LUẬN THÍCH MA HA DIỄN
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Phiệt Đề Ma Đa.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 7

Đã nói về môn chánh giải đối trị tà chấp. Tiếp theo là nói về môn phân biệt phát khởi tướng hướng đến đạo.

* Bản luận viết: Phân biệt phát khởi tướng hướng đến đạo: Là nói về đạo đã chứng đắc của tất cả chư Phật, là nghĩa hướng đến của tất cả Bồ-tát phát tâm tu hành. Lược nói về phát tâm có ba loại. Những gì là ba loại? Một là phát tâm tín thành tựu. Hai là phát tâm giải hành. Ba là phát tâm chứng đắc. Phát tâm tín thành tựu: Là dựa vào những hạng người nào, tu tập những hành gì, đạt được tín thành tựu để có thể phát tâm? Đó là dựa nơi các chúng sinh thuộc tụ bất định, có sức mạnh của căn thiện đã được huân tập, tin nơi quả báo của nghiệp có thể khởi mười thiện, chán khổ của sinh tử, mong cầu Bồ-đề vô thượng, được gặp chư Phật, thân cận thừa sự cúng dường, tín tâm tu hành, trải qua một vạn kiếp tín tâm thành tựu, chư Phật, Bồ-tát chỉ dạy khiến phát tâm. Hoặc do đại bi nên có thể tự phát tâm. Hoặc nhân nơi chánh pháp sắp bị hủy diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên có thể tự phát tâm. Như vậy, người tín tâm thành tựu được phát tâm, nhập nơi tụ chánh định, hoàn toàn không thoái chuyển, gọi là trụ trong chủng tánh của chăng, tương ưng với chánh nhân. Nếu có chúng sinh căn thiện yếu kém, từ lâu xa đến nay luôn có phiền não sâu dày, tuy được gặp Phật, cũng được cúng dường, nhưng khởi lên chủng tử của hàng trời người, hoặc khởi lên chủng tử của hàng Nhị thừa. Nếu như có người cầu Đại thừa, nhưng căn thì bất định, hoặc tiến hoặc thoái, hoặc có cúng dường chư Phật, nhưng chưa trải qua một vạn kiếp, ở trong thời gian ấy gặp được duyên cũng có thể phát tâm. Đó gọi là thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm. Hoặc nhân nơi sự việc cúng dường chúng Tăng mà phát tâm. Hoặc nhân nơi người của hàng Nhị thừa chỉ dạy khiến phát tâm. Hoặc học theo người khác mà phát tâm. Những hạng phát tâm như vậy thảy đều là bất định, gặp phải nhân duyên xấu ác tức liền thoái mất rơi vào hàng Nhị thừa.

Lại nữa, phát tâm tín thành tựu thì phát những tâm nào? Lược nói có ba loại. Những gì là ba loại? Một là trực tâm, là chánh niệm về pháp chân như. Hai là thâm tâm, là vui thích tập hợp tất cả các hành thiện. Ba là đại bi tâm, là mong muốn trừ diệt hết khổ của tất cả chúng sinh.

Hỏi: Trên đây nói về pháp giới là một tướng, thể của Phật là không hai, vì sao không chỉ niệm chân như lại còn cầu học các hành thiện?

Đáp: Ví như thể tánh của ngọc báu Đại Ma-ni là sáng sạch nhưng có những cấu bẩn của quặng lẫn vào. Nếu người tuy nhớ nghĩ đến tánh ngọc báu, nhưng không dùng các loại phương tiện để mài giũa tinh luyện thì rốt cuộc không được sáng sạch. Như vậy, pháp chân như của chúng sinh thể tánh là rỗng lặng thanh tịnh, nhưng có vô lượng phiền não cấu nhiễm. Nếu người tuy nhớ nghĩ đến chân như nhưng không dùng các loại phương tiện để tu tập thì cũng không được thanh tịnh. Vì cấu bẩn vô lượng vô biên phủ khắp tất cả các pháp, nên tu tập tất cả hành thiện để làm đối trị. Nếu người tu hành tất cả các pháp thiện, thì tự nhiên quy thuận nơi pháp chân như.

Lược nói về phương tiện thì có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là phương tiện của hành căn bản. Nghĩa là quán tất cả các pháp, tự tánh là không sinh, lìa nơi vọng kiến, không trụ vào sinh tử. Quán tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất, khởi tâm đại bi, tu tập những phước đức, giáo hóa chúng sinh, không trụ vào Niết-bàn, do tùy thuận pháp tánh là không trụ.

Hai là phương tiện có thể làm cho dừng lại. Nghĩa là hổ thẹn, hối hận về những lỗi lầm của mình, có thể ngăn dừng tất cả pháp ác không khiến tăng trưởng, do tùy thuận pháp tánh là lìa các lỗi lầm.

Ba là phương tiện phát khởi căn thiện tăng trưởng. Đó là ân cần cúng dường, lễ bái Tam bảo, tán thán tùy hỷ khuyến thỉnh chư Phật, do tâm thuần hậu ái kính Tam bảo, tín lực được tăng trưởng mới có thể lập chí cầu đạt đạo vô thượng. Lại nhân nơi lực của Phật Pháp Tăng gia hộ, có thể tiêu trừ nghiệp chướng, căn thiện không thoái mất, vì tùy thuận pháp tánh thì lìa si chướng.

Bốn là phương tiện của đại nguyện bình đẳng. Đó gọi là phát nguyện tận cùng nơi đời vị lai, hóa độ đầy đủ tất cả chúng sinh, đều khiến hoàn toàn đạt đến Niết-bàn vô dư, vì tùy thuận pháp tánh là không có đoạn tuyệt. Pháp tánh rộng lớn hiện bày khắp tất cả chúng sinh bình đẳng không hai, không suy niệm đây kia, hoàn toàn vắng lặng. Bồ-tát phát khởi tâm này thì được thấy một phần pháp thân, do thấy được pháp thân nên thuận theo nguyện lực ấy có thể hiện rõ tám loại lợi ích cho chúng sinh. Đó là từ cung trời Đâu Suất hạ sinh, vào thai, ở trong thai, ra đời, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn. Nhưng Bồ-tát này chưa gọi là pháp thân. Do từ vô lượng đời kiếp quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể đoạn trừ hoàn toàn, tùy theo nơi sinh ra ấy cùng với những thứ khổ vi tế tương ưng. Cũng không phải là nghiệp trói buộc, vì có lực tự tại của đại nguyện. Như trong Khế kinh hoặc nói có người thoái đọa vào nẻo ác, không phải là thoái đọa thật sự, chỉ vì hàng Bồ-tát mới tu học chưa nhập nơi chính vị, mà lại biếng trễ nên làm cho sợ hãi khiến sinh dũng mãnh. Lại, Bồ-tát này sau một lần phát tâm là đã xa lìa tâm ý khiếp nhược, hoàn toàn không sợ rơi vào địa Nhị thừa. Nếu như nghe nói phải trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, siêng năng chịu khổ hành trì những việc khó làm mới đạt được Niết-bàn, thì cũng không khiếp nhược, vì tin biết tất cả pháp từ xưa đến nay là tự Niết-bàn.

