A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 18
Phẩm thứ 6: PHÂN BIỆT THÁNH ĐẠO QUẢ NHÂN, phần 3
Lại nữa, như phàm phu sinh nơi địa của định thứ nhất trở lên, do xả bỏ Hoặc của cõi dục nên đạt đến diệt lìa cùng với Hoặc kia lại không tương ưng. Ở cõi kia cũng như vậy. Như thế lối giải thích này không phải là chứng cứ.
Lại do địa nào, từ nơi địa nào được lìa dục?
Kệ nói:
Do phi chí vô lưu
Lìa dục tất cả địa.
Giải thích: Nếu dựa vào địa của định phi chí (định vị chí), tu đạo vô lưu, thì có thể lìa dục nơi tất cả địa, cho đến xứ Hữu đảnh. Nếu người dựa vào định cận phần thì được lìa dục của địa dưới, vì như đạo vô gián, tất cả đạo giải thoát cũng từ định cận phần dấy khởi.
Nếu không phải thì sao?
Kệ nói:
Từ sau cận phần định
Đạo thoát ba địa hơn.
Giải thích: Địa sinh của tất cả chúng sinh có chín thứ. Nghĩa là cõi dục, bốn định sắc, bốn định vô sắc. Trong đây, từ cõi dục lìa dục, cho đến lìa dục của định thứ hai, gọi là ba địa hơn. Nơi ba địa này, đạo giải thoát sau cùng, hoặc từ định cận phần khởi, hoặc từ định căn bản khởi.
Kệ nói: Không cận phần trên.
Giải thích: Từ ba địa hơn trở lên, tất cả đạo giải thoát sau cùng đều từ định căn bản khởi, đều không từ định cận phần khởi, vì xả bỏ căn bình đẳng. Định cận phần và định căn bản ở trong ba định, do thọ căn khác, nên có người khác không thể nhập định căn bản, vì tu hành chung căn khó thành. Thế nên ở ba địa lìa dục, đạo giải thoát sau cùng cũng được từ định cận phần khởi. Do định phi chí vô lưu được lìa dục nơi tất cả địa. Nghĩa này như đã nói. Do địa khác chưa nói tức nay nên nói.
Kệ nói: Do tám tự diệt trên.
Giải thích: Tức do tám thứ định vô lưu nên được lìa dục. Nghĩa là định sắc, định trung gian, định vô sắc, từ tự địa và địa trên đều được lìa dục, không phải từ địa dưới, vì trước đã lìa dục. Trong đây: Đạo vô gián, đạo giải thoát xuất thế duyên nơi bốn đế làm cảnh, như mười sáu tướng của đế khởi, nghĩa này tự thành.
Kệ nói:
Đạo vô gián giải thoát
Thế gian như thứ lớp
Tịch tĩnh cùng thô trọng
Cảnh địa trên dưới tưởng.
Giải thích: Đạo giải thoát khởi lấy tịch tĩnh v.v… làm tướng. Đạo vô gián khởi lấy thô trọng v.v… làm tướng. Hai đạo này như thứ lớp kia, thứ nhất duyên nơi địa trên làm cảnh khởi. Thứ hai là duyên nơi địa dưới làm cảnh khởi. Nếu giải thoát xét lường về địa trên, tức duyên nơi tịch tĩnh mỹ diệu xuất ly tùy theo một tướng. Nếu đạo vô gián xét lường về địa dưới, tức duyên nơi thô trọng, bức não, vách dày, tùy theo một tướng. Do không tịch tĩnh nên gọi là thô trọng. Do dụng công lớn để thành không phải là mỹ diệu, nên gọi là bức não. Do có nhiều lỗi lầm có thể trái nghịch, tức không được xuất ly khởi địa này, nên gọi là vách dày. Ví như tội nhân không lìa lao ngục, vì chướng nặng. Trái với tướng này, nên biết là nghĩa của tướng tịch tĩnh mỹ diệu xuất ly.
Đã nói về chỗ tùy thuận gốc ứng hợp với nghĩa khác xong.
Lại nữa, từ sau tận trí vô gián, trí nào được sinh?
Kệ nói:
Nếu không hoại, tận trí
Vô sinh sau, không sinh
Tận trí hoặc vô học Chánh kiến.
Giải thích: Nếu người A-la-hán thành tựu pháp không hoại, thì từ sau tận trí vô gián, vô sinh trí tất sinh, không phải tận trí, chánh kiến vô học sinh. Nếu không phải là người của pháp không hoại, thì từ tận trí lại sinh tận trí, hoặc sinh chánh kiến vô học, không phải là vô sinh trí, do có thoái đọa.
Lại nữa, chánh kiến vô học này đối với A-la-hán bất hoại là tất không sinh chăng?
Kệ nói: Đây ứng chung.
Giải thích: Nếu A-la-hán của pháp không hoại, từ sau vô sinh trí, có khi vô sinh trí lại sinh, có khi chánh kiến vô học sinh. Vì sao? Vì chánh kiến này đối với tất cả A-la-hán đều chung không có sai biệt, là bốn quả đã nói ở trước.
Quả này thuộc về pháp nào?
Là quả Sa-môn nhã.
Pháp nào gọi là Sa-môn nhã?
Kệ nói: Sa-môn đạo vô cấu.
Giải thích: Nếu đạo là vô lưu, gọi là Sa-môn nhã. Do người của đạo này, thành Sa-môn nhã, vì có thể làm tĩnh lặng các Hoặc. Như kinh nói: Người này có thể làm tĩnh lặng nhiều thứ pháp ác, là không ứng với pháp tuệ, là pháp nhiễm ô tùy thuận nơi sinh tử có thể chiêu cảm hữu sau, cho đến lão tử, nên gọi là Sa-môn nhã. Phàm phu không tất định có thể làm tĩnh lặng các thứ ác, nên không phải Sa-môn nhã chân thật.
Lại nữa, Sa-môn nhã này pháp nào là quả?
Kệ nói: Quả hữu vi, vô vi.
Giải thích: Pháp hữu vi vô vi là quả của Sa-môn nhã. Quả này ở trước đã nói, có bốn thứ. Nghĩa là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán. Như kinh nói: Quả của Tỳ-kheo Sa-môn nhã có bốn thứ. Nói rộng như kinh.
Lại nữa, quả này có bao nhiêu loại?
Kệ nói: Một kia giảm chín mươi.
Giải thích: Sa-môn nhã này, quả của Sa-môn nhã là hữu vi, vô vi, đều có tám mươi chín.
Đây là pháp gì?
Kệ nói: Đạo giải thoát cùng diệt.
Giải thích: Vì diệt kiến Hoặc, có tám đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Vì diệt tu Hoặc, nên ở nơi chín địa đều có chín phẩm đạo vô gián, đều diệt chín phẩm Hoặc, đều có chín phẩm đạo giải thoát. Trong đây: Tất cả đạo vô gián gọi là Sa-môn nhã. Tất cả đạo giải thoát gọi là quả Sa-môn nhã hữu vi, là quả đẳng lưu và quả công sức của đạo vô gián. Các hoặc đều lìa diệt gọi là quả Sa-môn nhã vô vi. Do nghĩa như thế nên quả hữu vi, vô vi đều có giảm một nơi chín mươi thứ.
Nếu như vậy đối với Đức Phật, Thế Tôn, nghĩa này tức nên hợp phân biệt, không thể phân biệt, nếu quả rất nhiều.
Kệ nói:
Thành lập bốn thứ quả Do năm nhân có đủ.
Giải thích: Ở trong phần vị diệt, đạo, nếu có đủ năm nhân, thì ở nơi phần vị này, Đức Phật, Thế Tôn an lập quả Sa-môn nhã.
Những gì là năm nhân?
Kệ nói:
Xả trước được đạo riêng
Được quả, quả diệt chung
Cùng đến đắc tám trí
Tu tập mười sáu hành.
Giải thích:
-
- Trước lìa bỏ đạo trước.
- Đến đắc đạo chưa từng được. Do lìa bỏ, dẫn đến đắc hướng đạo, đạo quả.
- Hợp số dẫn đến đắc diệt. Do một đã đạt được nên dẫn đến đắc tất cả diệt.
- Nơi một thời đạt được tám trí.
- Bốn pháp trí và loại trí.
Tu tập mười sáu tướng của đế, nghĩa là tướng như vô thường v.v… Năm nhân như thế, mỗi mỗi quả đều có năm nhân này, không thể ở trong quả Phật lập. Nếu chỉ là đạo vô lưu thì gọi là Sa-môn nhã.
Vì sao đạo thế gian đã được hai thứ quả, gọi là quả Sa-môn nhã?
Kệ nói:
Đạo thế gian được lìa
Được quả giữ vô lưu.
Giải thích: Ở trong hai quả, không chỉ dùng diệt của đạo thế gian làm quả. Nghĩa là quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm.
