LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 34

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 6

Đạo cũng gọi là pháp Bồ-đề phần. Pháp Bồ-đề phần này có bao nhiêu thứ, danh nghĩa như thế nào? Tụng nêu:

Giác phần: Ba mươi bảy

Tức như bốn niệm trụ

Giác là tận, vô sinh

Thuận đấy nên gọi phần.

Luận nói: Kinh nói giác phần có ba mươi bảy. Nghĩa là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Tận trí, vô sinh trí gọi là giác. Tùy theo bậc giác ngộ nên lập riêng ba Bồ-đề: (1) Bồ-đề Thanh văn. (2) Bồ-đề Độc giác. (3) Bồ-đề Vô thượng.

Vì vô trí, tùy miên đều đã đoạn trừ vĩnh viễn. Và nhận biết như thật các sự việc đã làm xong không còn tạo tác nữa. Hai sự việc này gọi là giác. Ba mươi bảy pháp thuận hướng đến Bồ-đề, thế nên đều gọi là pháp Bồ-đề phần.

Thể của ba mươi bảy pháp này đều riêng khác chăng? Không phải vậy. Vì sao? Tụng nêu:

Sự này thật chỉ mười

Gọi tuệ, cần, định, tín

Niệm, hỷ, xả, khinh an

Và giới, tầm làm thể.

Luận nói: Danh xưng giác phần này tuy có ba mươi bảy, nhưng thật sự chỉ có mười, tức như tuệ, cần v.v… Nghĩa là bốn niệm trụ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi, chánh kiến, dùng tuệ làm thể. Bốn chánh đoạn, tinh tấn căn, tinh tấn lực, tinh tấn giác chi, chánh tinh tấn, dùng cần làm thể. Bốn thần túc, định căn, định lực, định giác chi, chánh định, dùng định làm thể. Tín căn, tín lực, dùng tín làm thể. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi, chánh niệm dùng niệm làm thể. Hỷ giác chi dùng hỷ làm thể. Xả giác chi dùng hành uẩn gồm thâu xả làm thể. Khinh an giác chi dùng khinh an làm thể. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, dùng giới làm thể. Chánh tư duy dùng tầm làm thể.

Như thế, giác phần thật sự chỉ là mười. Năm thứ trước tức là năm căn như tín v.v…, do cảnh v.v… có khác nên phân làm ba mươi. Lại thêm hỷ, xả, khinh an, tầm, giới. Giới phân làm ba, tức gồm thành bảy cùng với trước hợp thành ba mươi bảy thứ.

Sư Tỳ-bà-sa nói: Có mười một. Vì thân nghiệp, ngữ nghiệp không cùng xen tạp, tức giới được phân làm hai. Chín thứ còn lại đồng với trước. Ba thứ như niệm trụ v.v… về danh xưng không có hệ thuộc riêng.

Vì sao nói riêng là tuệ, cần, định? Tụng nêu:

Bốn niệm trụ, chánh đoạn

Thần túc tùy tăng thượng

Gọi là tuệ, cần, định

Thật các gia hạnh thiện.

Luận nói: Phẩm pháp thiện của ba thứ như bốn niệm trụ v.v…, Thể thật là gồm thâu khắp các gia hạnh thiện. Nhưng tùy nơi căn thiện tăng thượng của phẩm đồng, như thứ lớp nói là tuệ, cần và định.

Do đâu ở nơi tuệ lập danh xưng niệm trụ?

Vì tuệ do sức của niệm giữ gìn khiến trụ.

Vì sao nói cần gọi là chánh đoạn?

Vì ở trong phần vị tu tập đoạn trừ đúng đắn, thì sức của cần này có thể đoạn trừ mọi thứ biếng trễ. Hoặc gọi là chánh thắng, do ở trong sự việc giữ gìn chân chính để thúc đây thân, ngữ, ý, thì cần này là hơn hết.

Do đâu đối với định lập danh xưng thần túc?

Vì đấy là đối tượng nương dựa của các đức linh diệu.

Vì sao các pháp như tín v.v… lập tên căn, lực?

Do tính chất tăng thượng, do khó khuất phục.

Vì sao năm pháp này, trước nói là căn, sau gọi là lực?

Do năm pháp này đã dựa nơi phẩm hạ, thượng, phân ra trước, sau. Lại dựa nơi phần có thể khuất phục, không thể khuất phục. Vì tín v.v… của phẩm hạ thì uy lực yếu kém, cũng còn bị các thứ đồng loại của đối tượng đối trị chế ngự. Phẩm thượng thì trái với đây, nên được mang tên lực.

Nói về giác chi là có nghĩa gì?

Nghĩa có thể giác ngộ gọi là giác chi.

Nếu như thế thì giác chi chỉ nên có một? Không phải vậy. Vì niệm v.v… là phần trạch pháp, đều thuận với trạch pháp, theo chỗ hơn hẳn mà được mang tên. Hoặc chi của giác là nghĩa của giác chi.

Nếu như vậy thì nên thừa nhận giác chi chỉ có sáu? Không phải thế, vì trạch pháp là giác, cũng là giác chi.

Sáu thứ còn lại là giác chi, không phải là giác.

Đã nói về đạo chi là có nghĩa gì? Nghĩa tìm cầu, nương dựa, gọi là đạo chi.

Nếu như vậy thì đạo chi chỉ nên có một? Không phải thế, vì bảy pháp còn lại là phần chánh kiến, đều thuận với chánh kiến, từ chỗ hơn hẳn mà được mang tên. Hoặc chi của đạo là nghĩa của đạo chi. Nếu như vậy tức nên thừa nhận đạo chi chỉ có bảy? Không phải thế. Vì chánh kiến là đạo cũng là đạo chi. Bảy thứ còn lại là đạo chi, không phải là đạo.

Nên nói ở nơi vị nào thì giác phần nào tăng?

Tụng nêu:

Nghiệp đầu thuận quyết trạch

Cùng vị tu kiến đạo

Bảy phẩm như niệm trụ

Nên biết thứ lớp tăng.

Luận nói: Nơi vị tu nghiệp đầu tiên thì nói niệm trụ tăng. Nghĩa là trong vị này, vì dứt trừ điên đảo, tức do uy lực của niệm, nên đối với tự tướng, cộng tướng của các cảnh như thân v.v…, có thể quán xét kỹ, nhận biết rõ, diệt trừ hai thứ ngu, thì công dụng của tuệ là hơn hẳn. Ở nơi vị pháp noãn thì nói chánh đoạn tăng. Nghĩa là trong vị này, thấy rõ lỗi lầm của sinh tử, công đức của Niết-bàn, liền có thể dũng mãnh phát khởi siêng năng, tinh tấn, không rơi vào sinh tử, nhanh chóng hướng đến Niết-bàn, tức công dụng của cần là hơn hẳn. Đối với phần vị pháp đảnh thì nói thần túc tăng. Nghĩa là trong vị này có thể chế phục tâm thức hướng đến vị bất thoái, trọn không thiếu thốn, các căn thiện như tín v.v…, tức công dụng của định là hơn hẳn. Ở phần vị pháp nhẫn, thì nói năm căn tăng. Nghĩa là trong vị này, vĩnh viễn dứt bỏ nẻo ác, hoàn toàn không còn bị thoái đọa, nhanh chóng nhập nơi ly sinh, nghĩa tăng thượng thành, nên nghĩa của căn là vượt hơn, nơi vị thế đệ nhất thì nói năm lực tăng. Nghĩa là trong vị này không còn bị phiền não chế phục, tức nghĩa của lực là hơn hẳn. Tuy trong vị nhẫn cũng cùng có như thế, nhưng không quyết định, thế nên không nói. Hoặc trong vị này không bị tất cả pháp phàm phu khác chế phục, nên ở nơi vị này nghĩa của lực thì riêng tăng. Trong phần vị tu đạo gần với quả vị Bồ-đề, vì trợ giác là hơn hẳn, nên nói giác chi tăng. Hoặc trong vị này, đoạn chín phẩm Hoặc, vì thường thường giác ngộ, nên nghĩa của giác chi tăng. Trong vị kiến đạo nghĩa của đạo hiện có, vì đều đầy đủ nên nói đạo chi tăng. Nghĩa là tìm cầu, nương dựa cùng hợp với hướng tới đi đến. Vì hai nghĩa gồm đủ nên nói là đạo. Trong vị kiến đạo thì hai nghĩa ấy là hơn hết. Nghĩa là nơi vị kiến đạo thì Thánh tuệ đầu tiên sinh, tìm cầu như thật về đế lý là hơn hẳn. Lại ở nơi vị này không khởi tâm kỳ hạn, có thể nhanh chóng đi đến, các nẻo là hơn hẳn. Tùy theo số tăng, nên ở trong Khế kinh, trước nêu bảy, sau nói tám, không phải theo thứ lớp tu tập.

