LUẬN THÍCH MA HA DIỄN
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Phiệt Đề Ma Đa.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 6

Từ trước đến đây là nói về phần quyết trạch nghĩa các pháp nhiễm tịnh cùng huân tập cùng sinh khởi không đoạn dứt xong. Từ đây tiếp xuống là hiển thị phân minh về ba loại nghĩa của đại trong môn sinh diệt.

* Bản luận viết: Lại nữa, tự thể tướng của chân như là hết thảy phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không hề có tăng giảm, không phải là đời trước sinh ra, không phải là đời sau diệt mất, hoàn toàn thường hằng, từ xưa đến nay chỉ là tánh tự đầy đủ tất cả công đức. Đó gọi là nghĩa của tự thể có đại trí tuệ quang minh, là nghĩa soi chiếu khắp pháp giới, là nghĩa nhận biết rõ chân thật, là nghĩa tâm thanh tịnh của tự tánh thường lạc ngã tịnh, là nghĩa trong lành mát mẻ tự tại bất biến, có đầy đủ pháp Phật không lìa không đoạn, vượt quá Hằng hà sa số như vậy. Cho đến nghĩa đầy đủ không có thiếu, nên gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là pháp thân Như Lai.

Hỏi: Ở trên nói về chân như, thể ấy là bình đẳng lìa tất cả các tướng. Vì sao lại nói thể có vô số công đức như vậy?

Đáp: Tuy thật sự có nghĩa các công đức ấy, nhưng không có tướng sai biệt, cùng đồng một vị chỉ là một chân như. Nghĩa này là thế nào? Vì không phân biệt và lìa tướng phân biệt, vì thế nên không hai.

Lại do nghĩa nào để có thể nói là sai biệt? Do dựa vào tướng sinh diệt của nghiệp thức để chỉ rõ. Ở đây đã chỉ rõ như thế nào?

Do tất cả các pháp xưa nay chỉ do tâm thật sự không có niệm, nhưng có tâm vọng bất giác dấy khởi niệm thấy các cảnh giới, nên nói là vô minh. Tánh của tâm không khởi động, tức là nghĩa của đại trí tuệ quang minh. Nếu tâm khởi kiến thì có tướng bất kiến. Tánh của tâm lìa kiến, tức là nghĩa soi chiếu khắp pháp giới. Nếu tâm có động thì không phải là nhận biết rõ chân thật, không có tự tánh, không phải là thường, không phải là lạc, không phải là ngã, không phải là tịnh, nhiệt não, suy biến hoại thì không tự tại. Cho đến có đủ các nghĩa của nhiễm vọng vượt quá Hằng sa số. Đối lại nghĩa này nên tánh của tâm không động, tức có nghĩa của các tướng công đức tịnh nhiều hơn số Hằng hà sa được hiện rõ. Nếu tâm có khởi thì lại thấy pháp trước khiến có thể suy niệm tức có chỗ thiếu sót. Pháp tịnh như vậy có vô lượng công đức, tức là một tâm lại không có đối tượng suy niệm, vì thế đầy đủ, gọi là pháp thân, Như Lai tạng.

Lại nữa, dụng của chân như đó là chư Phật Như Lai gốc ở nơi nhân địa, phát tâm đại từ bi tu các pháp Ba-la-mật, thâu nhận giáo hóa chúng sinh, lập đại thệ nguyện, nhằm độ thoát hết thảy muôn loài, cũng không hạn định số kiếp, tận cùng nơi đời vị lai. Do nhận lấy tất cả chúng sinh như chính thân mình, nhưng cũng không giữ lấy tướng của chúng sinh. Ở đây là do nghĩa gì? Nghĩa là nhận biết như thật về tất cả chúng sinh cùng với bản thân mình đều có chân như bình đẳng, không sai khác. Vì có trí đại phương tiện như thế, nên trừ diệt vô minh thấy rõ pháp thân vốn có, tự nhiên mà có vô số các loại nghiệp dụng không thể nghĩ bàn, tức cùng với chân như bình đẳng hiện bày khắp tất cả nơi chốn, lại cũng không có tướng của dụng có thể thủ đắc. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chỉ là pháp thân, là thân của tướng trí, là đệ nhất nghĩa đế, không có cảnh giới của thế tục đế lìa nơi tạo tác hiện bày, chỉ tùy theo chúng sinh thấy nghe có được lợi ích nên nói là dụng. Dụng này lại có hai loại. Những gì là hai loại? Một là dựa vào thức phân biệt sự. Nghĩa là đối tượng thấy biết của tâm phàm phu, Nhị thừa, gọi là ứng thân, do không nhận biết về thức chuyển hiện, thấy từ bên ngoài đến, giữ lấy hình sắc có sai biệt, nên không thể nhận biết hoàn toàn. Hai là dựa vào thức nghiệp. Nghĩa là đối tượng thấy biết của tâm nơi các vị Bồ-tát từ mới phát tâm, cho đến Bồ-tát ở địa sau cùng, gọi là báo thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, dựa vào quả đã an trụ cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy theo nơi chốn thị hiện, tức không có biên vực nào là không thể cùng tận, lìa tướng giới hạn có sai biệt, tùy theo nơi chốn ứng hợp luôn có thể trụ giữ, không hoại, không mất. Công đức như vậy đều nhân nơi các Ba-la-mật cùng hành vô lậu huân tập, và là đối tượng thành tựu của sự huân tập không thể nghĩ bàn, đầy đủ vô lượng tướng an lạc nên nói là báo.

Lại nữa, đối tượng thấy biết của hàng phàm phu là sắc thô kia, tùy theo sáu đường của chúng sinh đều thấy không đồng, vô số dị loại, không phải thọ nhận tướng an lạc nên nói là ứng.

Lại nữa, đối tượng thấy biết của hàng Bồ-tát mới phát tâm là do tin sâu vào pháp chân như, nên nhìn thấy phần ít, nhận biết các sự việc như sắc tướng trang nghiêm kia v.v…, là không đi không đến, lìa bỏ giới hạn có sai biệt, chỉ dựa nơi tâm hiện không rời chân như. Nhưng hàng Bồ-tát này cũng còn tự phân biệt, vì chưa đi vào phần vị pháp thân. Nếu đạt được tâm tịnh thấy rõ phần vi diệu thì dụng ấy đã chuyển thắng, cho đến địa Bồ-tát sau cùng tức thấy được hoàn toàn. Nếu lìa thức nghiệp thì không có tướng thấy, vì pháp thân của chư Phật không có sắc tướng đây kia lần lượt cùng trông thấy.

