LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 6

Phẩm thứ 3: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 2

Như vậy là đã nói về pháp đại thiện địa. Địa của pháp đại phiền não gọi là địa của đại phiền não.

Trong đây, nếu pháp nơi địa của đại phiền não hiện có, thì gọi là pháp đại phiền não địa. Nghĩa là pháp luôn có ở nơi tâm nhiễm ô. Pháp đó là gì?

Tụng nêu:

Si, dật, đãi, bất tín

Hôn, trạo, luôn chỉ nhiễm.

Luận nói: Vì sao sáu thứ như thế gọi là pháp đại phiền não địa? Do luôn chỉ cùng với các tâm nhiễm đều cùng có. Tụng nói nhiễm là nghĩa tâm nhiễm. Lại, phóng dật v.v… cùng với vô minh, như thứ lớp đó, nên biết tức là đối tượng đối trị của không phóng dật, cần, tín, khinh an, xả v.v…

Si, nghĩa là ngu si, đối với cảnh của đối tượng nhận thức đã làm chướng ngại tcác thắng giải như lý, không biện rõ về tướng, gọi là ngu si, tức là vô minh vô trí, không có hiển bày.

Dật, nghĩa là phóng dật. Đối với sự việc chuyên lợi mình đã mặc tình từ bỏ, gọi là phóng dật.

Đãi, nghĩa là giải đãi (biếng trễ). Ở nơi sự việc thiện, thiếu giảm công năng thù thắng. Đối với sự việc ác, thuận thành mạnh mẽ, hung bạo. Đẳng lưu của vô minh gọi là giải đãi, do đấy nói là tánh của cần thô kém, vì siêng hành tập theo thô, uế, nên gọi là giải đãi.

Bất tín, nghĩa là tâm không lắng sạch, là đẳng lưu của tà kiến. Đối với các đẳng chí, tĩnh lự của đế thật hiện tiền thì khinh chê. Ở nơi nhân như thí cho v.v… và đối với quả của thí kia, tâm không hiện thuận theo, gọi là bất tín.

Hôn, tức là hôn trầm, là mờ mịt, không vui v.v…, tức đã sinh tánh nặng nề của tâm, gọi là hôn trầm. Vì tánh này che lấp tâm liền bị mờ tối, không thể nhận giữ, vì tánh rối loạn, lờ mờ. Do đấy nói là đối tượng đối trị của khinh an. Tâm là đại chủng, vì có thể sinh nhân. Do đây là trước đã khởi tánh nặng nề của thân, giả nói là hôn trầm, thật sự thì không phải là hôn trầm, mà là cảnh nơi đối tượng duyên của thân thức. Nhưng hôn trầm này vì bị vô minh che lấp, nên Bản luận không nói là pháp đại phiền não địa.

Có người cho: Luận kia nói: Tên gọi vô minh là chỉ nói về tướng tương tợ của hôn trầm, nên tánh vô minh là đại biến hành, là pháp của địa này không nói mà thành.

Có thuyết nói: Ở đây gọi là nói chung về hai nghĩa.

Trạo, nghĩa là trạo cử, là thân quen với tầm v.v… đã sinh khởi, là tánh khiến tâm không tĩnh lặng, gọi là trạo cử. Tâm cùng với trạo cử này hòa hợp tức vượt đường mà đi. Các thứ tác ý phi lý, mất niệm, tâm loạn, bất chánh tri, tà thắng giải, vì trước đã nói là pháp đại địa, nên ở trong pháp của địa này tuy có nhưng không nói. Như nơi pháp đại địa thiện không nói căn thiện không si. Chỉ các tâm nhiễm luôn có sáu pháp này.

Như thế là đã nói về pháp đại phiền não địa. Địa của pháp đại bất thiện gọi là đại bất thiện địa. Trong đây, nếu pháp nơi địa của đại bất thiện hiện có, gọi là pháp đại bất thiện địa. Nghĩa là pháp luôn có ở nơi tâm bất thiện. Pháp đó là thế nào?

Tụng nêu:

Chỉ khắp tâm bất thiện

Vô tàm và vô quý.

Luận nói: Hai tâm sở này chỉ cùng với tất cả tâm bất thiện đều cùng có. Nghĩa là không hổ (vô tàm), không thẹn (vô quý), nên chỉ hai thứ ấy gọi là pháp của địa này. (Về tướng của hai pháp ấy, phần như sau sẽ nêu rõ).

Như thế là đã nói về pháp đại bất thiện địa.

Địa của pháp tiểu phiền não, gọi là địa tiểu phiền não. Trong ấy, nếu pháp nơi địa của tiểu phiền não hiện có, thì gọi là pháp tiểu phiền não địa. Nghĩa là phần ít của pháp nơi tâm nhiễm ô đều cùng có. Pháp đó là gì?

Tụng nêu:

Phẫn, phú, xan, tật, não

Hại, hận, siểm, cuống, kiêu

Loại như thế gọi là

Pháp tiểu phiền não địa.

Luận nói: Nói loại là nghĩa gồm thâu không nhẫn, không vui, phẫn phát v.v…. Tiểu là nghĩa ít, hiển bày không phải tất cả tâm nhiễm ô đều cùng có. Lại, không tương ưng, chỉ do tu đạo đoạn, ý thức cùng khởi, tương ưng với vô minh.

Trong phần nói về tùy phiền não sẽ giải thích tướng của chúng.

Các tâm sở này đều thật có tánh, không phải một phẩm loại trong nghĩa của đối tượng duyên mà là vô số hành tướng đều cùng lúc khởi, nên một thể đồng thời, như nghĩa của đối tượng duyên, vì hành tướng sai biệt không cùng có. Tuy nhiên, do đã chế phục pháp khác nên thấy tướng của chúng cùng nối tiếp, biến đổi khác mà khởi. Hiện thấy thế mạnh của các thứ như dầu trong, nước đục, gió đã kìm giữ trong sự việc cùng nối tiếp của đèn thắp sáng, tức có sáng tối, âm thanh, chuyển động v.v…

Như vậy là đã nói về phẩm loại của pháp đại địa v.v…, quyết định tâm sở có sai biệt. Lại có tâm sở bất định khác này, là các loại như ố tác, thùy miên, tầm, tứ v.v…, nói chung gọi là pháp của địa bất định.