Thế nào là diệt của quả kiến đạo? Là ở trong đó cùng lìa, đồng nhất dẫn đến đắc, gồm thâu tất cả diệt, vì mỗi mỗi quả. Thế nên trong kinh nói: Thế nào là quả Tư-đà-hàm? Nghĩa là ba kiết đã diệt lìa cùng dục sân, si đã mỏng yếu. Thế nào là quả A-na-hàm? Nghĩa là năm kiết phần dưới đã diệt lìa, do đạo vô lưu dẫn đến được diệt lìa, nên đạo này được duy trì. Do sức của đạo vô lưu, nên đến chết cũng không thoái mất. Thế nên diệt này như lý nên thành quả Sa-môn nhã. Tức trước đã nói, gọi là quả Sa-môn nhã. Lại nữa, ở đây kệ nói:
Bà-la-môn Phạm luân
Nói đấy là phạm chuyển.
Giải thích: Do có thể trừ sạch các Hoặc, nên gọi là Bà-la-môn, hoặc gọi là Phạm luân, do phạm chuyển, nên cùng với pháp phạm vô thượng tương ưng. Tức nói Đức Phật Thế Tôn gọi là Phu-lam-ma, như trong kinh nói: Đức Thế Tôn là Phu-lam-ma, tịch tĩnh như thế, trong mát như thế. Nói rộng như kinh. Do vậy Đức Phật Thế Tôn gọi là Phu-lam-ma. Luân này là luân của Phật, Thế Tôn, nên gọi là phạm luân, vì chỉ Đức Phật, Thế Tôn đã chuyển.
Kệ nói: Pháp luân gọi kiến đạo.
Giải thích: Luân là nghĩa gì? Nhân đấy được hành nên gọi là luân. Do kiến đạo giống như luân (Bánh xe), nên nói pháp này gọi là luân.
Thế nào là giống nhau?
Kệ nói: Đi nhanh cùng tăm xe.
Giải thích: Do đi nhanh nên giống như bánh xe (luân). Do bỏ đây đi đến kia. Do chưa chế phục thì có thể chế phục. Đã chế phục thì trấn giữ khiến không mất. Do từ dưới hướng lên trên, từ trên hướng xuống dưới. Do nghĩa đi nhanh này v.v… Nói giống như bánh xe là do nghĩa như tăm xe v.v… Tám phần Thánh đạo, do nghĩa tăm xe v.v… giống như bánh xe. Đại đức Cù Sa nói: Đây gọi là bánh xe (luân). Chánh kiến, chánh giác, chánh tấn, chánh niệm: Bốn pháp này giống như tăm xe. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng: Ba pháp này giống như bầu xe. Chánh định: Một pháp này giống như vành bánh xe. Vì thế kiến đạo gọi là pháp luân, lập kiến đạo này là là pháp luân.
Dùng pháp nào làm chứng?
Tức là lúc Thánh giả Kiều Trần Như sinh kiến đạo, do đấy nói Đức Thế Tôn đã chuyển pháp luân.
Thế nào là ba chuyển, mười hai tướng?
Pháp này là khổ Thánh đế. Đế này nên nhận biết. Pháp này đã nhận biết. Ba lần chuyển như thế. Ở trong mỗi mỗi lần chuyển thì pháp nhãn thành, trí thành, minh thành, tuệ thành.
Ba lần chuyển như thế cùng bốn tướng đế đế đều có. Do đồng là ba và mười hai, nên nói ba chuyển, mười hai tướng. Ví như nói thông tuệ đối với hai xứ, bảy xứ. Do chuyển này nên kiến đạo, tu đạo, vô học đạo, như số đã hiển hiện. Sư Tỳ-bà-sa đã nói như thế.
Nếu giải thích như thế, không chỉ kiến đạo có ba chuyển, mười hai tướng, làm sao an lập đây là pháp luân?
Do pháp môn này vốn gọi là pháp luân, trong đây cũng có đủ ba chuyển, mười hai tướng.
Nếu như vậy, thế nào là ba chuyển?
Ở đấy ba lượt chuyển bốn đế.
Thế nào là mười hai tướng?
Ba lượt tư duy về bốn Thánh đế. Nghĩa là pháp này gọi là khổ Thánh đế cùng tập, diệt, đạo Thánh đế. Pháp này tất nên nhận biết, tất nên diệt trừ, tất nên chứng đắc, tất nên tu tập. Pháp này đã nhận biết, đã diệt trừ, đã chứng đắc, đã tu tập.
Thế nào gọi là chuyển?
Do hành độ tha nối tiếp khiến cho chúng sinh kia hiểu được nghĩa này.
Lại nữa, tất cả Thánh đạo đều là pháp luân. Do có thể hành trì hóa độ nơi đệ tử nối tiếp, nên pháp này đối với người khác được nối tiếp. Do sinh khởi kiến đạo, nên đang được chuyển, nói là đã chuyển.
Lại nữa, ở trong cõi nào được bao nhiêu quả Sa-môn nhã?
Kệ nói: Dục ba, sau ba cõi.
Giải thích: Chỉ ở trong cõi dục được ba quả. Nơi cõi khác không có quả Sa-môn nhã sau cùng. Nghĩa là A-la-hán. Quả này ở nơi ba cõi được chung. Hai quả trước này, người chưa lìa dục cũng đạt được, ở trên thì không được. Nghĩa này hợp lý.
Quả thứ ba vì sao ở cõi trên không nên được?
Kệ nói: Cõi trên không kiến đạo.
Giải thích: Ở trên cõi dục không có kiến đạo. Nếu người lìa đạo này đã được lìa dục, dẫn đến chứng đắc quả A-na-hàm, thì không có điều ấy. Do nghĩa này, thế nên chỉ ở cõi dục mới có ba quả.
Do nhân gì ở nơi địa trên không có kiến đạo. vì nơi cõi vô sắc không có việc nghe chánh pháp, nên không thể duyên nơi cảnh giới dưới, tức trong cõi sắc không có kiến đạo?
Kệ nói:
Không chán nên đây tạo Kinh nói cứu cánh kia.
Giải thích: Phàm phu nơi cõi sắc, do ái chấp về lạc của Tamma-bạt đề, do không có khổ thọ, nên không sinh tâm chán ghét. Nếu lìa chán ghét, thì không có đạo lý riêng có thể dẫn sinh Thánh đạo. Như thế v.v… gọi là đạo lý, cũng có A-hàm (giáo pháp) làm chứng.
Kinh nói có năm người ở đây tạo tác, ở kia đạt cứu cánh.
Những gì là năm?
Là từ trung diệt cho đến thượng lưu. Tạo tác: Nghĩa là đầu tiên phát khởi tu kiến đạo, là chánh phương tiện của Niết-bàn. Cứu cánh: Nghĩa là dẫn đến chứng đắc quả A-la-hán. Do kinh này nên biết ở cõi trên không có kiến đạo. nghĩa này ở trước đã nói. Nếu A-la-hán pháp không hoại, sau tận trí, tất sinh vô sinh trí.
A-la-hán là có sai biệt chăng?
Nói là có.
Kệ nói: A-la-hán có sáu.
Giải thích: Ở trong kinh nói A-la-hán có sáu tánh: (1) Pháp thoái đọa. (2) Pháp tự hại. (3) Pháp giữ gìn. (4) Pháp trụ không động. (5) Pháp thông đạt, ứng hợp. (6) Pháp không hoại.
Kệ nói: Tánh năm tín lạc trước.
Giải thích: Trừ một người của pháp không hoại, năm người còn lại, tín lạc được xem là trước hết.
Kệ nói: Kia thoát dựa thời ái.
Giải thích: Năm người này nên biết, giải thoát kia dựa vào thời gian được thành cùng chỗ ái tột bậc, luôn giữ gìn, thế nên nói người A-la-hán kia là có thời giải thoát. Người A-la-hán kia quán thời gian tức được giải thoát. Do trừ quán chữ, nên nói thời giải thoát. Ví như tô lạc đựng trong bình. Vì sao? Vì người kia tu Tam-ma-đề hiện tiền, tất quán thời gian thành thời gian. Nghĩa là thời gian mạng duyên nơi trú xứ không có bệnh. Quán thời này thì A-la-hán câu giải thoát kia thành.
Kệ nói: Pháp bất hoại không hoại.
Giải thích: Nếu A-la-hán không hoại đã được giải thoát, thì luôn thành không bị hủy hoại, do không có thoái đọa.
Kệ nói: Nên phi thời giải thoát.
Giải thích: Vì thế nói người này không dựa nơi thời gian để giải thoát. Vì sao? Vì người này không quán thời gian, luôn giải thoát như ý, vì có thể tu tập Tam-ma-đề hiện tiền.
Lại nữa, do tạm thời hoặc vĩnh viễn thời được giải thoát, nên lập người kia là hữu thời giải thoát, vô thời giải thoát, do có nghĩa thoái mất, không thoái mất.
Kệ nói: Đây trước loại kiến chí.