Hỏi: Nếu pháp thân của chư Phật lìa nơi sắc tướng, thì vì sao có thể hiện bày sắc tướng?

Đáp: Tức pháp thân này là thể của sắc nên có thể hiện nơi sắc. Đó gọi là từ xưa đến nay sắc tâm là bất nhị, vì tánh của sắc tức là trí, thể của sắc vô hình nên nói là trí thân. Vì tánh của trí tức là sắc, nên nói là pháp thân. Sắc đã hiện bày khắp tất cả xứ không có giới hạn sai biệt, tùy theo tâm có thể thị hiện nơi mười phương thế giới, vô lượng Bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi đều sai biệt, đều không có giới hạn, nhưng không cùng ngăn ngại. Đây không phải là tâm thức phân biệt có thể nhận biết, do nghĩa chân như có dụng tự tại.

* Luận giải thích: Tức trong văn này tự có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn hiển thị về nghĩa đại của tự thể. Hai là môn hiển thị về nghĩa đại của tự tướng. Ba là môn hiển thị về nghĩa đại của tự dụng. Trong nghĩa đại thứ nhất tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn năm người bình đẳng. Hai là môn thời không chuyển. Đó gọi là hai môn. Trong nghĩa đại thứ hai tức có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn công đức viên mãn. Hai là môn hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Ba là môn giải thích riêng để nói rộng. Đó gọi là ba môn. Trong nghĩa đại thứ ba tự có sáu môn. Những gì là sáu môn? Một là môn bản nguyện vô tận. Hai là môn lìa tướng không chấp. Ba là môn chủ thể, đối tượng bình đẳng. Bốn là môn vô tướng hiện ứng. Năm là môn tùy thấy thô tế. Sáu là môn nêu hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Đó gọi là sáu môn. Nay sẽ giải thích, như thứ lớp ấy để nói rộng phân minh về đại. Người thông sáng nên xét chọn kỹ. Lại nữa, tự thể tướng của chân như tức là nêu chung về hai nghĩa thể tướng. Từ đây tiếp xuống là giải thích riêng để nói rộng. Thứ nhất là nói về đại của thể. Thế nào gọi là môn năm người bình đẳng? Nghĩa là tự thể của chân như là chung nơi năm người, bình đẳng bình đẳng không có sai biệt. Thế nào gọi là năm loại người giả định? Một là phàm phu. Hai là Thanh văn. Ba là Duyên giác. Bốn là Bồ-tát. Năm là Như Lai. Đó gọi là năm người giả định. Năm tên gọi như vậy, người tự là năm mà chân như tự chỉ là một. Vì sao? Vì tự thể của chân như không có tăng giảm, cũng không có lớn nhỏ, cũng không có biên có biên không, cũng không có biên giữa hai bên, cũng không có đi đến, từ xưa đến nay một tự thành một, đồng tự tạo đồng, chán khác bỏ riêng chỉ một chân như. Vì vậy trong Khế kinh Chư Pháp Chân Như Nhất Tướng Tam Muội đã giảng nói như vầy: “Ví như kim cương tạo ra hình tượng của năm nẻo, năm người bình đẳng cũng lại như vậy. Vì ở trong các người không có tăng giảm”. Như Bản luận viết: “Hết thảy phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không có tăng giảm”. Thế nào gọi là môn thời không chuyển? Nghĩa là tự thể của chân như, tự nhiên thường trụ quyết định bất biến, ba đời không động, bốn tướng không dời, tịch diệt lại tịch diệt, chân thật lại chân thật. Như Bản luận viết: “Không phải là đời trước sinh, không phải là đời sau diệt, hoàn toàn thường hằng”.

Đã nói về môn hiển thị về nghĩa đại của tự thể. Tiếp theo là nói về môn hiển thị về nghĩa đại của tự tướng. Môn công đức viên mãn, tướng ấy là thế nào? Nghĩa là trong thể của chân như tất cả công đức đều viên mãn không có thiếu sót. Những gì là công đức? Đó gọi là công đức của sáu loại nghĩa tánh. Những gì là sáu loại?

Một là nghĩa đại trí tuệ quang minh, vì Bát nhã của bản giác có năng lực trừ diệt đêm tối của vô minh. Ở trong Khế kinh gọi là nghĩa của tánh Bát nhã thật trí quang minh quảng đại viên mãn thù thắng.

Hai là nghĩa soi chiếu khắp pháp giới, vì Bát nhã của bản giác soi chiếu đến cội nguồn của một pháp giới. Ở trong Khế kinh gọi là nghĩa của tánh tự nhiên thông đạt trọn khắp một pháp giới tạng.

Ba là nghĩa nhận biết rõ chân thật, vì Bát nhã của bản giác xa lìa sự hiểu biết suy lường hư giả. Ở trong Khế kinh gọi là nghĩa của tánh lìa vọng tưởng lãnh hội, quyết định nhận biết rõ về thật tánh của thật tế.

Bốn là nghĩa tâm thanh tịnh của tự tánh, vì Bát nhã của bản giác tự nhiên vốn có vô lượng tánh công đức không phải đạt được nhờ tha lực, xa lìa trần lụy hợp với trung thật. Ở trong Khế kinh gọi là nghĩa của trung tánh vốn có sáng sạch lìa các biên.

Năm là nghĩa thường lạc ngã tịnh, vì hai thứ bản giác và thủy giác từ vô thủy đến nay đều xa lìa bốn chướng, viên mãn bốn loại đức tự nhiên. Ở trong Khế kinh gọi là nghĩa thuộc tánh đức tự nhiên của Như lai chánh giác tánh xa lìa huyễn hóa không tu tập.