Nay nên quyết định lựa chọn. Tất cả số lượng cùng sinh của các tâm sở trong các phẩm tâm thì nơi phẩm tâm nào có bao nhiêu tâm sở? Tụng nêu:

Nơi dục có tầm tứ

Ở trong phẩm tâm thiện

Hai mươi hai tâm sở

Có khi thêm ố tác.

Không chung với bất thiện

Kiến đều chỉ hai mươi

Bốn phiền não như phẫn

Ố tác, hai mươi mốt.

Hữu phú có mười tám

Vô phú nhận mười hai

Thùy miên khắp không trái

Nếu có đều tăng một.

Luận nói: Lại trong cõi dục thì phẩm tâm có năm. Nghĩa là thiện chỉ một. Bất thiện có hai, tức vô minh không chung cùng sinh và phiền não v.v… khác cùng sinh khởi. Vô ký có hai là hữu phú vô ký và vô phú vô ký.

Như thế, tất cả phẩm tâm của cõi dục, quyết định luôn cùng với tầm, tứ tương ưng. Nên phẩm tâm thiện có hai mươi hai tâm sở cùng sinh. Nghĩa là mười pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa và hai bất định là tầm với tứ.

Trong đây, cần, xả tức nên không cùng sinh, vì hành tướng trái nhau, như đi tới và đứng lại, tu tạo và dứt bỏ, về lý là không đồng thời. Khế kinh cũng ngăn chận hai thứ này cùng khởi, nói tu hai pháp là đúng thời và phi thời. Như Khế kinh nói: Nếu tâm hôn trầm, bấy giờ nên tu trạch pháp, cần, hỷ, còn tu khinh an, định, xả tức là phi thời. Nếu tâm trạo cử, bấy giờ nên tu khinh an, định, xả, còn tu trạch pháp, cần, hỷ tức là phi thời. Cùng sinh không có lỗi vì không trái nhau.

Người trụ nơi chánh lý, khởi hành như lý không dừng nghỉ, gọi là cần. Tức nơi bấy giờ bỏ hành phi lý, đạt bình đẳng gọi là xả. Lại, ở trong hành như lý, phi lý, xả bỏ như gọi riêng về đi tới, dừng lại, là bình đẳng, nên xả cùng với cần lại tùy thuận nhau. Khởi thiện, dứt ác, hành không trái nhau. Nếu ở nơi đối tượng duyên, một lấy một bỏ, tức lại cùng trái nhau, có thể có lỗi này.

Pháp địa bất định lại có hai thứ: (1) Ố tác. (2) Thùy miên.

Không phải hai pháp này hiện có chung nơi ba cõi và sáu thức thân, hữu lậu, vô lậu. Không phải chỉ không nhiễm, cũng không phải chỉ nhiễm, nên nơi phẩm tâm thiện không phải tất cả thời đều có ố tác, chỉ cùng là có thể có. Có lúc tăng số đến hai mươi ba.

Nói ố tác, nghĩa là hối hận do ố tác làm đối tượng duyên, nên lập danh xưng ố tác, như định vô tướng.

Có thuyết nói: Vô tướng và thân niệm trụ có xứ gọi là thân.

Nếu như vậy thì có trường hợp sự việc chưa tạo, tâm sinh hối tiếc, nên không phải là ố tác. Không phải thế. Vì chưa tạo tác, cũng gọi là tạo tác. Như hối tiếc nói: Trước đây, tôi đã không hành tác sự việc như thế, là tôi đã ố tác. Nhưng ố tác này là chung nơi thiện, bất thiện, không chung nơi vô ký, vì tùy theo hành ưu. Người lìa dục tham, vì không thành tựu, nên không phải là pháp vô ký. Có sự việc như thế, nhưng có biến đổi hối tiếc: Tôi cần làm gì, không tiêu hóa mà ăn? Tôi cần làm gì khi không vẽ lên vách này?

Những loại như thế v.v…, tâm kia cho đến chưa tiếp xúc với ưu căn, chỉ là tỉnh xét chứ chưa khởi ố tác. Nếu tiếp xúc với ưu căn, liền khởi ố tác. Bấy giờ, ố tác về lý là đồng với ưu căn, nên nói ố tác có tướng như thế. Nghĩa là khiến tâm lo buồn ố tác nơi phẩm tâm. Nếu lìa ưu căn thì cái gì khiến tâm lo buồn?

Ố tác có bốn, là thiện bất thiện, mỗi mỗi đều dựa vào một xứ khởi. Nếu ở nơi phẩm tâm không chung với bất thiện, nên biết có hai mươi tâm sở đều cùng sinh, tức là mười pháp đại địa, sáu pháp đại phiền não địa, hai pháp đại bất thiện địa và hai bất định, là tầm với tứ.

Những gì gọi là phẩm tâm không chung? Nghĩa là phẩm tâm này chỉ có vô minh, không có tùy miên tham v.v… khác, như tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ của phẩm không chung đều cùng sinh cũng vậy.

Trong pháp đại địa, tức tuệ có sai biệt, được gọi là kiến, nên số lượng không tăng.

Tụng nói chỉ, tức nghĩa phân biệt. Nghĩa là chỉ thấy đều cùng có, nhất định có hai mươi biểu. Trong phẩm không chung thâu nhận có ố tác v.v… Tức nếu ố tác là bất thiện, thì chỉ là vô minh cùng hợp, không phải là phiền não khác. Hai thứ tham, mạn thì chuyển biến theo hành vui. Sân thì chuyển biến theo môn ngoài, vì hành tướng thô, nên không phải ố tác cùng có. Nghi thì không quyết định, còn ố tác thì quyết định nên không cùng khởi. Hữu thân kiến v.v… vì chuyển biến theo hành vui, nên rất mạnh nhanh. Ố tác thì không như vậy. Nhưng ố tác này dựa vào xứ của sự hành thiện, ác để chuyển.