Phát tâm giải hành, nên biết là chuyển thắng, vì Bồ-tát này từ bắt đầu chánh tín đến nay, ở nơi A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất sắp sửa đầy đủ, đối trong pháp chân như đã hiểu biết sâu, hiện tiền tu tập pháp lìa tướng, do nhận biết thể của pháp tánh là không tham lam keo kiệt, nên tùy thuận tu hành bố thí Ba-la-mật. Do nhận biết pháp tánh là không nhiễm và lìa lỗi lầm của năm dục, nên tùy thuận tu hành trì giới Ba-la-mật. Do nhận biết pháp tánh là không khổ và lìa sân não, nên tùy thuận tu hành nhẫn nhục Ba-la-mật. Do nhận biết pháp tánh không có tướng thân tâm và lìa dứt lười nhác, nên tùy thuận tu hành tinh tấn Ba-la-mật. Do nhận biết pháp tánh luôn ổn định và thể không tạp loạn, nên tùy thuận tu hành thiền định Ba-la-mật. Do nhận biết pháp tánh thể là sáng tỏ xa lìa vô minh, nên tùy thuận tu hành trí tuệ Ba-la-mật.

Phát tâm chứng đắc: Là từ địa tâm tịnh cho đến địa sau cùng của Bồ-tát đã chứng đắc cảnh giới nào? Đó gọi là chân như, vì dựa vào thức chuyển nên nói là cảnh giới, nhưng sự chứng đắc này không có cảnh giới, chỉ có trí của chân như gọi là pháp thân. Bồtát này ở trong khoảnh khắc một niệm có thể đi đến đủ khắp mười phương thế giới, cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân, chỉ vì mở bày dẫn dắt tạo lợi ích cho chúng sinh, không dựa vào văn tự. Hoặc thị hiện vượt các địa, nhanh chóng thành tựu chánh giác, chỉ vì hạng chúng sinh khiếp nhược. Hoặc nói là Ta ở trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp sẽ thành tựu Phật đạo, chỉ vì hạng chúng sinh khinh mạn lười nhác. Có thể thị hiện vô số phương tiện không thể nghĩ bàn như vậy, nhưng thật sự thì căn trí chủng tánh của Bồtát là bình đẳng, phát tâm tức bình đẳng thì đối tượng chứng đắc cũng bình đẳng, không có pháp nào là vượt hơn. Vì tất cả Bồ-tát đều trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, nhưng tùy theo thế giới của chúng sinh không đồng, chỗ thấy nghe cùng căn tánh, sự mong muốn đều khác, nên thị hiện nẻo hành hóa cũng có sai biệt.

Lại, Bồ-tát này về tướng phát tâm có ba loại tâm với tướng vi tế. Những gì là ba loại? Một là tâm chân, không có phân biệt. Hai là tâm phương tiện, tự nhiên hành hóa khắp nơi tạo lợi ích cho chúng sinh. Ba là tâm nghiệp thức, là khởi diệt rất vi tế.

Lại, công đức của Bồ-tát này thành tựu đầy đủ, ở nơi xứ sắc cứu cánh, thị hiện thân cao lớn nhất trong tất cả thế gian. Nghĩa là do một niệm tương ưng với tuệ thì vô minh lập tức diệt hết, gọi là nhất thiết chủng trí, tự nhiên mà có hành nghiệp không thể nghĩ bàn, có thể hiện khắp mười phương tạo lợi ích cho chúng sinh.

Hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên. Chúng sinh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng lại vô biên. Cảnh giới như vậy là không thể nói về giới hạn sai biệt, khó nhận biết, khó lãnh hội. Nếu vô minh đoạn dứt không có tâm tưởng, vì sao có thể hiểu rõ gọi là nhất thiết chủng trí?

Đáp: Tất cả cảnh giới xưa nay là một tâm lìa nơi tưởng niệm. Do chúng sinh vọng thấy cảnh giới nên tâm có giới hạn sai biệt. Do vọng khởi tưởng niệm không xứng hợp với pháp tánh, nên không thể nhận biết rõ. Chư Phật Như Lai lìa nơi kiến tưởng, không nơi nào là không hiện bày khắp, vì tâm chân thật tức là tánh của các pháp, tự thể hiển hiện soi chiếu tất cả các pháp vọng, có diệu dụng của đại trí, tạo vô lượng phương tiện, tùy theo các chúng sinh nên được hiểu biết, đều có thể khai thị vô số pháp nghĩa, vì vậy được gọi là nhất thiết chủng trí.

Hỏi: Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên, có thể hiện ở tất cả xứ làm lợi ích cho chúng sinh, thì tất cả chúng sinh hoặc trông thấy thân ấy, hoặc nhìn thấy các sự thần biến, hoặc nghe được những giáo thuyết kia, tức không có chúng sinh nào không được lợi ích. Vì sao ở thế gian nhiều người không thể nhìn thấy?

Đáp: Pháp thân của chư Phật Như Lai là bình đẳng hiện hữu khắp tất cả xứ không có tác ý, nên nói là tự nhiên, chỉ dựa vào tâm chúng sinh hiện bày. Tâm chúng sinh cũng như chiếc gương, nếu gương có cấu bẩn thì sắc tượng không hiện. Như vậy, tâm chúng sinh nếu có cấu nhiễm thì pháp thân không hiện bày.

* Luận giải thích: Ở trong văn này tự có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn nêu chung giải thích chung. Hai là môn giải thích riêng, nói chi tiết. Đó gọi là hai môn. Trong môn thứ hai tự có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn phân tích về ba loại phát tâm. Hai là môn phát khởi hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Ba là môn hỏi đáp nhân luận sinh luận. Đó gọi là ba môn. Nội dung nêu bày có thể thấy rõ.

Nói về môn nêu chung, giải thích chung: Là muốn hiển thị tức trong môn phân biệt phát khởi tướng hướng đến đạo này, có vô lượng vô biên chư Phật trong ba đời đã phát biển thệ nguyện, đã thực hành biển nhân, đã chứng đạt biển quả, đã giáo hóa biển đồ chúng. Vô lượng vô biên hết thảy các chúng Bồ-tát nơi ba đời như vậy, như vậy như như, theo bước chân trước, thuận hành nên chuyển. Như thứ lớp ấy không vượt số lượng, không quá vị địa là nghĩa hướng nhập. Lại nữa, vì nhằm nêu bày rõ như hết thảy chư Phật không có quy tắc hướng đến, tất cả Bồ-tát ở trong chỗ không có quy tắc hướng đến kia là như như hành hóa. Như Bản luận viết: “Phân biệt phát khởi tướng hướng đến đạo là nói về đạo đã chứng đắc của hết thảy chư Phật, là nghĩa của tất cả Bồ-tát phát tâm tu hành hướng tới”.

Đã nói về môn nêu chung, giải thích chung. Tiếp theo là nói về môn giải thích riêng, nói chi tiết. Trong môn này có ba môn, như thứ lớp ấy nên xét chọn kỹ. Ở trong môn thứ nhất đã phân tích về ba loại phát tâm tức có ba loại, nên tự có ba thứ môn. Những gì là ba thứ môn? Một là môn phát tâm tín thành tựu. Hai là môn phát tâm giải hành. Ba là môn phát tâm chứng đắc. Đó là ba thứ môn. Như Bản luận viết: “Lược nói về phát tâm có ba loại: (1) Phát tâm tín thành tựu. (2) Phát tâm giải hành. (3) Phát tâm chứng đắc”. Căn cứ theo môn thứ nhất tức có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn phát khởi mở ra câu hỏi để nêu chung. Hai là môn hiển thị câu trả lời giải thích để nói rộng. Ba là môn phát khởi hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Đó gọi là ba môn. Nơi môn thứ nhất và thứ hai có hai thứ lặp lại, nên quán xét kỹ. Căn cứ trong môn thứ nhất phát khởi mở ra câu hỏi để nêu chung có bốn ý. Những gì là bốn ý? Một là ý giả định, hỏi về người của chủ thể tu tập. Hai là ý hành tướng, hỏi về hành của đối tượng tu tập. Ba là ý tự phân biệt, hỏi về những thứ được thành tựu. Bốn là ý hướng thượng, hỏi về tướng thắng tấn. Như Bản luận viết: “Phát tâm tín thành tựu, là dựa nơi những người nào, tu tập những hành gì, đạt được tín thành tựu để có thể phát tâm?”.