Sáu là nghĩa trong mát tự tại bất biến, vì hai loại bản giác ví như hai phương Nam Bắc của tấm gương sáng cùng gồm đủ tùy thuận và trái ngược. Ở trong Khế kinh gọi là nghĩa của tánh Đà la ni toàn biến gồm đủ tùy thuận trái nghịch vô ngại.

Đó gọi là sáu nghĩa.

Như Bản luận viết: “Từ xưa đến nay chỉ là tánh tự có đầy đủ tất cả công đức. Đó gọi là nghĩa của tự thể có đại trí tuệ quang minh. Nghĩa soi chiếu khắp pháp giới. Nghĩa nhận biết rõ chân thật. Nghĩa tâm thanh tịnh của tự tánh. Nghĩa thường lạc ngã tịnh. Nghĩa trong mát tu tập bất biến”. Trong Khế kinh Quảng Đại Viên Mãn Tự Tánh Bản Đức đã thuyết giảng như vầy: “Tự tánh công đức, tên gọi của số gốc có mười bảy loại. Ở trong hai loại đầu mỗi loại đều phân ra hai. Trong hai loại tiếp theo, mỗi loại đều phân ra ba. Trong hai loại sau, như thứ lớp ấy phân ra bốn và ba”.

Lại nữa, trong Khế kinh Thanh Tịnh Tâm Địa Vô Cấu Đà La Ni giảng nói như vầy:”Tự tánh công đức, tên gọi của số gốc có hai mươi lăm loại. Trong một loại sau cùng phân ra mười một loại”. Như vậy, tướng riêng của ba số đã nêu là thế nào? Tên gọi của số gốc trong Luận Ma Ha Diễn của Bồ-tát Mã Minh, vì muốn hiển thị về tướng tổng trì danh lược nghĩa rộng, thế nên gồm thâu chi tiết lập chung làm sáu loại. Lại nữa, đã dựa vào biệt bản để nói về tổng trì. Lại nữa, số tên gọi phần nhiều là mê lầm nơi chân thật. Do nghĩa này nên lập chung làm sáu loại. Nói mười bảy loại thì tên gọi là những gì? Đó là: (1) Nghĩa đại trí tuệ. (2) Nghĩa đại quang minh. (3) Nghĩa hiện khắp một pháp giới. (4) Nghĩa soi chiếu một pháp giới. (5) Nghĩa chân thật. (6) Nghĩa nhận thức. (7) Nghĩa biết rõ. (8) Nghĩa tự tánh. (9) Nghĩa thanh tịnh. (10) Nghĩa tâm. (11) Nghĩa thường. (12) Nghĩa lạc. (13) Nghĩa ngã. (14) Nghĩa tịnh. (15) Nghĩa bất. (16) Nghĩa biến. (17) Nghĩa tự tại. Đó gọi là mười bảy loại. Nói hai mươi lăm loại thì tên gọi là những gì? Đó là trong công đức Bất của số trước (Nghĩa 15) phân ra tám loại. Trong công đức Biến (Nghĩa 16) phân ra hai loại. Nói hai Biến thì một là thượng lưu chuyển biến. Hai là hạ lưu chuyển biến. Nói tám Bất thì như trong Luận Trung Quán đã nêu bày phân minh.

Đã nói về phần số lượng công đức có tên gọi. Tiếp theo là nói về phần công đức vượt quá số lượng, không tên gọi. Tự tánh công đức trong thể của bản giác là vô lượng vô biên, lìa nơi ngôn từ số lượng, vượt quá nẻo tâm hành. Do nghĩa nào mà dừng nơi số lượng để tạo các phần như vậy? Do công đức vốn có tuy không có số lượng nhưng không ra ngoài ba số, vì thế nêu lên số căn bản. Như Bản luận viết: “Đầy đủ như vậy là vượt quá Hằng hà sa số”. Vô lượng vô biên công đức như thế, mỗi mỗi thứ đều có thể tướng riêng khác chăng? Chỉ là một tâm lượng không có Thể của pháp riêng khác. Chỉ là một tâm lượng trọn không lìa tâm. Vì sao? Vì tâm pháp tuy là một nhưng có hai loại dụng tự tại của Đà-la-ni. Những gì là hai loại? Một là tự mình không lìa tự tại của Đà-lani kia. Hai là nơi kia không lìa tự tại của Đà-la-ni. Như Bản luận viết: “Không lìa”. Tánh đức như vậy từ vô thủy đến nay hoàn toàn là diệu hữu không phải là pháp bị loại trừ. Vì sao? Vì tự tánh là tự tánh không phải là cùng với tánh khác. Như Bản luận viết: “Không đoạn”. Như vậy, tất cả công đức chỉ có một tự làm thành một, chung cuộc là khác với tự không thể làm thành một. Vì sao? Vì đồng một pháp giới. Như Bản luận viết: “Không khác”. Lý sâu xa như vậy thì tất cả Bồ-tát, tất cả hàng Nhị thừa, tất cả hàng phàm phu tâm không tư duy, ngôn từ không luận bàn số lượng. Dứt tuyệt lại dứt tuyệt, xa lìa lại xa lìa. Như Bản luận viết: “Không thể nghĩ bàn”. Ba người không phải là cảnh, tức nên người nào là cảnh giới của ngôn thuyết tư duy? Chỉ có bậc Đại giác mới tự mình làm phép tắc mẫu mực. Như Bản luận viết: “Là pháp Phật”. Vô lượng tánh công đức như vậy, từ địa phàm phu (Cụ phược) cho đến địa trí Đại giác vô thượng là gồm đủ, viên mãn, không có thiếu sót. Vì sao? Vì các công đức như thế, từ vô thủy đến nay là tự nhiên vốn có, không phải là nhờ sức của duyên để kiến lập. Như Bản luận viết: “Cho đến nghĩa đầy đủ không có thiếu sót, vì thế gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là pháp thân Như Lai”.

Đã nói về môn công đức viên mãn. Tiếp đến là nói về môn nêu hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn phát khởi lược hỏi để vấn nạn. Hai là môn phát khởi rộng đáp để giải thích. Ý vấn nạn của người hỏi, tướng ấy là thế nào Nghĩa là xét kỹ về lý thì văn nêu bày trái nhau, trước sau tức lẫn lộn. Văn trước sau trái nhau như thế nào? Đó là trong phần quyết trạch chân như đã giảng nói như vầy: “Tâm chân như tức là thể nơi pháp môn tổng tướng đại của một pháp giới. Đó gọi là tâm tánh bất sinh bất diệt. Tất cả các pháp chỉ dựa vào niệm vọng mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới.