Các kiến thì không như vậy, nên không tương ưng. Tà kiến một phần tuy chuyển biến theo hành lo buồn nhưng vì hai nhân nên không phải là ố tác cùng có.

Thế nên ố tác là bất thiện, thì chỉ vô minh là cùng thâu nhận nơi không chung. Phẫn v.v… cũng như vậy. Ở nơi phẩm tâm của bốn thứ phiền não bất thiện là tham, sân, mạn, nghi, thì có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Hai mươi như nơi phần không chung thêm tham v.v… tùy lấy một. Ở trước đã nói về phẫn v.v… tương ưng với phẩm tùy phiền não, cũng có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Hai mươi như nơi phần không chung thêm phẫn v.v… theo đấy lấy một. Ố tác bất thiện tương ưng với phẩm tâm, cũng có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Tức ố tác là thứ hai mươi mốt. Nếu ở nơi phẩm tâm hữu phú vô ký chỉ thì có mười tám tâm sở cùng sinh. Nghĩa là trong hai mươi, trừ hai thứ nơi đại bất thiện. Tâm hữu phú vô ký của cõi dục, nghĩa là cùng với Tát-ca-da-kiến và biên chấp kiến tương ưng. Kiến không tăng, nghĩa như trước nên giải thích. Đối với phẩm tâm vô phú vô ký còn lại thừa nhận chỉ có mười hai tâm sở cùng sinh. Nghĩa là mười pháp đại địa và tầm, tứ bất định. Có người cho ố tác cũng chung nơi vô ký. Ưu như hỷ căn, không phải chỉ là hữu ký. Phẩm tương ưng này tức có mười ba tâm sở cùng khởi. Thùy miên vì tất cả không trái nhau nhau, nên nơi các phẩm tâm đều có thể hiện hành.

Ở nơi phẩm tâm thiện, bất thiện, vô ký, tùy theo phẩm nào có, tức nói phẩm ấy tăng, tùy nơi đối tượng ứng hợp kia, nên đều tăng số. Các tâm vô ký như xứ công xảo v.v…, giống như có sức dũng mãnh, nhưng không phải xứng hợp lý để khởi gia hạnh, nên không có cần. Lại, vì không phải nhiễm ô, nên không có biếng trễ. Không tín, bất tín, so sánh với đây nên biết.

Đã nói về lượng định của các phẩm tâm sở cùng sinh nơi cõi dục. Sẽ nói về cõi trên.

Tụng nêu:

Định đầu, trừ bất thiện

Và ố tác, thùy miên

Định trung lại trừ tầm

Trên gồm trừ như tứ…

Luận nói: Trong tĩnh lự đầu, các tâm sở pháp đã nói ở trước, chỉ trừ ố tác, thùy miên bất thiện, số còn lại đều có đủ. Chỉ bất thiện: Nghĩa là phiền não sân và không hổ, không thẹn. Trừ siểm, cuống, kiêu, còn lại là phẫn v.v…

Số còn lại đều có: Tức như nói về cõi dục. Tĩnh lự trung gian thì trừ như trước đã trừ. Lại còn trừ tầm, các thứ còn lại đều có đủ.

Tĩnh lự thứ hai trở lên cho đến trong cõi vô sắc, trừ các thứ trước đã trừ. Lại trừ tứ v.v… Vân vân là làm rõ về việc trừ siểm, cuống. Số còn lại đều như trước đã nói. Có đủ, do từ cõi dục cho đến Phạm thiên, đều có vua, quan, các chủ v.v… riêng khác, nên có siểm cuống. Địa trên đều không có.

Như vậy là đã nói về lượng định của các tâm tâm sở cùng sinh, hệ thuộc nơi ba cõi. Có các tâm sở, tánh tương tợ đồng, khó nhận biết sai biệt.

Nay tùy theo nghĩa của tông, biện về tướng dị biệt kia. Vô tàm (Không hổ), vô quý (Không thẹn), ái cùng với kính tướng riêng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Không hổ, thẹn không nặng

Đối tội, không thấy sợ

Ái kính, là tín, hổ

Chỉ có ở dục, sắc.

Luận nói: Tướng sai biệt của không hổ, không thẹn là đối với các công đức và người có đức, không kính, không sùng, không có nể sợ, không có tùy thuộc, gọi là không hổ.

Các công đức: Nghĩa là Thi la (Giới) v.v… Người có đức tức là Thân giáo v.v… Đối với hai cảnh này không kính, không sùng, là tướng của không hổ. Tức sùng kính là pháp có thể chướng ngại. Hoặc duyên nơi các đức nói là không kính. Duyên nơi người có đức nói là không sùng.

Không có nể sợ, không có tùy thuộc là làm rõ chung về hai pháp trước. Hoặc tùy theo thứ lớp, đối với tội đã tạo, không thấy sợ hãi, gọi là không thẹn. Pháp đã bị chê trách nhàm chán của các vị hành quán, gọi là tội. Ở trong các nghiệp tội đã bị chê trách, nhàm chán, không thấy có thể chiêu cảm quả dị thục v.v… của đời này, đời khác. Đối với các thứ đáng sợ hãi lại chê bai, trách cứ, cho là phi ái khó nhận, là tướng của không thẹn. Tức là nghĩa không sợ hãi qủa của nghiệp tội. Nói không thấy sợ, là muốn làm rõ về nghĩa gì? Vì không thấy sự sợ kia hay là thấy mà không sợ? Trước nên làm rõ về vô minh, sau nên làm rõ về tà kiến.