Có Sư khác ở đây đã lập thứ lớp nói: Đầu tiên, hành giả do uy lực của tuệ, đối với tự tướng, cộng tướng nơi các cảnh như thân v.v… nhận biết rõ như thật dẫn khởi các thứ thiện. Như người có mắt sắp dẫn đường cho mọi người mù. Thế nên trước hết nói về bốn niệm trụ. Do bốn niệm trụ hiểu rõ về các cảnh xong, đối với sự việc đoạn ác, tu thiện có thể phát khởi chánh cần, nên ở nơi phần thứ hai nói bốn chánh đoạn. Do sức của chánh cần, khiến trong phần cùng nối tiếp, lỗi lầm tổn giảm, công đức tăng thịnh, đối với định thù thắng mới có thể tu tập. Vì vậy thần túc nói ở lượt thứ ba.

Định thù thắng làm chỗ dựa, tức khiến tín v.v… cùng với pháp xuất thế làm duyên tăng thượng. Do đấy năm căn được nói ở lượt thứ tư. Nghĩa của căn đã lập thì phiền não, nghiệp ác có thể chiêu cảm nơi nẻo ác là không thể khuất phục. Do đấy năm lực được nói nơi lượt thứ năm.

Nghĩa của lực đã thành, có thể nhận biết như thật về cảnh của bốn Thánh đế, không có nghi hoặc, nên bảy giác chi được nói tại lượt thứ sáu.

Đã nhận biết như thật về cảnh của bốn Thánh đế, vì chán bỏ sinh tử, vui thích thích hướng tới Niết-bàn, nên nói đạo chi, dùng làm thứ bảy. Trong ấy mỗi mỗi biện về thứ lớp của chúng như nơi phần luận giải thích kinh, nên chánh tư duy tìm cầu.

Nay trong Luận này, xét chọn về pháp tướng nơi lý của thứ lớp không cần nhọc công thuật lại.

Trong ba mươi bảy giác phần, có bao nhiêu thứ chỉ là vô lậu? Bao nhiêu thứ thì chung cho cả hai thứ?

Tụng nêu:

Bảy giác, tám đạo chi

Hoàn toàn là vô lậu

Ba, bốn, năm căn, lực

Đều chung nơi hai thứ.

Luận nói: Trong đây: Bảy giác, tám Thánh đạo chi chỉ là vô lậu, vì chỉ ở trong vị tu đạo, kiến đạo mới kiến lập. Nghĩa là nơi vị tu đạo, bảy giác chi tăng, vì gần gũi với Bồ-đề. Nghĩa là do đối trị nhiễm của xứ Hữu đảnh, nên thể của giác chi hoàn toàn là vô lậu. Tất cả giác phần đều là hỗ trợ Bồ-đề, nên chỉ ở đây đã nêu rõ riêng về danh xưng của giác chi, vì rất gần với quả vị Bồ-đề.

Do nghĩa lý này đã chứng nhận bảy giác chi, nên biết là chỉ căn cứ theo chỗ đối trị nhiễm của xứ Hữu đảnh để nói. Đây là địa dưới đối trị loại thượng thủ chỉ ở nơi vô lậu lập danh xưng giác chi.

Nếu không thừa nhận như vậy, thì đâu thể không chung cho hai thứ? Hoặc ở trong tất cả pháp Bồ-đề phần, theo chỗ dựa gần Bồ-đề để lập hiệu giác chi. Vị tu đạo trong đạo thì gần với Bồ-đề, vì tánh gần với Bồ-đề chỉ là vô lậu, nên tu đạo vô lậu mới lập danh xưng giác chi. Vì trong vị kiến đạo thì tám đạo chi là hơn hẳn, nên tám thứ này hoàn toàn thuộc về tánh vô lậu. Tuy chánh kiến v.v… cũng chung nơi hữu lậu, nhưng hữu lậu kia không được danh xưng Thánh đạo chi, vì danh xưng Thánh đạo chi là nói về vô lậu.

Lại các Luận giả đều thừa nhận pháp của giác phần nói sau giác chi nhất định là vô lậu. Nếu nói ở trước tức chung cho hai thứ.

Đã sau giác chi mới nói đạo chi, nên tám đạo chi hoàn toàn vô lậu. Pháp còn lại chung cho hai thứ, nghĩa căn cứ theo đấy tức đã thành. Nghĩa là trong giác phần vị trước đã tăng, tức vị trước ấy đối với thế dụng của vị sau cũng tăng. Vị sau tăng không phải đối với vị trước. Nên Tỳ-bà-sa đã nói như thế này: Từ phần vị hành nghiệp đầu tiên đến tận vô sinh, niệm trụ luôn tăng. Cho đến nói rộng.

Ba mươi bảy pháp này nơi địa nào có bao nhiêu thứ?

Tụng nêu:

Tĩnh lự đầu tất cả

Vị chí, trừ hỷ căn

Hai tĩnh lự trừ tầm

Trong ba, bốn trừ hai.

Địa ba vô sắc trước

Trừ giới hai thứ trước

Nơi cõi dục Hữu đảnh

Trừ giác và đạo chi.

Luận nói: Trong tĩnh lự đầu thì có đủ ba mươi bảy. Ở địa vị chí thì trừ giác chi hỷ, do đối với pháp của địa dưới, cũng còn hoài nghi, lo nghĩ, vì chưa có thể bảo đảm để tin, nên không sinh hỷ. Lại, khi định vị chí mới hiện tiền, chưa có thể đoạn trừ phiền não của địa dưới. Về sau tuy đã đoạn, nhưng vì loại đồng với trước, nên khi khởi kia đều không có hỷ.

Có thuyết nói: Tất cả đạo của địa cận phần, vì đều do gắng sức để chuyển, nên không có nghĩa của hỷ. Tĩnh lự thứ hai, trừ chánh tư duy, vì trong tĩnh lự kia đã không có tầm. Do Khế kinh nói: Địa của tĩnh lự kia không có tầm, vì đẳng trì của địa trên kia thì chuyển vận tĩnh lặng. Do đấy hai địa đều có ba mươi sáu. Tĩnh lự thứ ba, thứ tư và tĩnh lự trung gian đều cùng trừ tầm hỷ, mỗi địa đều ba mươi lăm. Ba vô sắc trước, trừ ba chi giới và trừ tầm, hỷ, nên đều có ba mươi hai. Cõi dục, Hữu đảnh, trừ giác đạo chi, vì không có vô lậu, nên đều chỉ có hai mươi hai.

Như thế, các địa đều tùy theo đối tượng ứng hợp của mình, giác phần hiện tiền, ít nhiều không có nhất định. Nghĩa là tùy nơi vị riêng, sau tất gồm luôn trước, có thể trên một thể, nghĩa được phân thành nhiều thứ, nên có nhiều thứ nghĩa đều cùng thời khởi. Chỉ bốn niệm trụ, tất không đều cùng sinh, vì căn cứ theo đối tượng duyên, nên phân làm bốn, hãy còn không có hai tuệ cùng thời mà sinh, huống chi là có một thời bốn tuệ đều khởi.

Không thể có một tuệ căn cứ theo cảnh để phân ra nhiều, vì nếu duyên chung thuộc về pháp niệm trụ, tất không có một tuệ ở trong một sát-na duyên nơi bốn cảnh sinh bốn hành tướng.