Giải thích: A-la-hán pháp không hoại này, ở trong vị học nên biết kiến chí là tánh.
Sáu A-la-hán này là từ đầu có sáu tánh hay là về sau mới được sáu tánh?
Kệ nói:
Có khác vốn được tánh
Có khác luyện căn được.
Giải thích: Có người từ đầu vốn dùng thoái đọa làm tánh. Có người từ đầu vốn dùng tự hại làm tánh. Tánh còn lại cũng như vậy.
Lại nữa, có người trước dùng pháp thoái đọa làm tánh. Về sau, do tu hành luyện căn, lại tiến tới được pháp tự hại làm tánh, cho đến tiến tới được pháp không hoại làm tánh, nên biết cũng như thế.
Ở đây, pháp thoái đọa: Nếu người tất định từ pháp đã đạt được, thoái đọa, thì không thể được pháp tự hại làm tánh.
Pháp tự hại: Nghĩa là nếu người tất định nên sát hại thân mình.
Pháp giữ gìn: Nếu người tùy theo điều mình đã đạt được, tất định nên giữ gìn.
Pháp trụ không động: Nếu người lìa khỏi nhân duyên thoái đọa rất mạnh, tuy không luôn giữ gìn nhưng tất định nên trụ ở chỗ đã đạt được không động. Vì không thoái đọa, vì lìa gia hạnh, nên không được tăng tiến.
Pháp thông đạt: Nếu người vào thời gian sau, tất định thông suốt, dùng pháp không hoại làm tánh.
Pháp không hoại: Nghĩa là nếu người tất định không như người trước có thoái đọa.
Hai người trước ở trong phần vị hữu học, không luôn tu và tôn trọng tu, chỉ căn có khác. Người thứ ba luôn tu gia hạnh, căn độn. Người thứ tư tôn trọng tu gia hạnh, căn lợi. Người thứ năm đủ hai thứ tu, chỉ căn độn. Người thứ sáu đủ đức hai tu, tuệ căn rất thông lợi.
Người của pháp thoái đọa thứ nhất, không phải tất định nên có thoái đọa. Cho đến người của pháp thông đạt, không phải tất định nên có thông đạt. Pháp không hoại chỉ căn cứ nơi có nghĩa, nên nói danh hiệu này. Nếu người giải thích như thế, tức ở trong ba cõi đều có đủ sáu A-la-hán. Nghĩa này không trái nhau. Nếu người giải thích như kia, tất định có các sự việc như thoái đọa v.v… cho đến thông đạt. Người kia ở trong cõi dục có sáu A-la-hán, cõi sắc, vô sắc chỉ có hai. Nghĩa là pháp trụ không động và pháp không hoại. Hai người này lại thoái đọa thành tự hại, tu hành luyện căn, sự việc này là không có.
Trong sáu người này, người nào bị thoái đọa? Từ pháp nào thoái đọa hay là từ quả, hay là từ tánh?
Kệ nói:
Tánh thoái có bốn người Năm thoái quả.
Giải thích: Bốn người như tự hại v.v… từ tánh thoái. Vì sao? Vì người của pháp thoái đọa không còn từ tự tánh thoái đọa. Năm người như pháp thoái đọa đều từ quả thoái. Năm người này tuy thoái:
Kệ nói: Không trước.
Giải thích: Nếu người trước đã được tánh, người này không từ tánh ấy thoái. Do đạo hữu học, đạo vô học đã thành tựu, khiến cho chắc thật. Nếu là tánh hữu học, thì đạo thế gian, xuất thế gian đã thành tựu cũng không có thoái. Do tu hành luyện căn, về sau đã được tánh thì tánh này có thoái. Nếu người đạt được quả thứ nhất thì người này từ quả thứ nhất không có thoái, từ quả khác thì có thể thoái. Thế nên từ quả Tu-đàhoàn không có thoái đọa. Nếu tạo ra giải thích như vậy thì pháp thoái có ba người: (1) Ở trong tánh thoái đọa nhập Niết-bàn. (2) Tu luyện căn được tánh thì có thể thoái đọa. (3) Thoái đọa vào hàng hữu học.
Tự hại có bốn. Ba người như trước đã nói. Người thứ tư tánh trở lại thoái đọa. Như thế ba người còn lại tăng mỗi mỗi phẩm. Như thứ lớp nên biết thành năm, sáu, bảy người, là tánh vốn đã được. Nếu thoái chuyển thành người hữu học, ở đây được trụ không trụ tánh khác. Nếu không như vậy thì do được tánh tăng trưởng, chuyển tăng không thành thoái đọa.
Lại có nhân gì nên từ quả thứ nhất không thoái đọa?
Kệ nói: Vì kiến Hoặc không loại.
Giải thích: Thế nào là không loại? Tất cả Hoặc do kiến đế diệt trừ, đều dựa vào ngã sinh khởi. Hoặc kia lấy thân kiến làm căn bản. Thân kiến này đã dựa vào ngã, tất định vĩnh viễn là không nên nói không loại.
Nếu như vậy hoặc kia tức nên thành duyên nơi cảnh vô vi, không phải duyên nơi cảnh vô vi, do duyên nơi đế làm cảnh, nên ở trong đế, không như phân biệt làm cảnh.
Nếu như vậy, Hoặc nào không thế, có sai biệt? Vì sao? Vì ngã kiến đối với loại như sắc v.v…, do người tạo tác, người thọ nhận, người tự tại, phân biệt, nên tăng ích, không phải thật có khiến tánh ngã khởi.
Do thân kiến làm chỗ nương dựa, các Hoặc như biên kiến v.v… còn lại sinh khởi. Thế nên nói là vô loại. Hoặc do tu đạo diệt trừ là dục, sân, mạn, vô minh. Ở trong loại như sắc v.v… ái tăng thượng khởi, lấy không hiểu rõ làm tự tánh sinh khởi. Thế nên nói có loại. Vì sao? Vì Hoặc kia có cảnh giới vi tế tịnh v.v… Do duyên nơi cảnh ấy, nên thân kiến kia được khởi ngã v.v… đều rất rõ.
Lại nữa, Hoặc do tu đạo diệt trừ có loại cảnh và mỗi mỗi cảnh đều cùng đối nghịch. Nghĩa là đáng yêu thích, không đáng yêu thích v.v… Hết thảy Hoặc do kiến đế diệt trừ, đều lấy chung tướng như ngã v.v… làm cảnh v.v… Thế nên không có mỗi loại cảnh đều cùng đối nghịch.
Lại nữa, cảnh nơi đối tượng duyên của kiến đạo nghĩa là vô thường, khổ, không, vô ngã, chân thật là có, nên không phải là đối tượng duyên của đạo thế gian. Đối với sinh tử vô thủy, trước chưa từng được chứng kiến, vì thế quả thứ nhất không có sự việc thoái đọa.
Lại nữa, nếu Thánh nhân không chí tâm quán xét, do niệm niệm quên mất, thì tu Hoặc tức khởi. Nếu chí tâm quán xét thì Hoặc kia không thể khởi. Ví như đối với sợi dây buộc, khởi tưởng là con rắn. Nếu người luôn dốc sức quán xét thì các Hoặc như ngã kiến v.v… tức không thể sinh khởi, vì các nhận thức do hiểu rõ, quyết đoán. Do vậy Thánh nhân từ Hoặc do kiến đế đoạn trừ không có nghĩa thoái thất.
Sư Kinh Bộ cho: Từ quả A-la-hán, không có nghĩa thoái thất. Nghĩa này là chân thật, hợp lý.
Làm sao có thể nhận biết?
Do A-hàm cùng đạo lý. Ở đây là gì? Kinh A Hàm nói: Tỳ-kheo! Đây là chân diệt, đều do Thánh trí đã diệt trừ.
Lại nữa, kệ nói: Nói việc không phóng dật.
Giải thích: Kinh nói: Người hữu học ở trong chốn không có phóng dật, ta nói tất có sự việc không phóng dật. Đối với A-la-hán, ta không nói.
Nếu ông nói, đối với A-la-hán cũng có sự việc không phóng dật. Như kinh nói: A-nan! Đối với người A-la-hán, những việc như lợi dưỡng, tiếng khen v.v…, ta nói cũng có thể làm chướng ngại. Nghĩa này không hợp lý, vì kinh này đã nói sự thoái chuyển, chỉ nói từ hiện pháp an lạc trụ thoái, là tâm giải thoát không hoại, là thân xưa nay đã chứng. Ta nói từ thân này, không có nhân duyên riêng có thể khiến A-la-hán thoái đọa.
Nếu ông nói từ dựa vào thời giải thoát có thoái đọa, thì nghĩa này có thể đúng. Chúng ta cũng nói như thế: Đây là căn cứ nơi nghĩa của thời giải thoát. Nên cần phải suy xét, xem là quả A-la-hán hay là chín định? Hoặc là định căn bản và Tam-ma-đề căn bản?
