MẤY ĐIỆU SEN THANH
Sưu tập: Cư sĩ Bành Tế Thanh & Hy Tốc 
Việt dịch: Hòa thượng Thích thượng Thiền hạ Tâm
PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG

 

TẬP II
PHẦN BA
TỨ CHÚNG VÃNG SANH
(Tiếp theo)

NGỌC PHONG

Ngọc Phong pháp sư tự Luyến Tây, người ở huyện Quàng Tín, tỉnh Giang Tây. Ông xuất gia nơi chùa Phổ Ninh lúc mới hơn mười tuổii. Thầy thế độ dạy đọc tụng các kinh đại thừa, do linh căn đã gieo sẵn, Pháp sư liền hiểu rõ đại ý. Sau khi thọ giới Cụ túc nơi chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai, Ngọc Phong lập trí tuân giữ theo kinh Phạm Võng. Kế đó lại đồng chúng tham thiền, đem hết sức mình dụng công: ngày nọ canh khuya nghe tiếng chuông ngân vang, bỗng hoát nhiên tỉnh ngộ.

Một hôm xem đến quyển Viên Trung Sao của ngài U Khê, thấy khế hợp với tâm mình, Pháp sư vui mừng lập thệ nguyện giữ giới luật trang nghiêm và chuyên tâm niệm Phật để cầu sanh Tịnh độ. Ngọc Phong tự tu và khuyến hóa người rất thành khẩn, nên hàng tăng tục hưởng ứng ngày càng đông. Giảng đến sự khổ trong vòng sống chết luân hồi, lời nói của Pháp sư rất thống thiết, khiến cho thính giả phải rơi lệ. Cách thuyết giáo về Tịnh độ, thì dạy bốn chúng phải tùy tâm lực hoàn cảnh, mỗi ngày lập định khóa niệm Phật ghi số, hoặc từ một hai muôn cho tới mười muôn câu, giữ đến suốt đời đừng gián đoạn. Đó là phương pháp đã kinh nghiệm của tiền nhơn, nếu cứ giữ y như thế không thối chuyển, thì khi mạng chung quyết định sẽ được sanh vể Cực Lạc, không còn nghi ngờ. Pháp sư lại viết nhiều sách xiển dương môn Tịnh độ, đại khái khen ngợi đó là đường lối dễ tu dễ thành, công năng siêu hơn các hạnh, như tuân hành theo tất được sự lợi ích rộng to nhanh chóng. Ngọc Phong lại mướn thợ khắc bản đá kinh A Di Đà đem ấn tống, san hành các kinh luận đại thừa, và làm những thắng hạnh khác để trợ tu khuyên người, lưu thông Phật pháp, đền đáp bốn ân.

Năm Quang Chữ thứ mười lăm, trụ trì chùa Tây Phương ở Minh Châu là Hòa thượng Tịnh Quả, gởi thư mời về tịnh tu tại bản tự, vì tên chùa hợp với tâm nguyện mình, nên Pháp sư nhận lời cầu thỉnh. Từ khi phát tâm cho đến lúc lâm chung, mỗi ngày Ngọc Phong niệm Phật sáu muôn câu, hai thời hồi hướng, dù tiết lạnh nóng cũng không trễ bỏ, lấy đó làm định khóa.

Năm Quang Chữ thứ mười tám, vào ngày mùng sáu tháng bảy, sau thời ngọ trai, Pháp sư cảm thấy hơi thở ngăn uất khó khăn. Ngày kế, Hòa thượng Tịnh Quả cho mời danh y đến chẩn trị. Sau khi xét nghiệm, y sĩ bảo: “Mạch đã hoàn toàn kiệt mất, không còn dùng thuốc chi được nữa!” Nhưng Ngọc Phong vẫn ngồi kiết già hướng về Tây niệm Phật, không nói năng chi, tinh thần xem có vẻ sáng kiện hơn lúc bình thường. Y sư thấy thế than thở ngợi khen cho là điều ít có. Hòa thượng Tịnh Quả hỏi: “Xin thỉnh chư Tăng đến xưng hồng danh để trợ niệm có được chăng?” Pháp sư gật đầu. Khi đại chúng đứng hai bên niệm thánh hiệu Di Đà, ước chừng tàn một cầy hương, thì Pháp sư chắp tay gắng sức xưng Phật danh độ vài trăm câu, rồi an vui mà thoát hóa. Ngày mùng chín, lúc nhập khám, mọi người kiểm thấy đảnh đầu còn nóng, sắc mặt hiện tướng sáng suốt tươi nhuần.

Rằm tháng hai năm sau, khi thiết lễ trà tỳ, hàng tăng tục hội về hơn vài trăm người. Ngọn lửa vừa bốc cháy đều, cửa bảo khám sụp xuống trước, đại chúng thấy thi thể Ngọc Phong vẫn còn ngồi kiết già, nghiễm nhiên tươi tỉnh như sống. Lúc lửa cháy dữ dội, mọi người lại thấy trên đảnh Pháp sư hiện ra mười vị Phật, nơi mỗi bàn tay hiện ra một đức Như Lai tướng tốt trang nghiêm. Đó là lúc sanh tiền, Ngọc Phong từng đốt mười liều hương nơi đầu cúng mười phương Phật. Và mỗi bàn tay lại đốt một ngón, một cúng dường đức Thích Ca, một cúng dường đức A Di Đà. Do Pháp sư có lòng chân thành, nên lúc thiêu hóa mới hiện ra điềm lành hy hữu như thế. Xét công hạnh tự tu và độ người, Pháp sư tất được sanh về thắng phẩm.


CHÍ THIỆN

Chí Thiện thiền sư, người đời Thanh, chưa được rõ xuất xứ. Trong niên hiệu Đồng Trị Quang Chữ, ngài mở pháp hóa nơi chùa Hải Hội ở Lô Sơn. Thiền sư đạo hạnh cao siêu, bốn chúng ngưỡng mến nương về, là bậc danh đức ở miền Giang Tây trong thời cận đại. Sau khi ngộ suốt tâm tông, ngài chuyển sang niệm Phật, sự tự tu và khuyên hóa người đều lấy Tịnh độ làm nơi quy hướng. Cho nên trong thời gian đó, cư dân nơi vùng núi ấy, người đều đeo chuỗi, nhà đều thờ Phật. Từ hạng nông công cho đến kẻ tiều phu mục đồng, khi rảnh việc phần nhiều ngồi nơi gốc cây hoặc trên tảng đá nhắm mắt niệm Phật, là điều thường thấy không ai còn lấy làm lạ. Di phong ấy đến nay vẫn còn nối tiếp lưu truyền.

Lúc lớn tuổi, thiền sư đem việc chùa giao phó cho hàng cao đồ là Thanh Hư hòa thượng, còn mình thì ở nơi tịnh thất chuyên tu. Học chúng khi vào thất thỉnh ích, ngài đều bảo tự tiện ngồi, rồi tùy cơ mà ứng đối chỉ dạy. Có vị Tăng là Cẩm Phong, làm chức Tàng chủ coi kho vật thực trong chùa, mỗi ngày cũng trồng rau bổ củi tham thiền niệm Phật, chúng đều xem như người thường. Một năm vào đầu mùa đông, sư đến phương trượng xin nghỉ việc. Thanh Hư hòa thượng dạy: “Thường trụ mới khởi kỳ Phật thất, ông chớ vội rời bỏ sớm, nên ở lại đây hết năm rồi sẽ đi!” Sư thưa: “Thời kỳ đã đến, không thể chờ đợi!” Hòa thượng bảo: “Ta vì ông mà cầm lại!” Cẩm Phong lễ tạ rồi lui ra. Sang xuân vào ngày mùng ba, sư lại đến xin đi. Hòa thượng nói: “Đầu năm mới ông đi chúng sẽ động niệm, nên nán lại đôi ba hôm nữa!” Cẩm Phong lại lui ra.

Qua ngày mùng mười, sư lên phương trượng kiên quyết xin đi và nói: “Tôi cùng các bạn đồng tham sống chung với nhau đã lâu, nên có mối hậu tình. Qua tiết Nguyên Tiêu, phần đông tăng chúng sẽ tản đi du phương các nơi, về sau không còn có cơ duyên gặp gỡ. Vì thế tôi muốn các đồng bạn đưa nhau một đoạn đường!” Hòa thượng nghe nói chấp thuận, Cẩm Phong lễ tạ, rồi sang yết kiến ngài Chí Thiện. Thiền sư dự biết trước, để sẵn một chén nước trong vắt, dặn thị giả rằng: “Nếu Cẩm Tàng chủ đến đây, bảo hãy uống chén nước nầy, không cần phải vào ra mắt”. Thị giả đem điều ấy nói lại, Cẩm Phong bái lãnh mà uống. Đến giờ ngọ, sư vẫn theo chư Tăng thọ trai. Trai cúng xong, Hòa thượng bạch với chúng rằng: “Cẩm Tàng chủ sắp đi xa. Vậy sau giờ ngọ hai tiếng bảng, xin đại chúng đồng đắp y đem mõ nhỏ và khánh cùng đến liêu phòng tiễn đưa Tàng chủ!” Chúng nghe nói hầu hết đều có vẻ ngơ ngác lấy làm lạ. Đến giờ, Duy na hướng dẫn chư Tăng đến nơi, Cẩm Phong đã dọn thất trống trải sạch sẽ, chính giữa để bàn hương án thờ Phật, hai bên sắp chỗ ngồi cho đại chúng. Giây phút Hòa thượng tới, Cẩm Phong cúi lạy, rồi hướng về chư Tăng đảnh lễ. Ngài Thanh Hư ân cần nói kệ phú pháp. Chừng đó đại chúng mới biết là Tàng chủ sắp viên tịch, sanh về Tây phương. Sau khi Hòa thượng lui ra, Duy na cử xướng kinh A Di Đà, Cẩm Phong về chỗ ngồi theo chúng mà trì tụng. Khi đến bài kệ tán tiếp sang niệm Phật, cây hương vừa cháy thêm độ một tấc, tiếng của sư thấp nhỏ lần, xâu chuỗi cầm nơi tay rơi xuống chiếu. Vị Tăng ngồi gần bên dò thăm, rồi ra dấu Tàng chủ đã tắt hơi. Đại chúng không dám kinh động, vẫn niệm Phật như cũ.