Do nghĩa lý này, nên trong tĩnh lự thứ nhất, nói tóm lại là đủ ba mươi bảy, nhưng ở nơi khoảnh khắc một niệm hiện tiền, tối đa chỉ cùng có ba mươi bốn.

Như thế, vị chí, tĩnh lự thứ hai, nhiều nhất chỉ cùng có ba mươi ba, ba mươi bốn. Trung gian nhiều nhất là ba mươi hai. Ba vô sắc trước nhiều nhất là hai mươi chín. Cõi dục, Hữu đảnh nhiều nhất chỉ là mười chín. Tức tất cả đều trừ ba niệm trụ, trong ấy phần giảm là tùy ở nơi vị, nên suy xét.

Vì sao tâm vương không lập làm giác phần?

Về lý cũng gồm thâu ở trong niệm trụ v.v…, vì tâm vương kia thật sự đã gồm thâu các gia hạnh thiện, nhưng không lập riêng như tuệ v.v…, là do tâm ở trong phần tạp nhiễm, thanh tịnh, với thế dụng quân bình, không có thiên lệch. Giác phần chỉ ở trong phần thanh tịnh, thế dụng tăng mạnh, thế nên không lập.

Có Sư khác nói: Giác phần phần nhiều duyên nơi cộng tướng của các pháp. Tâm vương thì phần nhiều duyên nơi tự tướng mà sinh. Thế nên không lập.

Có Sư khác cho: Tu tập giác phần vốn là để đối trị tất cả phiền não, nhưng vì các phiền não là tâm sở không phải là tâm, nên pháp của chủ thể trị không phải là tâm, chỉ cùng trái ngược với đối tượng đối trị chướng mà kiến lập.

Có Sư khác nêu: Giác phần là phụ tá đối với giác, giác là tâm sở, tuệ là thể, nên không thể có tâm vương phụ tá tâm sở. Như vua không thể phụ tá cho quan, cho nên tâm vương không lập làm giác phần.

Có Sư khác nói: Tâm dẫn dắt thế gian nơi cõi, nẻo sinh khởi luân hồi không dứt. Tu tập giác phần là nhằm đoạn dứt sinh tử. Do đấy tâm vương không lập làm giác phần.

Có Sư khác cho: Từ thời vô thủy đến nay, tâm đã bị tạp nhiễm do rất nhiều phiền não, dong ruổi khắp nơi các cảnh hết sức khó điều phục. Vì điều phục tâm, nên tu tập giác phần, không phải đối tượng điều phục tức là chủ thể điều phục. Do vậy tâm vương không lập làm giác phần.

Vì sao trong các đại tâm sở pháp chỉ lập bốn pháp làm Bồ-đề phần?

Thật sự thì gồm thâu chung ở trong niệm trụ v.v…, các pháp đại tâm sở kia thật sự đã gồm thâu các gia hạnh thiện, nhưng kiến lập riêng niệm, định, tuệ, là do ba thứ này thuận với phẩm thanh tịnh, thế dụng tăng mạnh, có thể lập làm giác phần. Tưởng, tư, xúc, dục thì ở trong phần nhiễm thế dụng mới tăng mạnh, nên không lập riêng. Đối với quán tưởng thì thắng giải riêng tăng. Giác phần chỉ gồm thâu quán thuận với chân thật, do đấy thắng giải không phải thuộc về giác phần.

Có Sư khác nói: Đến vị vô học thì thắng giải mới tăng, nên kinh chỉ lập làm chi vô học. Nơi pháp Bồ-đề phần thì vị hữu học tăng. Do hữu học này làm sức của nhân, tức có thể dẫn khởi ba Bồ-đề. Vì thế thắng giải không phải thuộc về giác phần. Uy lực của tác ý thì có thể phát động tâm, khiến ở nơi đối tượng duyên dễ rơi rớt không ổn định. Giác phần đối với cảnh thì quán sát xét đúng, khiến tâm được chuyên nhất. Cùng với giác phần kia là trái nhau, thế nên tác ý không thuộc về giác phần.

Nếu như vậy đâu thể lập tầm làm giác phần. Tầm đối với cảnh giới, tuy có thúc đẩy phát tâm, nhưng muốn khiến tâm suy cầu chí lý, không phải khiến ở nơi cảnh trôi nổi dễ rơi mất. Đối với đế quán sát có công năng thúc đẩy phát khởi, nên nói sức này có thể khiến phát sinh chánh kiến. Do đấy, tác ý không thể so sánh với tầm.

Có Sư khác nói: Hoặc nhiễm, hoặc tịnh, ở nơi phần vị đầu tiên nhận lấy cảnh thì sức của tác ý tăng.

Thuyết này là phi lý. Vì tác ý như lý, đến cảnh luôn cùng nối tiếp. Do uy lực của tác ý kia đối với phiền não là yếu kém, nên không lập làm giác phần. Giác phần đối với phiền não chủ yếu ở trong phần vị cùng nối tiếp đến cảnh mới tăng thịnh. Thọ thì ở trong phần tạp nhiễm, thanh tịnh, thế dụng đều cùng tăng, nên lập làm giác phần. Do thọ này, trong chi duyên khởi của lưu chuyển lập làm chi thọ và ở trong Bồ-đề phần của hoàn diệt lập hỷ giác chi.

Có Sư khác nói: Thọ ở nơi phần tạp nhiễm tuy là tăng thượng, nhưng cùng với phẩm tịnh để tạo ra sự việc lợi ích, cũng có công năng. Như tánh của hàng Chiên-đồ-la tuy hèn xấu, nhưng có thể cùng với hàng hào tộc tạo được sự việc lợi ích, nên đối với tĩnh lự làm chi lợi ích. Nên trong Bồ-đề phần lập hiệu giác chi.

Do đâu ba thọ (hỷ lạc xả) đều chung nơi vô lậu, còn giác phần chỉ là hỷ, không phải là hai thứ còn lại?

Vì hành tướng đã hiện bày của giác phần là mãnh liệt. Còn hành tướng của lạc, xả thì chậm chạp, nên không phải là giác phần.

Có Sư khác nói: Hai thọ lạc, xả là lạc của khinh an bị hành xả che lấp, nên tướng hiện không sáng rõ, thế nên không lập.

Vì sao trong pháp đại thiện tâm sở chỉ lập bốn pháp làm Bồđề phần?

Thật sự thì cũng đều là thuộc về niệm trụ v.v… Các đại thiện tâm sở kia, thật sự đều gồm thâu gia hạnh thiện, nhưng chỉ lập riêng tín, cần, an, xả, là do bốn thứ này thuận với giác mạnh mẽ.

Vì sao bốn thứ này thuận với tác dụng mạnh mẽ của giác?

Vì phát khởi hướng đến Bồ-đề, tín là đứng đầu, chuẩn bị tu các hành tín là nên tảng đầu tiên, nhân quả thanh tịnh, lấy tín làm gốc. Nếu người không có tín thì tu tập để đạt đến là không thành, nên lập tín căn làm giác phần.

Có Sư khác cho: Như ngọc báu thanh thủy đặt trong nước đục, nước liền được lắng sạch, khiến các người có mắt thấy rõ các sắc tượng. Như thế, dùng tín an trụ trong phẩm tâm, có thể khiến phẩm tâm cùng sinh được lắng sạch. Do đấy, có thể thấy rõ lý của bốn Thánh đế, tăng trưởng dần thành ba Bồ-đề. Vì thế tín rất nên lập làm giác phần. Cần đối với các hành có công năng đốc thúc, phát khởi khắp khiến cho các hành kia nhanh chóng hướng đến Bồ-đề của ba thừa. Nếu không có chánh cần, thì tuy đã phát khởi hướng đến, nhưng giữa chừng do lười biếng bỏ dở, nên trọn không thành tựu. Thế nên lập cần dùng làm giác phần.

Có Sư khác nêu: Từ thời vô thủy đến nay, sở dĩ không thể thấy rõ về bốn Thánh đế, là đều do lười biếng, không ưa thích lắng nghe, như lý tư duy về lý của bốn Thánh đế. Cần có thể chữa trị các thứ biếng trễ kia, khiến ưa thích lắng nghe, như lý tư duy về lý của bốn Thánh đế, có thể kiến bốn đế, nhanh chóng chứng đắc Bồ-đề, nên cần cũng được lập làm giác phần.