Làm sao biết được là dựa vào thời gian hiện tiền, nên gọi là dựa vào thời giải thoát? Vì trụ nơi an lạc của hiện đời, do thường xuyên tìm cầu, tu tập, nên nói là đã tham ái.
Có Sư khác cho: Là ứng hợp với vị đã ăn, nên nói là đã tham ái. A-la-hán giải thoát luôn cùng gắn bó nên không thể cho là dựa vào thời gian, nên không phải là đã tham ái, không thể lập làm đối tượng tham ái. Nếu từ quả A-la-hán có thoái đọa thì về lý là thế nào?
Đức Phật Thế Tôn nói: Chỉ từ việc dựa vào tâm học, trụ an lạc nơi hiện đời thì có thoái đọa.
Thế nên phải biết nghĩa này. Nghĩa là tất cả A-la-hán giải thoát, tất là pháp không hoại. Từ trụ an lạc nơi hiện đời, A-la-hán có thoái chuyển. Do lợi dưỡng, khen ngợi v.v…, khiến tâm tán loạn, do tự tại bị thoái mất, do căn độn. Có người cũng không thoái đọa như người lợi căn. Trong trường hợp này, nếu có thoái thất gọi là A-la-hán pháp thoái. Nếu không thoái thất thì gọi là A-la-hán pháp bất thoái. Về nghĩa của pháp tự hại v.v… nên tư duy như thế.
Pháp bất thoái, pháp bất hoại, pháp trụ bất động, ba người này có khác biệt gì?
Người của pháp bất thoái không phải do luyện căn mà đạt được.
Người của pháp bất hoại do duyên căn nên đạt được, Hai người này tùy vào pháp mình đã tu mà đạt được Tam-ma-bạt-đề có sai biệt. Từ đây không có thoái đọa.
Người của pháp trụ bất động, tùy trụ ở trong công đức do mình đã được. Từ công đức này, tất định bất thoái, cũng không tăng tiến sinh công đức khác. Nếu sinh công đức khác, thì từ đấy liền động. Như thế nên biết là ba người có khác biệt.
Kệ nói: Thời giải thoát Cù-đề.
Giải thích: Tịnh mạng Cù-đề-kha ở trong vị học, do thường xuyên tham đắm vị định, vì căn độn, nên từ dựa vào thời giải thoát bị thoái đọa, sinh tâm lo lắng, ăn năn, muốn bỏ thân mạng, cầm đao tự hại. Khi sắp chết, chứng đắc A-la-hán, liền nhập Niết-bàn. Thế nên, Cù-đề-kha không phải là quả A-la-hán thoái thất. Trong Thập Tăng nói lời này: Có một pháp tất định nên sinh, nghĩa là dựa vào thời gian đã yêu thích khiến tâm giải thoát. Lại có một pháp tất định nên chứng, nghĩa là pháp không hoại khiến tâm giải thoát. Nếu dựa nơi thời gian đã yêu thích, khiến tâm giải thoát là quả A-la-hán.
Vì sao ở trong mười tạo ra hai lượt để nói?
Vì ở xứ khác, không từng nghe nói sau A-la-hán lại nêu sinh.
Thế nào là văn tất định có thể chứng?
Như ông nói: Quả A-la-hán thuộc về căn độn, tất nên lại sinh.
Văn của kinh này muốn chứng về nghĩa gì?
Nếu ông nói: Muốn làm rõ về quả sinh là có công năng, nên dùng văn này để làm chứng.
Nếu như vậy, đối với quả khác cũng có thể lấy văn này làm chứng. Nếu ông nói: Vì quả này nên sinh, nên nói là ứng hợp với sinh. Quả khác ứng hợp với sinh tột bực, thế nên dựa vào thời giải thoát, không phải là quả A-la-hán. Nếu thế thì vì sao nói A-la-hán là dựa nơi thời giải thoát?
Nếu người A-la-hán do căn độn, nên hiện tiền khi tu Tam-mađề được thành, nói đây là dựa nơi thời giải thoát. Trái với đây là phi thời giải thoát.
Tạng A-tỳ-đạt-ma nói: Do có ba xứ dục tùy miên của cõi dục sinh khởi nơi tâm trên. Những gì là ba? (1) Dục tùy miên của cõi dục chưa được diệt lìa. (2) Tùy pháp dục nơi tâm trên của cõi dục đối với căn hiện tiền. (3) Ở trong đó khởi tư duy không như.
Nếu ông nói văn này vì dựa đủ nơi nhân sinh Hoặc nên nói. Vậy Hoặc nào do không đủ nhân vẫn được sinh?
Căn cứ nơi A-hàm để chứng minh nghĩa không thoái.
Như thế làm sao do đạo lý, nếu người A-la-hán đã được đối trị như vậy?
Do tất cả Hoặc này dẫn đến vĩnh viễn không sinh là pháp.
Vì sao lại thoái chuyển, nếu đối trị này chưa sinh? Thế nào là các lưu được tận do chưa vĩnh viễn nhổ sạch chủng tử Hoặc, lại sinh là pháp?
Nếu lưu chưa trừ hết làm sao gọi là A-la-hán?
Dựa vào đạo lý để chứng về nghĩa không thoái thất như vậy.
Kệ nói: Do đống lửa ví thoái.
Giải thích: Nếu như vậy thì Kinh Hỏa Tụ Thí ông phải nên biện hộ. Kinh này nói: Đệ tử Thánh đa văn hành như thế, trụ như thế, có thời, có xứ. Do niệm bị quên mất, nên lại sinh giác quán (tầm tứ) xấu ác, không ứng hợp với tuệ. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì trong văn này không định hiển bày về A-la-hán.
Làm sao nhận biết?
Do kinh này nói: Tâm A-la-hán trong thời gian dài quy hướng về nẻo không tịch, cho đến nhập Niết-bàn. Do lời nói này, nên biết ở trước không phải chứng. Lai có, trong kinh khác nói: A-la-hán có lực như thế, do các pháp của tất cả xứ lưu hành, A-la-hán luôn lúc nào cũng trong mát, luôn lúc nào cũng tịch tĩnh. Do lời nói ấy, nên ở trước không phải là chứng. Có lời nói như thế, cho đến chưa lìa bỏ hành.
Nếu như vậy người hữu học ở trong hành cũng có nghĩa này. Ở trong sự việc Hoặc sinh khởi, Kinh Hỏa Tụ Thí do dựa nơi bậc hữu học để nói, nên đối với A-la-hán không có lỗi như vậy. Sư Tỳ-bà-sa nói: Các người A-la-hán từ quả có thể thoái chuyển. Vì chỉ A-la-hán có sáu tánh hay là người khác cũng có.
Kệ nói: Phàm, người học: Sáu tánh.
Giải thích: Không chỉ A-la-hán có sáu tánh, phàm phu và người hữu học đều có sáu tánh. Vì sao? Vì sáu tánh của A-la-hán này lấy thứ lớp nơi sáu tánh kia làm trước.
Lại nữa, kệ nói: Kiến đạo không luyện căn.
Giải thích: Ở xứ khác với kiến đạo, có tu hành luyện căn. Trong kiến đạo thì không có, vì tu gia hạnh không kịp. Có người ở trong phần vị phàm phu tu vượt qua căn khác. Có người ở trong phần vị do tin ưa đạt được, tu hành luyện căn. Trong kinh nói: Người này có được bốn thứ dựa vào tâm, trụ an lạc nơi hiện pháp. Từ đấy, tùy theo một ngã nói có bị thoái đọa, là tâm giải thoát không hoại. Chỉ một người A-la-hán, xưa nay đã thân chứng, ta nói không có nhân duyên riêng để có thể khiến A-la-hán từ đấy thoái đọa.
Thế nào là A-la-hán pháp không hoại?
Từ trụ an lạc nơi hiện đời bị thoái đọa.
Kệ nói:
Thoái đọa có ba thứ
Được, chưa được, dung.
Giải thích: Đã được rồi thoái đọa: Nghĩa là nếu người từ công đức đã được thoái thất. Chưa được mà thoái đọa: Nghĩa là nếu người không thể đạt được công đức nên được. Thọ dụng thoái đọa: Nghĩa là nếu người đã được công đức, không khiến hiện tiền.
Trong ba thứ thoái chuyển này:
Kệ nói:
Sau cùng Phật không hoại Trung gian khác có ba.