Lời nói này không hiển bày về thấy, cùng với không thấy là thể của không thẹn. Chỉ rõ có pháp là tùy phiền não, có thể cùng với vô trí, tà trí hiện hành làm nhân gần gũi, nói là không thẹn. Đây là nghĩa lược: Nghĩa là có thể khiến tâm đối với đức, có đức, không sùng kính, gọi là không hổ. Đối với tội hiện hành không có sợ hãi, gọi là không thẹn.

Có Sư khác cho: Đối với các phiền não không thể chán bỏ, gọi là không hổ. Đối với các hành ác không thể chán bỏ, gọi là không thẹn.

Có thuyết nêu: Ở riêng một mình tạo tội, không có xấu hổ, gọi là không hổ. Nếu ở trong chúng tạo tội, không có xấu hổ, gọi là không thẹn.

Có thuyết nói: Lúc tâm bất thiện hiện khởi, đối với nhân dị thục, không hề đoái nhìn, gọi là không hổ. Đối với quả dị thục, không đoái nghĩ đến, gọi là không thẹn. Các tâm bất thiện nơi phần vị hiện tiền, đều đối với nhân quả không hề đoái hoài thấy biết, nên trong một tâm hai pháp cùng khởi. Do đấy trở lại giải thích về tướng dị biệt của hổ, thẹn. Nếu ý lạc thanh tịnh, vì người thiện hành tập đã ưa thích nghiệp thù thắng, gọi là người có hổ. Vì được người thiện đã ưa thích quả thù thắng, gọi là người có thẹn. Nhưng người có yêu thích nghiệp quả thù thắng, tất cũng sợ hãi đối với nhân ác, quả khổ. Tất cả tâm thiện ở nơi phần vị hiện tiền, nhất định đối với nhân quả đều không có mê lầm, nên hổ cùng với thẹn nơi một tâm đều sinh.

Có Sư khác cho: Dùng nghĩa như thế để nêu rõ đối với tâm là đứng đầu, nói lời thế này: Đối với tội đã tạo, tự xem xét không có xấu hổ, gọi là không hổ. Xem xét đối nơi người khác không có xấu hổ, nói là không thẹn. Nghĩa là nơi nhân dị thục đương thời hiện khởi, nên gọi là tự. Thời gian sau, quả dị thục kia mới có, nên nói là người khác.

Nghĩa kia ý nói: Các người tạo nghiệp, ý lạc bất tịnh, đối với nghiệp tội hiện tại và quả khổ đương lai, đều không đoái nghĩ đến.

Đã nói về tướng dị biệt của không hổ, không thẹn. Ái, kính dị biệt: Ái, nghĩa là ái lạc, thể tức là tín. Nhưng ái có hai: (1) Có nhiễm ô. (2) Không nhiễm ô.

Có nhiễm ô là tham. Không nhiễm ô là tín. Tín lại có hai: (1) Tướng nhẫn thuận. (2) Tướng nguyện lạc.

Nếu duyên nơi xứ này hiện tiền là nhẫn thuận. Hoặc tức ở trong ấy cũng sinh nguyện lạc. Trong đây ái là tín thứ hai. Hoặc ở trong nhân cũng lập tên quả. Tín trước là ái, vì là nhân gần gũi, nên gọi ái không lỗi. Kính, nghĩa là kính trọng, thể tức là hổ. Nghĩa là như trước đã giải thích trong pháp đại thiện địa.

Nói tánh tự tại của tâm, gọi là thẹn. Nên biết trong đây tức là thể của kính. Nhưng lại có người nói: Vì có đối tượng tôn sùng, kính trọng, nên gọi là kính. Do kính này làm ưu tiên mới sinh xấu hổ, nên kính không phải là hổ.

Sư kia nên thừa nhận: Người không có xấu hổ, có thể khởi cung kính, vì chấp cho trước khi khởi kính, là chưa có xấu hổ, nên người không có xấu hổ có thể khởi cung kính. Nếu cho khi kính đã có xấu hổ, thì không nên nói là do kính làm ưu tiên mới sinh xấu hổ. Nếu cho khi cung kính, không phải là không có xấu hổ, nhưng kính không phải là hổ. Giải thích này cũng phi lý, vì nói kính không phải là hổ, là không có nhân chứng, không phải kính làm ưu tiên mới sinh xấu hổ. Chớ cho người không có hổ có thể khởi cung kính. Lại đừng nói có kính mà không có xấu hổ, nhưng lại chấp chặt thể của kính không phải là hổ, vì chỉ có hư ngôn đều không thật nghĩa, nên thể của kính là hổ có sai biệt. Nghĩa là hoặc có hổ, gọi là có sùng trọng. Hổ này có sai biệt được gọi là kính. Vì Bổ-đặc-già-la là cảnh giới, tức hổ có sai biệt được mang tên sùng trọng.

Phàm là sùng trọng, tức tâm tự tại. Tánh tự tại của tâm đã nói là hổ. Nghĩa là ở trong tâm có sức tự tại, có thể tự chế phục, vì có đối tượng được sùng trọng, nên nói thể của kính là hổ có sai biệt. Đối với các đối tượng được tôn kính, có chỗ sùng trọng, nên gọi là kính, là cảnh thứ bảy, hoặc nhân thứ bảy, do ở nơi đối tượng tôn kính, phát khởi ý tùy thuộc tức gọi là hổ. Hổ này tức là có đối tượng sùng trọng, nên thể của kính ấy là hổ có sai biệt nghĩa đã khéo thành tựu. Tức do chứng này, Bổ-đặc-già-la làm cảnh nơi tín, hổ, gọi là ái kính. Không phải cho dùng pháp làm cảnh để khởi, nên ái cùng với kính tuy thuộc về pháp đại thiện địa, nhưng ở nơi vô sắc không lập là có.

Có Sư khác nêu: Tín thuận thân mật mà không đắm nhiễm gọi là ái. Chiêm ngưỡng, kỳ vọng nơi đối tượng được tôn kính, sùng trọng, tùy thuộc gọi là kính.