Khinh an ngừng dứt sự việc, khiến tâm điều hòa thích nghi, hành xả chánh trực khiến tâm bình đẳng, nên có thể tăng trưởng các hành xuất thế, khiến mau chóng đi đến Bồ-đề của ba thừa. Nên lập khinh an, xả làm giác phần.

Có Sư khác nói: Từ vô thủy đến nay vì hôn trầm trạo cử khiến tâm tạp loạn không kiến lý của đế, do đó không chứng Bồ-đề của ba thừa. Vì khinh an xả bỏ hôn trầm, hành xả ngưng dứt trạo cử. Do đấy kiến đế, mau chóng đến Bồ-đề, nên cũng lập làm giác phần. Nếu như vậy tự tánh của hổ thẹn là thuộc về thiện, ở nơi các phẩm thiện được mang tên pháp bạch, cũng nên lập làm pháp Bồ-đề phần? Hổ thẹn kia không nên lập, vì không hổ, không thẹn chỉ cùng với tất cả tâm ác tương ưng. Ở trong tán giới là chướng ngại hơn hết. Nhưng ở nơi sự việc kiến đế lý có lực chướng ngại nhỏ. Cùng với không hổ, không thẹn kia trái nhau, gọi là hổ thẹn, tự tánh thuộc về thiện được gọi pháp bạch. Tuy ở tán giới có công sức hơn hẳn mà ở nơi định thiện làm trợ lực nhỏ. Trong Bồ-đề phần thì nhận lấy thuận theo định thiện, vì chỉ là trợ giác về lý của đế nên hổ thẹn kia không được lập làm giác phần.

Nếu như vậy nên lập không tham, không sân làm giác phần chăng? Chúng là căn thiện, tự tánh là thiện. Hai thứ ấy cũng không nên lập. Vì tham, sân tương ưng với sáu thức, chung khắp nơi năm bộ là tánh của tùy miên, phát khởi nghiệp thô ác, thì làm gia hạnh hơn hẳn. Chúng đoạn dứt căn thiện, làm chướng ngại lớn cho thiện tán, làm trái yếu kiến đế. Trái ngược với tham sân nên lập không tham, không sân được mang tên căn thiện, tự tánh thuộc về thiện. Đối với nghiệp thiện tán công sức tuy mạnh, nhưng trong trợ định thiện thì thế dụng nhỏ yếu. Pháp Bồ-đề phần thì nhận lấy thuận theo định thiện. Vì chỉ là trợ giác về lý đế nên hai thứ kia không lập làm giác phần.

Nếu như vậy thì không phóng dật nên lập làm giác phần. Do không phóng dật nên các hành đều thành tựu. Đức Phật thường khuyên khiến tu không phóng dật. Nhưng cũng không nên lập làm giác phần. Vì ở trong phần vị tán, phóng dật khiến tâm dong ruổi theo năm dục, có thể trái với thí v.v… Nơi thiện tán thì tác dụng mạnh, ở trong vị định thì tác dụng chướng ngại của phóng dật này không phải là hơn hẳn. Trái ngược đối với đấy nên lập không phóng dật, chỉ đối với năm dục có khả năng phòng hộ tâm, khiến không dong ruổi tán loạn, mà chuyên tu thí v.v… Cho nên, ở nơi thiện tán lực dụng tuy mạnh, mà trong phần trợ định thiện thì thế dụng nhỏ yếu. Pháp Bồ-đề phần thì nhận lấy thuận với định thiện, vì chỉ là trợ giác về lý đế, nên không phóng dật không lập làm giác phần.

Nếu như thế thì bất hại nên lập làm giác phần? Hại có thể bức não vô lượng hữu tình khiến bị đọa trong ba nẻo ác. Bất hại có khả năng đối trị hại kia. Nhưng cũng không nên lập. Hại duyên nơi sự sinh, não hại các hữu tình, chướng ngại tu thiện tán. Bất hại thì ngược với đây. Do sức hỗ trợ định yếu kém nên cũng không lập làm giác phần.

Có Sư khác nói: Trong đại thiện pháp, nếu đối tượng đối trị mạnh nhưng tự tánh hơn hẳn thì lập làm giác phần. Số còn lại thì không lập.

Đối tượng đối trị mạnh: Nghĩa là cùng với tất cả tâm nhiễm tương ưng. Tự tánh hơn hẳn: Nghĩa là hỗ trợ kiến đế. Như trước đã nói tín, cần, an, xả thì đầy đủ hai nghĩa.

Sáu thứ như hổ thẹn v.v… thì không có đủ hai nghĩa. Nghĩa là trong năm thứ như hổ v.v…, hai nghĩa đều không có. Một thứ không phóng dật thì chỉ thiếu tự tánh hơn hẳn.

Vì sao ưa thích, chán lìa không phải là giác phần?

Về lý thật tức cũng là thuộc về niệm trụ v.v…, vì hai thứ kia thật sự đều gồm thâu gia hạnh thiện. Nhưng không lập riêng làm giác phần, do hành tướng của hai thứ này là trái nhau, đều cùng không duyên khắp nơi cảnh của bốn Thánh đế. Vì không có một phần vị của địa nào chấp nhận phẩm tâm hẹp ít luôn hiện tiền, thế nên không lập.

Có Sư khác cho: Phàm nói về ưa thích, chán lìa, là do uy lực của tuệ quán cảnh dẫn sinh. Giác phần tức là có thể thuận với tuệ giác sinh. Vì nghĩa trái nhau, vì thế không nên lập riêng.

Do đâu hai thứ tầm, tứ đều cùng có gia hạnh thiện và có vô lậu, nhưng ở nơi giác phần một lập, một không lập?

Thật ra thì cũng đều cùng có nghĩa chung, như trước đã nói. Nhưng lập riêng tầm, không lập tứ, là vì tầm đối với Thánh đạo đã thúc đẩy chánh kiến mạnh, do lúc tầm khởi, thì hành tướng mạnh mẽ, tìm cầu lý đế, có công năng hỗ trợ kiến, lập làm đạo chi. Tứ thì không như vậy, vì hành tướng khi khởi thì rất yếu kém.

Có Sư khác nêu: Cả hai đều cùng hiện hành, vì hành tướng của tầm thô che lấp tứ, chỉ vì ở phần vị khởi của tứ, hành tướng chuyển yếu ớt, nên trong giác phần không lập riêng tứ.

Đốc thúc phát khởi chánh kiến tự có chánh cần vì sao lại lập tầm làm giác phần?

Vì cần thúc đẩy chánh kiến có khác với tầm, tức trong đạo chi nên đều kiến lập. Nghĩa là cần thúc đẩy hành giả kia, khiến chóng tiến tu. Sức của tầm thì thúc đẩy khiến nhanh chóng quán xét Thánh đế.

Vì sao biểu nghiệp không lập làm giác phần?

Vì giác phần chỉ là thuận với pháp định thiện, tâm đều cùng có vô biểu, có công năng thuận với phần thù thắng. Biểu nghiệp thì không như vậy, thế nên không lập.

Vì sao không lập bất tương ưng hành làm giác phần?

Vì bất tương ưng hành kia đối với sự việc hỗ trợ giác, không có công năng hơn hẳn riêng, vì không tương ưng. Không phải như vô biểu, tuy không tương ưng, nhưng có công dụng làm trục bánh xe của bánh xe đạo. Nên các hành kia đối với giác phần không kiến lập riêng.

Có Sư khác nói: Hai định không tâm có thể diệt bỏ tâm, nên cùng với giác là trái nhau. Bốn tướng và đắc, ở nơi chỗ cùng thành có dụng di chuyển thành. Các thứ hành này đối với nhiễm, tịnh đều khởi dụng bình đẳng. Pháp Bồ-đề phần thì thuận với dụng tịnh tăng, nên không lập riêng.

Do đâu không lập tín làm giác chi và đạo chi?