Một lúc, Cẩm Phong bỗng mở mắt, yêu cầu chư Tăng luân phiên trợ niệm luôn một ngày đêm. Nói xong, sư liền nhắm mắt đi thẳng.

Năm Mậu Tuất trong niên hiệu Quang Chữ, triều đình thay đổi chính sách mới. Ngài Chí Thiện than rằng: “Thời kỳ Phật pháp suy tàn đã đến, ta già rồi không làm sao cứu giúp được! Chỉ nguyện sớm sanh về Cực Lạc, sau khi chứng quả Vô sanh, sẽ trở lại cõi nầy để hộ trì chánh giáo!” Nói xong, viết thơ gởi chư đại đức khắp nơi, ngỏ lời giã biệt. Bấy giờ Thanh Hư hòa thượng đang trụ trì tại chùa Viên Thông ở Nam Xương, được tin thơ vội vã trở về. Khi Hòa thượng vừa bước vào chùa, thì ngài Chí Thiện còn đang ngồi tựa án viết lời phú chúc. Thấy Hòa thượng, thiền sư thu tất công việc rồi cười bảo: “Việc lớn đều giao phó hết cho ông. Ta đi đây!” Nói xong ngồi ngay nơi tòa mà thoát hóa.


KHẮC CẦN

Thích Khắc Cần, họ Tưởng, người huyện Sương Âm tỉnh Hồ Nam. Lúc bé, ông ngu bướng ngay thẳng, lại có sức khỏe. Lớn lên vào am Hồng Thế ở Thiện Hóa xuống tóc, và sau đắc giới nơi chùa Lộc Sơn.

Sư không biết chữ, nhờ chúng bạn dạy hai thời khóa tụng, đến năm năm mới thuộc lòng. Khắc Cần hành cước đi khắp các miền danh thắng, trải năm non bốn núi để tham học suốt mười năm, song kết cuộc không hiểu biết chi thêm, vẫn còn tánh thẳng bướng như cũ. Đến sáu mươi tuổi, sư gặp ngài Minh Quả làm hộ chủ kỳ Phật thất, nghe lời giảng: “Công đức niệm Phật quí ở nơi một lòng không loạn. Nếu khi tán loạn, phải lắng tai nghe câu Phật hiệu cho rành rõ, thì tạp niệm tự trừ, vọng tưởng tự diệt, tâm liền được thanh tịnh”. Do đó sư mới cảm biết pháp môn Tịnh độ là siêu thắng nhiệm mầu. Khắc Cần y theo lời dạy chuyên tu sáu năm, dứt trừ được tánh bướng bỉnh, tâm hằng tự tại lặng yên. Lúc rảnh rỗi, sư thường nói với mọi người rằng: “Tu hành quí ở nơi một lòng không loạn. Nghiệp chướng của tôi do công đức niệm Phật, nay đã tiêu trừ. Mấy năm gần đây, chẳng những không phiền não, mà thân tâm còn được khinh an!”

Một ngày nọ bỗng Khắc Cần nhờ người thỉnh sư huynh của mình là Hàm An tới đến để trao gởi hậu sự. Hôm sau Hàm An tới, sư trông thấy cười bảo: “Đệ xin giã từ sư huynh!” An hỏi: “Pháp đệ dự tính đi đâu?” Đáp: “Vãng sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới”. An nghiêm nét mặt bảo: “Lại định muốn nổi khùng phải không?” Sư cũng nghiêm trang đáp: “Sáu năm nay đệ chuyên trì Phật hiệu, nên tâm chẳng còn tạp niệm, mỗi câu Hồng danh rành rẽ rõ ràng. Gần đây đã được thân thấy cõi Tịnh độ, tự biết kỳ hạn quyết định sẽ vãng sanh, không phải có ý khi dối đâu!” Liền đó, sư đem các thủ tục trong am và hậu sự của mình, mỗi mỗi đều giao phó dặn dò rành rẽ. Lại nói: “Vào giờ Ngọ ngày mai đệ sẽ vĩnh biệt sư huynh. Cùng là anh em bạn đạo tuổi già với nhau, xin sư huynh cố gắng chuẩn bị tư lương Tịnh độ, đồng tu pháp môn Niệm Phật, để chờ đợi giờ phút giải thoát lúc lâm chung!”

Đêm đó, Khắc Cần không nói chuyện với ai cả, chỉ ngồi một mình niệm Phật. Rạng ngày sư tắm gội thay y phục, niệm hương lễ Tam Bảo, xuống Ảnh đường lạy giã từ chư Tổ xong, rồi trở về tịnh thất ngồi niệm Phật. Vừa đến giờ Ngọ, sư bước đi chậm rãi vào ngồi kiết già trong bảo khám, tay cầm chuỗi niệm Phật, rồi lặng lẽ mà vãng sanh. Hơn hai giờ sau, Hàm An cùng chư Tăng như Phổ Âm lại dò thăm thì thấy hơi thở đã dứt, đỉnh đầu còn nóng, lại nghe mùi hương lạ bay thanh thoảng. Tất cả đều kinh hãi, chừng ấy mới tin lời Khắc Cần nói hôm trước. Bấy giờ nhằm ngày mùng năm tháng bảy năm Tân Sửu, niên hiệu Quang Chữ đời Thanh.

Lúc đó khí hậu nóng bức, vì việc nông của nhà chùa đang gấp rút bộn bề, nên phải đình khám bảy ngày mới đem thiêu hóa. Nhưng sắc thân của sư vẫn tươi tắn, phát ra hơi thơm không có chút mùi hôi. Tất cả đều khen ngợi và lấy làm lạ.


TỊNH HẢI

Thích Tịnh Hải tự Việt Ngạn, họ Châu, quê ở huyện Thái Bình tỉnh Triết Giang. Lúc bé ông mồ côi cha, người bác không con xin đem về làm thừa tự, dạy cho coi sóc gia nghiệp. Nhưng Tịnh Hải tuy sống trong cảnh đầy đủ nơi thị tứ, mà lòng u uất không vui. Một hôm, đọc xong bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, ông bỗng có sự cảm ngộ lớn, tự suy nghĩ: “Những vị như Gia Cát, Quan Công, Trương Phi, có thể gọi là hạng nhơn tài bậc nhứt, nhưng tất cả đều thân chết trước mà công nghiệp chưa thành. Ta sánh với người xưa muôn phần chưa được một, mà muốn lập công danh nơi đời, chẳng cũng khó khăn lắm ư?” Trong một niệm, ông ngộ được lý: chỉ có tiêu dao ngoài vòng tục lụy mới đích thực là an vui giải thoát.

Năm mười tám tuổi, ông trốn lên non Thiên Thai, lễ Tế Chu đại sư cầu xin xuống tóc xuất gia. Ba năm sau, được thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh, rồi trụ nơi thiền đường theo chúng tu học. Đến ba mươi ba tuổi, nghe chùa Linh Thứu ở Tô Châu có giảng kinh đại thừa, sư liền mang gậy bát tới nơi xin dự vào pháp hội. Sau đó lại đóng cửa nhập thất tịnh tu ba năm ở một ngôi chùa tại Mộc Thục Sơn. Khi ra thất, nhân vì Năng Thuyên pháp sư trụ trì chùa Bảo Liên quy tịch, các bậc tôn túc đều khuyên ép phải lên kế nhiệm, bất đắc dĩ sư miễn cưỡng vâng lời. Chùa ấy đã trải qua cảnh binh lửa chỉ còn nền tảng trống không, ngài Năng Thuyên vừa kiến trúc xong hai ngôi điện Địa Tạng, Quán Âm thì mãn phần. Tịnh Hải nối tiếp theo siêng tu Phật sự, nhờ suốt thông đạo lý lại khổ hạnh hơn người, nên cảm sức Tam Bảo gia bị, của đàn tín hội về, không bao lâu từ liêu phòng cho đến Phật điện, đều tiếp tục lạc thành. Công việc xong, sư càng cố gắng chuyên tu, mỗi ngày đều tụng một bộ kinh Pháp Hoa và niệm Phật hồi hướng về Tịnh độ, như thế trọn ba mươi năm không chút biếng trễ.

Ngày rằm tháng sáu năm Nhâm Dần, niên hiệu Quang Chữ, sư viên tịch. Trước khi mạng chung vài tháng, Tịnh Hải mộng thấy một thế giới báu đẹp trong sạch như lưu ly, ánh sáng rực rỡ không ngằn mé, mình ngồi kiết già trong hoa sen ở nơi cảnh đó. Thức giấc, sư tự biết không còn sống lâu giữa cõi trần, đem điềm ấy thuật lại với hàng đệ tử. Khi sắp thị tịch, sư nhóm họp bốn chúng, rồi ngồi nơi thiền sàng giảng nói một đoạn trong kinh Niết Bàn. Sau khi ấy ngỏ lời quyết liệt với đại chúng và bảo: “Dẹp bỏ trần vọng, một niệm vượt thẳng vào chân tâm mà chuyên trì Phật hiệu, quyết định sẽ được vãng sanh. Xin đại chúng nên trân họng và gắng sức tinh tấn!” Nói xong niệm Phật mà quy tịch, thọ được sáu mươi ba tuổi.


MẶC AM

Mặc Am đại sư pháp danh Thượng Nhân tự Chân Nguyên, họ Châu, người ở Hoành Châu tỉnh Hồ Nam. Cha học Nho, mãn phần sớm, ngài còn bé mà đĩnh ngộ sáng lẹ, liếc mắt qua đã đọc xong mấy hàng sách. Năm mười lăm tuổi, văn tài tiến vượt xa các đồng bạn, thầy dạy học nghĩ rằng đường công danh về sau tất sẽ rực rỡ. Hai năm kế đó, ngài đến ở trọ chùa Nhạn Phong học tập, nhân chép kinh Kim Cang tới câu: “Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều không thể được”, bỗng chợt nảy sanh tư tường xuất trần.

Năm Hàm Phong thứ bảy, mẹ muốn tìm nơi hỏi vợ cho, ngài lén trốn đến chùa Nam Phong, nương theo Phổ Chiếu thiền sư xuất gia. Năm sau, lại đắc giới nơi Thúy Đình thượng nhơn ở chùa Phước Nghiêm. Đại sư nghe Chúc Thánh Lượng thiền sư pháp hóa rất thạnh, đến thọ tâm ấn. Qua năm kế, lại yết kiến Pháp Vân thiền sư, đi sâu vào giáo nghĩa, do đó đối với sách Nho cũng được suốt thông. Các bậc danh tài thạc học nghe tiếng đại sư, đều thích tìm đến để giao du. Ngài dõng mãnh về việc hướng thượng nên tới ẩn tích ở Kỷ Cung Nham tại Nam Nhạc, cùng với Thiềm Vân pháp sư nương nhau sách tấn để tham cứu tu hành.