Có Sư khác cho: Nhân gần gũi với bậc thiện sĩ gọi là ái. Nhân không vượt qua lời nói của bậc thiện sĩ đó, gọi là kính.

Lại có thuyết nói: Ở nơi chúng hòa hợp, các thứ kiến v.v… đều đồng, nên gọi là ái. Đối với người đáng tôn trọng, thâm tâm cung kính, phụng sự, nên gọi là kính.

Ái này cùng với kính ở nơi cõi dục, cõi sắc thì có, cõi vô sắc không có, vì không có xứ nương dựa.

Như thế là đã nói về tướng riêng khác của ái, kính. Tướng riêng khác của tầm, tứ, kiêu mạn thì thế nào?

Tụng nêu:

Tầm, tứ tâm thô, tế

Mạn đối tâm khác khởi

Kiêu do nhiễm tự pháp

Tâm cao không đoái tưởng.

Luận nói: Tầm, tứ dị biệt nghĩa là tâm thô, tế. Tánh thô của tâm gọi là tầm. Tánh tế của tâm gọi là tứ.

Nếu như vậy thì thể của tầm, tứ không khác với tâm. Kinh tức căn cứ ở tâm để nói về hai tánh.

Lời nói này là phi lý, do không thấu đạt nghĩa lý sâu xa của kinh. Kinh nói: Tánh thô tế của tâm hiện có, gọi là tầm, tứ. Do có pháp này, tâm khởi liền thô, pháp này gọi là tầm. Do có pháp này, tâm khởi liền tế, pháp này gọi là tứ. Hoặc tạo giải thích khác, nên thể khác với tâm. Nghĩa là tôi không nói: Tánh thô của tâm gọi là tâm có tánh thô. Tánh tế của tâm gọi là tâm có tánh tế.

Như thế vì sao dựa vào tâm có tánh thô gọi là tánh thô của tâm. Dựa vào tâm có tánh tế gọi là tánh tế của tâm. Tuy trong một tâm, nhưng hai thể có thể đạt được, vì khi dụng tăng thì riêng khác, nên không trái nhau. Như nước cùng với phần giấm v.v… hòa hợp, thì thể của chúng tuy bình đẳng, nhưng dụng có tăng. Trong phẩm tâm thô, vì dụng của tầm tăng nên dụng của tứ bị tổn giảm, có nhưng khó biết rõ. Trong phẩm tâm tế, vì dụng của tứ tăng nên dụng của tầm bị tổn giảm, có nhưng khó biết rõ. Nếu cho dụng của giấm, vì nơi tất cả thời gian đều tăng, nên không phải là thí dụ.

Điều này là phi lý, vì tôi không định nói, là dùng giấm để dụ cho tầm, nước dụ cho tứ, chỉ nêu có dụng tăng tức nói như giấm. Do đấy, tầm tứ tuy trong một tâm, thể có thể đạt được đủ, còn dụng thì riêng, nhưng không có một tâm nào tức thô, tức tế. Như tánh tham, si tuy đều hiện hành, nhưng được nói tâm là có hành tham.

Tùy theo phẩm tâm nào có dụng của pháp tăng thì pháp này làm môn để nêu chung cho phẩm tâm. Các pháp vô sắc thì căn cứ ở dụng để nói tăng.

Như thế là đã nói về tướng riêng khác của tầm, tứ.

Mạn, kiêu riêng khác: Mạn, nghĩa là đối với người khác, tánh của tâm tự đề cao, nêu xưng, lường xét loại đức của mình và người khác hơn kém. Hoặc thật, hoặc không thật, tâm tự đề cao, miệt thị người khác, nên gọi là mạn.

Kiêu, nghĩa là nhiễm chấp, cho tự pháp là trước, khiến tâm cao ngạo buông thả, không có tánh chiếu cố. Ở trong các pháp của chính mình như sức lực tráng kiện, của cải, địa vị, giới, tuệ, tộc họ v.v… trước hết khởi nhiễm chấp, tâm sinh cao ngạo, buông thả. Đối với gốc của các thiện, không hề đoái hoài, nên gọi là kiêu.

Đối với gốc của các thiện không hề đoái hoài: Nghĩa là do tâm cao ngạo, đối với các nghiệp thiện, không ưa thích tu tập. Đây gọi là tướng sai biệt của mạn, kiêu.

Như vậy là đã nói về tướng sai biệt quyết định cùng sinh bất đồng nơi phẩm loại của các tâm tâm sở. Nhưng tâm tâm sở ở trong Khế kinh tùy theo nghĩa đã kiến lập vô số danh tướng.

Nay sẽ biện về danh nghĩa này có sai biệt. Tụng nêu:

Tâm, ý, thức, thể một

Tâm tâm sở có dựa

Có duyên, có hành tướng

Nghĩa tương ưng có năm.

Luận nói: Ba thứ tâm, ý, thức, thể tuy là một, nhưng về loại nghĩa như huấn từ v.v… thì có khác. Nghĩa là vì tập khởi nên gọi là tâm, vì tư duy, lường xét, nên gọi là ý, vì phân biệt nhận biết nên gọi là thức.

Theo Khế kinh Phả-lặc-cụ-na thì ý sai khiến, có thể phân biệt nhận biết, không phải là không có phân biệt nhận biết. Hoặc vì có vô số nghĩa, nên gọi là tâm. Tức tâm này vì người khác tạo ra đối tượng nương dựa, nên gọi là ý. Vì tạo ra chủ thể nương dựa, nên gọi là thức. Hoặc giới, xứ, uẩn thiết lập có sai biệt. Hoặc lại tăng trưởng nghiệp cùng nối tiếp sinh chủng tử có sai biệt. Vì các loại môn nghĩa như thế có khác, nên ba thứ tâm, ý, thức gọi là đối tượng giảng giải, nghĩa khác, thể một. Như tâm ý thức, ba thứ gọi là đối tượng giảng giải, nghĩa khác, thể một, thì các tâm tâm sở gọi là có đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, hành tướng tương ưng cũng như vậy. Danh, nghĩa tuy khác, nhưng thể là một. Nghĩa là tâm tâm sở dùng sáu xứ trong làm đối tượng nương dựa, nên gọi là có đối tượng nương dựa. Dùng các cảnh như sắc v.v… làm đối tượng duyên, nên gọi là có đối tượng duyên. Tức ở nơi phẩm loại của đối tượng duyên có sai biệt. Vì khởi hành tướng, nên gọi là có hành tướng. Bình đẳng đều cùng thời, cùng với tánh của người khác hợp. Vì hiện hành nơi cảnh của đối tượng duyên, nên gọi là tương ưng.