Khi mới phát khởi hướng đến thì dụng của tín tăng thượng. Đã nhập Thánh vị thì lập giác chi, đạo chi. Vào thời bấy giờ thì thế dụng của tín rất yếu kém, thế nên không lập trong chi giác đạo.

Vì sao ở nơi giác chi thì lập hỷ, khinh an, xả? Không phải cũng lập ba pháp kia ở trong đạo chi?

Vì hỷ, khinh an, xả kia thuận riêng với giác, không thuận với đạo.

Thế nào là thuận với giác?

Tức trong tu đạo, mỗi mỗi địa đều tu chín phẩm giác hơn hẳn. Như như đối với đế, thường thường giác ngộ. Như thế, như thế phát sinh thắng hỷ. Vì sinh thắng hỷ nên lại vui thích quán đế. Như người đào đất có được vật báu sinh hỷ, do sinh hoan hỷ nên càng vui thích đào xới nữa. Vì thế hỷ đối với giác, sức tùy thuận tăng. Chủ yếu do khinh an ngừng dứt các sự việc và do sức của xả khiến tâm bình đẳng mới có khả năng đối với cảnh, quán xét kỹ nhận biết đúng nên lập an, xả ở trong giác chi.

Vì sao ba thứ này không thuận với đạo?

Chuyển vận nhanh chóng là nghĩa của Thánh đạo. Vì ba thứ này đối với sự việc chuyển vận nhanh chóng kia đã có một ít trái nhau, vì chúng đều có thể khiến tâm trụ an ổn.

Vì sao ở nơi đạo lập chi tầm, giới? Còn ở trong giác chi, không phải cũng lập chi kia?

Vì chi tầm, giới kia thuận riêng với đạo, không thuận với giác.

Thế nào là thuận với đạo?

Tức trong kiến đạo thì tầm thúc đẩy chánh kiến, khiến ở trong cảnh của tám đế trên dưới đã mau chóng quán xét. Giới có thể làm trục bánh xe để thành bánh xe kiến đạo, khiến ở trong đế nhanh chóng xoay chuyển. Nên tầm và giới đều cùng lập làm đạo chi.

Hai thứ này vì sao lại không thuận với giác?

Tầm đối với đế chuyển vận không tĩnh lặng. Ở nơi lý của Thánh đế thì tìm cầu tướng. Còn giác đã kiến đế thì an tĩnh mà chuyển. Nên tầm có một ít trái nhau với giác. Giác là tương ưng với cảnh có đối tượng duyên, có dựa, có hành. Giới thì trái nhau với giác này, nên ở nơi giác chi không kiến lập hai thứ kia. Vận chuyển chung gọi là đạo, không thể nêu so sánh.

Vì sao giác phần không gồm thâu Thánh chủng?

Phái Luận Phân Biệt thừa nhận Thánh chủng thuộc về giác phần, nên tông ấy đã kiến lập bốn mươi mốt giác phần. Tông tôi thì thừa nhận Thánh chủng gồm thâu ở trong niệm trụ v.v…, nhưng không lập làm giác phần riêng, vì các giác phần thì hàng tại gia, xuất gia đều cùng có thể thọ hành và có vui thích. Còn Thánh chủng thì chỉ có các người xuất gia thọ hành vui thích. Tại gia có ưa thích tất không có thọ hành, nên không lập riêng.

Có Sư khác nói: Nếu thừa nhận Thánh chủng đều là không tham, thì như trước đã giải thích. Nếu đã thừa nhận thể thứ tư tức là cần, thì ở trong giác phần không nhọc công nêu hỏi.

Do đâu chứng tịnh không phải thuộc về giác phần?

Thật sự cũng gồm thâu ở trong niệm trụ v.v…, nhưng không lập làm giác phần riêng, là do các giác phần thì nghĩa tiến tu là tăng, phải thường xuyên hành tập mới có thể chứng Bồ-đề. Bốn thứ chứng tịnh thì nghĩa chứng đắc tăng. Khi kiến Thánh đế thì đắc dần dần cùng tức khắc. Do đấy chứng tịnh không phải thuộc về giác phần.

Có Sư khác nói: Đây tức là tín, giới tùy thuận ứng hợp cũng thuộc về trong giác phần. Lúc tu giác phần tất đạt được chứng tịnh.

Chứng tịnh này có bao nhiêu thứ? Dựa nơi vị nào để đạt được? Thể thật là pháp gì, hữu lậu hay vô lậu?

Tụng nêu:

Chứng tịnh có bốn thứ

Là Phật, Pháp, Tăng, Giới

Kiến ba được Pháp, Giới

Kiến đạo gồm Phật, Tăng.

Pháp tức toàn ba đế

Bồ-tát, Độc giác đạo

Hai tín, giới làm Thể

Bốn đều chỉ vô lậu.

Luận nói: Kinh nói chứng tịnh gồm có bốn thứ: (1) Đối với Phật chứng tịnh. (2) Đối với Pháp chứng tịnh. (3) Đối với Tăng chứng tịnh. (4) Thánh giới chứng tịnh.

Lại, ở nơi vị kiến đạo, khi kiến ba đế, thì mỗi mỗi chỉ được Pháp, Giới chứng tịnh. Ở quả vị kiến đạo đế thì gồm được Phật, Tăng. Nghĩa là khi kiến khổ thì được giới Thánh ái và pháp chứng tịnh.

Đối với những pháp nào, vì sao mà được pháp chứng tịnh?

Nghĩa là chỉ đối với khổ, đạt được chỉ có pháp, không thật có hữu tình sinh tín quyết định.

Như thế theo thứ lớp khi kiến tập đế, cũng chỉ như trước được hai chứng tịnh, đạt được chỉ là pháp tập có thể làm nhân của khổ, không có sĩ phu nội, sinh tín quyết định. Từ đấy vô gián, khi kiến diệt đế, cũng chỉ như trước được hai chứng tịnh. Đạt được chỉ là pháp diệt, là Niết-bàn chân thật, thành thật có thể tuân theo cầu sinh tín quyết định. Từ đây, tiếp theo sau, khi kiến đạo đế, gồm ở nơi Phật, Tăng được hai chứng tịnh. Đối với sự nối tiếp các pháp vô học của Phật tức được Phật chứng tịnh. Đối với sự nối tiếp pháp học, vô học của Tăng thì được Tăng chứng tịnh. Nói gồm là hiển bày khi kiến đạo đế, cũng được Thánh giới và Pháp chứng tịnh. Đạt được chỉ là pháp đạo, là nhân của chứng diệt, thành thật có thể tuân theo cầu sinh tín quyết định.

Nhưng pháp được tin lược có hai thứ: (1) Riêng. (2) Chung.

Chung thì chung nơi bốn đế. Riêng thì chỉ ba đế. Hoàn toàn là đạo của Bồ-tát, Độc giác. Đạo Bồ-tát chỉ là pháp hữu học. Đạo Độc giác thì chung cho học, vô học. Nếu tín vô lậu duyên nơi pháp riêng sinh, gọi là duyên không xen tạp. Ở pháp chứng tịnh, nếu tín vô lậu duyên nơi cả Phật, Tăng thì gọi là duyên xen tạp. Ở nơi pháp chứng tịnh nên kiến ba đế chỉ được hai thứ. Khi kiến đạo đế thì đầy đủ được bốn.

Nơi phần vị kiến đạo đế là ở hiện tiền, có được ba chứng tịnh của Phật, Pháp, Tăng không?

Không phải đều hiện được khi kiến đạo đế, hiện hành duyên chung nơi các đạo đế. Nên biết hiện tại chỉ có duyên xen tạp nơi một pháp chứng tịnh. Nhân theo uy lực này tu được tín của nhiều sát-na nơi vị lai, trong ấy có duyên riêng Phật, Pháp, Tăng. Hoặc có duyên chung nơi hai Tam bảo. Nghĩa là các người duyên riêng gọi là ba chứng tịnh. Các người duyên chung thì thuộc về pháp chứng tịnh. Khi được đạo loại trí thì tu tám trí, cũng được ba đế. Hai thứ pháp giới nơi đạo pháp nhẫn v.v…, trong ba sát-na ở nơi vị lai chỉ tu bốn thứ đạo đế. Do đối tượng tin riêng, nên gọi là có bốn. Nên biết thật sự chỉ có hai thứ. Nghĩa là đối với ba thứ chứng tịnh như Phật v.v… dùng tín làm thể. Thánh giới chứng tịnh lấy giới làm thể, nên chỉ có hai.