Sang niên hiệu Đồng Trị, đại sư đi tham phỏng khắp các bậc tôn túc nam bắc ngộ nhập nguồn tâm, rồi trở về chùa Phước Nghiêm duyệt xem Đại tạng. Mùa thu năm Quang Chữ thứ hai, ngài lại cất tịnh xá bên chùa Chúc Thánh ở Nam Nhạc, khổ thiết mật tu, lâu ngày sự tỏ ngộ càng thêm sâu sắc. Từ đó các sách vở nội ngoại thảy đều quán triệt, hàng danh sĩ lại tìm đến giao du như cũ. Chùa Đại Thiện ở Nam Nhạc, nguyên là một danh lam cổ, bị người xâm chiếm, đại sư quyên tiền chuộc lại rồi trùng tu. Ngài phỏng theo quy tắc của Triệt Ngộ thiền sư tổ chức sự tu học, nên chư Tăng mười phương vân tập về, đến đỗi không đủ chỗ dung chứa. Tất cả học chúng nơi đó đều suốt thông tánh tướng, giữ luật hạnh hang nghiêm. Đại sư lấy Thiên Thai giáo quán làm tiền đạo cho hàng học giả, lấy Di Đà Tịnh độ làm chỗ cứu cánh nương về. Ban sơ đại sư giữ nhựt khóa niệm Phật sáu muôn câu, lâu ngày đi đến cảnh không niệm tự niệm, nên câu hồng danh chẳng lúc nào gián đoạn.

Mùa xuân năm Nhâm Dần, đại sư đem việc chùa giao phó cho đệ tử thượng thủ và nói: “Ta sắp về Tây phương!” Sang đông, ngài cử hành lễ Phật thất. Được hơn một tuần, trong định đại sư thấy nước bát công đức lóng lánh nơi ao thất bảo trang nghiêm. Không bao lâu ngài cảm bịnh nhẹ, từ khước thuốc thang một lòng niệm Phật và bảo đồ chúng luân phiên trợ niệm. Kế đó đại sư tuyệt thực rồi tuyệt ẩm, nằm theo lối kiết tướng nghiêng về bên hữu, giữ pháp Kim cang trì niệm. Hôm sau ngài thấy đức A Di Đà hiện thân, tướng bạch hào quang sáng chói, liền chỗi dậy ngồi kiết già hướng về Tây, bảo xếp dọn chăn gối. Thị giả ngần ngại trình thưa tiết trời quá lạnh, đại sư bảo: “Ta sắp từ bỏ tệ phục đổi lấy trân phục, bỏ huyễn thân nhơ nhớp thay thân bảo chất đẹp nghiêm!” Tăng chúng hay tin tụ hội đến, ngài an tường nhìn khắp xung quanh và chậm rãi hỏi: “Thế nào là giải thoát?” Chúng đều nhìn nhau không khế hội. Đại sư mỉm cười bảo: “Đã vậy, chi bằng học theo ông già bà cả quê mùa, ăn chay trường chân thành mà niệm Phật là chắc chắn hơn cả!” Kế đó dạy chúng đánh mõ trợ niệm, giây lát tiếng mõ hơi gấp, ngài bảo dừng lại, chỉ đồng thanh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Khi niệm độ hơn một trăm câu, đại sư chắp tay mà thị tịch. Bấy giờ nhằm ngày mười ba tháng chạp, năm Quang Chữ thứ hai mươi tám. Vài giờ sau chúng dò thăm thấy đảnh của ngài còn nóng, thân thể đều nhu nhuyến.

Đại sư hưởng tuổi đời được sáu mươi bốn, Tăng lạp bốn mươi lăm.


LƯƠNG TU

Thích Lương Tu, người đời Thanh, quê ở Trấn Hải tỉnh Triết Giang. Thuở thiếu thời, ông làm chức sự nơi Bưu tín cuộc tại vùng đó. Lúc rảnh lại thường hành hương đến chùa núi Bảo Hoa tại Kim Lăng, am Mâu Bồng ở ngọn Cửu Liên và có quen biết với Tùng Càn hòa thượng. Một hôm, Lương Tu chán cuộc thế vô thường, mang hành lý lên non cầu ngài Tùng Càn thế độ. Thọ giới Cụ túc xong, sư chuyên tâm niệm Phật quyêt trí cầu vãng sanh.

Sau Tùng Càn hòa thượng được thỉnh chủ trì chùa Kim Tiên ở Từ Khê, Lương Tu cũng đi theo. Vùng ấy có cư sĩ Diệp Minh Niên mến đạo hạnh của sư, cất một cái am gần năm gian rồi mời về ở. Tất cả sự nhu cầu đều do Diệp cư sĩ cung cấp. Lương Tu ở đó niệm Phật mấy năm, trong am không có vật chi quý giá. Nơi góc phòng thường thấy lưu một đống tro, chẳng ai biết là duyên cớ gì. Người đến viếng thăm, sư ít tiếp chuyện, bên mình chỉ có một ông lão làm công do Diệp cư sĩ mướn để tùy tiện sai bảo.

Vào đầu năm Tuyên Thống, một hôm Lương Tu đến nhà Diệp Minh Niên xin từ biệt và nói: “Tôi có việc sắp đi xa. Nhờ đạo hữu mấy năm chiếu cố, nguyện khi sanh về Tây phương đắc quả rồi sẽ trở lại đền ơn!” Diệp cư sĩ lưu lại nhà dùng ngọ trai. Sư tùy hỉ theo lời, nhân khuyến tấn cư sĩ thêm về sự niệm Phật, rồi giã từ trở về am. Hôm sau thời tiểu thực sáng xong, Lương Tu gọi lão làm công bảo: “Đến bữa cơm trưa ông cứ nấu rồi tự tiện ăn, tôi không dùng”. Ông lão tưởng rằng sư có việc đi đâu, cũng chẳng để ý. Tới trưa ông theo lệ thường nấu cơm xong, lên thăm chừng chì thấy cửa am nửa khép, gọi thử vài tiếng không nghe đáp. Ông đẩy cửa bước vào, thấy Lương Tu đang đứng, tay mặt cầm chuỗi để ngang ngực, tay trái buông xuôi ống áo tràng rũ xuống. Lão công quả lên tiếng gọi cũng không đáp, lay thử chẳng thấy động, vội chạy trở về thưa với Diệp Minh Niên rằng: “Thầy đã quy Phật rồi!” Diệp cư sĩ đem theo vài người đến am, thấy Lương Tu quả nhiên đã vãng sanh, thân hình vẫn đứng ngay ngắn giữa thất, thật là điều hy hữu ít nghe thấy. Vén tay áo bên trái lên, thì bàn tay của sư đang nắm một bao gói, đem ra soát lại trong ấy có ba chục đồng bạc. Xem xét kỹ, thấy mấy ngón tay còn dính tro. Chừng đó mọi người mới nghiệm biết đống tro là chỗ Lương Tu cất dành tiền, để sau khi mãn phần mua quan quách tẩn liệm, khỏi phiền lụy tới người. Dụng ý của sư thật cũng tế nhị và lành tốt.

Xét ra Lương Tu một đời tín nguyện, trì niệm siêng năng, đến khi lâm chung lại biết trước ngày giờ đứng thẳng mà hóa. Như thế ngôi vị vãng sanh của sư chắc chắn phải thuộc phẩm cao.


TỊNH THIỀN

Thích Tịnh Thiền, người huyện Bảo Khánh tỉnh Hồ Nam. Sư tánh cô độc, ít nói cười, cũng không chống trái với ai. Bình thời sư thích ngồi thiền, đối với Tâm địa pháp môn có chỗ tỏ ngộ.

Năm Quang Chữ thứ 34 đời Thanh, Tịnh Thiền trở về Sương Châu trụ nơi chùa Chúc Thánh, mỗi ngày giữ việc đóng chuông và quét dọn. Trừ phật sự chánh ra, sư thường ngồi yên nhắm mắt. Mùa thu năm Tuyên Thống thứ ba, Tịnh Thiền bỗng vương bịnh. Có người khuyên đến lương y xem mạch bốc thuốc, sư chỉ mỉm cười mà không đáp. Đến khi bịnh mỗi ngày tăng thêm, Tịnh Thiền tới vị Tri khách thưa: “Tôi sắp về Phật, xin dự bị cho một chiếc bảo khám để đợi lúc mạng chung”. Tri khách tăng y lời lo liệu chu tất. Nừa tháng sau, sư nấu nước tắm gội thay y phục, rồi bảo bạn đồng tham rằng: “Ngày hôm sau tôi sẽ từ trần, xin xưng hồng danh Phật để trợ niệm cho sự vãng sanh!” Vị Tăng đồng tham nói: “Từ trước đến nay thầy vẫn tu thiền, sao đến khi lâm chung lại muốn niệm Phật!” Tịnh Thiền bảo: “Tôi mật tu Tịnh độ đã lâu, vả lại niệm Phật có chướng ngại gì với môn thiền định!” Bạn đồng tham nghe nói, liền mời thêm hơn mười vị Tăng khác đến trợ niệm. Khi tất cả tới nơi, Tịnh Thiền bước vào bảo khám ngồi kiết già ngay thẳng, cử xướng bài Hương tán xong, đầu bỗng hơi cúi xuống. Bạn đồng tham quở rằng: “Bình sanh dụng công đắc lực cùng không, đều ở giờ phút nầy! Tại sao đầu lại cúi xuống?” Sư ứng tiếng đáp: “Xin vâng!” Rồi ngước đầu lên ngay thẳng. Lúc tụng kinh A Di Đà tới đoạn: “Vô lượng chư thiên đại chúng câu”, sư lần lần nhắm mắt. Một vị Tăng nói khẽ: “Tịnh sư đi rồi!” Sư nghe nói mở mắt ra bảo chưa, và yêu cầu cứ tiếp tục đừng loạn động. Khi tụng đến câu: “A Di Đà Phật thành Phật dữ lai ư kim thập kiếp”, Tịnh Thiền bỗng chợt hé mắt hiện tướng mỉm cười rồi nhắm mắt đi thẳng. Chư Tăng vẫn tiếp tục tụng kinh niệm Phật rất lâu mới chấm dứt. Kiểm soát lại, thấy nơi đảnh sư còn nóng, đầu vẫn ngay thẳng, không nghiêng ngửa cũng chẳng cúi xuống. Đình khám ba ngày, sắc mặt của sư còn tươi như sống.