Đã nói về môn phát khởi mở ra câu hỏi để nêu chung. Tiếp theo là nói về môn hiển thị câu trả lời giải thích để nói rộng. Theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn tùy theo câu hỏi lần lượt trả lời giải thích. Hai là môn nêu ra chỗ kém làm rõ chỗ hơn để sinh kiến giải. Trong môn đầu tức có sáu môn. Những gì là sáu môn? Một là môn hiển thị giả định tu hành. Hai là môn tự nhiên vốn có huân tập. Ba là môn hiển thị công năng tu hành. Bốn là môn thời lượng tín tâm thành tựu. Năm là môn hiển thị nhân duyên phát tâm. Sáu là môn hiển thị về vị đạt được lợi ích thù thắng. Đó gọi là sáu môn.

Nói về môn hiển thị giả định tu hành: Nghĩa là tuy chúng sinh được giáo hóa là vô lượng vô biên, nhưng hiện nay trong xứ này lại chọn lấy các chúng sinh thuộc về tụ bất định gồm thâu mười tín . Vì sao? Vì muốn khiến giáo hóa ba phẩm chúng sinh thuộc tụ bất định, thành tựu đầy đủ mười loại tín tâm, quyết định an lập trụ mới phát tâm của Bồ-tát mười trụ trong phần vị kim cang bất biến. Như Bản luận viết: “Đó gọi là dựa nơi chúng sinh thuộc tụ bất định”.

Nói về môn tự nhiên vốn có huân tập: Nghĩa là trong sự tương tục của chúng sinh như vậy, từ vô thủy đời kiếp đến nay, luôn có Phật tiềm ẩn trong bản giác, thường xuyên huân tập căn thiện của chúng sinh khiến tăng trưởng. Như Bản luận viết: “Vì có sức mạnh huân tập căn thiện”.

Nói về môn hiển thị công năng tu hành: Nghĩa là vô số các chúng sinh thuộc tụ bất định, tin nơi quả báo của nghiệp nhân tợ như có, chẳng không, là đạo lý của nhân duyên hòa hợp. Nhận biết lỗi lầm của mười ác, dấy khởi tác ý không ứng hợp. Quán xét công đức của mười thiện, khởi tác ý nên ứng hợp, chán lìa phần vị trói buộc cầu đến thành giải thoát, dần dần xuất ly hướng về Bồ-đề. Như Bản luận viết: “Tin vào quả báo của nghiệp nên có thể dấy khởi mười thiện, chán bỏ khổ của sinh tử, mong cầu Bồ-đề vô thượng, được gặp chư Phật, tự mình thừa sự cúng dường tu hành tín tâm”.

Nói về môn thời lượng tín tâm thành tựu: Nghĩa là hiện bày chỉ rõ tín tâm kia đã thành tựu tướng sai biệt của thời gian xa gần. Tức trong môn này có mười lăm Khế kinh đề cập đến nhưng mỗi mỗi đều giảng nói khác nhau. Những gì gọi là mười lăm Khế kinh đã giảng nói khác nhau? Đó là:

1. Trong Khế kinh Nhất Thiết Chư Pháp Nhân Duyên Vô Chủ giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền thưa với Đức Phật: Tôn giả! Từ địa phàm phu bị trói buộc đủ đi vào tụ bất định, tất cả hành giả phải trải qua bao nhiêu thời gian để mười loại tín tâm thành tựu đầy đủ, dần dần chuyển đến phần vị thù thắng nhất định không thoái mất? Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Vănthù-sư-lợi: Này thiện nam! Nên lắng nghe và khéo nhớ nghĩ, Ta sẽ vì ông giảng nói về giới hạn có sai biệt của thời gian thành tựu tín tâm. Này thiện nam! Tất cả hành giả từ địa phàm phu bị trói buộc đi vào tụ bất định phải trải qua một vạn ba ngàn kiếp xong, tức liền thành tựu mười loại tín tâm, quyết định là Bồ-tát thuộc trụ mới phát tâm”.

2. Trong Khế kinh Nhiếp Vô Lượng Đại Thừa giảng nói như vầy: “Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát giả danh của tín địa, trải qua số lượng sáu vạn bốn ngàn kiếp đã đầy đủ, tức liền thành tựu mười tâm ái lạc quyết định ở địa kim cang”.

3. Trong Khế kinh Tuệ Minh Đà La Ni giảng nói như sau: “Chúng sinh nơi tụ bất định phần nhiều phải trải qua tám vạn một ngàn năm mươi kiếp hoàn tất thì tín tâm thành tựu, quyết định không thoái chuyển”.

4. Trong Khế kinh Pháp Môn Danh Tự giảng nói như vầy: “Lại nữa, phần vị địa tín lạc là hàng phàm phu mao đầu phải trải qua hai vạn sáu ngàn kiếp xong, thì tín thành tựu không có thiếu mất”.

5. Trong Khế kinh Thanh Tịnh Tam Muội giảng nói như vầy: “Nếu có chúng sinh nhập nôi địa Nan giác tu hành tín tâm, tức nên trải qua chín vạn kiếp đầy đủ rồi thì tín phẩm được thành tựu”.

6. Trong Khế kinh Kim Cang Đà La Ni giảng nói như sau: “Tín thành tựu theo thời gian là bốn vạn tám ngàn sáu mươi kiếp”.

7. Trong Khế kinh Đại Trí Tuệ Quang Minh giảng nói như vầy: “Lại nữa, này thiện nam! Nếu có chúng sinh vì muốn thành tựu công đức căn thiện cho cha mẹ trời đất, tức phải trải qua số lượng mười sát-na xong đủ tức thì địa tín bằng phẳng không có cỏ”.

8. Trong Khế kinh Thật Tướng Bản Tế Quyết Định Bất Động giảng nói như sau: “Vị tín thành tựu khi tín tâm phát khởi trong sát-na thứ nhất, thì mười loại tín tâm đầy đủ viên mãn”.

9. Trong Khế kinh Văn Thù Sư Lợi Viên mãn Nhân Hải Đại Tổng Trì giảng nói như vầy: “Ba A-tăng-kỳ đại vô lượng kiếp trải qua đã xong đủ tức thì vị tín thành lập đầy đủ”.

10. Trong Khế kinh Thậm Thâm Bồ Đề Nhân Duyên giảng nói như vầy: “Kiến lập địa tín chỉ trong ba vạn kiếp”.

11. Trong Khế kinh Đại Phương Tiện Trí Thiện Xảo giảng nói như vầy: “Bồ-tát hành tín trong thời gian chín ngàn kiếp, quyết định thành tựu tín tâm thanh tịnh tư duy về Cực Lạc”.

12. Trong Khế kinh Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tuệ liền bạch Phật: Thế Tôn! Địa thuộc chủng tử thứ nhất của Bồ-đề vô thượng, trải qua bao nhiêu thời gian thì quyết định thuần thục để mầm Bồ-đề sinh ra, tăng trưởng? Đức Phật nói: Nếu để thành tựu địa thuộc chủng tử đầu tức phải trải qua bảy vạn năm ngàn sáu mươi kiếp, thì địa thuộc chủng tử đầu được kiến lập đầy đủ”.