Nếu bảy chi giới thật sự chỉ một, thì vì sao trong giác phần thật sự có mười một, tức nên chỉ có mười thứ, hoặc mười sáu, hoặc nhiều?

Vì trong giác phần hai nghiệp thân, ngữ nói là có sai biệt và tướng có khác. Một thứ chánh mạng, tuy có nói riêng, nhưng lìa nghiệp thân, ngữ thì không có Thể tướng riêng. Dựa nơi chỗ có tướng riêng trong giác phần trước, nói là thật sự có mười một thứ. Tuy nghiệp thân, ngữ mỗi mỗi có nhiều, nhưng vì chủng loại đồng, nên đều lập một. Như bốn niệm trụ, ba chứng tịnh trước, nghĩa là tuệ cùng với tín. Nếu không duyên xen tạp thì tùy nơi đối tượng duyên riêng, tuy có nhiều thứ, nhưng vì đồng loại, nên đều lập làm một. Ở đây cũng nên như thế.

Nay, trong chứng tịnh dựa nơi nghiệp thân ngữ, tướng của Thánh giới v.v… và trong Khế kinh đồng nói vì không thiếu, không xuyên thủng v.v…, nên lập chung làm một. Tùy nơi loại của nghiệp thân, ngữ, nên phần riêng hai. Thánh giới cùng đồng, lập chung làm một. Nên hai so với một không có lỗi trái nhau.

Là dựa nơi nghĩa nào để lập danh xưng chứng tịnh?

Vì như thật nhận biết rõ về lý của bốn Thánh đế, nên gọi là chứng. Chánh tín Tam bảo cùng Thi la diệu đều cùng gọi là tịnh. Do chứng đắc tịnh, nên lập danh xưng chứng tịnh. Chánh tín là thuộc về tướng thanh tịnh của tâm, có thể gọi là tịnh. Thi la là không thuộc về tướng thanh tịnh đâu thể lập tên tịnh?

Bốn thứ này đều là thuộc về tướng thanh tịnh. Vì đã lìa cấu uế của bất tín và cấu uế của phá giới. Lại, bốn thứ này chỉ là vô lậu. Vì vô lậu lìa cấu uế, nên lập tên tịnh.

Bốn thứ này do đâu đã theo thứ lớp như thế?

Ba thứ còn lại lấy Phật làm căn bản. Vì Phật đối với chánh thuyết có công năng là nên đối với chứng tịnh kia đã lập ở đầu tiên. Công năng của chánh thuyết là do giác ngộ pháp, nên đối với chứng tịnh ấy đã lập làm thứ hai (Pháp chứng tịnh). Vì hiện quán pháp tạng, chỉ do Thánh Tăng, nên đối với chứng tịnh kia đã lập làm thứ ba. Quán pháp tạng vì có thể dựa vào Thánh giới, nên Thánh giới chứng tịnh được lập ở sau cùng.

Có thuyết nói: Đức Phật là thầy chánh thuyết pháp. Thế nên đầu tiên lập Phật chứng tịnh. Phật đã giảng nói về Niết-bàn ái tận. Thế nên thứ hai là lập Pháp chứng tịnh.

Vì ai giảng nói pháp?

Là vì Tăng hướng quả. Thế nên thứ ba lập Tăng chứng tịnh. Tăng nương dựa nơi Thánh giới mà được kiến lập. Thế nên thứ tư lập Giới chứng tịnh.

Có thuyết nói: Bốn thứ này cũng như vị thầy dẫn đường, con đường khách đi buôn và xe cộ cưỡi kéo, nên nói bốn thứ này theo thứ lớp như thế.

Kinh nói: Vị học thành tựu tám chi. Trong vị vô học thành tựu đủ mười. Vị học cũng thành chánh thoát, chánh trí. Do đâu đối với hữu học kia không kiến lập chi? Chánh thoát, chánh trí lấy gì làm Thể?

Tụng nêu:

Học có trói buộc khác

Không chánh thoát, trí chi

Giải thoát là vô vi

Tức thắng giải, Hoặc diệt.

Chi vô học hữu vi

Là hai uẩn giải thoát

Chánh trí như nói giác

Tức tận, vô sinh trí.

Luận nói: Trong phần vị hữu học hãy còn có trói buộc khác chưa giải thoát, nên không có giải thoát chi. Không phải lìa bỏ một ít trói buộc là có thể gọi là giải thoát. Không phải không có Thể của giải thoát mà có thể lập trí giải thoát, nên nơi vị hữu học không lập hai chi. Nghĩa là lập tên chi là dựa vào dụng hỗ trợ hơn hẳn. Ở nơi phần vị hữu học đã còn có trói buộc khác, tuy có giải thoát, nhưng không có dụng hỗ trợ hơn hẳn, nên không có giải thoát thù thắng. Tức trí thù thắng kia cũng không có, nên hai chi này không phải ở nơi hữu học. Vì vô học đã thoát khỏi tất cả trói buộc, nên dựa vào giải thoát nội sinh ra hai trí, có dụng hỗ trợ hơn hẳn, tức lý có thể lập chi. Hữu học thì không như vậy, nên chỉ thành tám. Thể của giải thoát có hai, nghĩa là hữu vi, vô vi. Giải thoát hữu vi dùng thắng giải làm Thể. Giải thoát vô vi lấy Hoặc diệt làm Thể.

Loại trước lại có hai. Nghĩa là học, vô học. Dựa nơi bảy Thánh thân được gọi là học. Dựa nơi Thánh thứ tám lập tên gọi vô học. Chỉ giải thoát vô học trong hữu vi mới có thể được kiến lập làm giải thoát chi. Vì Hoặc diệt, vô vi không có dụng của chi. Chi gồm thâu giải thoát lại có hai thứ. Nghĩa là thời và bất thời có sai biệt.

Có thuyết nói: Vì tâm tuệ có sai biệt. Nên biết hai thứ này tức là giải thoát uẩn.

Như thế là đã nói về thể của chánh giải thoát. Thể của chánh trí nghĩa là lìa chánh kiến, như trước đã nói về giác, tức tận, vô sinh.

Trước gọi là Bồ-đề, nay gọi là chánh trí.

Nói về tâm vô học giải thoát, thì tâm ở nơi vị nào là chánh giải thoát? Là ở nơi vị lai, hiện tại hay quá khứ?

Tụng nêu:

Lúc tâm vô học sinh

Chính từ chướng giải thoát.

Luận nói: Như Bản luận nói: Tâm vô học đầu tiên khi ở nơi vị lai sinh là từ chướng được giải thoát. Lại nên xét chọn.

Văn này của Bản luận nói về chữ vị lai, tức nên thành phiền nặng.

Nói về chữ lúc sinh, thì nghĩa đã hiển bày.

Vấn nạn này là không hợp, vì tùy ở hỏi đáp. Nghĩa là trước là người hỏi, hỏi về tâm vô học ở trong đời nào thì chính được giải thoát? Thế nên nay đáp: Ở nơi vị lai. Sợ người kia cho là chung cho tất cả vị lai, nên lại vì người kia phân biệt nói là lúc sinh. Hoặc chỉ nên nói: Lúc sinh giải thoát. Nhưng hoặc có người cho lúc sinh là hiện tại.

Vì nhằm ngăn chặn ý kia, nên nói: Lúc ở vị lai sinh, hiện là đã sinh, không phải là lúc sinh. Hoặc căn cứ ở phần cùng nối tiếp để lập danh xưng giải thoát, thì tất cả vị lai đều gọi là chánh giải thoát. Nếu căn cứ theo hành thế gian để lập danh xưng giải thoát, tức chỉ lúc sinh gọi là chánh giải thoát. Vì để hiển bày riêng về hai nghĩa, nên nói: Lúc ở vị lai sinh.