Lúc ấy, người xung quanh nghe tin đồn tới quan chiêm rất đông đảo. Ai nấy đều khen đạo hạnh của sư. Cho đến các tín đồ Gia Tô, ngày thường hằng chê bai phá hoại Phật giáo, cũng tới dò xét và bảo: “Cái chết của ông Hòa thượng nầy, thật cũng rất ly kỳ và tốt đẹp!” Hơn bảy hôm sau, đại chúng mới đem thi thể của sư ra làm lễ thiêu hóa. Công việc xong, chư Tăng kiểm soát lại trong liêu phòng của sư, thì chỉ còn một chiếc áo tràng rách mà thôi.

KHUYÊN TU

I
Chẳng kết duyên lành làm đạo diệu thâm
Lửa danh lợi đốt, khổ thăng trầm.
Đâu hay nhà ruộng cùng tiền của
Tạm mượn người coi ít chục năm!

Tấn, Bạt Đà La Tôn giả.

II
Ái dục trói lôi chẳng lúc xong
Hằng ngày phiền não quẩn quanh vòng.
Ngục tù quan pháp còn khi mãn
Cái ngục gia đình mãi đóng gông!

Tấn, Ca Rị Ca Tôn giả.

III
Bốn đại hợp hòa có huyễn thân
Chết rồi bốn đại thảy qui chân.
Oan cừu ân ái vui buồn mộng
Trước mẳt mình theo với nghiệp nhân!

Tấn, Bán Thác Ca Tôn giả.

IV
Ăn ngon ý sanh tham
Ăn dở tâm sanh giận!
Thịt cá thích say no
Chúng sanh đầy khổ hận!
Đời người trong bữa ăn
Tham giận mê luẩn quẩn.
Bậc trí dứt trần duyên
Vui đạo hằng tinh tấn.

Từ Thọ Thâm thiền sư.

V
Kẻ ngu thói ác tập thành quen
Đen trắng nào hay chuyện dữ hiền.
Đến lúc hơi tàn bày khổ nghiệp
Mới kinh mình vướng mối oan khiên!
Nếu không xưng Phật trồng căn thiện
Đâu được trời Tây nở bảo liên?
Mượn nước cành dương trần cẩu lặng
Bờ mê sớm thoát bước lên thuyền.

Xung Mặc đại sư.

VI
Chuông chiều trống sớm giục ngày qua
Lần lữa hoa dung thấy kém già!
Tóc bạc răng long đừng ngớ ngẩn
Diêm vương tin gởi biết chăng mà?

Bắc Sơn đại sư.


NHƯ TRÍ

Thích Nữ Như Trí, người thời Trung Hoa Dân Quốc, họ Vương, hiệu là Lễ Tuyền. Cô sanh quán thôn Uyển Bình tại Kinh Triệu. Thuở bé Như Trí đã trường trai, thích nghe tiếng tụng kinh niệm Phật. Lớn lên tánh tình càng đoan trinh nghiêm tĩnh.

Thấy người chị họ xuất gia ở am tranh trên núi, giữ tiết thanh khổ tu hành, cô hằng muốn đi theo. Nhưng vì cha mẹ quá mến yêu, nên cô chẳng dám nói ra, chỉ thường theo chị lên núi ở, bẻ củi gánh nước, lấy sự ăn mặc thô sơ thanh đạm làm vui. Năm mười tám tuổi, Như Trí bị bịnh nguy kịch, thuốc thang vô hiệu, chỉ còn hơi thở thoi thóp ra vào. Trong cơn hôn mê, cô chỉ kêu xin xuống tóc thọ giới, không nói điều chi khác. Cha mẹ quá thương con gái, liền đến trước bàn Phật quì khấn nguyện, nếu được lành mạnh sẽ cho xuất gia. Sau khi đó bịnh cô lần lần thuyên giảm.

Đến hai mươi mốt tuổi, Như Trí và người chị cùng tôn lão Hòa thượng Đồng Bảo làm thầy thế độ, xuống tóc nương ở chùa. Mùa đông năm ấy, trước khi thọ giới, cô lạy sám hối, học tập luật hạnh, ngày đêm tinh tấn không xen hở. Nhưng vì quá lao khổ, đến khi vào giới đàn, bịnh cũ tái phát, cô chỉ gắng gượng thọ được mười giới Sa di ni. Các giới sư thương xót, khuyên cô trở về chùa điều dưỡng, để kỳ khác sẽ thọ giới Cụ túc. Nhưng vừa về tới chùa, bịnh cô trở nặng, thầy thuốc đều bảo không thể chữa trị. Tuy nhiên, Như Trí vẫn bình tĩnh giữ chánh niệm, lâm râm xưng Phật hiệu không ngớt.

Trải qua vài tuần như thế, một hôm cô bỗng mở mắt, chắp tay nhìn lên hư không cao tiếng xưng Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần, lại xá ba lượt trạng như lễ bái, rồi lặng lẽ mà vãng sanh. Lúc ấy nhằm ngày mười bảy tháng mười một, năm Dân Quốc thứ tám (Tây lịch 1919).


NHƯ GIÁC

Tỳ kheo ni Như Giác, họ Hứa, người ở Thai Châu. Cô có ba anh một chị, anh hai và anh ba đều xuất Như Giác cùng chị cũng mến hạnh thoát ly, nên vào ngày rằm tháng giêng năm Quang Chữ thứ 11 đời Thanh, cả hai đồng làm lễ xuống tóc. Bấy giờ người chị niên kỷ đã hai mươi hai, cô vừa đúng hai mươi tuổi.

Sau khi thọ giới Cụ túc, hai chị em cùng đóng cửa chuyên tu ba năm. Đến khi ra thất lại đồng đi dâng hương nơi các danh sơn, hơn một năm mới trở về. Kế đó cùng tiếp tục nhập thất thêm chín năm nữa. Ngày hoàn mãn ra thất, hai chị em dung sắc tươi sáng, sự tu trì càng thêm tinh tấn. Riêng phần Như Giác, mỗi ngày lễ Phật một ngàn lạy, niệm Phật nhiều không tính kể. Khi gặp người, cô đều khuyên niệm Phật cầu vãng sanh, thường nói bài kệ giản dị như sau:

Bớt nói một câu chuyện
Bớt sanh một lỗi ác.
Thêm niệm một câu Phật 
Thêm nhiều duyên giải thoát!

Hàng Phật tử được sự cảm hóa của cô, phát tâm tinh tấn niệm Phật rất đông. Ngày mùng ba tháng sáu năm Nhâm Tuất thời Dân Quốc, sau khóa tụng sáng, Sư cô cảm thấy trướng muộn uất hơi. Các đệ tử vội đem thuốc thang đến cho uống, hôm sau đã hơi khỏe, vẫn tiếp tục khóa niệm như thường. Nhưng xế qua, Sư cô bỗng phát lãnh, vội trùm chăn nằm, song chẳng thấy ra mồ hôi. Đến ngày mùng sáu, bịnh tăng thêm nặng, nhưng Sư cô thần trí vẫn thanh tĩnh, gọi đồ chúng đến bên giường trợ niệm. Tới chiều mắt lần nhắm, tay chân giá lạnh, ni chúng lộ vẻ bi thương khóc lóc. Như Trí bỗng mở mắt mỉm cười, bảo chúng rằng: “Kiếp người vẫn như huyễn, sống có chi đáng mừng, chết có chi đáng thương? Tại sao các con lại tỏ vẻ thường tình khóc lóc như thế? Sau khi thầy đi rồi, các con càng nên cư xử với nhau thêm hòa hảo, càng gắng tu trì chớ biếng trễ. Sống chết luân hồi là việc lớn, ngày giờ có hạn, muôn lần các con đừng để lầm lẫn luống qua! Đã mang thân người nữ, lại có duyên lành được hiện tướng ni-tăng, đó là một nhân phước rất lớn. Vậy các con phải nghiêm cẩn giữ gìn phẩm cách Tỳ kheo ni, việc làm đúng như lời nói, để trở thành một ni-tăng có danh có thật!” Dặn dò xong lặng lẽ mà thoát hóa, trạng thái cực an lành.

Qua giờ ngọ hôm sau, đảnh đầu của Sư cô càng thêm nóng, hưởng tuổi đời được năm mươi bảy, giới lạp ba mươi tám.


LIÊN TRINH

Sư cô Liên Trinh, nguyên là con gái của nhà họ Triệu ở Đan Đồ. Mùa thu năm Quang Chữ thứ hai mươi lăm, nửa đêm cô trốn đến am của Tỳ kheo ni Viên Tín cầu xin xuất gia. Thấy người tuổi trẻ mà có tâm lành, quyết trí thoát trần, Viên sư thương xót chấp nhận và làm lễ thế độ. Lúc ấy cô mới vừa mười bảy tuổi.

Khi đã hiện tướng ni-tăng, Liên Trinh tu hành rất siêng năng thành kính. Mỗi ngày cô tụng kinh A Di Đà bốn mươi chín biến, niệm Phật vài muôn câu, dù đau yếu cũng không trễ bỏ. Sau khi thọ đại giới, Sư cô mới trở về hương lý thăm viếng song thân. Gặp nhau, cha mẹ đều mừng rỡ, nhưng dùng đủ lý lẽ khuyên ép phải để tóc hoàn tục. Liên Trinh thề chịu chết, không dám vâng lời. Ở nhà một tháng an ủi cha mẹ, Sư cô lại trở về am. Từ đó sự tu trì lại càng thêm tinh tấn.

Chiều ngày hai mươi chín tháng bảy, năm Dân Quôc thứ 11, sau khi dâng hương đức Địa Tạng, Sư cô bỗng cảm thấy nhức đầu, liền lại giường nằm. Sáng hôm sau, Ni cô Duyệt Thiền đem cháo đến, Liên Trinh không ăn mà nhờ nấu nước cho mình tắm gội. Sau khi cạo tóc tắm rửa xong. Sư cô thay áo mới sạch, đắp ca sa vào, ngồi nghiêm chỉnh niệm Phật. Cả am nghe thấy lạ, đồng tụ hội tới thăm. Liên Trinh chắp tay hướng về Viên sư thưa: “Đức A Di Đà Thế Tôn và Địa Tạng Vương Bồ Tát báo cho con biết, nhân hạnh đã thuần, ngày giờ vãng sanh đã đến. Xin thầy gắng bảo trọng, con đi đây!” Rồi hướng về đại chúng cúi đầu cáo biệt. Giã từ xong, Sư cô liền nhắm mắt mà qua đời.

