ tạm đến rồi đi, nên gọi là khách trọ là vậy.” Y theo Đại Trang Nghiêm Luận có khuyên tất cả chúng sinh thường tu gom hết tâm niệm vào ngay trước mặt qua bài kệ như sau: “Gặp năm sung không bệnh, giải đãi chẳng tinh tiến, ham kinh doanh sự nghiệp, chẳng tu thí, giới, thiền, khi chết đến nuốt trọn, mới hối cầu tu thiện. Người trí phải quán sát, đoạn trừ năm dục tưởng, tinh cần tu tập tâm, phút cuối chẳng hối hận. Tâm ý đã chuyên chí, không còn niệm rối sai, người trí chăm chú tâm, lâm chung ý chẳng tán. Không tập tâm chuyên chí, lâm chung hẳn tán loạn, khi tâm mà tán loạn, như dùng cối điều ngựa, như khi ngựa lâm chiến, lòng vòng không tiến thẳng.”

– Thứ năm. Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, lại bao kiếp lâu nay phải gặp nhiều Phật, thì nhân gì mà đến nay chính mình vẫn luân hồi sinh tử, không ra khỏi nhà lửa?

Đáp: Y theo thánh giáo của Đại Thừa thì giai do là không có được hai loại thắng pháp để gạt ngang sinh tử, thế nên không ra khỏi nhà lửa. Những pháp nào là hai? (1) Một là Thánh Đạo, (2) hai là vãng sinh Tịnh Độ.

Loại pháp Thánh Đạo này thời nay khó mà chứng được. Một là do đã cách bậc Đại Thánh quá xa rồi, hai là do lý quá thâm sâu hiểu quá vi tế. Thế nên Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh có nói: “trong giai đoạn thời mạt pháp của Ta, ức ức chúng sinh khởi sự thực hành tu Đạo, thì chẳng có được một người chứng đắc.”

Nay đúng lúc đương mạt pháp, lại hiện là đời ác năm trược, thì duy chỉ một môn Tịnh Độ này mới có thể là con đường thông thoát nhập Đạo. Thế nên Đại Kinh mới nói: “Nếu có chúng sinh cho dù một đời tạo ác, vào lúc lâm chung mà [có thể] xưng danh tự của Ta liên tục mười niệm, nếu người ấy không sinh [về cõi của Ta,] thì ta không nhận lấy chính giác.” Lại nữa tất cả chúng sinh đều không biết tự lượng [sức mình]. Nếu căn cứ theo Đại Thừa, thì [các vần đề như] chân như, thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, họ chưa từng bao giờ để tâm. Nếu luận theo Tiểu Thừa, thì nào [các pháp như] là tu nhập vào kiến đế, rồi hành tu đạo, cho đến [các thánh quả A] na hàm, La hán, đoạn năm hạ [phần kết sử], trừ năm thượng [phần kết sử] v.v… thì chẳng kể là đạo hay tục, chẳng ai trong họ có phần. Dầu đến quả báo trời người chăng nữa, thì đều do năm giới mười thiện mới chiêu cảm được quả báo ấy, mà người trì giới thiện lại thật là hiếm hoi. Còn nói đến khởi ác tạo tội thì chẳng khác gì cuồng phong bão táp. Thế nên chư Phật đại từ khuyến quay về Tịnh Độ, cho dù một đời tạo ác, chỉ cần trói ý mình lại, chuyên tinh thường chăm niệm Phật, thì tất cả các chướng tự nhiên tiêu trừ, chắc chắn được vãng sinh. Tại sao không chịu suy xét mà đều không có tâm đi [về Tịnh Độ] vậy?!