Câu: Các phiền nặng tất là làm rõ về nghĩa lý riêng, nên suy cứu, không cùng có phi bác. Vì dựa nơi nghĩa như thế, nên có tụng nói:

Văn ở nghĩa đã đủ

Mà lại nói lời dư

Chẳng không nghĩa có văn

Nên xét tìm nghĩa riêng.

Tuy ở nơi vị này các uẩn hiện có đều được giải thoát mà chỉ nói tâm. Nhưng không thể nói là có lỗi thiếu, giảm, vì tâm sở v.v… là tùy theo tâm, vì trong pháp nhiễm, tịnh tâm đều là chủ, tuy không có ngã nhưng vẫn có thể đối với tâm, giả nói là người trói buộc, người giải thoát v.v… Nếu đã nói về thắng nghĩa là đã nói về phần khác. Hoặc ở trong đây, như nêu dụ về pháp, nêu lên một pháp của tâm khiến so sánh tư duy về thứ khác. Tuy các tâm học cũng ở nơi phần vị sinh từ chướng giải thoát, nhưng luận chỉ nói lúc tâm vô học đầu tiên sinh là giải thoát, tức căn cứ ở đoạn trừ trọn vẹn là chứng đắc giải thoát. Lại, ở đây chỉ nêu rõ về giải thoát thuần túy, trong ấy có tâm là tự tánh giải thoát, không phải là giải thoát nối tiếp nhau. Nên tạo ra bốn trường hợp: Hữu học vô lậu. Vô học thế tục. Vô học vô lậu. Tâm thế tục khác. Như thứ lớp nên biết bốn trường hợp có sai biệt.

Trong đây tuy nêu lên sát-na đang sinh nhưng thật ra vị lai đều được giải thoát. So với đang sinh tức đồng với sinh chướng, nên dựa vào uy lực này để tu căn thiện thế tục ở vị lai cũng được giải thoát.

Dựa vào phần cùng nối tiếp thanh tịnh, giải thoát kia được sinh. Vì nhằm hiển bày chỉ rõ lần nữa về tâm vô học đầu tiên khi sinh ở vị lai là từ chướng được giải thoát. Thế nên Bản luận lại nói như thế. Nghĩa là đạo vô gián hiện đang hướng đến đã diệt và đạo giải thoát hiện đang hướng đến đã sinh. Bấy giờ, tâm vô học gọi là từ chướng được giải thoát. Đạo vô gián: Nghĩa là định kim cương và quyến thuộc của định, ở phần vị kịp đến quá khứ lập dùng tên hiện tại. Tiếp theo sau là thiết lập tên quá khứ.

Hướng đến đã diệt: Nghĩa là làm rõ ở nơi đang diệt, gần tiếp theo, tất nhập nơi vị đã diệt.

Đạo giải thoát: Nghĩa là tận trí đầu tiên và quyến thuộc của trí. Sắp đến phần vị hiện tại lập dùng tên hiện tại. Tiếp theo sau là thiết lập tên hiện tại.

Hướng đã sinh: Nghĩa là hiển bày ở nơi đang sinh, gần tiếp theo tất nhập nơi vị đã sinh.

Nói bấy giờ: Nghĩa là thời gian đang diệt đang sinh.

Tâm vô học: Là tận trí đầu tiên đều cùng khởi.

Từ chướng được giải thoát: Tức không phải chỉ là phiền não chướng đã chiêu cảm sinh khởi nghiệp quả của cõi sắc, vô sắc, cũng là bấy giờ đã giải thoát khỏi chướng. Nghiệp này cũng chướng ngại sự việc chứng đắc của A-la-hán.

Do đấy, các Đại Luận sư xưa đều nói thế này: Nghiệp đối với Bất hoàn, Ứng quả chứng đắc nhẫn rất là chướng ngại. Tạo ra giải thích như thế là như Bản luận đã nói, tức đã giải thích nghĩa tâm giải thoát của kinh.

Đạo ở nơi vị nào khiến sinh đoạn chướng?

Tụng nêu:

Đạo chỉ vị đang diệt

Có thể khiến đoạn chướng.

Luận nói: Nói chỉ là làm rõ về chỗ đang diệt, không phải pháp khác. Như đạo sinh, chưa sinh đều cùng có giải thoát, không phải diệt, đã diệt, đều cùng khiến đoạn chướng. Đâu thể nhận biết nơi phần vị đang diệt có thể đoạn trừ chướng, không phải thứ khác. Vì nói là đạo đang sinh, đang từ chướng giải thoát, nên đạo ở phần vị chưa sinh thì chưa được giải thoát. Đạo ở phần vị đã sinh tức đã được giải thoát, đều cùng không thể lập tên gọi chánh giải thoát. Nếu khi đạo đang diệt thì không thể đoạn trừ chướng.

Vì sao ở nơi vị đạo sinh thì được danh xưng chánh giải thoát, nên khi đang diệt thì đạo có thể đoạn trừ chướng. Ở nơi vị trước sau thì công dụng của đoạn nhất định không có.

Vì sao chưa sinh cũng gọi là giải thoát. So với đang sinh là sinh chướng đồng. Như nơi thế gian hiện thấy khi mở ra đường nước thì nước gần, nước xa đều nói là lìa chướng ngại.

Như thế đã thấy rõ đạo có thể đoạn trừ Hoặc, ở trong thân đã sinh, cũng nên có thể nói tâm gần, tâm xa đều được giải thoát. Hoặc như đang khởi tâm vô học đầu tiên, có được đang sinh gọi là chánh giải thoát.

Như thế, loại tâm kia ở nơi vị lai đã tu, tâm vô lậu v.v… vì có đắc khởi, nên nhất định pháp không sinh, hãy còn được gọi là đang đắc giải thoát, huống chi là sẽ sinh.

Ở đây đã nói từ chánh giải thoát, là làm rõ về tâm đã giải thoát. Nay đang đắc giải thoát thì đã nói như thế há không là trái nhau.

Nói đã giải thoát là căn cứ theo tự tánh giải thoát. Nay nói giải thoát là căn cứ theo từ chướng được giải thoát, chỗ đối chiếu đều khác, nghĩa nào là trái nhau.

Hoặc nói đã giải thoát là căn cứ nơi giải thoát vốn đã có, căn cứ ở thân hành nơi thế gian nói câu nay giải thoát. Do đó điều đã nói là không có lỗi trái nhau.

Các người hành nơi thế gian đều là giải thoát chăng? Không phải vậy, chủ yếu là ở nơi người siêng năng phá trừ chướng sinh.

Có Sư khác nói: Khi chánh giải thoát cũng được gọi là tâm đã giải thoát, vì tánh là đã xả bỏ phiền não chướng. Lý tất nên như vậy, vì đạo giải thoát dựa vào không có phiền não cùng nối tiếp chuyển biến.

Vì đã xuất ly chướng, nên gọi là đã giải thoát. Nay hành nơi thế gian, nên gọi là nay giải thoát. Do đấy, những điều đã nói đều không trái nhau. Kinh nói: Tâm từ tham nay được giải thoát này.

Đã nói về giải thoát, nghĩa ấy là thế nào?

Vì giải thoát này là khiến tâm cùng với tham lìa nhau, vì tánh của tham không còn duyên nơi tâm.

Tâm gọi là có tham, vì là tương ưng, vì là đối tượng duyên hay là được tùy thuộc?

Nếu vì tương ưng tức nên chỉ là tâm nhiễm, gọi là được giải thoát, liền trái với tự tông, nói là vì lìa tham, tâm được giải thoát. Lại, nếu pháp này cùng với tham kia tương ưng, thì tất định không cùng khiến tâm này lìa tham kia, nên rốt cùng tâm không giải thoát tham.

Nếu vì đối tượng duyên tức nên tâm nhiễm ô cũng được giải thoát. Về lý không nên nói tâm tương ưng với tham, gọi là giải thoát. Lại, tánh của tham kia, nếu duyên nơi tâm này thì không có nghĩa tạm thời không duyên và duyên khác. Vì sao có thể nói là tâm thoát khỏi tham kia?