Giải thích: Đức Phật, Thế Tôn chỉ có thoái thất nơi thọ dụng trọn vẹn, do Đức Như Lai hoàn toàn hành tác sự việc tạo lợi ích cho người khác. A-la-hán pháp không hoại có thọ dụng thoái đọa và thoái đọa do chưa được. Nghĩa là từ nơi người pháp thù thắng có sai biệt, do chưa dẫn đến chứng đắc. Các A-la-hán còn lại cũng có ba thứ thoái đọa: đã được, chưa được và thọ dụng. Hai sự việc này có thể nhận biết. Do kinh căn cứ ở sự thoái đọa nơi thọ dụng để nói về thoái đọa, lập A-la-hán pháp không hoại là không thoái thất. Điều này không trái với kinh. Thế nên tất cả giải thoát vô lưu đều không thể hoại. Như đã nói, an lập nghĩa A-la-hán pháp không hoại. Nghĩa này là như, chẳng phải là không như. Vì thế nghĩa này không thể vấn nạn. Tức các A-la-hán đều lấy không hoại làm pháp. Đây gọi là làm rõ nghĩa không hoại.
Lại nữa, như Tỳ-bà-sa nói: Nếu có A-la-hán thoái chuyển nơi quả A-la-hán, thì A-la-hán này là còn thọ sinh chăng? Không còn thọ dụng sinh. Làm sao nhận biết được?
Kệ nói: Vì thoái không chết.
Giải thích: Không có một người nào từ quả Thánh thoái chuyển ở trong phần vị thoái chuyển xả mạng. Vì sao? Vì như kinh nói: Tỳkheo! Đệ tử bậc Thánh nếu quên mất nhớ nghĩ tức thảy đều chậm trễ. Tuy vậy, nếu diệt trừ sự quên mất này thì nhanh chóng được diệt tận. Do kinh này nói, thế nên không có nghĩa chết. Nếu không như vậy thì chính phạm hạnh này không có thể nghỉ ngơi, an ổn.
Nếu người từ quả này thoái chuyển, là quả xưa kia đã trụ, không phải là sự việc đã tạo, thì có tạo nữa không?
Kệ nói: Không tạo, không chỗ tạo.
Giải thích: Nếu người đã thoái thất, không còn tạo tác, thì cùng với sự việc của quả trước kia là trái nhau. Ví như người tráng kiện, tuy bị vấp ngã cũng không bị khập khiễng.
Nếu người tu hành luyện căn thì có bao nhiêu đạo vô gián và đạo giải thoát?
Kệ nói:
Vô gián, giải thoát chín Không hoại.
Giải thích: Nếu người cầu thông đạt tánh của pháp không hoại, là người của pháp thông đạt đã tu, thì có chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Ví như người cầu chứng đắc quả A-la-hán với đạo vô gián, giải thoát.
Vì sao như thế?
Là tánh của căn loại hạ.
Kệ nói: Do sự lâu.
Giải thích: Người này ở nơi thời gian dài đã thường tu tập tánh của căn phần hạ. Căn này do công dụng của phần ít nên không thể xoay chuyển. Do đạo hữu học, vô học đã thành chắc thật.
Kệ nói: Ở kiến chí một một.
Giải thích: Nếu người muốn thông đạt tánh của kiến chí, tu đạo vô gián chỉ một thứ, đạo giải thoát cũng một thứ, trong đó, đạo phương tiện cũng một thứ. Tất cả ấy là đạo vô gián, đạo giải thoát.
Kệ nói: Vô lưu.
Giải thích: Vì sao? Do đạo hữu lưu tu hành luyện căn thành căn vô lưu thì không có điều ấy. Do cảnh nơi đối tượng duyên của đạo đều là chân như.
Ở xứ nào căn có thể luyện khiến tăng tiến?
Kệ nói: Nẻo người tăng.
Giải thích: Ở trong nẻo người được tu hành luyện căn. Nơi xứ khác thì không có, vì không có thoái chuyển.
Lại nữa, người nào dựa vào địa nào được tu hành luyện căn?
Kệ nói:
Vô học dựa chín địa
Hữu học chỉ dựa sáu.
Giải thích: Nếu là người vô học, nương dựa nơi chín địa tu hành luyện căn. Nghĩa là địa vị chí, định trung gian, bốn định sắc và ba định vô sắc. Nếu là người hữu học thì dựa vào sáu địa, tu hành luyện căn, tức lìa ba định vô sắc. Vì sao? Do nghĩa này:
Kệ nói:
Xả quả có sai biệt
Được đạo thắng quả tăng.
Giải thích: Nếu người tu hành luyện căn là đã xả bỏ quả và quả nơi đạo của căn hơn kém, tức được quả của tánh lợi căn cùng đạo, không có quả A-na-hàm là thuộc về cõi vô sắc. Do nhân này, nên hàng hữu học ở cõi vô sắc không có hành luyện căn. Thế nên tất cả A-la-hán chỉ có chín người, do căn có sai biệt.
Vì sao như thế?
Kệ nói:
Hai Phật, Thanh văn bảy
Có chín do chín căn.
Giải thích: Những gì là bảy thanh văn? Người của pháp thoái đọa v.v… có năm. Người của pháp không hoại có hai: (1) Do luyện căn đạt được. (2) Từ gốc.
Tánh của pháp không hoại này, ở trong tánh không hoại gốc có sai biệt. Nghĩa là hai Phật: (1) Độc giác. (2) Đại chánh giác. Chín người này do căn có sai biệt: Hạ hạ. Trung hạ. Thượng hạ v.v… Thế nên thành chín A-la-hán. Tất cả Thánh nhân chỉ có bảy người. Nghĩa là: Do tín tùy hành, Do pháp tùy hành, Tín lạc, Đặc kiến chí, Thân chứng, Tuệ giải thoát, Hai phần giải thoát. Bảy người như thế.
Kệ nói:
Căn gia hạnh diệt định
Giải thoát hai nên thành Bảy người.
Giải thích: Nếu do gia hạnh tức thành hai người. Nghĩa là Do tín tùy hành, Do pháp tùy hành. Nơi trước do tín thọ giáo của người khác cùng do pháp tu hành, đối với nghĩa, tu gia hạnh.
Nếu do căn thì thành hai người, nghĩa là Tín lạc, Đắc kiến chí. Do căn độn kém, lợi chắc, nên một do tín lạc hơn. Hai do trí tuệ hơn.
Nếu do Tam-ma-bạt-đề thì thành một người, nghĩa là Thân chứng. Do Thân chứng nên được định diệt tâm. Nếu do giải thoát thì thành hai người, nghĩa là Tuệ giải thoát, Hai phần giải thoát. Do định và tuệ giải thoát khỏi chướng của Hoặc và chướng của định, nên người này do đấy gọi thành bảy.
Kệ nói:
Hoặc sáu người
Người ba đạo song hành.
Giải thích: Nếu do thật nghĩa thì chỉ có sáu người. Vì sao? Vì ở trong kiến đạo có hai người, nghĩa là Do tín tùy hành, Do pháp tùy hành. Hai người này nếu ở trong tu đạo thì thành hai người riêng, tức là Tín lạc và Đắc chí. Hai người này nếu ở trong đạo vô học thì thành hai người riêng, tức Thời giải thoát, Phi thời giải thoát. Trong ấy, nếu do căn có sai biệt, người do tín tùy hành thành ba người. Nếu do tánh lại thành năm người. Nếu do đạo thì thành mười lăm người. Tức trụ ở tám nhẫn và bảy trí. Nếu do lìa dục thì thành bảy mươi ba người: Một là người bị trói buộc đủ. Ở nơi cõi dục lìa dục có chín người. Cho đến lìa dục nơi xứ vô sở hữu, vô sắc, đều có chín người. Do dựa vào xứ có chín, nghĩa là ba châu và sáu trời thuộc cõi dục sinh. Do đạo của căn tánh, lìa dục dựa nơi xứ, hợp tính thành một trăm ngàn, bốn mươi bảy ngàn tám trăm hai mươi lăm người. Các Thánh nhân còn lại, như nghĩa và lý, nên tính như thế.
Chỗ đã nói gọi là hai phần giải thoát. Đây là người nào? Tuệ giải thoát lại là người nào?
Kệ nói:
Được diệt định, câu thoát
Người khác, tuệ giải thoát.
Giải thích: Nếu người trước được định diệt tâm, sau ở nơi vị vô học gọi là hai phần giải thoát. Do Bát-nhã và Tam-ma-đề giải thoát khỏi chướng của hoặc và chướng của tám giải thoát. Còn lại thì chỉ do sức của Bát-nhã, tức hoàn toàn giải thoát khỏi chướng của Hoặc. Đức Phật, Thế Tôn đã nói kệ:
Nếu xả năm kiết này
Học đủ pháp không hoại.
Có bao nhiêu số lượng người này thành tựu đủ phần hữu học?
Kệ nói:
Vì do quả định căn
Nói học đủ viên mãn.
Giải thích: Người hữu học do ba nghĩa nên gọi là học đủ: (1) Do quả. (2) Do căn. (3) Do Tam-ma-bạt-đề.
Chỉ do quả: Nghĩa là người Tín lạc được A-na-hàm, không phải Thân chứng.