Thế nào là bình đẳng?

Vì năm nghĩa là như nhau. Nghĩa là năm nghĩa của tâm tâm sở là bình đẳng. Nên nói là tương ưng, đối tượng nương dựa, đối tương duyên, hành tướng, thời gian, sự việc đều bình đẳng.

Sự việc bình đẳng: Trong một tương ưng, như thể của tâm là một, các tâm sở pháp, mỗi mỗi thứ cũng đều như vậy. Tâm sở lìa tâm, có riêng tự tánh. Nhưng phái Thí Dụ nói: Chỉ có tâm, không có tâm sở riêng, khi tâm tưởng đều cùng có, vì hành tướng có sai biệt là không thể đạt được. Lại, kinh chỉ nói thức nhập thai. Lại nói: Hoặc tâm, hoặc ý, hoặc thức, theo đêm dài sinh tử lưu chuyển sinh nơi các nẻo. Lại nói: Sĩ phu là thuộc về sáu giới. Lại nói: Ta nay không thấy một pháp nào xoay chuyển nhanh chóng như tâm. Lại nói: Ta nay không thấy một pháp nào, nếu không tu tập thì không thể điều thuận, không thể gắng nhận lãnh cũng như tâm. Lại nói: Tâm đi xa, đi riêng một mình.

Lại, đối với tâm sở đã có nhiều tranh luận. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Tâm sở chỉ có ba. Hoặc lại có thuyết cho: Tâm sở chỉ có bốn. Hoặc nói: Có mười. Hoặc nói: Mười bốn. Nên chỉ có thức tùy theo vị mà lưu chuyển. Nói có nhiều thứ tâm tâm sở riêng như nước mía ép, như người có tài hát xướng, nên không có Thể riêng như thọ v.v… có thể đạt được. Nhưng tâm tâm sở về thời gian, cảnh giới, tánh là đồng. Hành tướng không riêng khác nên tướng dị biệt khó biết rõ. Như Khế kinh nói: Tâm tâm sở pháp lần lượt tương ưng. Hoặc thọ, hoặc tưởng, hoặc tư, hoặc thức.

Các pháp như thế hòa tạp không lìa, không thể thiết lập tướng sai biệt. Tuy nhiên, thức cùng với tưởng, tướng của chúng đều riêng khác. Nghĩa là ở trong cảnh phân biệt nhận biết chung gọi là thức. Nhận lấy riêng gọi là tướng, thiết lập gọi là tưởng, do tâm mạnh mẽ. Trong các Khế kinh xứ xứ đã nói riêng, như vua đi đến v.v… Vì nhằm ngăn chận tâm cùng khởi, nên nói đi riêng một mình. Vì tâm sở khó nhận biết, nên đã có nhiều tranh luận. Há có nhiều tranh luận, liền cho là không có. Chớ cho trung gian kia, đây cũng không tức là có lỗi. Nhưng các Luận giả đều tin lìa tâm có riêng tâm sở, chỉ ở trong số lượng thêm bớt nhiều ít mà khởi tranh luận. Vì kinh không nói số lượng cố định. Nếu chấp thọ v.v… là tâm có sai biệt, thì vì sao tức tâm có thể gọi là tâm sở? Căn cứ theo lý nhất định nào để nói thức là tâm? Lại do duyên gì tức gọi là tâm sở? Nếu cho thể của các thức tức là tâm, thì các pháp như thọ v.v… là thể loại của tâm, vì trong sự cùng nối tiếp của tâm đã có pháp này, nên gọi là tâm sở, thì vì sao không nói các sắc được tạo, tức là thể loại của đại chủng có sai biệt? Tức ở trong phần vị nối liếp nhau của địa v.v…, vì đã có pháp này nên gọi là được tạo. Các sắc được tạo này đã không như thế, thì tâm sở kia làm sao như thế? Lìa ngoài đại chủng thì có riêng sắc được tạo chăng? Như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã quyết định lựa chọn rộng. Nếu nêu vấn nạn vì sao nhận biết tâm sở pháp quyết định lìa tâm thì có riêng thể? Là do giáo, lý. Như Khế kinh nói: Mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Ba thứ hòa hợp sinh xúc đều cùng khởi thọ, tưởng, tư. Các pháp như thế là chủng loại của tâm, nương dựa nơi tâm, hệ thuộc nơi tâm nên gọi là tâm sở.

Ở đây nói cùng sinh, không nói vô gián, chính là làm rõ tâm sở đồng thời mà sinh, lại không chấp nhận có Thể của tâm cùng sinh, nên biết chỉ nói tâm sở cùng khởi.

Trong pháp vô sắc đã biện về tâm tâm sở. Nay tiếp theo sẽ biện về tâm bất tương ưng hành.

Tụng nêu:

Tâm bất tương ưng hành

Đắc, phi đắc đồng phần

Hai định vô tưởng mạng

Các loại tướng, danh, thân.

Luận nói: Vân vân, nghĩa là cùng nhận lấy cú thân, văn thân và tánh hòa hợp. Loại: Là hiển bày pháp đã được so tính khác, tức chủng loại ở trước. Nghĩa là có so tính, lìa đắc v.v… thì có tánh như uẩn đắc v.v…

Các pháp như thế không cùng với tâm tương ưng, nên gọi là tâm bất tương ưng hành. Không phải như tâm sở cùng với tâm cùng có một đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, tương ưng mà khởi.