Vì vậy tất cả các pháp từ xưa đến nay đều lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, hoàn toàn bình đẳng không có biến dị, không thể hủy hoại, chỉ là một tâm, nên gọi là chân như. Còn trong phần quyết trạch về nghĩa của tự tướng đại thì giải thích: “Từ xưa đến nay tánh tự đầy đủ tất cả các công đức. Đó gọi là tự thể có nghĩa đại trí tuệ quang minh. Là nghĩa soi chiếu khắp pháp giới. Là nghĩa nhận biết rõ chân thật. Là nghĩa tâm thanh tịnh của tự tánh. Là nghĩa thường lạc ngã tịnh. Là nghĩa trong mát tự tại bất biến. Có đầy đủ pháp Phật không lìa, không đoạn, không khác, không thể nghĩ bàn, vượt quá Hằng hà sa số như vậy. Cho đến nghĩa đầy đủ không có thiếu sót, vì thế gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là pháp thân Như Lai”. Trái nhau như vậy nên lấy đó làm vấn nạn. Như Bản luận viết: “Hỏi: Ở trên đã nói về chân như, thể ấy là bình đẳng lìa tất cả tướng, vì sao lại nói thể có vô số các công đức như vậy?”.

Đã nói về môn phát khởi lược hỏi để vấn nạn. Tiếp theo là nói về môn phát khởi rộng đáp để giải thích. Theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là chung. Hai là riêng. Trong môn nêu chung tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là chung của chân như. Hai là chung của sinh diệt. Như thứ lớp ấy đã nói về tướng có thể thấy rõ. Đáp: Tuy thật có nghĩa của các công đức ấy, nhưng không có tướng sai biệt, cùng đồng một vị chỉ là một chân như. Đây tức là môn chung của chân như. Nghĩa là tuy trong môn nghĩa về tự tướng đại đã giải thích như thế. Gồm đủ các loại công đức vượt quá Hằng sa số, nhưng là số lượng nơi cảnh giới của môn sinh diệt, không phải là môn chân như. Trong môn chân như không có tướng sai biệt, là bình đẳng và bình đẳng, một tướng một vị, còn chân như là cảnh giới của pháp tịnh. Do nghĩa này nên không có lỗi trái nhau.

Từ đây tiếp xuống dưới là nêu ra nguyên do để dứt trừ nghi hoặc. Vì không phân biệt và lìa tướng phân biệt thế nên là không hai. Tức trong môn chân như chỉ có đồng đồng không có dị dị. Từ đây trở xuống là giải thích về loại chung của sinh diệt. Ở trong văn này tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là hỏi. Hai là đáp. Vì có rộng lược, tức hai lớp hỏi đáp là không đồng, nên nhận biết như vậy.

Nơi lớp hỏi đáp thứ nhất, tướng ấy là thế nào? Lại do nghĩa nào để có thể nói là sai biệt? Tức là câu hỏi mở ra. Nghĩa là nếu các pháp từ xưa đến nay là bình đẳng, bình đẳng, một vị một tướng, riêng còn chân lý không có hai thể. Vậy lại có pháp nào không phải là bình đẳng, dùng đấy làm chỗ dựa để kiến lập sai biệt? Tức là nêu ra môn khác để nghi về môn khác. Từ đây tiếp xuống là phát khởi nêu đáp để dứt trừ nghi này. Văn hiện bày có thể thấy rõ. Do dựa vào thức nghiệp nên tướng sinh diệt hiện ra, tức là lời đáp chung. Nghĩa là trong môn chân như không có tất cả pháp nhiễm vượt quá Hằng hà sa số dùng làm đối tượng được đối trị. Không có tất cả pháp tịnh vượt quá hằng hà sa số của chủ thể đối trị để đối nhau về lượng. Thế nên trong môn chân như được nói như vầy. Tất cả các pháp là bình đẳng, bình đẳng, một vị một tướng, không có hai thể v.v… Nhưng trong môn sinh diệt này, các pháp nhiễm của đối tượng được đối trị là vô lượng vô biên. Còn các pháp tịnh của chủ thể đối trị cũng là vô lượng vô biên. Vì thế trong môn sinh diệt đã nêu bày như vầy: “Nơi thể của bản giác gồm đủ vô số loại công đức, vô lượng vô biên vượt quá Hằng sa số v.v…” Đây tức là ý chính. Tiếp theo sẽ tạo giải thích riêng để nói chi tiết. Nói là nương dựa: Tức là trụ địa của vô minh căn bản, là đối tượng nương dựa của tất cả pháp nhiễm. Nói là nghiệp: Tức là tướng nghiệp. Nói là thức: Tức là các thức như chuyển v.v… Tướng sinh diệt: Là tên gọi chung của môn. Nói là hiện ra: Là hiển thị sự tương phản. Trong đây chữ dĩ có nghĩa từ xa lưu chuyển nên đến nơi chữ ba. Ba pháp như vậy là đã khởi lên công đức, đó chính là nguyên do.

Đã nói về phần nói lược. Tiếp theo là nói về phần nói rộng.