IV. Dẫn Thánh Giáo Chứng Rõ, Khuyên Cầu Vãng Sinh

Từ đây trở xuống là phần thứ tư dẫn thánh giáo chứng rõ khuyên cầu vãng sinh. Y theo Quán Phật Tam Muội Kinh có nói: “Lúc ấy trong hội có Tài Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn, con nhớ lại quá khứ cách đây vô lượng kiếp. có Phật ra đời cũng tên là Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi Phật ấy diệt, có một vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn tà kiến không tin chính pháp. Có vị Tỳ khưu thiện tri thức tên là Định Tự Tại bảo vương tử rằng: Trong đời này có một tượng Phật hết sức là đẹp. Vương tử tạm thời ghé vào trong tháp để ngắm hình tượng Phật ấy. Thời vị vương tử kia mới nghe theo lời bạn tốt ấy vào tháp ngắm tượng Phật. Thấy tượng tướng rất đẹp mới bạch Tỳ Khưu rằng: Đến tượng Phật mà còn đẹp như thế, thì huống gì là thân Phật thật. Tỳ Khưu liền nói rằng: Vương tử nay thấy tượng Phật mà nếu không lễ bái được thì hãy xưng nam mô Phật. [Vương tử làm theo lời, sau đó] về cung cứ nhớ tưởng mãi đến tượng Phật trong tháp. Đến đêm khuya mộng thấy tượng Phật, lòng rất hoan hỉ. [Nhờ đó] nên xả bỏ tà kiến, quy y Tam Bảo. Đến khi mạng chung, do trước đó vào tháp xưng Phật công đức, nên mới được gặp gỡ chín trăm ức na do tha chư Phật. Ở nơi chư Phật thường chăm tinh tiến, luôn được Niệm Phật tam muội. Do lực của Niệm Phật tam muội nên chư Phật hiện tiền trước mặt đều thọ ký cho. Từ đó trở đi trong trăm vạn a tăng kỳ kiếp không bị đọa ác đạo, cho đến ngày nay đạt được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Vị vương tử thuở ấy chính là Tài Thủ con ngày nay vậy.

“Lúc ấy trong hội có các chư đại Bồ Tát ở khắp mười phương, số đến vô lượng, mỗi vị đều nói về bổn duyên của mình đều do y nơi niệm Phật mà được. Phật bảo A Nan: Quán Phật tam muội này là thuốc chữa bệnh cho tất cả chúng sinh phạm tội, là hộ trì giới cho những kẻ phá giới, là người dẫn đạo cho những kẻ lạc đường, là cặp mắt sáng cho những kẻ mù lòa, là trí huệ cho những kẻ ngu si, là ngọn đèn soi cho những kẻ tăm tối, là bậc tướng đại dũng mãnh giữa bọn giặc phiền não, là nơi du hí của chư Phật Thế Tôn, là chỗ khởi thủy phát sinh ra các đại tam muội khác như Thủ Lăng Nghiêm v.v…

“Phật bảo A Nan: Nay ông hãy giữ gìn cho khéo [Niệm Phật tam muội này,] cẩn thận đừng để mất đi. Ba đời chư Phật quá khứ hiện tại vị lai đều nói lên Niệm Phật tam muội này vậy. Ta cùng mười phương chư Phật, và cùng ngàn Phật hiền kiếp, vào lúc bắt đầu phát tâm đều do nhân nơi năng lực của Niệm Phật tam muội này mà đắc được Trí biết được tất cả muôn loài.”

Lại như Mục Liên Sở Vấn Kinh có nói: “Phật bảo Mục Liên: Ví như vạn con sông hun hút chảy trôi, có các cây cỏ nổi trôi theo, cái trước chẳng ngó sau, cái sau chẳng nhìn trước, tất cả đều gặp nhau trong biển lớn. Thế gian này cũng vậy, tuy có giầu sang phú quý sung sướng gì nữa, thì rốt cuộc cũng không khỏi sinh lão bệnh tử chỉ do không tin kinh Phật. Làm người đời sau lại càng nguy hơn nữa, không thể nào sinh vào quốc độ của ngàn Phật được. Thế nên ta nói nước của Phật Vô Lượng Thọ là dễ vãng sinh, dễ có được, mà ai lại còn chẳng chịu vãng sinh, ngược lại lại theo phụng sự chín mươi lăm thứ ngoại đạo. Ta nói kẻ ấy là kẻ không mắt, là kẻ không tai.”

Kinh giáo đã nói như thế, thì sao không chịu xả bỏ con đường khó mà y theo con đường dễ hành đi thôi!

An Lạc Tập Quyển Thượng hết

Trang: 1 2