Chỉ do căn: Nghĩa là kiến chí chưa lìa Dục. Do quả, do căn: Nghĩa là kiến chí, A-na-hàm chưa được Thân chứng. Do quả do Tamma-đề: Nghĩa là Tín lạc đạt A-na-hàm xong, được Thân chứng. Do quả, căn, Tam-ma-bạt-đề học đủ: Nghĩa là kiến chí, thân chứng A-nahàm. Chỉ do Tam-ma-bạt-đề, cũng chỉ do căn, Tam-ma-bạt-đề không do quả mà người hữu học gồm đủ thì không có điều này.
Kệ nói:
Vô học, viên mãn đức Do hai.
Giải thích: Vô học viên mãn: Chỉ do hai: Một là do căn. Hai là do Tam-ma-bạt-đề. Nếu quả chưa viên mãn mà thành bậc vô học, thì không có điều ấy. Thế nên ở nơi quả không luận về viên mãn, không viên mãn. Chỉ do căn viên mãn, không do Tam-ma-bạt-đề, nghĩa là phi thời giải thoát. Người tuệ giải thoát nếu chỉ do Tam-ma-bạt-đề viên mãn, không do căn: Nghĩa là dựa vào thời giải thoát. Người hai phần giải thoát do căn và Tam-ma-bạt-đề viên mãn: Nghĩa là người phi thời giải thoát, hai phần giải thoát.
Đã nói về đạo sai biệt có nhiều thứ: Nghĩa là đạo thế gian, xuất thế gian, kiến đạo, tu đạo, vô học đạo. Hoặc nói đạo gia hạnh, đạo vô gián, đạo giải thoát, đạo tăng tiến v.v…
Nếu lược nói thì đạo này có bao nhiêu thứ?
Kệ nói:
Lược nói đạo
Bốn gia hạnh, vô gián
Đạo giải thoát, tăng tiến.
Giải thích: Đạo gia hạnh: Nghĩa là nếu từ đạo này, đạo vô gián sinh. Đạo vô gián: Nếu do đạo này có thể trừ diệt chướng của Hoặc. Đạo giải thoát: Từ chỗ đã giải thoát, đạo vô gián diệt trừ chướng của Hoặc. Tiếp theo sau đạo đầu tiên đã sinh. Đạo tăng tiến: Từ sau đạo giải thoát đã sinh đạo khác. Nghĩa là các đạo như Tam-ma-đề thông luyện căn v.v… Bốn thứ này vì sao gọi là đạo?
Do pháp ấy là con đường đưa đến Niết-bàn, nên gọi là đạo. Nếu người phát tâm hành theo con đường này, tất định được đến Niếtbàn. Lại nữa, do người hành quán pháp này để tìm cầu Niết-bàn, nên nói là đạo.
Giải thoát, tăng tiến, vì sao gọi là đạo?
Do là chủng loại của đạo trước, do là phẩm tối thượng. Do có thể khiến đến hữu sau, nên trước nói là đạo sau. Do là phương tiện nhập Niết-bàn vô dư, nên bốn pháp này đều là đạo.
Lại nữa, đạo này có lúc nói là hành, do hành này đi đến Niếtbàn. Hành này có bốn thứ. Như kinh nói: Có hành trí khổ chậm. Có hành trí khổ nhanh. Có hành trí lạc chậm. Có hành trí lạc nhanh.
Trong đây:
Kệ nói: Dựa định đạo lạc hành.
Giải thích: Ở trong bốn định, bốn thứ đạo này được gọi là lạc hành. Do gồm thâu phần Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na bình đẳng dấy khởi, đạo này không do dụng công mà thành, nên gọi là lạc hành.
Kệ nói: Khổ hành nơi địa khác.
Giải thích: Ở địa khác nghĩa là định phi chí, định trung gian, định vô sắc, đạo này gọi là khổ hành, do phần không gồm thâu, Xama-tha, Tỳ-bát-xá-na không đủ, phải dùng công sức lớn để thành, nên gọi là khổ hành.
Vì sao? Vì định phi chí và định trung gian, định này do Xa-matha không đủ. Vì chưa đến định một và hai định. Định vô sắc thì do Tỳ-bát-xá-na không đủ, tâm nghĩ tưởng vi tế. Hành lạc khổ này lại có hai thứ.
Kệ nói:
Người căn kém trí chậm Trí nhanh nhờ căn lợi.
Giải thích: Nếu người độn căn, hành hoặc lạc, hoặc khổ, thì hành này gọi là trí chậm. Nếu người lợi căn, thì hành này gọi là trí nhanh.
Lại nữa, vì ở trong hành này, trí hiện chậm nên gọi là trí chậm. Trí nhanh cũng như thế.
Lại nữa, vì hành này là hành của người chậm, nên gọi là trí chậm. Trí nhanh cũng như thế.
Lại nữa, đạo này hoặc gọi là trợ giác. Pháp trợ giác có ba mươi bảy phẩm. Nghĩa là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám Thánh đạo phần.
Ở đây:
Kệ nói:
Hai trí tận, vô sinh Bồ-đề.
Giải thích: Tận trí, vô sinh trí này, do con người có sai biệt nên thành ba thứ Bồ-đề: (1) Bồ-đề của Thanh văn. (2) Bồ-đề của Độc giác. (3) Bồ-đề của Chánh biến vô thượng.
Do vô minh đã hoàn toàn được diệt trừ, là đã có thể giác ngộ như thật, thông lợi và vì đã tạo tác nên không còn tạo tác nữa.
Kệ nói:
Do thuận đây
Ba mươi bảy trợ giác.
Giải thích: Do pháp kia là phương tiện sinh Bồ-đề, sinh trụ thọ dụng, nên ba mươi bảy pháp được mang tên là trợ giác.
Kệ nói: Do danh thật nghĩa.
Giải thích: Pháp trợ giác này, nếu do danh thì nói là ba mươi bảy phẩm. Nếu do vật thật, thì gọi là tất cả pháp trợ Bồ-đề, tức chỉ có mười thứ.
Những gì là mười?
Kệ nói:
Tín, tinh tấn, ức niệm
Tam-ma-đề, trí tuệ
Hỷ, xả và khinh an Giới, giác.
Giải thích: Tín: Là ở bảy xứ, tâm lặng sạch. Tinh tấn: Là ở nơi cảnh giới tâm dũng mãnh. Niệm: Là ở nơi cảnh của đối tượng duyên, tâm sáng tỏ, không quên. Định: Là đối với cảnh giới luôn nhất tâm tịch tĩnh. Tuệ: Là hiểu đúng như lý. Hỷ: Là tâm an vui. Xả: Là tâm không có dụng công. Khinh an: Là thân tâm tùy thuận sự việc. Giới: Là khả năng quân bình thân miệng. Giác: Là có thể tư duy, xét lường.
Mười thứ như thế làm sao an lập nơi bảy xứ?
Kệ nói:
Tuệ, niệm xứ Tinh tấn gọi chánh cần Như ý túc gọi định.
Giải thích: Trong đây: Bốn niệm xứ, chánh cần, như ý túc, thì trí tuệ, tinh tấn, định là tự tánh. Tiếp theo nói năm căn. Như căn, lực cũng vậy. Do giữ lấy danh nên có khác. Vì sao? Vì năm thứ tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, là căn, tức là lực. Ở đấy: Niệm xứ, trạch pháp giác phần, chánh kiến, tức là tuệ. Chánh cần, tinh tấn giác phần, chánh tinh tấn, tức là tinh tấn. Như ý túc, định giác phần, chánh định tức là định, niệm giác phần, chánh niệm, tức là niệm.
Pháp nào là khác?
Hỷ, khinh an, xả giác phần, chánh giác và giới phần, năm pháp này là khác. Pháp trợ giác như thế chỉ có mười thứ. Nếu căn cứ theo Sư Tỳ-bà-sa giải thích thì có mười một thứ: Hai nghiệp thân, miệng là không cùng chung, thế nên về giới phần thành hai thứ. Bốn niệm xứ v.v… đã nói ở trước thì trí tuệ, tinh tấn, định là tự tánh, trong đây nên biết.
Kệ nói:
Do theo thắng lập danh
Tất cả gia hạnh đắc.
Giải thích: Trong ấy, do tùy theo phần hơn nên gọi tên như vậy. Tất cả pháp do gia hạnh đạt được đều là niệm xứ, chánh cần, như ý túc.
Vì sao nói tinh tấn là chánh cần?
Do chánh cần kia có thể an lập nghiệp thân, miệng, ý khiến hơn hẳn.
Vì sao nói Tam-ma-đề là như ý túc?
Do tất cả thắng đức, đều lấy như ý túc kia làm chốn nương dựa. Như có người nói: Chính Tam-ma-đề gọi là như ý túc, nghĩa là dục v.v… Đối với người kia thì đạo phẩm thành mười ba thứ, vì tâm dục được tăng trưởng. Nếu giải thích như vậy, tức cùng với kinh là trái nhau. Kinh nói: Tỳ-kheo! Ta nay vì ông nói về như ý và như ý túc. Cho đến nói: Những gì là như ý? Ở trong chánh pháp có Tỳ-kheo chứng dụng nhiều thứ cảnh giới như ý. Nghĩa là gốc là một tức thành nhiều thứ. Nói rộng như kinh.