Theo trong phần này tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là hỏi. Hai là đáp. Ở đây nên biết là hỏi lược mà đáp rộng. Hiện ra này là thế nào? Tức là lời cật vấn. Nghĩa là cật vấn về những lý do của sự việc kia. Từ đây trở xuống là đáp thẳng về câu hỏi này. Trong phần giải thích để đáp này có ba loại. Những gì là ba loại? Một là chánh lý của tự tông. Hai là tà hạnh phi đạo. Ba là nêu đủ về lượng đối nhau. Đó gọi là ba loại. Như thứ lớp ấy nói về quán tương ưng. Do tất cả các pháp xưa nay chỉ là tâm thật sự không có niệm. Đây tức là loại thứ nhất là chánh lý của tự tông. Đó gọi là pháp tánh từ vô thủy đến nay chỉ là một tâm, không có một pháp nào không phải là tâm. Nhưng có tâm vọng bất giác dấy lên niệm thấy các cảnh giới nên nói là vô minh. Đây tức là loại thứ hai tà hạnh phi đạo. Đó gọi là nêu chung về các trụ địa vô minh trên phần gốc. Từ đây tiếp xuống dưới là trực tiếp hiển bày nêu ra đủ sự đối chiếu về lượng có sai biệt. Như trên đã nói về sáu tướng công đức trong thể của bản giác, mỗi mỗi đều đợi quán xét những gì là lỗi lầm tai hại, lấy đó làm sự đối chiếu để kiến lập hiển thị. Đó gọi là vô minh căn bản đã huân tập của một tâm, phát khởi vô số các thức như nghiệp v.v…., che lấp ánh sáng của thật trí Bát nhã, tăng trưởng bóng tối của ngu si mê loạn. Tức là cảnh giới số lượng của vô minh bất giác. Minh thì dùng đấy làm đối trị. Tánh tịch diệt của một tâm không khởi, tức là sự an lập công đức của trí tuệ thuộc bản giác đã kiến lập để nêu rõ. Như Bản luận viết: “Tánh của tâm không khởi, tức là nghĩa đại trí tuệ quang minh”.

Từ đây tiếp xuống là hiển bày về công đức thứ hai, văn diễn đạt có thể thấy rõ. Như vậy, tâm vọng dấy khởi thấy đạt đến cảnh, hoàn toàn chỉ chuyển đổi trong cảnh hư vọng, không thế thông đạt cảnh giới chân thật. Vì sao? Vì thật giả thì trái nhau không thể thích hợp. Như Bản luận viết: “Nếu tâm dấy khởi thấy biết thì có tướng không thấy biết”. Từ đây trở xuống dưới là nêu rõ về nghĩa quán xét khắp. Nhưng tâm chân thật thì lìa các thứ thấy biết chuyển đổi, thông tỏ các pháp không đâu là không đến, không nơi nào là không thích hợp, không chốn nào là không tận cùng. Vì sao? Vì trí kiến chân thật luôn xa lìa biên kiến chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết. Như Bản luận viết: “Tánh của tâm lìa kiến, tức là nghĩa soi chiếu khắp pháp giới”.

Từ đây tiếp xuống là nêu rõ về công đức thứ ba. Đó là nếu tâm có tướng động chuyển, tức là khí lực huân tập của vô minh. Hư vọng chuyển thành minh lấy đó để làm đối địch. Tánh của tâm tịch tĩnh không có náo động, chính trực không có kiến giải điên đảo, tức là sự soi chiếu của trí thật, tùy thuận đạo lý không trái ngược để kiến lập hiện bày rõ. Như Bản luận viết: “Nếu tâm có động thì không phải là trí của thức chân thật”.

Từ đây tiếp xuống dưới là nêu rõ về công đức thứ tư. Đó gọi là pháp vọng từ vô thủy đến nay, không có tự thể sáng tỏ lấy đó làm đối ứng. Công đức vốn có của tự tánh thanh tịnh được kiến lập hiển thị. Như Bản luận viết: “Không có tự tánh”.

Từ đây trở xuống là làm rõ về công đức thứ năm. Đó gọi là bốn tướng của pháp vọng đã dời đổi nên chẳng phải là thường. Ba loại khổ cùng chuyển biến nên chẳng phải là lạc. Hai loại tự tại không có nên chẳng phải là ngã. Một đạo thanh tịnh không có nên chẳng phải là tịnh. Bốn loại lỗi lầm này dùng làm số lượng đối chiếu, nên bốn loại công đức trong thể của bản giác đã được kiến lập hiển thị. Như Bản luận viết: “Không phải thường, không phải lạc, không phải ngã, không phải tịnh”.

Từ đây tiếp xuống là nêu rõ về công đức thứ sáu. Đó gọi là pháp vọng thiêu đốt chân tâm, nên gọi là nhiệt. Lại là thứ làm não loạn các chúng sinh, vì thế gọi là não. Phá diệt làm thay đổi đức khiến không tạo tác, do đó tức suy biến. Do sự việc này nên tất cả chúng sinh không được tự tại, vì thế cũng gọi là không tự tại. Quán xét sự việc này để làm đối xứng. Tức công đức trong mát tự tại bất biến được kiến lập hiển thị. Như Bản luận viết: “Nhiệt não suy biến thì không tự tại”.

Từ đây tiếp xuống là làm rõ về nghĩa của tướng công đức vô biên. Đó gọi là nói nếu pháp nhiễm của đối tượng đối trị có vô lượng vô số, thì pháp tịnh của chủ thể đối trị cũng có vô lượng vô biên. Như Bản luận viết: “Cho đến có đủ nghĩa của nhiễm vọng là không kể xiết. Đối lại nghĩa này nên tánh của tâm không động, thì nghĩa của tướng các công đức tịnh vượt quá Hằng sa số đã hiện rõ”.

Từ đây tiếp xuống là tóm kết về công đức viên mãn. Đó gọi là nếu một tâm pháp có tướng động chuyển, lại thấy cảnh giới ở trước có thể tạo duyên, thì tâm của chủ thể thấy và cảnh của đối tượng được thấy là hai thứ sai biệt, tức công đức của bản giác là không viên mãn. Nhưng tánh đức vốn có tuy vượt quá Hằng sa số, mà chỉ là một tâm lượng trọn không có hai thể. Vì sao? Vì các đức như thế, mỗi mỗi đức thảy đều không phân biệt thể. Đối với một pháp giới thì lượng ấy là như nhau, thế nên công đức của tự tánh viên mãn. Trong hai phần vị trói buộc và giải thoát, thường hằng đầy đủ gọi là pháp thân, gọi là Như Lai tạng. Như Bản luận viết: “Nếu tâm có dấy khởi lại thấy pháp trước có thể suy niệm, thì có chỗ thiếu sót. Như vậy pháp tịnh có vô lượng công đức, tức là một tâm, lại không có đối tượng suy niệm”, vì thế đầy đủ gọi là pháp thân, Như Lai tạng”. Số lượng nhiễm tịnh bình đẳng quyết trạch là dựa vào Khế kinh nào để giải thích? Đó là Kinh Văn Thù Sư Lợi Thiện Xảo Phương Tiện Tương tợ Thí Dụ Đại Đà La Ni. Trong Khế kinh ấy đã nêu giảng như thế nào? Tức nơi kinh ấy đã nêu rõ: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vâng theo thần lực của Phật, tức thì nói tụng:

Ví như A-chỉ-đa

Cây Già-na-thi-đế

Quả kia nhiều vô số

Biểu thật có mười loại.