Lúc ấy vào khoảng ba giờ chiều ngày mùng một tháng tám năm Nhâm Tuất.


QUẢ NHƠN

Thích Nữ Quả Nhơn, con gái họ Đàoở Bành Trạch, trước kia cha mẹ gả về nhà họ Tôn. Đến năm Bính Ngọ niên hiệu Quang Chữ đời Thanh, co xuất gia nơi am Tịnh Độ ở bản ấp, lễ ngài Thánh Tôn làm thầy. Tới đầu kỷ nguyên Trung Hoa Dân Quốc (Tây lịch 1912), cô mới được cho xuống tóc.

Ban sơ, cô tu tập theo thuật Đạo dẫn của bàng môn. Khi phong trào chấn hưng Phật giáo bộc phát, nhóm cư sĩ ông Lưu Khế Tịnh đến am lập thành hội Phật học, cô mới được hiểu qua về nội điển. Nghe giảng thuyết: niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là pháp môn dễ chóng nhiệm mầu, cô liền phát lòng tin, bỏ hết lối tu tập sai lầm trước kia, hướng về Cực Lạc. Mỗi ngày cô đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, trì chú Đại Bi và niệm Phật, chia làm hai thời khóa khuya và tối. Mùa đông năm Giáp Tý, cô hơi vướng bịnh đàm, đệ tử là Thường Tham vào đêm mùng tám tháng chạp, mộng thấy bốn vị đồng tử cầm tràng phan dẫn đầu, phía sau lại có bốn người khiêng một chiếc kiệu đi theo, mách cho biết: “Chúng tôi đến rước Sư cô ở am nầy về Tây phương!”

Đêm hai mươi tám tháng tư năm Ất Sửu (1925), Quả Nhơn tự nằm mộng thấy một vị Tăng, tay trái ôm chiếc bát hoa sen, tay mặt duỗi xuống quá đầu gối, bảo: “Ngày mùng năm tháng sáu tới đây, người sẽ được ngồi trên tòa sen cõi Phật!” Sáng ra, cô đem điền ấy thuật lại với Thường Tham, rồi trao cho chìa khóa, sắp đặt mọi việc, dặn rằng: “Thầy được sanh về Tây phương, gần gũi Phật Bồ Tát, nghe lời giáo huấn tu hành là điều rất hân hạnh. Con nên khéo hầu hạ Sư ông, giữ gìn cấm giới, duy trì mối đạo và cố gắng niệm Phật tụng kinh. Mọi việc phải giữ như lúc thầy còn hiện tiền, chớ làm điều chi lầm lỗi!” Bảy hôm trước khi từ trần, cô bảo đệ tử xuống núi chuyển lời giã biệt các hàng Phật tử. Cư sĩ Khế Tịnh thấy cô chưa thọ đại giới, liền tới chùa Thành Hoàng thỉnh Tỳ kheo Ngộ Đạo và chư Tăng Ni đến tại bản am lập đàn truyền cho giới Cụ túc. Cư sĩ lại sắm ba y, bình bát và tọa cụ để cúng dường.

Đêm mùng ba tháng sáu, Thường Tham lại mộng thấy vị Tăng cao hơn một trượng, khoác áo ca sa đỏ, nơi vai quàng chéo qua ngực một chiếc băng, trên có đề chữ: “Nam mô Tây phương tiếp dẫn, A Di Đà Phật”. Vị Tăng ấy đầu đội mão cánh sen, chóp mão nổi hiện một đóa bạch liên, trên có đức Phật ngồi kiết già. Tăng sĩ bảo: “Ta đến đây thỉnh Ni cô Quả Nhơn đồng về Tây phương Cực Lạc thế giới!” Hai hôm sau, Sư cô bảo cho biết đã tới kỳ Tây quy và từ giã đại chúng. Tỳ kheo Ngộ Đạo, cư sĩ Khế Tịnh cùng nhiều vị khác hay tin trước, đều đến trợ niệm. Sau thời ngọ trai, Quả Nhơn thưa với đại chúng rằng: “Tiết trời quá nóng nực, xin các vị tạm trở về nhà nghỉ ngơi tắm gội, vì vào giờ Tuất tôi mới đi. Tắm xong các vị tới đây cũng chưa muộn”. Đại chúng nghe nói đều tan về.

Trước giờ, mọi người y hẹn đều tụ hội đến. Quả nhiên, đúng giờ Tuất, Sư cô ngồi ngay thẳng niệm Phật giây lát rồi viên tịch. Hôm sau làm lễ nhập khám, sắc diện còn tươi như sống. Sư cô dặn đồ chúng thiêu hóa thi hài đem tro rải nơi đường để kết duyên với chúng sanh.


THÁNH ĐẠO

Thích Nữ Thánh Đạo, con gái họ Tôn ở Bành Trạch, thuở niên thiếu cha mẹ gả về nhà họ Đào. Niên hiệu Quang Chữ thứ 32, cô xuất gia nơi am Tịnh Độ ở bản ấp. Năm Dân Quốc thứ chín, cư sĩ Lưu Khế Tịnh lập Phật Học Hội tại am, Ni sư nhân nghe pháp, mới quyết lòng niệm Phật cầu sanh Cực Lạc.

Vào tháng tám năm Dân Quốc thứ mười lăm (1926), Thánh Đạo mộng thấy có người đến am trao cho một phong thơ rồi chắp tay thưa: “Ni sư sắp được tiếp dẫn sanh về Tây phương, thơ tín nầy đừng nên để lạc mất!” Khoảng tháng mười, Đạo lại mộng thấy mình đi triều lễ đức Quán Thế Âm ở Nam Hải, thuyền ra khơi độ vài ngày, ghé vào bờ rồi lên núi. Trên đường lên non, Ni sư thấy một bà lão ngồi trên gộp đá, nơi lòng hai bàn tay hiện ra đôi mắt chớp chớp như điển. Thánh đạo hỏi: “Đây là nơi nào?” Bà lão đáp: “Linh Sơn!” Ni sư nghe nói liền lột mũ, cúi xuống lạy. Bà lão khen: “Ngươi niệm Phật rất thành kính, ta sẽ rước đến Tây phương. Nhưng hiện thời hãy tạm trở về!” Rồi nắm tay dắt đứng dậy. Thánh Đạo giật mình thức giấc, thì chiếc mũ đã rớt nằm trên gối. Rạng ngày Ni sư liền đem điềm mộng ấy thuật lại với đồ tôn là Thường Tham và bảo: “Vào ngày mười ba tháng giêng sang năm, ta sẽ được vãng sanh!” Kế tiếp, dặn dò hậu sự rất rành rẽ.

Cuối tháng chạp, vào đêm trừ tịch, Thường Tham mộng thấy Thánh Đạo lên chánh điện lễ Phật. Lễ xong thốt lời giã biệt ra đi, lại nghe ngoài am có tiếng người huyên náo bảo rằng đến tiếp rước lão Hòa thượng. Ngày mười ba tháng giêng năm Đinh Mão, khóa tụng buổi sáng xong, Ni sư bảo Thường Tham rằng: “Hôm nay có Phật sự, con nên nấu cơm sớm”. Rồi liền vào phòng tự in giấy tiền Vãng sanh. Sau thời cúng ngọ, dùng cơm gần xong, Thánh Đạo cảm thấy hơi phát lãnh, vội bảo: “Ta sắp đi!” Lúc ấy chén cơm nơi tay bỗng bay lên quay tròn như bình hoa sen, cao khỏi đầu người. Ni sư cười bảo: “Đẹp lạ thay!” Ước chừng một khắc, chiếc chén mới từ từ hạ xuống đứng ngay thẳng, không rơi đổ hạt cơm nào. Việc nầy thật không thể nghĩ bàn!

Đến giờ Mùi, quả nhiên Ni sư an lành niệm Phật mà thoát hóa.


ĐẠI NGỘ

Tỳ kheo ni Đại Ngộ tự Pháp Lâm, họ Viên, người ở huyện Nam Thông tỉnh Giang Tô. Lúc tuổi trẻ, cha mẹ hứa gả về nhà họ Thiệu, nhưng chưa làm lễ vu quy mà chồng đã chết. Cô liền thề không tái giá, rồi vào am Đại Bi ở phía tây bản huyện mà xuất gia làm ni. Bên nhà chồng chấp theo lễ tục ở đời, dùng trăm cách để cản. Song cô lập chí kiên quyết, nên rốt cuộc sở nguyện cũng được thành.

Sau khi xuất gia, cô gắng sức làm công quả, gánh nước, giã gạo, bổ củi, nấu cơm. Những thời tịnh khóa sớm hôm cũng không trễ bỏ, mỗi ngày càng thêm tinh tấn. Sư cô quyết chí niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, thường nói: “Sự rộng lớn của Phật pháp, duy có môn Tịnh độ là hợp thời cơ. Ngoài ra, việc tụng kinh lễ sám là để giúp tiêu nghiệp chướng, tăng phước huệ, khiến cho tịnh nghiệp dễ thành mà thôi”.

Thấy cảnh am hoang phế, Sư cô ra công quyên góp sửa sang lại, xây dựng Phật đường, liêu phòng, lập vườn trồng rau, để giúp cho chúng được yên ổn thanh tu. Gặp kẻ đau khổ, Đại Ngộ đều tùy duyên nói pháp, khiến cho nhiều người cảm mến nương về rất đông.

Lúc lớn tuổi, Sư bà thấy sắc lực lần suy mòn, vội đi triều lễ các non: Phổ Đà, Cửu Hoa … cảm được nhiều thoại tướng. Tháng hai năm Dân Quốc thứ mười sáu, Sư bà vương chứng cảm mạo nhẹ, trong bịnh viết lời kệ rằng:

Việc thế muôn viên rũ sạch không
Duy câu Phật hiệu vẫn gìn lòng.
Luân hồi một niệm siêu miền khô
Kiết sử mười dây thoát mối vòng.
Sáng suốt đài tâm hơi bụi lắng
Nhiệm mầu tánh tịnh ánh trăng trong.
Ngày nay mãn nguyện về Tây cảnh
Thuyền độ rồi soi đuốc tuệ hồng!