Vì sao nói trước gọi là căn, nói sau gọi là lực?
Do hạ thượng có sai biệt. Do có thể chế phục vượt hơn, không thể chế phục vượt hơn. Căn: Tuy ở trong tu quán tăng thượng, nhưng ở nơi phần vị thấp kém, chỗ đối trị Hoặc có thể chế phục, vượt hơn nên là căn, không phải là lực. Lực: Tức ở trong tu quán, tại phần vị thắng thượng, chỗ đối trị hoặc không thể chế phục vượt hơn, nên là lực không phải là căn.
Vì sao lập thứ lớp?
Nếu người tin hành này có quả vượt hơn, vì cầu được quả ấy nên tu chánh cần. Nếu người luôn tu chánh cần, nhớ nghĩ được trụ. Nếu người chuyên niệm về cảnh giới, tâm không tán loạn, tức liền được định. Nếu tâm được định thì thấy biết như thật. Nhân nơi nghĩa như thế, nên lập thứ lớp.
Lại nữa, ở trong phần vị nào pháp trợ Bồ-đề nào đã ứng hiện rõ?
Kệ nói:
Đầu phát hành quyết trạch
Phần giữa đã phân biệt
Nơi vị tu, vị kiến
Bảy bộ thứ lớp biết.
Giải thích: Đầu tiên trong phần vị phát khởi hành, vì hiểu rõ cảnh giới giữ vững thân v.v…, thế nên trước tu bốn niệm xứ. Do đã được sinh trưởng tinh tấn tăng hơn, nên ở vị noãn tu bốn chánh cần.
Do có thể hội nhập nơi căn thiện không nên thoái mất, nên ở vị đảnh tu bốn như ý túc. Vì không còn thoái chuyển, nên đến vị tăng thượng. Vì vậy ở vị nhẫn tu năm căn. Do không Hoặc nào có thể chế phục vượt hơn, thế nên ở vị thế đệ nhất tu năm lực.
Lại, pháp khác của thế gian cũng không thể chế phục vượt hơn. Vì gần với phần vị Bồ-đề, nên ở trong tu đạo tu giác phần. Do phát khởi hành đã hiển bày, nên ở trong kiến đạo tu Thánh đạo.
Vì tùy thuận nơi Thánh đạo kia và vì theo số thứ tự nên trước nói bảy, sau nói tám. Nếu theo thứ lớp của tu thì trước tu tám, sau tu bảy. Trong ấy: Trạch pháp giác phần: Đây là giác cũng là giác phần. Chánh kiến là đạo, cũng là đạo phần. Sư Tỳ-bà-sa nói như vậy.
Có Sư khác không phá bỏ thứ lớp này, nhưng nói thứ lớp của pháp trợ giác: Thứ nhất là phát khởi hành: Vì chế phục đối với nhiều thứ cảnh giới khiến các trí bị tán loạn nghiêng đảo, nên tu bốn niệm xứ. Bốn niệm xứ là người hành quán theo xứ buộc giữ tâm, nhằm diệt trừ tất cả sự việc dựa vào tham, nhớ nghĩ phân biệt.
Do kinh này nói, nên biết bốn niệm xứ là phát khởi hành đầu tiên. Do sức của niệm xứ nên có thể sinh trưởng tinh tấn. Vì thành tựu bốn sự nên có thể an lập tâm đúng đắn khiến được vượt hơn.
Tiếp theo bốn niệm xứ là tu bốn chánh cần. Do chánh cần này, nên tâm an ổn, không có lo lắng, hối hận và đối trị tâm thành tựu Tam-ma-đề.
Tiếp sau bốn chánh cần là tu bốn như ý túc. Do nương dựa nơi định, các căn như tín v.v… thành duyên tăng thượng của pháp xuất thế.
Nối tiếp bốn như ý túc là tu năm căn. Căn này rất có công năng chế phục các pháp cần được đối trị, và khởi hành tác do công năng của chính mình, tức lìa nhân đồng loại, có thể sinh pháp xuất thế gian.
Tiếp theo năm căn là tu năm lực. Ở trong kiến đạo tu giác phần, còn ở trong kiến đạo, tu đạo thì tu Thánh đạo phần. Vì sao? Vì trong kinh nói lời này: Ở trong tám phần Thánh đạo, tất cả nên tu dẫn đến tu tập viên mãn. Nghĩa là tu bốn niệm xứ đạt được viên mãn, cho đến bảy giác phần dốc tu viên mãn.
Lại có kinh nói: Tỳ-kheo tuyên bày lời nói như thật: Nghĩa là quán bốn Thánh đế. Ví như chính mình đã đi trên đường, thì nên hành như thế. Đây là dụ cho việc tu tám phần Thánh đạo. Vì thế nên biết ở trong hai phần vị tu tám phần Thánh đạo. Các pháp này theo thứ lớp đều thành.
Nói về thứ lớp xong. Nghĩa ấy nay sẽ nói.
Ở trong pháp trợ giác có bao nhiêu pháp là hữu lưu, bao nhiêu pháp là vô lưu?
Kệ nói: Phần giác đạo vô lưu.
Giải thích: Do an lập nơi giác đạo vô lưu kia, ở trong kiến đạo, tu đạo nên giác phần đạo phần đều là vô lưu. Ở thế gian cũng có pháp như chánh kiến v.v…, pháp này không được mang tên là Thánh đạo.
Kệ nói: Pháp khác có hai thứ.
Giải thích: Pháp trợ giác còn lại có hữu lưu, có vô lưu.
Lại nữa, ở nơi địa nào có bao nhiêu pháp trợ giác?
Kệ nói: Ở định một gồm đủ.
Giải thích: Ở trong địa của định thứ nhất có đủ tất cả ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề.
Kệ nói: Định phi chí, trừ hỷ.
Giải thích: Vì sao không có hỷ? Vì uy lực nơi các định cận phần đã giữ lấy. Lại đối với địa dưới, các thứ nghi, sợ chưa dứt.
Kệ nói: Định thứ hai lìa giác.
Giải thích: Ở trong định thứ hai chính là đã lìa giác (tầm) nên chỉ có ba mươi sáu thứ. Vì ở nơi định thứ hai kia không có giác, quán (tầm, tứ).
Kệ nói: Nơi hai hai đã lìa.
Giải thích: Pháp trợ giác trong định thứ ba, thứ tư, thì hai pháp hỷ, giác đã lìa nên chỉ có ba mươi lăm thứ.
Kệ nói: Cùng định trung.
Giải thích: Ở định trung gian cũng có hai pháp đã lìa, nên đồng là ba mươi lăm thứ.
Kệ nói:
Lìa giới
Hai ba vô sắc trước.
Giải thích: Nơi ba định vô sắc: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, hỷ giác phần đã lìa nên chỉ còn có ba mươi hai thứ.
Kệ nói:
Nơi cõi dục, Hữu đảnh
Lìa giác phần Thánh đạo.
Giải thích: Ở hai xứ này chỉ có hai mươi hai pháp trợ Bồđề. Vì sao? Vì đối với hai xứ này không phải là vật dụng của đạo vô lưu.
Nếu người đang ở trong phần vị quán về ba mươi bảy pháp trợ giác, thì nơi phần vị nào nên biết được tín tịnh của chánh giải?
Kệ nói:
Kiến ba đế được giới
Cùng tín chánh giải pháp
Ở kiến đạo tin Phật
Và tin chúng đệ tử.
Giải thích: Nếu người có chánh kiến về khổ, tập, diệt Thánh đế, thì người ấy đối với pháp được tịnh tín chánh giải, và đắc giới được bậc Thánh yêu thích. Do kiến đạo Thánh đế, nên đối với Phật, Thế Tôn và chúng đệ tử Thánh đều đạt được tịnh tín chánh giải. Vì sao? Vì ở nơi hai tịnh tín chánh giải, tức có thể thành tựu pháp vô học của Phật. Riêng trong pháp đạt được, sinh khởi tịnh tín chánh giải. Có thể thành tựu pháp hữu học, vô học của tăng, ở đấy sinh tịnh tín chánh giải. Lại được giới cùng đối với pháp có tịnh tín chánh giải.
Kệ nói:
Pháp là ba đế cùng
Đạo Bồ-tát, Độc giác.
Giải thích: Thế nên nếu người chánh quán về bốn đế, đối với pháp được tịnh tín chánh giải. Pháp này do tín dựa vào xứ và danh có sai biệt, nên nói bốn tịnh tín chánh giải (Bốn chứng tịnh).
Kệ nói:
Nếu theo vật chỉ hai: Tín, giới.