Số lượng pháp nhiễm tịnh

Cũng nên biết như vậy

Hành giả dựa dụ này

Hiểu rõ lý chân vọng.

Nay văn của kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Vì muốn hiển thị về giả chính là đối đãi thật, chân quyết định nhờ vào vọng, vì không có pháp nào riêng lẻ tự lập. Nói biểu là dụ cho pháp nào? Nghĩa là dụ cho pháp vọng, vì vọng giả là không thật như bên ngoài của quả. Nói thật là dụ cho pháp nào? Đó là dụ cho pháp chân, vì chân thật không giả như bên trong của quả. Những gì gọi là mười loại như nhau? Đó là: (1) Số như nhau biểu thật, là khế hợp với số như nhau kia. (2) Trần như nhau biểu thật, là ngọn ngành nhỏ phối hợp với số lượng như nhau kia không có sai biệt. (3) Lượng như nhau biểu thật, là xét lường trọn không có sai biệt vì nặng nhẹ là như nhau. (4) Sắc như nhau biểu thật, là so sánh đồng một sắc trắng. (5) Hương như nhau biểu thật, là huân tập hương như nhau kia. (6) Vị như nhau biểu thật, là ăn uống không có sai biệt. (7) Xúc như nhau biểu thật, là thân xúc chạm như nhau không có sai biệt. (8) Bản như nhau biểu thật, là đồng dựa vào cây cối xuất sinh. (9) Câu như nhau biểu thật, là nơi một thời không có trước sau. (10) Đồng như nhau biểu thật, là cùng chung một vị. Đó gọi là mười loại như nhau. Phần nêu dụ hợp với pháp đã nêu bày rõ ràng nên không cần giải thích lại. Lại nữa, nếu hàng độn căn không thông tỏ sự việc này, thì dựa vào thí dụ về công đức, đen tối nên nhận biết về ý như nhau.

Đã nói về môn hiển thị về nghĩa của tự tướng đại. Tiếp theo là nói về môn hiển thị về nghĩa của tự dụng đại. Trong đây có sáu môn, như thứ lớp ấy nên quán xét kỹ.

Nói về môn bản nguyện vô tận, là A thế da (ý lạc) của Tăng na thanh tịnh, quảng đại, viên mãn không biên vực. Nghĩa là các Đức Như Lai trong vô lượng vô biên số kiếp nhiều như vi trần không thể nghĩ bàn, không thể lường xét đã dấy lên số lượng biển tâm đại từ bi nhiều như vi trần của mười phương thế giới, tu tập số lượng biển nhân đại viên mãn nhiều như vi trần của mười phương thế giới, gồm thâu số lượng biển của tất cả chúng sinh nhiều như vi trần của mười phương thế giới, tạo lập số lượng biển thệ nguyện quảng đại nhiều như vi trần của mười phương thế giới, thành tựu số lượng biển quả đại tự tại nhiều như vi trần của mười phương thế giới. Vì sao? Vì nhận biết như thật về nghĩa tương tục đồng nhất không khác. Như Bản luận viết: “Lại nữa, dụng của chân như, đó là chư Phật Như Lai gốc ở tại nhân địa, phát tâm đại từ bi, tu tập các pháp Ba-la-mật, thâu nhận giáo hóa chúng sinh, lập đại thệ nguyện, mong muốn độ thoát hết các cõi chúng sinh kia, cũng không hạn định số lượng kiếp tận cùng nơi đời vị lai, vì nhận lấy tất cả chúng sinh như bản thân mình”.

Đã nói về môn bản nguyện vô tận. Tiếp theo là nói về môn lìa tướng không chấp. Nói môn lìa tướng không chấp là ở trong đối tượng hành hóa, luôn xa lìa những thứ đã tạo, không sinh chấp trước. Nghĩa là các Đức Như Lai tuy phát tâm vô lượng vô biên đại bi gồm thâu hóa độ hết thảy Hằng hà sa chúng sinh, nhưng các Đức Như Lai không có mỗi mỗi vị Phật nào thâu giữ chúng sinh đã được hóa độ. Vì sao? Vì đã nhận biết rõ như thật về tất cả chúng sinh cùng với tự thân, chỉ là một chân như, chỉ là một pháp thân, không có tăng giảm, không có sai biệt. Như Bản luận viết: “Nhưng cũng không giữ lấy tướng chúng sinh. Ở đây là do nghĩa nào? Nghĩa là nhận biết như thật về tất cả chúng sinh cùng với tự thân là một chân như bình đẳng”.