Đến ngày mười tám, Đại Ngộ thấy đức A Di Đà phóng quang tiếp dẫn. Sư bà thuật lại cho chúng biết, ngỏ lời giã biệt, rồi an nhiên niệm Phật mà vãng sanh, hưởng thọ được 73 tuổi. Ngày hai mươi tám làm lễ trà tỳ, được năm viên xá lợi tròn sáng.


HOẰNG NGUYÊN

Sư cô Hoằng Nguyên tự Tánh Lượng, người thời Dân Quốc, thế độ nơi am Huệ Nguyệt Cư ở Nam Kinh. Cô phát tâm rất sớm, bình sanh ưa niệm Phật siêng lễ sám, tôn kính thầy, hòa đồng chúng, mỗi mỗi đều trang nghiêm thành khẩn. Tánh lại đoan trang ít cười nói, giữ mình nghiêm, đãi người hậu, sự ăn mặc ở rất đơn giản đạm bạc. Mỗi khi sư cô lãnh chúng lên chánh điện niệm Phật, thường lo đi trước sợ trễ sau, sớm tối vẫn một mực, dù tiết lạnh nóng cũng không gián đoạn. Sự tu tập cứ đều đều như thế, trải vài mươi năm như một ngày.

Mùa thu năm Canh Ngọ thời Dân Quốc (1930), Hoằng Nguyên bỗng vương bịnh. Đại chúng vẫn kính mến hạnh kiểm của Sư cô, hết sức lo thuốc thang đổi thay điều trị, song chẳng thấy hiệu nghiệm. Hoằng Nguyên nằm nơi giường bịnh hơn hai tháng, gương mặt khô gầy, thân mình phù thủng, sự ăn uống lần giảm. Biết cơn đau là do túc nghiệp, khi có người đến thăm, Sư cô ít nói năng, chỉ lâm râm gắng công niệm Phật, về sau nhiều ngày không ăn được, song sự trì niệm vẫn không thôi bỏ. Vài hôm trước khi lâm chung, Sư cô mấy phen thấy đức A Di Đà, đại chúng cũng nghe mùi hương lạ đầy thất. Riêng Hoằng Nguyên lại thấy một đóa hoa sen to lớn tươi đẹp hiện ở trước giường.

Khi sắp mãn phần, tuy hơi thở còn yếu thoi thóp, song Sư cô vẫn động môi lưỡi tùy theo tiếng khánh của đại chúng mà niệm Phật. Kế đó giữ chánh niệm phân minh, an lành thoát hóa trong tiếng xưng danh trợ niệm. Lúc ấy nhằm tháng mạnh đông, ngày hai mươi tám.

KHUYÊN TU

I
Đường Tây cần chỉ giữ lòng bền
Gắng sức siêng tu thẳng bước lên.
Chánh hạnh ví thêm công trợ hạnh
Di Đà từ thệ vẫn đâu quên!

II
Tây phương báu lạ cảnh hằng xinh
Từ phụ xót thương độ hữu tình!
Tám vạn bốn ngàn môn giải thoát
Di Đà sáu chữ tuyệt cao minh!

Minh, Nhứt Nguyên đại sư.

III
Ao sen hoa đẹp nở hàng ngày
Sắc lạ quang minh chiếu bảo đài
Bi nguyện tay vàng xa tiếp dẫn.
Chúng sanh sao mãi vẫn còn say?

IV
Bao quát muôn phương môn Niệm Phật
Cao hơi đập cửa khuyến tu hành.
Duyên sao vội gấp kêu dường ấy?
Vì sợ người mê rớt hỏa khanh!

Nguyên, Trung Phong đại sư.

V
Mai trắng vừa tàn, hạnh nở xinh
Gió xuân há phải có riêng tình?
Lòng thanh sáu chữ hàm muôn tượng
Công đức Di Đà thắm vạn linh.

Minh, Diệu Ý đại sư.

VI
Lá biếc điểm xen bốn sắc hoa
Mỗi hoa vị niệm Di Đà.
Chớ nghi Tịnh độ đường xa cách
Mưa phới người về tợ nước sa!

Tống, Bắc Sơn đại sư.

VII
Đường Tây thẳng tắt biết hay chưa?
Sáu chữ hồng danh Tối thượng thừa!
Muốn dắt tay lôi nhưng chẳng được
Do người tự nguyện Phật duyên đưa.

VIII
Tây phương quê cũ sớm quay về
Hơi thở mạng người chớ trễ mê!
Kiếp tạm có chùng nên quí tiếc
Đừng cho lỡ bước lạc sơn khê!

XI
Liên bang rảo bước sớm tu trì
Sống chết vô thường chẳng hẹn kỳ.
Khảy ngón ánh dương ngoài cửa tắt
Thương câu: “Thất thập cổ lai hy!

Minh, Nhứt Nguyên đại sư.

X
Trần sa sống chết kiếp trần sa
Lại hết trần sa chẳng thoát ra!
Một niệm chỉ nhân tình chửa dứt
Vô biên số kiếp đắm mê hà!

Nguyên, Trung Phong đại sư.


PHẠM NGƯƠN LỄ

Cư sĩ Phạm Ngươn Lễ tự Dụng Hòa, người đời Thanh, quê ở Tiền Đường. Thuở niên thiếu ông học Nho, tâm hạnh thành thật, thờ song thân rất có hiếu. Một độ, người cha đau, ông cắt thịt bắp vế sắc hòa với thuốc đem dâng, bịnh được lành. Mẹ là Dư thị ốm nặng, ông lại làm như thế một lần nữa, bịnh cũng thuyên giảm.

Không bao lâu, song thân đều quá vãng, vợ cũng kế tiếp mãn phần. Bấy giờ đang lúc tráng niên, Ngươn Lễ cảm khái cuộc thế vô thường, dẹp bỏ duyên trần, theo nhà dưỡng chân tu học đạo Tiên. Trải hơn mười năm như thế, công phu đã có đôi phần hiệu nghiệm. Sau nhân đọc sách của ngài Liên Trì, ông chợt tỉnh ngộ, đến chùa Vân Thê xin thọ tam quy ngũ giới. Ngươn Lễ giữ giới hạnh rất bền chắc, những thứ phục dụng bằng tơ tằm lông thú đều không dùng, bỏ hết lối tu cũ, chuyên về Tịnh độ. Đối với pháp quán tưởng, cư sĩ lại càng tinh mật. Trước kia khi thân mẫu sắp lâm chung tinh thần mờ loạn, cư sĩ khuyên chuyên lòng quán tưởng đức Quán Thế Âm, bà mẹ y lời làm theo. Vài hôm sau, bỗng nói: “Mẹ đã được Bồ Tát tiếp dẫn đến cảnh giới lạ mầu sáng đẹp!’’ Nói xong vui vẻ mà qua đời. Bởi duyên do đó, Ngươn Lễ rất tin sự hiệu nghiệm của môn quán tưởng.

Cư sĩ tánh hiền lành, ưa phóng sanh bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khổ hoạn nạn. Khi làm những việc từ thiện, ông rất siêng cần chu đáo, không nài mỏi nhọc. Gặp chư Tăng Ni, đều phát tâm tùy sức cúng dường không bỏ sót. Vì thế đương thời nghe tới tên Ngươn Lễ, hàng tăng tục đều biết và mến trọng.

Mùa hạ năm Đạo Quang thứ tám, cư sĩ đóng cửa nhập thất nơi Đại Động Các ở Thành Nam, định kỳ hạn trăm ngày niệm Phật. Một hôm đang khi ngồi tịnh, huyền công tu Tiên thuở trước bỗng phát hiện. Lúc ấy ông cảm thấy thanh khí của trời đất từ giữa hư không kết thành nhiều làn, liên tiếp đi vào đảnh, mũi, miệng, rồi thẳng xuống đơn điền, cùng với ngươn khí của mình hòa hợp. Bấy giờ thân tâm rất an ổn nhẹ nhàng và điềm lạc không thể thí dụ. Giây phút có một đứa anh nhi cao chừng vài tấc, từ đảnh môn xuất hiện. Đứa bé ấy bay liệng xung quanh đùa giỡn trải một thời gian, rồi do đảnh đầu trở vào. Từ đó về sau, mỗi khi tu đến mức cực tĩnh quên trần niệm, liền có anh nhi ra vào như trước. Ban sơ Ngươn Lễ tâm ý rất mừng, sau đó chợt nghĩ: “Đây có phải là một trong năm mươi thứ ấm ma của kinh Lăng Nghiêm nói chăng? Nếu ta cho là kỳ đặc tất sẽ lạc vào bẩy tà. Vả lại người niệm Phật chí ở Tây phương, thánh cảnh không hiện, lại chuộng thứ nầy để làm gì?” Do đó thường thường giác chiếu giữ chánh niệm, anh nhi mới không còn xuất hiện. Nhờ duyên nầy, cư sĩ mới khế ngộ sâu lý duy tâm, sức tín nguyện hạnh càng thêm thuần chắc, về sau ông thường bảo người rằng: “Cảnh giới ấy là cửa ải nguy hiểm nhứt thuở sanh bình. Nếu tôi không sớm giác tỉnh, tất sẽ lạc vào bàng môn. Thế nên biết sự tu hành cần phải tinh tường dè dặt!”

Mùa hạ năm Đạo Quang thứ mười một, Ngươn Lễ tĩnh dưỡng nơi chùa Tịch Chiếu ngoài cửa Thanh Thái. Ở địa phương nầy có bà họ Trầm lòa cả đôi mắt. Bà có chí niệm Phật, song bị con dâu thường ngăn trở. Cư sĩ nghe biết liền bảo: “Việc nầy có thể dàn xếp ổn thỏa. Hành động của cô dâu kia là do vì gia cảnh nghèo thiếu, nếu giúp cho sự sống tất mọi việc đều yên”. Nói đoạn ông vào thành quyên mộ, nhờ người giúp cho Trầm bà mỗi tháng vài đấu gạo. Bà dùng có dư chuyển giao cho người dâu, nên cô nầy hoan hỷ không còn ngăn trở nữa. Ngươn Lễ lại diễn nói sự lợi ích về niệm Phật cho nghe, và dạy bảo cách sám hối phát nguyện. Mấy tháng sau, một người hàng xóm của Trầm thị tới nói với cư sĩ: “Bà lão niệm Phật hôm trước, nay đã vãng sanh rồi!” Ngươn Lễ hỏi nguyên do, người ấy thuật lại từng việc:

Sau khi được sự giúp đỡ, bà lão siêng năng niệm Phật thế nào? Sám hối phát nguyện ra sao? Đến tháng vừa rồi, Trầm thị biết trước ngày về Tây phương, bảo cho cô dâu hay. Tới kỳ hạn, bà tắm gội thay y phục, ngồi chắp tay niệm Phật mà vãng sanh Trầm bà di chúc cho cô dâu nhờ chuyển lời tạ ơn Phạm công. Hiện thời bà vừa mãn phần chưa có quan quách và đồ tẩn liệm. Cô dâu định bán đứa con gái để lo sắm về việc ấy. Bây giờ phải làm thế nào?”