Giải thích: Tịnh tín chánh giải về Phật, Pháp, Tăng thì tín là tự tánh, là một pháp mà Thánh đã yêu thích. Giới là một pháp của giới, nên căn cứ nơi vật thật thì pháp kia chỉ là hai thứ.
Hai thứ này là hữu lưu hay là vô lưu?
Tất cả tịnh tín chánh giải hoàn toàn:
Kệ nói: Đều vô lưu.
Giải thích: Tịnh tín chánh giải có nghĩa gì? Hiểu biết rõ như thật về bốn đế xong, đối với bốn xứ được tín vô lưu, gọi là tịnh tín chánh giải. Tín này do trí vô lưu tạo thành, chung nơi hai người. Người này lúc đang xuất quán, như hiện tiền sinh khởi, nên bốn tín theo thứ lớp như vậy.
Thế nào là xuất quán, hiện tiền sinh khởi?
Tức nhận biết Đức Thế Tôn là Chánh giác Biến tri. Chánh pháp chánh giáo của Đức Thế Tôn này là bậc nhất trong phần chánh thuyết. Chúng đệ tử Thánh của Đức Thế Tôn ở trong chánh hành là không gì bằng. Giống như phương thuốc của y sư đã an dưỡng cho ba loại bệnh nhân. Là tâm tịnh tín đã tạo ra, gọi là tịnh tín giới. Hoặc thuyết thứ tư nói: Nếu người được tịnh tín rồi, chánh hành như thế gọi là tịnh tín giới. Đây giống như loại không có bệnh. Hoặc nói bốn pháp này giống như thầy dẫn đường, giống như con đường, giống như bạn bè đồng tông chỉ, giống như sự vận hành. Trong kinh nói: Người hữu học cùng với tám phần tương ưng. Người vô học cùng với mười phần tương ưng.
Vì sao không nói người hữu học có chánh giải thoát, chánh giải thoát tri kiến?
Kệ nói:
Giải thoát chẳng học phần
Có buộc nên hai thứ.
Giải thích: Người trong vị hữu học đang có trói buộc. Do chưa có thể lìa khỏi sự trói buộc của phiền não. Nếu đang có trói buộc, làm sao lập hàng hữu học kia là giải thoát. Nếu chỉ giải thoát một phần trói buộc, thì không thể nói là đã giải thoát. Nếu không có giải thoát, làm sao được lập là giải thoát tri kiến. Người vô học đã vĩnh viễn giải thoát tất cả các phiền não trói buộc nên có thể nói là có giải thoát, do dựa nơi hai trí chứng của mình đã hiện rõ.
Lời nói này như lý. Pháp nào gọi là giải thoát?
Giải thoát này có hai thứ: (1) Hữu vi. (2) Vô vi.
Trong đây:
Kệ nói:
Hoặc diệt là vô vi
Tâm tịnh rõ hữu vi.
Giải thích: Giải thoát vô vi nghĩa là các Hoặc diệt hết. Giải thoát hữu vi nghĩa là tâm vô học thanh tịnh tỏ ngộ.
Kệ nói: Phần này.
Giải thích: Giải thoát hữu vi này gọi là phần vô học. Các phần hữu vi.
Kệ nói: Tức hai thoát.
Giải thích: Giải thoát hữu vi này trong kinh nói là hai thứ giải thoát. Nghĩa là tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Nên biết hai giải thoát này đối với người vô học là phần giải thoát.
Nếu như vậy ở trong kinh khác vì sao lại nói lời này: Tỳ-da-già! Thế nào là giải thoát? Nghĩa là tâm vĩnh viễn viên tịnh. Trong ấy có Tỳ-kheo, đối với tâm dục đã lìa dục và giải thoát, đối với tâm sân si đã lìa dục và giải thoát. Như thế nếu tụ giải thoát chưa viên mãn thì làm cho viên mãn, nếu đã viên mãn thì thâu giữ dục và tinh tấn ấy. Nói rộng như kinh. Vì thế không nên chỉ do tâm thấu tỏ là giải thoát.
Ở đây thế nào là chân tuệ?
Là đã diệt trừ các Hoặc như dục v.v…, là tâm hoàn toàn không có cấu uế. Sư khác nói gọi là giải thoát.
Nói chánh giải thoát xong. Chánh giải thoát tri kiến khác với chánh kiến. Đây là loại gì?
Kệ nói: Tuệ như nói Bồ-đề.
Giải thích: Là trước đã nói gọi là Bồ đề. Pháp này hiện nay nên biết gọi là chánh giải thoát tri kiến, tức là tận trí, vô sinh trí.
Lại nữa, tâm nào được giải thoát? Là quá khứ, hiện tại, vị lai?
Kệ nói:
Giải thoát đang sinh tâm
Vô học từ chướng Hoặc.
Giải thích: Tâm vị lai được gọi là đang sinh, tâm này thuộc về người vô học. Từ đấy chướng của Hoặc được giải thoát. A-tỳ-đạt-ma nói như thế. Tâm này pháp nào là chướng?
Phiền não có nhiều là chướng, tức có thể gây trở ngại cho sự sinh kia. Vì sao? Vì lúc ở định kim cang thí phiền não có nhiều này tức diệt. Lúc diệt tâm vô học ấy đang sinh. Thời gian sinh này tức là giải thoát. Phần phiền não có nhiều ấy đã diệt, tâm vô học này đã sinh gọi là giải thoát.
Nếu như vậy thì tâm chưa sinh và tâm thế gian, tâm ấy cũng giải thoát. Vì sao nói là đang sinh và vô học?
Nếu sinh tất định giải thoát. Tâm này là tâm hiện nay đã nói. Tâm thế gian từ nơi Hoặc nào để được giải thoát?
Từ chướng sinh giải thoát. Nếu người chưa giải thoát thì tâm giải thoát là không sinh chăng?
Sinh ra không như tâm giải thoát hiện nay đã luận.
Tâm này, như thế nào cùng với Hoặc có nhiều tương ưng?
Đạo này ở phần vị nào có thể trừ diệt chướng tự sinh?
Kệ nói:
Đạo chánh diệt hay diệt
Các Hoặc hay chướng đạo.
Giải thích: Nếu đạo đang ở nơi đời hiện tại, có thể làm tổn giảm các Hoặc trước, vì Hoặc vị lai tạo ra sức nơi thứ đệ duyên, nên đối với Hoặc vị lai dẫn đến trạch diệt và vĩnh viễn được ngăn chận khiến không sinh lại. Thế nên đạo đang ở nơi đời hiện tại, gây tổn giảm cho Hoặc hiện tại, ngăn chận hoặc vị lai, khi sắp khởi là giải thoát vô vi ở trước đã nói.
Trong kinh nói: Giới có ba thứ. Nghĩa là giới diệt, giới lìa dục, giới vĩnh viễn diệt trừ.
Pháp này có gì khác?
Kệ nói: Giới giải thoát vô vi.
Giải thích: Giải thoát vô vi này tức là ba giới (Giới diệt v.v…).
Trong đây:
Kệ nói: Lìa dục là dục diệt.
Giải thích: Phiền não dục diệt gọi là giới (cảnh giới) lìa dục.
Kệ nói: Giới diệt Hoặc khác diệt.
Giải thích: Dục khác, phiền não khác đều diệt, gọi là giới diệt.
Kệ nói: Vĩnh trừ loại riêng diệt.
Giải thích: Lìa loại hoặc, các pháp còn lại cũng diệt, gọi là giới vĩnh viễn diệt trừ. Ba giới này tức là giải thoát vô vi.
Như do loại này, tâm khởi chán ghét. Hay là do loại này tâm được lìa dục chăng?
Trong đây có bốn trường hợp.
Vì sao tạo ra bốn trường hợp?
Kệ nói:
Chán lìa do khổ tập Nhẫn, trí.
Giải thích: Do khổ tập nhẫn và trí, tâm chỉ sinh chán ghét, không do pháp khác. Vì sao? Vì hai pháp này là loại cảnh giới của ưu, não.
Kệ nói: Lìa dục.
Giải thích: Do diệt đạo nhẫn và trí, tâm chỉ được lìa dục, không do pháp khác. Vì sao? Vì hai pháp này là loại cảnh giới của hỷ, lạc.
Kệ nói: Hai do tất cả diệt.
Giải thích: Là tất cả khổ tập diệt đạo nhẫn và trí, có thể diệt các Hoặc. Do tâm kia được chán ghét nên cũng được lìa dục, không phải hai thứ ấy do pháp khác, nếu các pháp khác kia không thể diệt trừ Hoặc. Trong đây: Nếu người đã lìa dục, lại quán về bốn đế, do pháp trí nhẫn không thể diệt trừ Hoặc. Nếu trí gia hạnh, giải thoát thuộc về đạo tăng tiến thì trí này cũng không thể diệt trừ Hoặc.
Kệ nói: Đây lập bốn trường hợp.
Giải thích: Vì thế nên biết nghĩa của bốn trường hợp là như vậy.
HẾT – QUYỂN 18