Đã nói về môn lìa tướng không chấp. Tiếp theo là nói về môn chủ thể, đối tượng bình đẳng. Nói về môn chủ thể, đối tượng bình đẳng, là nói thể dụng lý trí của người pháp là bình đẳng không có sai biệt. Nghĩa là ba thân là pháp, ứng và hóa thân, cùng với hai lý của thật thật, giả giả, là bình đẳng một thể không sai biệt. Tự tánh nơi thân vốn có và thân thị hiện, là bình đẳng một thể không sai biệt. Chánh trí của chủ thể chứng đắc và như lý của đối tượng được chứng đắc là bình đẳng một thể không sai biệt. Do một thể nên không có hai thể, không có hai thể nên cũng không có một thể. Không hai, không một tức cũng không luôn cả không. Do nghĩa này nên bản tánh tự nhiên có đầy đủ công đức không nhờ vào tha lực. Trong Khế kinh Thậm Thâm Cực Diệu nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền thưa với Đức Phật: Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng dị dị dị? Thế nào gọi là tướng đồng đồng đồng? Đức Phật nói: Gọi là tướng dị dị dị, tức là vô minh. Gọi là tướng đồng đồng đồng, tức là pháp minh. Hai pháp như vậy như hai sừng của con bò. Tướng đối trị không phải là tiêu tan mà dung hợp thể như hai thứ không tuyệt. Vì vậy hai pháp này gọi là chẳng phải quán pháp hư giả. Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tức vâng theo thần lực của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: Thế Tôn! Thế nào gọi là chẳng phải pháp quán hư giả? Tướng ấy là có thể nói hay không thể nói, lấy gì làm môn tương ưng để nhận biết? Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền bảo Văn-thù-sư-lợi: Trong biển lớn của tất cả các Khế kinh Ta đã giảng nói như vầy: Dị là vô minh, đồng là minh. Vì nhằm độ thoát cho hạng phàm phu ngu tối, nên theo phương tiện nêu bày như thế. Nhưng hôm nay vì ông Ta giảng nói chân thật về pháp ấy. Này Văn-thù-sư-lợi! Nói chẳng phải là pháp quán hư giả, là đồng dị quy về đồng, đồng đồng quy về không, không không quy về tuyệt, cho đến nói rộng”. Như Bản luận viết: “Do có trí đại phương tiện như vậy, trừ diệt vô minh thấy rõ pháp thân vốn có, tự nhiên mà có vô số thứ dụng của hành nghiệp không thể nghĩ bàn, tức cùng với chân như bình đẳng hiện hữu khắp tất cả xứ”.

Đã nói về môn chủ thể, đối tượng bình đẳng. Tiếp theo là nói về môn vô tướng hiện ứng. Nói môn vô tướng hiện ứng: Là thể của thân tự tánh thì không tịch, không có hình tượng, có năng lực hiện các hình tượng. Ví như sừng thỏ thì thể của nó là hoàn toàn không có, khéo có thể sinh ra tất cả loại sừng. Nghĩa là pháp thân Phật chỉ là một một, chỉ là tịch tĩnh, cũng không phải là một một, cũng không phải là tịch tĩnh, là xứ tâm hành diệt, đạo ngôn ngữ đoạn, mà diệt diệt đoạn đoạn chỉ là không làm thành không. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chỉ từ nơi tự thân không có tha thân. Nhưng các chúng sinh thấy nghe đạt được lợi ích, là từ trong tâm lượng thu được lợi ích, vì trong thể của pháp thân không có quan hệ. Như Bản luận viết: “Lại cũng không có tướng dụng để có thể thủ đắc. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chỉ là pháp thân, là thân của trí tướng, là đệ nhất nghĩa đế, không có cảnh giới của thế đế, lìa nơi hành tác, chỉ tùy theo chúng sinh thấy nghe có được lợi ích nên nói là dụng”.

Đã nói về môn vô tướng hiện ứng. Tiếp theo là nói về môn tùy thấy thô tế. Theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn ứng thân dụng tướng sai biệt. Hai là môn báo thân dụng tướng sai biệt. Môn đầu là thế nào? Đó gọi là hết thảy phàm phu, hàng Nhị thừa, vì không thể thông tỏ về tất cả các pháp chỉ là dụng lượng của một tâm nơi tông chỉ thâm diệu. Dựa nơi sự thức vọng tưởng phân biệt khắp thấy ứng hóa thân tạo sự hiểu biết của ngoại lượng, không thể thông đạt, không có phân giới, chuyển đổi phân biệt. Như Bản luận viết: “Dụng này có hai loại. Những gì là hai loại? Một là dựa vào sự thức phân biệt là đối tượng thấy biết của tâm phàm phu, Nhị thừa, gọi là ứng thân, vì không nhận biết là từ chuyển thức hiện, nên thấy từ bên ngoài, đến giữ lấy hình sắc nơi giới hạn có sai biệt, tức không thể nhận biết hết”. Môn tiếp theo nói về gì? Đó gọi là tất cả Bồ-tát từ vị tín giải thứ nhất cho đến địa kim cang, thông đạt sáng rõ về tất cả các pháp, chỉ là dung lượng của một tâm tông chỉ thâm diệu. Dựa vào thức nghiệp ấy thấy rõ báo thân Phật, tạo sự hiểu biết chỉ do thức, thông tỏ y chánh không có giới hạn sai biệt. Như Bản luận viết: “Hai là dựa vào thức nghiệp, nghĩa là đối tượng thấy biết của tâm các vị Bồ-tát từ mới phát tâm, cho đến Bồ-tát ở địa sau cùng, gọi là báo thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Dựa vào quả vị đã an trụ cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy theo nơi chốn thị hiện, tức không có biên vực nào là không thể cùng tận, lìa tướng giới hạn có sai biệt, tùy theo chỗ ứng hợp, luôn có thể trụ giữ, không hoại, không mất”.

Từ đây tiếp xuống là nêu rõ về tướng sai biệt của báo thân và ứng thân. Nói là báo: Là có đủ nhân thắng diệu thọ nhận quả cực vui, tự nhiên tự tại quyết định an lạc, xa lìa tướng khổ nên gọi là báo. Như Bản luận viết: “Công đức như vậy đều nhân nơi các Ba-la-mật, cùng hành vô lậu huân tập và thành tựu sự huân tập không thể nghĩ bàn, đầy đủ vô lượng tướng lạc nên gọi là báo. Nói là ứng: Là tùy thuận căn cơ nhưng không trái nhau, tùy thời, tùy xứ, tùy nẻo mà xuất hiện, không phải tướng an lạc nên gọi là ứng. Như Bản luận viết: “Lại, đối tượng thấy biết của hàng phàm là sắc thô kia, tùy theo sáu đường đều thấy không đồng, vô số chủng loại khác nhau, không phải là thọ nhận tướng lạc nên nói là ứng”.