13. Trong Khế kinh Thọ Ký Bình Đẳng giảng nói như vầy: “Tín tâm thành tựu chẳng phải xa, chẳng phải gần, chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải gốc, chẳng phải ngọn, chẳng phải đi, chẳng phải đến, chẳng phải lớn, chẳng phải nhỏ, chẳng phải ba đời, chẳng phải không ba đời, chẳng phải vị, chẳng phải địa, chẳng phải thiện, chẳng phải ác, chẳng phải sai, chẳng phải đúng, đạo ngôn ngữ đoạn, xứ tâm hành diệt. Vì vậy gọi là tín tâm chân thật”.

14. Trong Khế kinh Như Lai Tạng Bản Thức giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng liền bạch Phật: Thế Tôn! Vì sao gọi là phẩm tín địa là cha mẹ có công đức rộng lớn viên mãn?

Đức Phật nói: Thập Tín của thập tín, thập tín của thập giải, thập tín của thập hạnh, thập tín của thập hướng, thập tín của thập địa, thập tín của Phật địa, cho đến địa chủng tử ác của phàm phu trói buộc đủ và hết thảy hàng Nhị thừa thảy đều là thập tín. Vô lượng vô biên tất cả các pháp, không một pháp nào không phải là thập tín. Do nghĩa này nên gọi là địa tín rộng lớn viên mãn”.

15. Trong Khế kinh Bồ Tát Anh Lạc Đại Bản Nghiệp giảng nói như vầy: “Bồ-tát tín tướng, ở trong mười ngàn kiếp hành trì mười pháp thiện, quyết định an lập xứ tín thành tựu”.

Đó gọi là mười lăm Khế kinh đã giảng nói khác nhau. Các kinh như vậy vì nghĩa gì nên có sai biệt như thế? Đó là vì tâm của chúng sinh có vô lượng vô biên đều sai biệt, tùy theo phẩm tâm ấy mà giảng nói về hành tướng của tín không đồng như thế. Nên xét chọn kỹ. Nay trong văn này lại dựa vào Kinh Bản Nghiệp để giải thích. Như Bản luận viết: “Trải qua một vạn kiếp thì tín tâm thành tựu”.

Nói về môn hiển thị nhân duyên phát tâm: Nghĩa là hành giả đã thành tựu tín tâm, vì muốn phát khởi tâm của trụ thứ nhất, nên cần đợi lực của duyên mới phát khởi. Ở trong văn này tự có ba loại. Những gì là ba loại? Một là nhân duyên khuyến thỉnh. Hai là nhân duyên cứu độ. Ba là nhân duyên hộ pháp. Đó gọi là

Nói nhân duyên khuyến thỉnh: Đó gọi là vô lượng vô biên hết thảy chư Phật và chúng Đại Bồ-tát, xuất hiện vô số các loại giáo pháp thắng diệu là biển Khế kinh, hành giả của vị tín đã khuyến thỉnh giáo hóa, vượt qua địa bất định, quyết định an lập lãnh vực bất động. Như Bản luận viết: “Chư Phật, Bồ-tát chỉ dạy khiến phát tâm”.

Nói nhân duyên cứu độ: Đó gọi là duyên nơi tất cả biển khổ của vô lượng vô biên các loại chúng sinh, lấy đó làm nhân để phát khởi tâm đại từ bi thanh tịnh rộng lớn không thoái chuyển như kim cang. Như Bản luận viết: “Hoặc do đại bi nên có thể tự phát tâm”.

Nói nhân duyên hộ pháp: Đó gọi là vào thời kỳ giáo pháp của chư Phật sắp bị hủy diệt, dùng vô số các phương tiện tùy nghi tùy ứng tùy hợp tùy thời tùy xứ, không hề tiếc thân mạng để tạo sức của nhân duyên lớn, cứu hộ pháp Phật, tự mình có thể phát khởi tâm chí kim cang không thoái chuyển, thanh tịnh rộng lớn, tồn tại lâu dài. Như Bản luận viết: “Hoặc nhân nơi chánh pháp sắp hoại diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên có thể tự mình phát tâm”.

Nói về môn hiển thị về vị đạt được lợi ích thù thắng: Đó gọi là hành giả thành tựu tín đạt được hiểu biết, gồm đủ mười tên gọi không thoái mất. Những gì là mười tên gọi? Đó là: (1) Gọi là người không có ưu não, vì xa lìa tâm sợ hãi phải trở lại rơi vào địa phàm phu bị phiền não trói buộc. (2) Gọi là người đại phú quý, vì đã trừ bỏ vùng đất hoang của phiền não, thâu giữ quả của Niết-bàn. (3) Gọi là người của chủng tánh cao đẹp, vì xa lìa chủng loại thấp kém của phàm phu, đã nhập trong chủng tánh tôn quý của Như Lai. (4) Gọi là người có đầy đủ tay chân, vì đã cầm đuốc Bát nhã du hành khắp chốn pháp giới rộng lớn. (5) Gọi là người tạo nên nước sông lớn, vì không gì ngăn ngại nên chảy thẳng vào trong đại dương của nhất thiết trí. (6) Gọi là người kiến lập cung điện, vì đã vượt qua địa bất định, quyết định an trụ trong nhà của Như Lai. (7) Gọi là người Phật tử chân thật, vì xa lìa thai phàm đã nhập nơi thai Thánh. (8) Gọi là người có ruộng phước lớn, vì đã xuất ly phiền não riêng được thanh tịnh. (9) Gọi là người có vô lượng đồ chúng, vì pháp giới chúng sinh thảy đều dùng làm quyến thuộc của mình. (10) Gọi là người không có chướng ngại, vì tùy theo tâm chuyển. Đó gọi là mười tên gọi. Như Bản luận viết: “Như vậy, người tín tâm thành tựu có thể phát tâm, đi vào tụ chánh định, hoàn toàn không thoái chuyển, gọi là trụ nơi chánh nhân tương ưng trong chủng tánh của Như Lai”.

Đã nói về môn tùy theo câu hỏi lần lượt trả lời giải thích. Tiếp theo là nói về môn nêu ra chỗ kém làm rõ chỗ hơn để sinh kiến giải. Ở trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn nêu ra chỗ kém để làm rõ hình tướng xấu kém. Hai là môn nêu ra chỗ hơn để làm rõ hình tướng tốt hơn. Đó gọi là hai môn. Nói về môn nêu ra chỗ kém để làm rõ hình tướng xấu kém: Nghĩa là nói về hàng phàm phu phiền não sâu dày, căn thiện mỏng yếu, tuy gặp được nhân duyên của Đại thừa, nhưng lại dấy khởi chủng tử của căn thiện nhỏ. Như Bản luận viết: “Nếu có chúng sinh căn thiện thiếu kém, từ lâu xa đến nay luôn có phiền não sâu dày, tuy được gặp Phật, cũng được cúng dường, nhưng khởi lên chủng tử của hàng trời người, hoặc khởi lên chủng tử của hàng Nhị thừa”.

Nói về môn nêu ra chỗ hơn để làm rõ hình tướng tốt hơn: Đó là nói nếu có chúng sinh cầu đạt pháp môn sâu xa vi diệu của Đại thừa, tâm của họ tức liền không thể quyết định, gặp được nhân duyên thuận thì mơ hồ như tiến lên. Gặp phải nhân duyên trái nghịch thì tự nhiên như thoái mất, vì tâm không ổn định. Như Bản luận viết: “Nếu như có người cầu pháp Đại thừa, nhưng căn tánh thì bất định, hoặc tiến hoặc thoái”. Nếu như không thể ổn định, thì vì sao gọi là người cao hơn? Do tuy không thể ổn định nhưng chỗ hướng về pháp là rất cao vượt hơn hẳn. Lại nữa, đây là so sánh với việc dấy khởi chủng tử của hàng trời người và Nhị thừa.