Câu nói về tâm: Là làm rõ trong đây đã nói về đắc v.v…, là chủng loại của tâm. Đối tượng nương dựa, đối tượng duyên của các tâm sở pháp đều cùng với tâm là đồng, cũng là chủng loại của tâm. Vì phân biệt với tâm sở kia, nên nói là bất tương ưng. Các pháp vô vi cũng là chủng loại của tâm, vì không có đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, nên cũng là bất tương ưng. Vì muốn phân biệt với tâm sở kia nên lại nói là hành.

Đây là đã nêu lên chung. Lại nên giải thích riêng. Trong ấy lại biện về tướng của đắc, phi đắc.

Tụng nêu:

Đắc là được thành tựu

Phi đắc, trái với đây

Đắc, phi đắc chỉ đối

Tự nối tiếp, hai diệt.

Luận nói: Đắc là được thành tựu, nghĩa tuy là một, nhưng dựa nơi môn có khác, nên nói danh xưng có sai biệt.

Đắc có hai thứ: Nghĩa là trước chưa được và trước đã được. Trước chưa được mà được gọi là thu đạt. Trước đã được mà được nói là thành tựu. Nên biết phi đắc cùng với đây là trái nhau. Nghĩa là trước chưa được và được rồi mất. Phi đắc chưa được gọi là không thu đạt. Phi đắc đã mất gọi là không thành tựu. Nên nói tánh phàm phu, gọi là không đạt được pháp Thánh.

Ở trong pháp nào có đắc phi đắc? Tức trong hữu vi, ở nơi phần tự cùng nối tiếp có đắc, phi đắc. Không phải nơi phần cùng nối tiếp của người khác và không cùng nối tiếp. Nếu uẩn rơi vào trong phần tự cùng nối tiếp thì có thể có thành tựu, không thành tựu. Uẩn cùng nối tiếp của người khác và uẩn của phi tình, tất không có thành tựu, vì chẳng thành tựu, nhưng không trái hại. Khế kinh nói Luân vương đối với bảy báu luôn tự tại, gọi là thành tựu. Không phải thành thiện v.v… là có thể đồng với thuyết này. Vì hiện đối với quá, vị không có tự tại. Nghĩa là hiện tại chỉ ở nơi hiện tại có sức tự tại, không phải ở nơi quá khứ, vị lai. Như Chuyển luân vương đối với bảy báu hiện tại có sức tự tại, tùy ý thọ dụng quả tăng thượng, vì luôn hiện tiền, tùy theo vui thích mà chuyển, nên có thể gọi là thành tựu. Pháp thiện, bất thiện thì không quyết định. Lại như khi pháp thiện hiện tiền, Chuyển luân vương kia đối với các pháp bất thiện nơi quá khứ, vị lai, nếu lìa hiện tại thì đắc có tự tại nào mà gọi là thành tựu bất thiện hiện tiền. Nêu hỏi về thiện cũng như vậy. Huống chi chấp quá khứ, vị lai hoàn toàn không có tông thể.

Dựa vào đâu và vì sao gọi là thành tựu?

Nếu cho có sức, nên có thể sinh nơi xứ kia gọi là thành tựu, lý cũng không đúng. Vì phàm phu của hữu sau tức nên gọi là Thánh giả, tâm vô học sau tức nên là phàm phu.

Các loại như thế v.v… có rất nhiều lỗi. Nên đắc, phi đắc nhất định có Thể riêng. Hữu vi chỉ ở nơi tự uẩn, không phải thứ khác. Trong pháp vô vi chỉ ở nơi hai diệt là có đắc, phi đắc. Tất cả hữu tình không có ai là không thành tựu phi trạch diệt. Nên trong Đối pháp có nói như thế này: Ai thành pháp vô lậu? Nghĩa là tất cả hữu tình, trừ nơi sát-na đầu tiên, có Thánh giả cụ phược (bị trói buộc đủ) và tất cả phàm phu cụ phược khác. Các hữu tình còn lại đều thành tựu trạch diệt. Quyết định không có thành tựu hư không, do ở nơi hư không không có đắc. Nên cũng đều thành tựu, do không có phi đắc. Nếu pháp có đắc thì cũng có phi đắc. Nếu pháp không có đắc thì cũng không có phi đắc, lý đó là quyết định. Dựa vào đắc ấy, nên nói như thế này: Sắc uẩn, hành uẩn là một đắc đã đắc. Hành uẩn, uẩn khác nói cũng như thế. Hữu lậu, vô lậu là một đắc, đã đắc. Hữu vi, vô vi là một đắc, đã đắc.

Các loại như thế như lý nên tư duy. Là pháp đã đắc, vì không mất nhân. Là đây thuộc về kia, là biểu hiện của trí. Đắc có dụng này, nên có riêng thể. Nếu cho chủng tử có tác dụng này, thì về lý là không ứng hợp. Vì chủng tử cùng với pháp khác, thể riêng có, không có, đều cùng có lỗi. Nếu thể có riêng thì thể tức là đắc, chỉ lập tên khác. Nếu thể riêng không có thì thể của thiện, bất thiện, tạp nhiễm, thanh tịnh tức nên thành một, tức quả ái, phi ái nơi nghiệp thành tạp loạn. Đã như thế thì thể của giải thoát cũng nên không có. Lại, Khế kinh nói: Tất cả pháp bạch đã đoạn trừ rốt ráo, pháp thiện trở lại sinh, tức chủng tử đã chấp, nên thành vô dụng. Như Đức Thế Tôn nói: Nên biết Bổ-đặc-già-la như thế thì pháp thiện đã ẩn mất, pháp ác xuất hiện, có khi tùy theo căn thiện cùng hành chưa đoạn. Do chưa đoạn nên từ căn thiện này cũng có nghĩa có thể khởi căn thiện khác. Pháp thiện kia vào thời gian sau, tất cả đều đoạn, sau đấy quyết định trở lại nối tiếp căn thiện, nên chủng tử đã chấp, nhất định là vô dụng. Không phải phái Đối pháp đã nói: Các đắc là nhân sinh pháp. Hiện thấy lìa đắc đã được, chưa được, vì pháp cũng sinh. Do đấy các Sư đã chấp tùy theo cõi, công năng huân tập đã tăng trưởng không mất, đều đã ngăn chận loại bỏ, vì nghĩa không có riêng khác.