Nếu được tùy thuộc thì tâm hữu học cũng gọi là có tham? Vì đã nương dựa nơi tham để được chỗ tùy thuộc, nối tiếp nhau mà hiện khởi.

Luận Chánh Lý nói như thế này: Chỉ tâm lìa tham nay được giải thoát.

Những gì gọi là tướng của hai thứ tâm có tham và tâm lìa tham?

Nghĩa là tâm nếu cùng với tham tương ưng thì goi là tâm có tham. Nếu không tương ưng cũng không làm nhân đồng loại của tham thì gọi là tâm lìa tham. Cho đến có si, lìa si cũng như vậy.

Đã nói về tâm lìa tham được giải thoát, tức lập giải thoát chỉ là tâm không nhiễm. Tuy nhiên, tâm không nhiễm gồm có bốn thứ. Nghĩa là trong hữu lậu phân ra thiện, vô ký. Trong vô lậu thì phân ra học, vô học.

Nói tâm lìa tham nay giải thoát thì nay giải thoát có hai. Nghĩa là các tâm hữu lậu hành thế cùng nối tiếp, tất cả đều có giải thoát nối tiếp. Các vị gia hạnh đắc cũng thừa nhận gồm có hành thế giải thoát. Các tâm vô lậu tất cả đều có hành thế giải thoát.

Vô học gồm thâu cũng thừa nhận gồm có giải thoát nối tiếp.

Như trong Khế kinh nói có ba giới nghĩa là đoạn, lìa, diệt.

Trong hai giải thoát như trước đã nói, thì ở đây giải thoát nào làm Thể? Ba giới như thế vì sao có sai biệt? Tụng nêu:

Vô vi nói ba giới

Giới lìa chỉ lìa tham

Giới đoạn đoạn kiết khác

Giới diệt diệt sự kia.

Luận nói: Ba giới như đoạn v.v… tức như phần trước đã nêu, là dùng giải thoát vô vi làm tự thể. Như thể của ba giới, căn cứ theo giả có nên khác nhau. Nếu căn cứ theo thật sự thì không có sai biệt. Thế nào gọi là căn cứ theo giả có nên khác nhau? Nghĩa là lìa kiết tham, gọi là giới lìa. Đoạn trừ tám kiết khác gọi là giới đoạn. Diệt trừ tất cả các kiết còn lại như tham đã trói buộc sự thể, gọi là giới diệt.

Do đâu ba giới có sai biệt như thế?

Nghĩa là pháp hữu lậu lược chung có ba: (1) Có thể trói buộc nhưng không phải có thể cấu nhiễm. (2) Có thể trói buộc cũng là có thể cấu nhiễm. (3) Không phải cả hai, là pháp thuận với trói buộc và cấu nhiễm.

Đoạn trừ ba pháp này là đã chứng vô vi, như thứ lớp, gọi là ba giới như đoạn v.v…

Có Sư khác nói: Chỉ đoạn phần có thể trói buộc là có riêng vô vi. Đoạn pháp còn lại thì không như vậy. Thuyết kia nói phần có thể trói buộc có thứ duyên nơi tám kiết, có thứ duyên nơi kiết ái, có thứ duyên nơi sự khác. Đoạn ba thứ ấy là đã chứng vô vi. Như thứ lớp gọi là ba giới như đoạn v.v…

Có Sư khác cho: Chỉ đoạn phần có thể cấu nhiễm là có riêng vô vi. Đoạn pháp khác thì không như vậy. Sư kia nói ái có thứ duyên nơi tám kiết, có thứ duyên nơi kiết ái, có thứ duyên nơi sự khác. Đoạn ba thứ này là đã chứng vô vi, như thứ lớp gọi là ba giới như đoạn v.v… Tùy nơi sự của đối tượng trói buộc, riêng được trạch diệt, nên trong ba thuyết, thuyết đầu là tốt.

Căn cứ theo đây tức đã giải thích trong các Khế kinh nói về ba tướng có sai biệt của tưởng đoạn, lìa, diệt. Hoặc nơi địa của nghiệp đầu tiên, ta sẽ đoạn tưởng, gọi là tưởng đoạn. Nếu lìa địa nhiễm là ta đang đoạn tưởng gọi là tưởng lìa. Nếu địa đã hoàn thành tức ta đã đoạn tưởng gọi là tưởng diệt. Hoặc ở trong gánh nặng của uẩn đã thọ nhận thấy lỗi không xả bỏ, khởi tưởng muốn xả bỏ, gọi là tưởng đoạn. Vì xả cùng với đoạn gọi là có sai biệt. Nếu ở trong uẩn khác không còn sinh, thấy công đức thù thắng, khởi tưởng muốn cầu đạt, gọi là tưởng diệt. Vì không sinh cùng với diệt gọi là có sai biệt. Đã được lìa nhiễm, thanh tịnh cùng nối tiếp, đối với các pháp uẩn, không còn lưu luyến, đối với bát Niết-bàn, thấy tưởng tĩnh diệu, gọi là tưởng lìa. Không lưu luyến cùng với lìa gọi là sai biệt.

Nếu sự có thể nhàm chán, tất có thể lìa bỏ chăng? Không phải vậy. Vì sao?

Tụng nêu:

Chán duyên khổ, tập: Tuệ

Lìa duyên bốn năng đoạn

Tương đối cùng rộng hẹp

Nên thành bốn trường hợp.

Luận nói: Chỉ duyên nơi khổ, tập đã khởi nhẫn trí gọi là nhàm chán. Duyên nơi pháp khác thì không như vậy. Trong cảnh của bốn đế đã khởi nhẫn trí, có thể đoạn trừ Hoặc, đều được mang tên lìa. Vì rộng hẹp có khác, nên thành bốn trường hợp:

1. Có chán không phải là lìa. Nghĩa là duyên nơi khổ, tập, không khiến Hoặc đoạn, vì nhẫn trí hiện có đã duyên nơi cảnh nhàm chán, vì không phải là lìa nhiễm. Nên biết trong đây, trước lìa dục nhiễm, sau là kiến đế. Khổ tập pháp nhẫn và khổ trí, tập trí trong kiến đạo chỉ gọi là chán, vì duyên nơi cảnh nhàm chán, nên nhẫn không gọi là lìa. Vì Hoặc trước đã đoạn trí không gọi là lìa, vì không phải là đối trị đoạn, gồm luôn gia hạnh giải thoát trong tu đạo, thuộc về đạo thắng tấn. Khổ trí, tập trí chỉ gọi là chán, vì duyên nơi cảnh nhàm chán. Không gọi là lìa, vì không phải là đối trị đoạn.

2. Có lìa không phải là chán. Nghĩa là duyên nơi diệt, đạo có thể khiến Hoặc đoạn, nhẫn trí hiện có khả năng lìa nhiễm, vì duyên nơi cảnh ưa thích. Nên biết trong đây người chưa lìa dục nhiễm nhập kiến đế, thì diệt đạo pháp phẩm cùng các diệt đạo loại nhẫn hiện có và diệt trí, đạo trí thuộc về đạo vô gián trong tu đạo, chỉ gọi là lìa, vì là đối trị đoạn. Không gọi là chán, vì duyên nơi cảnh ưa thích.

3. Có chán cũng là lìa. Nghĩa là duyên nơi khổ, tập có thể khiến nhẫn trí hiện có đoạn trừ Hoặc. Nên biết trong đây người chưa lìa dục nhiễm nhập kiến đế thì khổ tập pháp nhẫn và các khổ tập loại nhẫn hiện có cùng khổ trí, tập trí là thuộc về đạo vô gián trong tu đạo.

4. Có không phải chán cũng không phải là lìa. Nghĩa là duyên nơi diệt, đạo, không khiến nhẫn trí hiện có đoạn trừ Hoặc. Nên biết trong đây, trước lìa dục nhiễm, sau là kiến đế, diệt đạo pháp nhẫn cùng diệt trí, đạo trí trong kiến đạo và diệt trí, đạo trí thuộc về đạo thắng tấn của gia hạnh giải thoát trong tu đạo.

HẾT – QUYỂN 34