Từ đây tiếp xuống dưới là hiển thị về thời gian tín tâm thành tựu không nhất định, là giải thích ý chính của kinh thứ mười bốn trong mười lăm kinh đã nêu trên. Đó gọi là nếu có chúng sinh cúng dường chư Phật, thì tín tâm thành tựu nhưng thời gian ấy là không nhất định. Hoặc rất lâu xa, hoặc rất gần kề, hoặc ở giữa. Vì sao? Vì tùy theo duyên có hay không có tín thành thục sinh. Như Bản luận viết: “Hoặc có cúng dường chư Phật, chưa trải qua một vạn kiếp, nhưng ở trong thời gian ấy gặp được duyên tức cũng có thể phát tâm”.

Từ đây trở xuống là tạo ra giải thích riêng, nêu rõ về tướng của nhân duyên phát tâm. Ở trong văn này tức có bốn loại nhân duyên phát tâm. Những gì là bốn loại?

Một là nhân duyên thấy Phật: Là nhân thấy được thân diệu sắc của Như Lai, nên có thể phát khởi tâm rộng lớn. Như Bản luận viết: “Đó gọi là thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm”.

Hai là nhân duyên cúng dường chúng Tăng: Là dùng các loại vật dụng cúng dường chúng Tăng, nhân nơi nhân duyên ấy nên có thể phát khởi tâm rộng lớn. Như Bản luận viết: “Hoặc nhân nơi sự cúng dường chúng Tăng mà phát tâm”.

Ba là nhân duyên hổ thẹn: Là thấy nghe người của hàng Nhị thừa chỉ dạy giáo pháp thì sinh hổ thẹn về sự thấp kém của mình. Nhân nơi nhân duyên này nên có thể phát khởi tâm rộng lớn. Như Bản luận viết: “Hoặc nhân nơi người của hàng Nhị thừa chỉ dạy khiến phát tâm”.

Bốn là tùy gồm nhân duyên, tùy theo người khác gồm luôn tâm. Nhân nơi nhân duyên này nên có thể phát khởi tâm rộng lớn. Như Bản luận viết: “Hoặc học nơi người khác mà phát tâm”.

Từ đây tiếp xuống là tạo ra nhân duyên kia, nêu rõ hình tướng của mười loại tín tâm thuộc tụ bất định, cùng tổng kết phần giải thích, quyết nghi về thập tín đã nói ở trước. Do nghĩa gì mà mười loại phẩm tín lập xứng là bất định? Đó gọi là nếu gặp nhân duyên thuận hợp thì tùy theo đấy hướng đến nẻo thiện. Nếu gặp nhân duyên trái nghịch tức nên hướng tới đường ác, ví như sợi lông tùy theo gió thổi chuyển khắp đông tây. Như Bản luận viết: “Những loại phát tâm như vậy đều là bất định, gặp phải nhân duyên xấu ác hoặc liền thoái mất rơi vào địa Nhị thừa”.

Đã nói về môn hai loại của lớp thứ nhất. Tiếp theo là nói về môn hai loại của lớp thứ hai. Nói: Lại nữa, phát tâm tín thành tựu là phát những tâm như thế nào? Tức là môn phát khởi mở ra câu hỏi để nêu chung. Nghĩa là phát khởi mở ra câu hỏi để hỏi chung về đối tượng thực hiện. Lược nói có hai loại. Tức là nêu chung, đáp chung như vậy. Những gì là hai loại? Tức là nêu ra chung và nêu câu hỏi tổng quát. Từ đây trở xuống là trực tiếp nêu rõ về môn hiển thị câu trả lời giải thích để nói rộng. Theo trong môn này tức có ba loại. Những gì là ba loại? Một là môn phương tiện chánh trí. Hai là môn phước đức đầy đủ. Ba là môn an lạc thành tựu. Ở trong ba môn này, môn một chung cả hai lợi, môn hai chỉ là tự lợi, môn ba chỉ là lợi tha. Lại nữa, môn một và hai chỉ là phần tự lợi, một môn ba chỉ là lợi tha. Lại nữa, cả ba môn đều chung nơi hai lợi, mỗi mỗi môn thảy đều nêu lên và giải thích. Nên xét chọn kỹ.

Nói về môn phương tiện chánh trí: Là trực tâm, là trí của thể chánh có phương tiện tạo tác. Như Bản luận viết: “Một là trực tâm, là chánh niệm về pháp chân như”.

Nói về môn phước đức đầy đủ: Là thâm tâm, là tất cả công đức có phương tiện an trụ. Như Bản luận viết: “Hai là thâm tâm, là vui thích tập hợp tất cả các hành thiện”.

Nói về môn an lạc thành tựu: Là tâm bi, có thể khéo cứu độ vô lượng khổ não của tất cả chúng sinh, khiến được an ổn nơi an lạc rộng lớn. Như Bản luận viết: “Ba là tâm đại bi, là nhằm diệt trừ hết khổ của tất cả chúng sinh”.

Đã nói về môn hai loại của lớp thứ hai. Tiếp theo là nói về môn phát khởi hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn nêu vấn nạn về trước sau trái nhau. Hai là môn khai thông hợp thích để loại trừ vấn nạn.

Nói về môn nêu vấn nạn về trước sau trái nhau: Nghĩa là nêu ra hai văn trên dưới là trái nhau để vấn nạn về tướng sai biệt. Thế nào là trái nhau? Đó là trong văn trên nói như vầy: “Nói về nghĩa giác là thể của tâm lìa tướng niệm. Lìa tướng niệm là đồng với cõi hư không, không nơi chốn nào là không hiện bày khắp, pháp giới cùng một tướng tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai, dựa nơi pháp thân này nên nói là bản giác”. Ở trong văn sau thì nói như vầy: “Hai là thâm tâm, là vui thích tập hợp tất cả các hành thiện”. Hai văn trên dưới trái nhau như vậy, vì thế phát sinh vấn nạn về tướng khác kia. Nên xét chọn kỹ. Như Bản luận viết: “Hỏi: Ở trên nói về tướng của pháp giới chỉ một, thể của Phật không hai, vì sao không chỉ niệm chân như, lại dựa nhờ cầu học các hành thiện?”.

Đã nói về môn nêu vấn nạn về trước sau trái nhau. Tiếp theo là nói về môn khai thông hợp để loại trừ vấn nạn. Theo trong môn này tức có bảy môn. Những gì là bảy môn? Đó là: (1) Môn chính thức trả lời để quyết đoán về vấn nạn kia. (2) Môn tu tập hành thiện đạt được lợi ích. (3) Môn tu hành phương tiện thiện xảo. (4) Môn nêu rõ công đức phát tâm. (5) Môn lựa chọn trên dưới để hiển bày chỗ sai khác. (6) Môn thông hợp với văn của Khế kinh để trừ bỏ nghi. (7) Môn tán thán công đức phát tâm.

Ở trong môn một tức có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn đưa ra thí dụ thiện xảo. Hai là môn hợp nêu chỗ tương xứng để an lập. Ba là môn hiển thị về pháp thuyết giảng sinh kiến giải. Đó gọi là ba môn.

Ở trong môn đưa ra thí dụ tức có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là dụ về vật báu. Hai là dụ về tánh tịnh. Ba là dụ về cấu nhiễm. Bốn là dụ về nhiều người.