Ngươn Lễ nghe nói, liền bàn với các thiện hữu, góp chung được một số tiền, giao cho người hàng xóm đem đến giúp cô dâu. Hơn tuần sau, ông lại tới nhà hỏi thăm. Đến nơi thì người dâu tay đang cầm tràng chuỗi, miệng lâm râm niệm Phật. Thấy cư sĩ đến, cô vui mừng đón rước kính lời tạ ơn. Vừa ngồi xong, những người hàng xóm hay tin tề tựu, tranh nhau muốn biết mặt Phạm công. Rồi hết kẻ nọ tới người kia chuyền nhau thuật lại việc của bà họ Trầm, đại khái y như ông hàng xóm đã nói hôm trước. Họ lại chỉ một cô bé nói: “Khi mua quan quách tẩn liệm xong, hàng xóm đều bàn luận: Phạm công vốn người ở trong thành, mà còn chịu từ xa làm việc thiện. Chúng ta là tình lân lý, đâu nên làm khách bàng quan! Do đó tất cả mới chung góp tiền mua đất, đem quan tài của mẹ cháu và luôn linh cữu của chồng cháu đã quàn để từ lâu, đồng một ngày đem đi an táng!” Cư sĩ nghe nói vui vẻ ra về.

Mùa đông năm ấy, Ngươn Lễ đem những công việc từ thiện của mình làm còn dở dang lo tính toán kết thúc và chuyển giao trách vụ cho một liên hữu khác. Tháng giêng năm sau, cư sĩ đến riêng từng nhà các đồng bạn, ân cần khuyến khích tu hành, dường như kẻ sắp đi xa. Người con trai của cư sĩ có việc đến miền Tòng Giang, ông bảo: “Con đi ra ngoài, mọi việc nên khéo xử sự. Cha nay tuổi già, thảng có điều chi biến cố, cũng chớ nên kinh lo. Phải giữ bổn phận mình đối với trách vụ của người giao phó!” Nghe nói, cậu trai tuy hiểu biết, song chỉ cho đó là lời quá lo xa của người lớn tuổi mà thôi.

Đến ngày hai mươi bốn tháng giêng, Ngươn Lễ thức dậy sớm bảo gia nhơn rằng: “Hôm nay ta thấy trong người hơi mỏi nhọc!” Nói đoạn vẫn dùng cháo sáng như thường. Ăn xong, cư sĩ đi tản bộ đến trước nhà gần bên đứng bàng hoàng một khắc, rồi trở về ngồi ngay thẳng nơi giường niệm Phật. Con cháu trong nhà thấy hơi lạ hỏi thăm, ông khoác tay ra dấu bảo im lặng. Đến giờ Ngọ, tiếng niệm nhỏ lần rồi an ổn mà qua đời. Giờ Dậu ngày hôm sau nhập liệm, đảnh đầu hãy còn nóng. Bấy giờ nhằm năm Đạo Quang thứ mười hai, cư sĩ hưởng thọ sáu mươi ba tuổi.

LỜI BÌNH:

Xem cách thức Dụng Hòa lo kết liễu mọi việc, từ biệt bạn, dặn dò con, chẳng thể gọi là không dự biết trước giờ lâm chung. Nhưng tại sao ông lại không nói ra minh bạch? Theo thiển ý, sự biết trước ngày giờ quí ở chỗ tự biết để cho tâm được yên vững, không chủ đích để phô trương với mọi người. Huống chi nếu đến giờ mà bạn lành đều tụ họp, hoặc ra có sự lợi ích trợ đạo. Thảng như quyến thuộc không nén được thế tình, vây quanh ngậm ngùi thương khóc, há chẳng phải muốn thành mà trở lại bại ư? Việc cư sĩ Dụng Hòa không nói ra, tất cũng bời lý do đó.


TÔN PHỤC NGUYÊN

Cư sĩ Tôn Phục Nguyên tự Mẫn Tư, người đời Thanh, vốn hàng chư sanh ở Nhơn Hòa. Tánh ông rất từ thiện, lúc thiếu thời thích đọc các sách: Cảm ứng Thiên, Âm Chất Văn, lập chí tuân hành theo. Chỗ Phục Nguyên ở, đối diện với nhà hàng thịt. Một hôm thức dậy sớm, ông thấy họ giết heo liền phát nguyện giữ giới sát, mua heo đem phóng sanh ở chùa Vân Thê. Tuy chưa thể dứt hẳn cá thịt, Phục Nguyên thường ăn chay. Những loài kiến muỗi rận rệp, cũng dè dặt không dám để tổn thương.

Đến tuổi tráng niên, mỗi ngày cư sĩ đều tụng Đại Bi Sám, kinh Kim Cang, niệm Phật, lại thêm ghi Công Quá Cách. Vừa được hai năm, ban đêm đi không cần đèn đuốc, trước mắt tự có ánh sáng. Thấy thế ông càng cố gắng tu các công đức, lấy chuyện phóng sanh giúp kẻ nghèo đói làm điều cấp thiết. Phàm các việc thiện, không luận lớn nhỏ, đều hết sức mà làm. Sau nhân quản lý về vụ muối, lo tính phân vân, ban đêm đi ánh sáng lần lần mất. Phục Nguyên chợt tỉnh ngộ tự bảo: “Ta lầm lạc rồi!” Liền chuyển giao công vụ, trở về lo tu niệm làm lành như trước. Từ đó ánh sáng lại hiện ra, khiến ông lại càng tin thêm lý cảm ứng.

Cư sĩ niệm Phật quán tưởng, một lòng cầu vãng sanh, mấy chục năm như thế không hề gián đoạn. Tuổi hơn bảy mươi, ông càng gia công tinh tấn, nên thường cảm hiện nhiều điềm lành. Lắm khi Phục Nguyên mộng thấy ngôi sao to như cái chén, chiếu ánh sáng đến mình. Hoặc nằm mơ tự thấy quì trên đài hoa sen hắng, đối Phật trì tụng. Một đêm, ông vừa nằm xuống gối, bỗng nghe có tiếng nói: “Đức do mình chứa, phước tự trời dành!” Vội mở mắt ra thì không thấy chi cả, song âm vang còn rành rạnh bên tai. Ngày hai mươi mốt tháng trọng xuân, năm Đạo Quang thứ mười hai, đang khi lễ bái, cư sĩ chợt phưởng phất thấy một vị khoác áo ca sa đứng trước chỗ bồ đoàn. Lúc cúi xuống lạy, đầu đụng vạt áo, nhưng khi ngước lên thì vị ấy đã ngồi trên tòa cao. Trải ba hôm sau, ông cảm thấy yếu kém mỏi nhọc, song vẫn nằm nghiêng bên hữu niệm Phật. Vừa lúc đó, đức A Di Đà hiện thân ngoài song cửa, tướng trang nghiêm màu đẹp vô cùng!

Đến ngày mùng hai tháng ba, Phục Nguyên thức dậy sớm, thần trí vui tươi, tùy ý đi ngồi không lộ vẻ chi đau yếu. Tới chiều tối, cư sĩ bảo gia nhơn rằng: “Sáng mai đi mua cho ta hai gánh ốc, một trăm cân lươn, rồi đem thả nơi sông hồ”. Lại bảo: “Sau khi ta mãn phần, các con cháu phải gắng sức niệm Phật, phóng sanh, làm các việc lành, chớ quên lời căn dặn!” Bấy giờ đang ngồi bên án, ông liền vặn đỏ đèn, cầm bút viết văn sớ phóng sanh, nét chữ ngay ngắn không chút sai lầm. Viết xong lại giường nằm lâm râm niệm Phật, một lúc rồi yên ổn qua đời, thọ bảy mươi lăm tuổi.

LỜI BÌNH:

Công niệm Phật quán tưởng sâu, nên hằng có điềm lành ứng hiện, đó là sự lý rất thường, không đủ lấy làm lạ. Người tu tịnh nghiệp phải gắng hết công thành kính, một lòng nhớ niệm. Ngoài ra chẳng nên vọng cầu điều chi, mới có thể tâm cùng Phật hợp, không đến nỗi khởi sanh việc ma.


LÝ CẦN

Cư sĩ Lý Cần tự Hương Đài, người đời Thanh, nhà ở Nhơn Hòa. Tánh ông thuần hậu không hay chống trái với người, lại đĩnh ngộ ham học, những kinh sách của đạo Nho cùng Bách gia chư tử thảy đều thông thuộc. Tuy hoài bão tài năng, Hương Đài lại lạnh nhạt với lợi danh, không có niệm tiến thủ. Ý chí ông thanh khiết hằng nghĩ cách thoát trần, nên theo tu Tiên với các nhà huyền học.

Qua tuổi trung niên, Lý cần chuyển sang tin hướng Phật thừa, thọ tam quy ngũ giới, được pháp danh là Diệu Tịnh. Từ đó ông hằng dụng công tiến tu, đối với Thiền tông có phần lãnh ngộ sâu sắc, nhưng lại lấy Tịnh độ làm chỗ nương về. Cư sĩ thường bảo: “Một đôi chút hiểu biết về tông và giáo, cũng không giúp ích được chi. Tôi thà giữ pháp vững chắc là thiết thật niệm Phật, ngoài ra không dám nói cao xa lớn lối, để tự dối mình!” Ông gia tư vốn chẳng dư giả lắm, song gặp chuyện cần bố thí tất không tiếc, lại thường điềm đạm ẩn danh. Đối với việc Tam Bảo, cư sĩ hết lòng tôn trọng, từng chạm tượng Phật bằng gỗ chiên đàn và tháp để kinh Kim Cang. Lại cho khắc hai tấm bia tuyên dương Phật pháp, dựng nơi chùa Hải Triều. Kế tiếp, ông mướn thợ chạm một bảng Cực Lạc Thế Giới Toàn Đồ, để tiêu biểu chí tín nguyện. Một hôm nhân thiết lễ trai tăng, cư sĩ nghỉ lại nơi chùa, ở nhà bọn trộm thừa cơ vượt tường lẻn vào, mở toang cả cửa lớn nhỏ, sáng ra mới biết. Gia nhơn kinh hãi kiểm soát kỹ lại, song chẳng thấy mất vật chi. Người xung quanh đều bảo do ông thành tín tu hành, nên có chư thần ủng hộ.