Như vậy là đã thành tánh của đắc, phi đắc. Về nghĩa sai biệt này nay nên tư duy rộng. Lại, thế nào là đắc?

Tụng nêu:

Pháp ba đời, đều ba

Thiện cùng chỉ là thiện

Có thuộc đắc tự cõi

Không thuộc, đắc chung bốn

Phi học, vô học ba

Không đoạn có hai thứ.

Luận nói: Đắc của pháp ba đời đều có ba thứ. Nghĩa là pháp quá khứ có đắc quá khứ, có đắc vị lai, có đắc hiện tại. Như vậy pháp vị lai và hiện tại đều có ba đắc. Căn cứ theo nghĩa cùng có để nói như thế. Trong ấy có sai biệt về sau lại biện. Lại đắc của các pháp như thiện v.v… chỉ là thiện v.v… Nghĩa là pháp thiện, bất thiện và vô ký, như thứ lớp ấy có ba đắc là thiện, bất thiện, vô ký. Lại có đắc của pháp hệ thuộc chỉ là tự cõi, nghĩa là pháp hệ thuộc cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, như thứ lớp đó, chỉ có ba đắc của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Nếu pháp không hệ thuộc thì đắc chung nơi bốn thứ. Nghĩa là pháp không hệ thuộc căn cứ theo chủng loại chung, gồm đủ bốn thứ đắc, tức hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Phân biệt riêng: Đắc của phi trạch diệt là hệ thuộc chung nơi ba cõi. Hoặc đắc của trạch diệt thì hệ thuộc cõi sắc, cõi vô sắc cùng với không hệ thuộc. Đắc của Thánh đạo kia thì chỉ có không hệ thuộc. Lại, đắc của pháp hữu học, chỉ là hữu học. Hoặc đắc của pháp vô học thì chỉ là vô học. Đắc của pháp học, vô học đều có một thứ. Đắc của loại chung nơi pháp phi học phi vô học có ba. Phân biệt riêng: Hoàn toàn năm thủ uẩn và ba vô vi gọi chung là pháp phi học phi vô học. Lại năm thủ uẩn và phi trạch diệt cùng không phải trạch diệt của Thánh đạo đã chứng, thì chỉ có đắc của phi học phi vô học. Nếu đạo hữu học đã chứng trạch diệt thì đắc chỉ là hữu học. Nếu đạo vô học đã chứng trạch diệt, thì đắc chỉ là vô học. Lại, pháp hệ thuộc của kiến đạo, tu đạo, như thứ lớp ấy, thì đắc có do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn. Không phải đắc của pháp được đoạn, gồm có hai. Phân biệt riêng: Các pháp vô lậu gọi là không đoạn. Nếu phi trạch diệt và trạch diệt không phải của Thánh đạo đã chứng, thì đắc chỉ là một thứ, tức là tu đạo đoạn. Nếu dùng trạch diệt của Thánh đạo đã chứng và đạo Thánh đế thì đắc chỉ có một thứ, nghĩa là không đoạn.

Trước đã nói ba đời đều có ba đắc, các pháp hữu vi đều nhất định như thế chăng? Không phải như vậy. Vì sao?

Tụng nêu:

Vô ký đắc cùng khởi

Trừ hai chung biến hóa

Sắc hữu phú, cũng cùng

Dục sắc, không khởi trước.

Luận nói: Đắc của vô phú vô ký chỉ đều cùng khởi, không có sinh trước sau, vì uy lực yếu kém.

Đắc của tất cả pháp vô phú vô ký đều nhất định như thế chăng? Không như vậy. Vì sao?

Trừ nhãn, nhĩ thông và có thể biến hóa. Nghĩa là tuệ của nhãn, nhĩ thông và có thể biến hóa, vì uy lực của tâm là mạnh. Gia hạnh có sai biệt đã thành. Tuy thuộc về tánh vô phú vô ký, nhưng có đắc trước sau và cùng khởi. Lại, đắc của bốn uẩn nơi đường oai nghi, phần nhiều là thế gian đoạn và sát-na đoạn, chỉ trừ chư Phật, Bí-sô Mã Thắng và những người còn lại khéo hành tập đường oai nghi. Hoặc đắc của bốn uẩn thuộc xứ công xảo, thì cũng phần nhiều do thế gian đoạn và sát-na đoạn, trừ thiên thần, yết-ma Tỳ-thấp-phược và những người còn lại đã khéo hành tập xứ công xảo.

Chỉ có đắc của pháp vô phú vô ký chỉ là cùng khởi chăng? Không như thế. Vì sao?

Đắc của sắc hữu phú vô ký cũng như vậy. Nghĩa là chỉ có nhiễm của tĩnh lự đầu nơi cõi sắc. Đắc của nghiệp thân, ngữ biểu cũng như trước, chỉ có đều cùng khởi, tuy là nhiễm của phẩm thượng, nhưng cũng không thể phát khởi vô biểu, vì uy lực yếu kém. Do đấy nhất định không có pháp đắc trước sau. Các sắc của cõi dục cũng nhất định chỉ có đắc đều cùng khởi chăng?

Không như thế. Vì sao?

Nghĩa là đắc của sắc thiện, bất thiện hệ thuộc cõi dục, không có khởi trước, chỉ có đắc cùng sinh và khởi sau.

HẾT – QUYỂN 6