Nói dụ về vật báu: Đó tức là ngọc báu đại ma-ni. Ngọc báu như vậy nên có ở xứ nào? Ngọc báu như vậy tức có trong đá vàng. Ngọc báu như vậy màu sắc ấy là thế nào? Nghĩa là màu sắc vàng sậm. Hình tướng của thân ngọc báu kia như thế nào? Nghĩa là như một khối vuông vức, không có dài ngắn. Tướng lớn nhỏ về lượng ấy thì thế nào? Đó là một trượng. Ngọc báu như vậy trong các loại đá vàng thảy đều đầy đủ, không một loại đá vàng nào không có Ma-ni. Tướng dừng trụ ấy theo thứ lớp như thế nào? Tức thứ nhất là ngọc báu. Thứ hai là vàng ròng. Thứ ba là thể của đá. Ngọc Mani này, lượng là một trượng, tức nơi các loại đá vàng kia hoặc có rất nhỏ, hoặc có rất lớn, mỗi mỗi đều sai biệt, há có thể nói là đều hiện có khắp tất cả. Ngọc Ma-ni này có lực dụng thù thắng, tuy lượng là một trượng, nhưng hiện có khắp ở trong thân lớn, vừa, nhỏ, không sót nơi nào và không bị chướng ngại. Tức cũng có thể nói là hiện có khắp nơi tất cả xứ, vì trong đá kia có vật báu này. Sắc vàng của đá ấy phải nên quán xét kỹ. Đó gọi là dụ về vật báu. Như Bản luận viết: “Đáp: Ví như ngọc báu đại Ma-ni”.

Nói dụ về tánh tịnh: Là ngọc báu như vậy thì thể tánh của nó là hết sức trong sáng, xa lìa bụi bặm cấu bẩn. Đó gọi là dụ về tánh tịnh. Như Bản luận viết: “Thể tánh trong suốt”.

Nói dụ về cấu nhiễm: Là ngọc báu như vậy có thể bị các loại vàng đá che lấp, không thể hiện bày rõ tướng trong sáng kia. Đó gọi là dụ về cấu nhiễm. Như Bản luận viết: “Nhưng lại có chất cấu bẩn của quặng lẫn vào”.

Nói dụ về nhiều người: Là những người hết sức nghèo cùng, hết sức lười nhác, không cầu tìm vật báu, và người siêng năng thích tìm kiếm vật báu. Đó gọi là dụ về nhiều người. Như Bản luận viết: “Nếu người tuy nhớ nghĩ đến tánh của ngọc báu, nhưng không dùng các loại phương tiện để mài giũa tinh luyện thì rốt cuộc không được trong suốt”.

Đã nói về môn đưa ra thí dụ thiện xảo . Tiếp đến là nói về môn hợp nêu chỗ tương xứng để an lập. Trong dụ về vật báu đã nói đến ngọc đại Ma-ni, đích thực là dụ cho pháp nào? Là dụ cho Phật tánh của bản giác. Vì sao? Vì Phật tánh của bản giác ẩn tàng trong thân tương tục của chúng sinh, tợ như ngọc báu kia.

Nói đá vàng đích thực là dụ cho pháp nào? Là dụ cho tất cả chúng sinh tương tục. Vì sao? Vì Phật tánh ẩn tàng trong thân của các chúng sinh tợ như đá kia vậy.

Nói sắc vàng của đá chính là dụ cho pháp nào? Là dụ cho nghĩa bất biến của Phật tánh ấy. Vì sao? Vì Phật tánh của chân như là kiên cố không thay đổi, giống như vàng ròng.

Nói như một khối vuông vức không dài ngắn chính thức là dụ cho pháp nào? Là dụ cho pháp chân như bình đẳng không tăng giảm. Vì sao? Vì pháp chân như này là một vị bình đẳng, không có sai biệt, tợ như khối ngọc kia.

Nói một trượng chính là dụ cho pháp nào? Là dụ cho pháp chân như đầy đủ viên mãn không có thiếu mất. Vì sao? Vì pháp thân của chân như đầy đủ vạn đức không có thiếu mất, tợ như một trượng kia.

Nói ngọc báu như vậy trong loại đá vàng thảy đều đầy đủ, không có loại đá vàng nào mà không có Ma-ni, chính thức là dụ cho pháp nào? Là dụ cho tánh chân như hiện có khắp trong vô số loại thân của các chúng sinh, không có chúng sinh nào mà không có tánh bản giác của chân như. Vì sao? Vì tánh chân như này thì lìa lỗi lầm không hiện bày khắp, tợ như ngọc kia.

Nói thứ nhất là ngọc báu, thứ hai là vàng ròng, thứ ba là thể của đá, chính thức là dụ cho pháp nào? Là dụ cho pháp có thứ lớp dần dần hiện rõ. Vì sao? Vì theo trí của bản giác lưu chuyển, lúc kiến lập đại dương của bốn tướng, như thứ lớp ấy dần dần hiện bày lớn rõ như ba thứ kia.

Nói ngọc Ma-ni này có lực dụng thù thắng tuy lượng là một trượng, nhưng hiện có khắp ở trong thân lớn, vừa, nhỏ không sót nơi nào, đích thực là dụ cho pháp nào? Là dụ cho bản giác của chân như có nghiệp dụng không thể nghĩ bàn, hiện có khắp trong thân lớn nhỏ như loài muỗi, loài rồng, không bị chướng ngại. Vì sao? Do pháp chân như này là tánh bình đẳng, hiện có khắp trong phàm, Thánh tợ như ngọc báu kia.

Nói: Ở trong đá kia có vật báu này, nên sắc của đá có màu vàng, chính là dụ cho pháp nào? Là dụ cho các chúng sinh đều có bản giác và có tướng tâm. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh có tâm giác ngộ nên có thức phân biệt nhận biết rõ tợ như đá kia.

Đã nói về môn dụ về vật báu hợp nêu tương xứng. Tiếp đến là nói về môn tánh tịnh hợp nêu tương xứng. Nói: Ngọc báu như vậy thì thể tánh của nó rất trong sáng, xa lìa các thứ bụi bặm cấu bẩn, chính là dụ cho pháp nào? Là dụ cho tánh tịnh nơi bản giác thanh tịnh trong sáng lìa cấu uế.

Đã nói về môn dụ về tánh tịnh hợp nêu tương xứng. Tiếp đến là nói môn dụ về cấu nhiễm hợp nêu tương xứng. Nói: Ngọc báu như vậy có thể bị các loại vàng đá v.v… che lấp, không thể hiện bày rõ tướng trong sáng, chính là dụ cho pháp nào? Là dụ cho tâm của tự tánh thanh tịnh, bị vô minh che phủ kín, không thể xuất hiện tánh đức vô lậu.

Đã nói về môn dụ về cấu nhiễm hợp nêu tương xứng. Tiếp đến là nói về môn dụ về người hợp nêu tương xứng. Nói hai loại người chính là dụ cho pháp nào? Là dụ cho người rất siêng năng và người rất lười nhác trong việc tìm cầu vật báu của pháp Phật. Như Bản luận viết: “Chúng sinh như vậy”.

Đã nói về môn hợp nêu tương xứng để an lập. Tiếp theo là nói về môn hiển thị pháp thuyết giảng sinh kiến giải. Ở trong môn này, như thứ lớp ấy, pháp nên hợp dụ sinh hiểu biết, hành giả nên xét chọn kỹ. Nội dung trong văn đã nêu rõ nên không cần giải thích riêng. Như Bản luận viết: “Thể tánh của pháp chân như thì rỗng lặng thanh tịnh, nhưng có vô lượng phiền não cấu nhiễm. Nếu người tuy suy nghĩ đến chân như, không dùng các loại phương tiện để tu tập thì cũng không được thanh tịnh. Vì cấu uế là vô lượng vô biên phủ khắp tất cả pháp, nên tu tập tất cả hành thiện để làm đối trị”.