Thời đó, Giám Đường hòa thượng là bậc kiệt xuất trong tòng lâm, khi viên tịch có để lại một tập di cảo. Lý Cần nghe nói thâu nhập đem ra in truyền bá, song vẫn chưa từng quen biết với Giám công. Mùa hạ năm Đạo Quang thứ mười hai, đứa cháu gái là Hạnh Cô đau nặng sắp mãn phần, cư sĩ hôm sớm ở gần bên khuyến tấn và xưng hồng danh để giúp phần chánh niệm. Kết cuộc Hạnh Cô gắng niệm Phật đến hơi thở cuối cùng và an lành mà thoát hóa. Không bao lâu, Lý Cần cũng vương bịnh, thầy thuốc đến chẩn trị rồi dặn: “Đây là do bởi sự tổn nhọc dồn chứa nên sanh ra chứng thương khí, cần phải yên lặng tĩnh dưỡng. Nếu chẳng thế, thì bịnh càng thêm nặng!” Sau khi y sĩ ra về, ông ôn tồn bảo: “Lời đó tuy đúng, nhưng là trách vụ của một lương y, cũng là quan niệm theo tình đời. Riêng mình, ta xét thân nầy như huyễn, nên không muốn vì giữ việc nhỏ mà làm tổn thất điều lớn”. Rồi lại càng tinh tấn gia công niệm Phật, và lo kết thúc tất cả việc công đức làm còn dở dang.

Đến tháng mười, bịnh tăng thêm nặng. Giữa đêm ngày mười một, cư sĩ ngồi kiết già niệm Phật rồi yên ổn mà vãng sanh. Trước đó ba ngày, Lý Cần đòi một chiếc tăng mạo, thân quyến vội sắm đem trao cho. Ông tiếp lấy đội lên đầu rồi mừng rỡ bảo: “Mạn y ta đã có, chỉ còn thiếu thứ nầy thôi. Nay được đội để ra mắt đức A Di Đà, thì lòng mong ước đã đủ. Nên dùng hai món nầy thành liệm, để toại chút ý nguyện thuở sanh bình!”

Ngày mười hai, lúc sắp nhập quan, các liên hữu thử dỡ mũ để dò thăm, thì thấy hơi nóng từ đảnh xông lên như dỡ nắp chiếc nồi đang sôi. Cư sĩ hưởng dương được bốn mươi bảy tuổi.


TÀO HÀI HÒA

Cư sĩ Tào Hài Hòa, pháp danh Quảng Trí tự Thanh Ngũ quê ở huyện Thượng Ngươn tỉnh Giang Nam. Gia đình ông làm nghề nhuộm tơ lụa do đó lại dời về Tô Châu lập cơ nghiệp.

Mùa thu năm Đạo Quang thứ bảy, nhân vợ đau yếu, Hài Hòa rước y sĩ Hạ Văn Vinh đến xem bịnh và điều ưị. Văn Vinh là một Phật tử, nên giảng giải về pháp môn Tịnh độ, khuyến tấn tu hành. Ban sơ Hài Hòa tin vâng theo, sau lại sanh nghi hỏi Văn Vinh rằng: “Có kẻ bảo anh đem hình thức niệm Phật để dối gạt người, việc ấy như thế nào?” Văn Vinh đáp: “Dần dụ người tạo nghiệp làm quấy, để cho họ bị sa đọa vào ba đường ác chịu quả khổ, lưu lạc luân hồi, có thể bảo đó là dối gạt. Khuyên người tu giới định huệ, ăn chay niệm Phật, cầu sanh cõi Cực Lạc ở Tây phương, để cho họ trở về quê cũ thành quả Bồ đề, độ mình và tất cả chúng sanh, sao lại gọi là dối gạt?” Hài Hòa nghe nói chợt lãnh ngộ, dứt hết mối nghi, lại hỏi: “Làm thế nào để chắc chắn đến quê hương Phật quốc?” Văn Vinh đáp: “Giữ giới làm nền tảng, tu phước làm trợ duyên, chấp trì câu hồng danh làm chánh hạnh,, niệm cho đến khi dược nhứt tâm. Đó là đường lối trở lại quê xưa Cực Lạc!” Nghe xong, Hài Hòa vui mừng khấp khởi, liền đến quy y với ngài Bôi Độ Hải. Mùa xuân năm sau, lại thọ ngũ giới nơi ngài Nghĩa công ở chùa Linh Thứu. Từ đó cư sĩ mới thiết thật tinh tấn tu hành.

Một đêm, Hài Hòa nằm mơ thấy tòa Hắc sơn cao chớn chờ đón trước mặt. Trong ý muốn vượt qua, nhưng lại bị khe suối ngăn cách. Sau núi, vầng hồng từ từ chìm lặn về phương Tây trong cảnh ánh chiều ráng đỏ. Tỉnh giấc, cư sĩ nghiệm biết là duyên trần của mình sắp mãn. Nhân đó lại càng gia công tinh tấn, đem gia tư gồm ba ngàn lượng vàng trong vài năm lần lượt tu phước bố thí hết. Tháng tư năm Đạo Quang thứ mười bốn, thôi làm nghề nhuộm, thu gọn dư sản trở lại quê hương. Trước đó Hài Hòa khuyên thân mẫu tu Tịnh độ, bà mẹ thấy ông không có con trai, bảo cưới vợ lẽ. Ông thưa: “Con nguyện cùng mẹ đồng sanh về Cực Lạc. Ở cõi ngũ trược dễ bị mê lầm gây nhiều tội ác, không nên tạo thêm duyên nghiệp làm chi!”

Về quê chưa bao lâu, bà mẹ niệm Phật mà qua đời. Đầu tháng sáu năm đó, cư sĩ cũng nhiễm bịnh. Đến ngày mùng sáu, ngồi kiết già niệm Phật mà thoát hóa. Đứa con gái của cư sĩ thấy thế, phát lòng tin sâu thiết, niệm Phật liên tục trong bốn mươi chín ngày đêm, cũng ngồi vãng sanh với nét mặt an lành tươi tỉnh.

LỜI BÌNH:

Trong vòng một trăm ngày mà mất luôn ba người, kẻ chưa hiểu đạo, theo quan niệm đời tất bàn luận phân vân cho là vô phước. Nhưng cả quyến thuộc đồng gởi chất nơi thai sen, được thân kim cương đẹp tươi rực rỡ, ở cõi thất bảo trang nghiêm, và sẽ cùng chứng đắc thần thông giải thoát là điều cực hân hạnh, đối với bậc trí còn có chi hơn?


TỐNG LAI

Cư sĩ Tống Lai tự Vọng Sơn, người đời Thanh, quê ở Tô Châu. Đến tuổi hơn sáu mươi, ông mới được nghe biết pháp môn Tịnh độ. Từ đó phát tâm mỗi ngày niệm Phật vài muôn câu. Ông thường nói với bạn rằng: “Việc đã qua dường như mộng, tôi chỉ còn nương hồng danh sáu chữ để giải quyết một kiếp tàn sanh!”

Sau cư sĩ đến ở trọ tại vùng Kiều Giang để dạy học. Chủ nhà lấy việc ông ăn chay niệm Phật làm rộn phiền, ngăn cấm mãi chẳng được, nên không cho ở. Cư sĩ liền dời đi nơi khác mở trường dạy học, thầy trò rất là tương đắc. Có lúc ông gọi môn đồ bảo: “Quang cảnh ở học đường rất tốt. Giả sừ thầy mãn phần tại nơi đây, các con thấy có nên chăng?”

Một hôm học sinh tề tựu đến, thấy Tống Lai còn đang chắp tay niệm Phật, nên lui ra. Giây lâu trở vào vẫn thấy còn ngồi im lặng, liền lại gần dò xem thì thầy đã qua đời. Tìm xung quanh, dưới nghiên gần đó có dằn một mảnh giấy. Tất cả họp lại xem, thì đó là lời dự báo ngày giờ vãng sanh, đã viết sẵn từ ba hôm trước. Trong trường có mùi hương lạ cách đêm sau vẫn chưa tan. Lúc ấy nhằm nằm Đạo Quang thứ mười lăm.


TRẦN CƯ SĨ

Trần cư sĩ quên sót tên, người ở Thường Thục, nguyên là chú của tú tài Trần Thế Anh. Mỗi sáng sớm, cư sĩ đều đốt hương ngồi hướng về phương Tây yên lặng rất lâu, người nhà không am hiểu đó là hành động gì? Sau khi cư sĩ mãn phần, mới biết là ông mật tu hạnh Trì danh niệm Phật. Dù cơn gió mưa, tiết lạnh nóng, cư sĩ cứ giữ như thế không hề bỏ sót, trải qua mấy mươi năm.

Tháng bảy niên hiệu Đạo Quang thứ mười lăm, cư sĩ bảo: “Ngày hai mươi ba tháng chín tới đây, ta sẽ về Tây phương!” Người nhà thấy ông vẫn khỏe mạnh, nên không tin. Trước khi mãn phần ba hôm, cư sĩ hơi cảm bịnh nhẹ, song sự ăn ở cũng như thường ngày. Đến đúng kỳ hạn, ông ngồi yên tắt hơi, quyến thuộc vây quanh kêu gọi, liền mở mắt dặn bảo vài lời rồi nói: “Thôi ta đi đây!” Kế lại nhắm mắt thoát hóa. Lúc ấy mùi hương lạ từ khắp lỗ chân lông của cư sĩ bay ra sực nức. Thành liệm xong, ba hôm sau trong nhà vẫn còn hơi thơm chưa tan.

LỜI BÌNH:

Tu mật hạnh, sự huân tập rất sâu. Thân thể bay mùi thơm, đó là sự dồn chứa công đức từ lâu phát tiết ra vậy.