Đã nói về môn chính thức trả lời để quyết đoán vấn nạn kia. Tiếp đến là nói về môn hành thiện đạt được lợi ích. Nghĩa là nếu có chúng sinh đoạn trừ tất cả ác, tu tập tất cả thiện, tự nhiên tự tại đạt được tam muội chân như, soi chiếu nơi đêm tối vô minh, không có nghi ngờ sợ hãi. Như Bản luận viết: “Nếu có người tu hành tất cả pháp thiện, thì tự nhiên quy thuận nơi pháp chân như”.

Đã nói về môn tu hành thiện đạt được lợi ích. Tiếp đến là nói về môn tu hành phương tiện thiện xảo. Theo trong môn này tức có bốn môn. Những gì là bốn môn? Một là môn nêu phần căn bản của tất cả sự tu hành. Hai là môn chế ngự nghiệp ác khiến không sinh. Ba là môn sinh ra căn thiện tăng trưởng. Bốn là môn thệ nguyện vô biên bình đẳng. Như Bản luận viết: “Lược nói về phương tiện thì có bốn loại”. Ở trong môn thứ nhất tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn Bát nhã vô trụ thành tựu. Hai là môn đại bi vô trụ thành tựu.

Nói về môn Bát nhã vô trụ thành tựu: Đó gọi là quán xét tất cả các pháp từ xưa đến nay là bất sinh bất diệt, hoàn toàn vắng lặng đều không có gì, không trụ trong sinh tử. Như Bản luận viết: “Những gì là bốn loại? Một là hành phương tiện căn bản. Nghĩa là quán tất cả pháp tự tánh là không sinh lìa nơi vọng kiến, không trụ vào sinh tử”.

Nói về môn đại bi vô trụ thành tựu: Đó gọi là quán xét tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp, nhân quả chẳng không, nghiệp báo cũng có. Duyên nơi vô lượng vô biên biển của cõi chúng sinh, làm nơi thâu nhận rốt ráo, không trụ vào Niết-bàn. Như Bản luận viết: “Quán tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất, khởi tâm đại bi, tu tập các phước đức, giáo hóa chúng sinh không trụ vào Niết-bàn, vì tùy thuận pháp tánh là vô trụ”. Đây tức là nêu ra duyên và tóm kết về hai loại không trụ nơi đạo hành. Pháp môn tu hành tuy không có số lượng, nhưng không trụ nơi đạo căn bản nhất đó, vì vậy nói là hành phương tiện căn bản.

Đã nói về môn nêu phần căn bản của tất cả sự tu hành. Tiếp đến là nói về môn chế ngự nghiệp ác khiến không sinh. Môn này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển bày hành giả nên phát khởi phẩm tâm thanh tịnh như hổ thẹn v.v… đề ngăn dứt tất cả các thứ ác dấy lên, dần dần diệt trừ không khiến tăng trưởng. Như Bản luận viết: “Hai là phương tiện có thể ngăn dứt. Đó là hổ thẹn hối hận về lỗi lầm của mình, có thể ngăn dừng tất cả pháp ác không khiến tăng trưởng. Do tùy thuận pháp tánh là lìa các lỗi lầm”. Là tổng kết về duyên kia.

Đã nói về môn chế ngự nghiệp ác khiến không sinh. Tiếp đến là nói về môn sinh ra căn thiện tăng trưởng. Môn này là nêu rõ về nghĩa gì? Là nhằm nêu rõ hành giả nên cung kính cúng dường tất cả Tam bảo, thường xuyên lễ bái, tán thán, tùy hỷ, khuyến thỉnh tăng trưởng tín tâm, tiêu trừ nghiệp chướng, chí cầu đạt đại Bồ-đề vô thượng. Như Bản luận viết: “Ba là phương tiện phát khởi căn thiện tăng trưởng. Nghĩa là siêng năng cúng dường lễ bái Tam bảo, tán thán, tùy hỷ, khuyến thỉnh chư Phật, dùng tâm thuần hậu ái kính Tam bảo, nên tín lực được tăng trưởng, có thể chí cầu đạo vô thượng. Lại nhân nơi lực của Phật Pháp Tăng gia hộ, nên có thể tiêu trừ nghiệp chướng, căn thiện không thoái mất. Do tùy thuận pháp tánh thì lìa bỏ si chướng”. Là tổng kết về duyên kia.

Đã nói về môn sinh ra căn thiện tăng trưởng. Tiếp đến là nói về môn thệ nguyện vô biên bình đẳng. Môn này là nêu rõ về nghĩa gì? Là nhằm hiển thị hành giả nên phát khởi biển thệ nguyện rộng lớn nhiều như số vi trần nơi mười phương thế giới, tu tập biển hành nhân nhiều như số vi trần nơi mười phương thế giới, thâu giữ biển chúng sinh nhiều như số vi trần nơi mười phương thế giới, thành tựu biển quả mãn nhiều như số vi trần nơi mười phương thế giới, tất cả đều đầy đủ không có thiếu sót. Như Bản luận viết: “Bốn là phương tiện khởi đại nguyện bình đẳng. Đó gọi là phát nguyện tận cùng nơi đời vị lai, hóa độ tất cả chúng sinh không bỏ sót chúng sinh nào, tất cả đều khiến đạt đến Niết-bàn vô dư. Do tùy thuận pháp tánh thì không có đoạn dứt”. Là tổng kết về duyên kia.

Từ đây tiếp xuống là làm rõ về chỗ tùy thuận tướng thù thắng. Vì nghĩa gì trong phần tóm kết của bốn môn thảy đều gọi chung là tùy thuận pháp tánh? Vì muốn làm rõ pháp tánh như hư không, thể tánh ấy rộng lớn tròn đầy không có biên vực, tướng dụng ấy vô ngại tự tại không có đầu cuối. Tất cả hành giả bốn kia cũng lại như vậy, thuận thuận như như, vì A thế da (ý lạc) ấy rộng lớn viên mãn không có giới hạn. Như Bản luận viết: “Pháp tánh rộng lớn hiện có khắp tất cả chúng sinh bình đẳng không hai, không phân biệt đây kia, vì hoàn toàn vắng lặng”.

Đã nói về môn tu hành phương tiện thiện xảo. Tiếp đến là nói về môn hiển thị công đức phát tâm. Văn này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển bày về Bồ-tát của trụ phát tâm, khởi tâm rộng lớn viên mãn tùy thuận trong tánh pháp giới, tương tợ trí quán thấy thân pháp tánh. Do thấy thân pháp tánh nên nguyện lực tự tại. Vì nguyện lực nên duyên với vô lượng vô biên chúng sinh của pháp giới tâm đại bi. Do tâm đại bi là vô cùng sâu rộng, nên xuất hiện tám loại hóa tướng an lạc. Tùy thời, tùy xứ, tùy nghi, tùy ứng, thuận thuận như như tạo lợi ích an lạc. Như Bản luận viết: “Bồ-tát phát khởi tâm này thì được thấy phần ít pháp thân. Do thấy pháp thân nên thuận theo nguyện lực ấy có thể hiện rõ tám thứ lợi ích cho chúng sinh. Đó gọi là từ nơi cung trời Đâu Suất hạ sinh, vào thai, ở trong thai, ra đời, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn”.

Đã nói về môn hiển thị công đức phát tâm. Tiếp đến là nói về môn lựa chọn trên dưới để hiển bày về chỗ sai khác. Theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn lựa chọn khác với trên địa. Hai là môn lựa chọn khác với phàm phu.

Nói về môn lựa chọn khác với trên địa: Nghĩa là Bồ-tát của trụ phát tâm, chỉ gọi là thân ảnh tướng huyễn hóa, không được gọi là Bồ-tát của pháp thân chân như. Vì sao? Vì Bồ-tát này từ vô thủy nghiệp còn sót lại cũng chưa ra khỏi, tùy theo xứ thọ sinh cùng với khổ vi tế tương ưng không lìa. Bồ-tát trên địa thì trái với vị này. Như Bản luận viết: “Nhưng Bồ-tát này chưa gọi là pháp thân, vì từ vô lượng đời kiếp quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể đoạn trừ hoàn toàn, tùy theo nơi đã sinh ra cùng với những khổ vi tế tương ưng”.

Nói về môn lựa chọn khác với phàm phu: Đó gọi là Bồ-tát của trụ mới phát tâm, không còn bị trói buộc cùng chuyển theo tướng nhân của nghiệp. Không còn bị trói buộc theo quả báo thọ sinh. Vì sao? Vì phương tiện của đại nguyện chuyển đổi đầy đủ. Như Bản luận viết: “Cũng không phải bị nghiệp trói buộc do có lực tự tại của đại nguyện”.

Đã nói về môn lựa chọn trên dưới để hiển bày chỗ sai khác. Tiếp đến là nói về môn thông hợp với văn của Khế kinh để trừ bỏ nghi. Ở trong môn này tự có năm loại, đều là Khế kinh nói. Những gì là năm loại? Đó là:

1. Trong Khế kinh Văn Thù Sư Lợi Hoan Hỷ Đà La Ni giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền bạch Phật: Đức Thế Tôn thường ở trong đại chúng nói rõ lời như thế này: Năm mươi chủng tử tâm trang nghiêm nơi biển quả là gốc của nhân hành, tất cả hành giả phải trải qua đạo này để thành tựu Đẳng chánh giác. Như vậy, trong năm mươi chủng tử tâm, có bao nhiêu là phần thoái, bao nhiêu là phần định? Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con mà giải nói. Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Hãy lắng nghe kỹ và khéo nhớ nghĩ, Ta nay vì ông mà phân biệt giải nói. Này thiện nam! Mười loại chân địa gọi là địa của trụ kim cang Bát nhã. Bốn mươi tâm trước gọi là địa hồi hướng của ngọc pha lê tùy chuyển. Ông nay nên nhận biết như vậy, nên quán xét như vậy”. Nay văn của kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Là nhằm hiển thị hàng Đại sĩ mười địa, đã đạt được thành chân chứng gọi là phần bất thoái. Từ đây trở về trước có bốn mươi loại tâm, chưa đạt được trí chứng gọi là phần thoái chuyển.

2. Trong Khế kinh Bản Giác Đại Bi Tự Nhiên Huân Tập giảng nói như sau: “Lại nữa, này Phật tử! Ông trước đã hỏi thế nào gọi là tướng tiết thoái, sự việc này là không thể nghĩ bàn trong chỗ thù thắng không thể nghĩ bàn. Hàng phàm phu ngu si và các Bồ-tát mới phát tâm thì không thể nhận biết. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Minh chí tâm khuyến thỉnh, Đức Phật liền bảo Bồ-tát Đại Minh: Này thiện nam! Nói tướng tiết thoái nghĩa là tín tâm, trụ phát tâm, địa tịnh tâm, kim cang tâm, bốn xứ này đều gọi là phần thoái, tất cả phần trung gian kia đều gọi là phần bất thoái. Vì vậy nói là tướng tiết thoái”. Nay văn của kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Là nhằm hiển thị đại dương của pháp Phật là rộng lớn tròn đầy không có biên vực.

3. Trong Khế kinh Đại Chứng Đắc Đà La Ni nêu giảng như vầy: “Mười loại an tâm quyết định không thoái vì không có lý thoái mất”. Nay văn của kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển bày về hàng Bồ-tát của mười trụ, phát khởi căn thiện rộng lớn tùy thuận trong tánh pháp giới, quyết định an trụ nơi vị kim cang.

4. Trong Khế kinh Ngũ Minh thì giảng nói: “Mười loại tâm định chẳng thoái, chẳng tiến, chẳng đến, chẳng đi, chẳng xuất, chẳng nhập, vạn đức viên mãn không thiếu mất, vì vậy nói là tâm tự nhiên trụ”. Nay văn của kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển thị quả đức trong vị mười trụ đã đầy đủ, lại không tiến cũng không thoái, là sự tự nhiên thường trụ không thiếu sót.

5. Trong Khế kinh Bồ Tát Anh Lạc Đại Bản Nghiệp đã giảng nói: “Này các thiện nam! Nếu trong một kiếp, hai kiếp cho đến mười kiếp, tu hành mười tín được nhập nơi mười trụ, người này vào lúc ấy từ nơi trụ thứ nhất cho đến trong trụ thứ sáu, nếu như tu Bát nhã Ba-la-mật thứ sáu, chánh quán hiện tiền, lại gặp chư Phật, Bồ-tát và hàng thiện tri thức gia hộ, ra đến trụ thứ bảy là thường trụ không thoái. Từ bảy trụ này về trước gọi là phần thoái”. Nay văn của kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển bày sự việc khuyến khích thúc đẩy hàng chúng sinh lười kém, khiến tăng trưởng tâm dũng mãnh. Nay trong Luận này lại căn cứ nơi kinh bản nghiệp đã tạo sự thông hợp, nên quán xét kỹ. Như Bản luận viết: “Như trong Khế kinh hoặc nói có người thoái đọa vào nẻo ác, nhưng không phải là thoái đọa thật sự, chỉ vì hàng Bồ-tát mới học chưa nhập chính vị, lại lười nhác nên khiến họ sợ hãi sinh dũng mãnh hơn”.

Đã nói về môn thông hợp với văn của Khế kinh để trừ bỏ nghi. Tiếp đến là nói về môn tán thán công đức phát tâm. Môn này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển thị khi Bồ-tát phát tâm thì xa lìa hai điều sợ hãi, tức tâm ấy quyết định không động. Thế nào gọi là hai điều sợ hãi? Một là sợ hãi sinh xuống nẻo dưới, sinh nơi đạo thấp kém, là rất sợ hãi. Hai là sợ hãi sinh nơi nẻo trên, vì nghe đến cảnh giới thù thắng thì tâm khiếp nhược hết sức sợ hãi. Xa lìa hai thứ sợ hãi này, vì thế gọi là công đức phát tâm. Như Bản luận viết: “Lại, Bồ-tát này sau khi mới phát tâm đã xa lìa sự khiếp nhược, hoàn toàn không sợ rơi vào địa Nhị thừa. Nếu như nghe phải trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, siêng năng khổ nhọc hành trì hạnh khổ mới đạt được Niết-bàn, cũng không khiếp nhược, vì tin và nhận biết tất cả các pháp từ xưa đến nay là Niết-bàn tự nhiên”. Tức là tổng kết về nhân duyên của hai thứ công đức.

Từ phần trên đến đây, là nói phần quyết trạch về phát tâm tín thành tựu xong. Từ đây trở xuống là vô số các môn, nội dung trong văn nêu rõ nên không cần giải thích lại.

HẾT – QUYỂN 7

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10