Từ đây tiếp xuống là lại tạo giải thích lần nữa, làm rõ về những điều đã nói ở trước. Đó gọi là nơi vị vị đều thấy Phật có tăng giảm sai khác. Nghĩa này là thế nào? Nếu các Bồ-tát của vị ba Hiền, vì tin chân như, thấy được phần báo thân, quán biết sắc tướng không có lượng giới hạn sai biệt. Nhưng các Bồ-tát này không thể lìa khỏi tâm phân biệt. Vì sao? Vì chưa thể hội nhập phần vị chân như. Như Bản luận viết: “Lại nữa, đối tượng thấy biết của hàng Bồ-tát mới phát tâm là do vui tin sâu vào pháp chân như, nên thấy được phần ít, nhận biết các sự việc như trang nghiêm v.v… của sắc tướng kia, không đến không đi, lìa nơi giới hạn sai biệt, chỉ dựa vào tâm hiện không lìa chân như. Nhưng các Bồ-tát này cũng còn tự phân biệt, vì chưa hội nhập phần vị pháp thân”. Nếu các vị Bồ-tát đạt đến mười địa, thì như thứ lớp ấy chuyển thành cứu cánh thù thắng. Như Bản luận viết: “Nếu đạt được tâm tịnh tức đã thấy sắc thân vi diệu thì dụng kia chuyển thắng, cho đến Bồ-tát nơi địa sau cùng thì thấy hoàn toàn”. Nếu trong quả Phật, thức nghiệp được gieo trồng từ trước không thực có, thì chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết cũng lại hoàn toàn không có. Vì sao? Vì hết thảy chư Phật là chân như chân như, bình đẳng bình đẳng. Pháp thân pháp thân là bình đẳng bình đẳng, không đây không kia, không ngã không tha, không lớn không nhỏ, không cao không thấp, không không không có, hý luận đều hết, suy nghĩ nhận biết cũng không, chỉ một đại không là bản trí của chân như. Mặc áo Già già lợi sa na đề, ở nơi cung Kiện thi đa đà ma, thân tự tánh an tọa chỉ riêng còn không hai. Như Bản luận viết: “Nếu lìa thức nghiệp thì không thấy tướng, vì pháp thân của chư Phật không có sắc tướng đây kia, lần lượt cùng thấy”. Vì sao trong chương Ứng Thân giảng nói như vầy: “Dựa nơi thức phân biệt sự mà thấy Phật kia”. Trong chương Báo Thân thì nói như vầy: “Dựa nơi thức nghiệp mà thấy Phật kia”. Đó là vì muốn nêu rõ tùy theo thức thô tế mà thân Phật được thấy cũng theo đấy có thô tế.

Đã nói về môn tùy thấy thô tế. Tiếp theo là nói về môn nêu hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Ở nơi môn này có hai. Những gì là hai? Một là hỏi. Hai là đáp. Trong môn nêu đáp tức có năm môn. Những gì là năm? Một là môn pháp thân xuất hiện sắc tướng. Hai là môn hiển thị hình tướng trí thân. Ba là môn hiển thị hình tướng pháp thân. Bốn là môn quảng đại viên mãn không biên giới. Năm là môn thù thắng không thể nghĩ bàn. Đây gọi là năm môn. Như thứ lớp ấy đã nói về tướng có thể quán xét.

Ý lạc của người hỏi tướng ấy là thế nào? Đó là người hỏi nêu nghi vấn như vầy: Tự thể chân thật của pháp thân kia tất là thăm thẳm dứt bặt suy lường, tịch tĩnh danh đoạn. Vậy thì sắc tướng tạo nghiệp do gì mà có? Trong phần quyết trạch về vô tướng hiện ứng đã giảng nói như vầy: Pháp thân vô tướng có thể hiện bày sắc tướng. Nếu có thể xuất hiện vô số sắc tướng, thì không thể nói cho pháp thân là không tịch lìa hẳn lãnh vực sắc tượng. Nghi hoặc như vậy nên phát khởi câu hỏi này. Như Bản luận viết: “Hỏi: Nếu pháp thân của chư Phật lìa nơi sắc tướng, thì vì sao có thể hiện bày sắc tướng?”. Từ đây trở xuống chính là trừ bỏ nghi này. Nói về môn pháp thân xuất hiện sắc tướng, là tự tánh nơi pháp thân có thể vì sắc tướng làm nơi chốn nương dựa nên khéo xuất hiện sắc tướng không có chướng ngại. Vì sao? Vì sắc pháp của chủ thể nương dựa và tâm pháp của đối tượng được nương dựa, từ vô thủy đến nay là bình đẳng bình đẳng, không có hai thể, chỉ là một tâm lượng. Như Bản luận viết: “Đáp: Tức pháp thân này là thể của sắc nên có thể hiện nơi sắc. Đó gọi là từ xưa đến nay sắc tâm là không hai”. Nói về môn hiển thị hình tướng trí thân: Là dùng trí gồm thâu sắc, không có mỗi một sắc nào mà không phải là trí, nên gọi là trí thân. Như Bản luận viết: “Vì tánh của sắc tức là trí, thể của sắc là vô hình nói là trí thân”. Nói về môn hiển thị hình tướng pháp thân: Là dùng sắc gồm thâu trí, không có mỗi một trí nào mà không phải là sắc, nên gọi là pháp thân. Như Bản luận viết: “Do tánh của trí tức là sắc, nên nói là pháp thân”. Nói về môn quảng đại viên mãn không biên giới, thì hai thân như vậy là đã hiện sắc tướng, bình đẳng khắp nơi trong cảnh giới của tất cả chúng sinh, cảnh giới của tất cả hàng phi tình, cảnh giới của tất cả hư không, cảnh giới của tất cả Niết-bàn, cảnh giới của tất cả Như Lai, không nơi nào là không thông suốt, không chốn nào là không đi đến, không phương nào là không thích hợp, không chỗ nào là không tụ hội, không hướng nào là không tạo tác, cũng không có phần hạn, cũng không có chướng ngại, thuần thuần nhất nhất không cùng lẫn lộn. Như Bản luận viết: “Sắc đã hiện rõ khắp tất cả xứ không có giới hạn, tùy theo tâm có thể hiện bày khắp mười phương thế giới, vô lượng Bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi đều sai biệt, đều không có phần hạn, nhưng không ngăn ngại nhau”.

Nói về môn thù thắng không thể nghĩ bàn: Tức nghiệp dụng như vậy là rất sâu xa, hết sức vi diệu độc tôn thù thắng, không phải là nơi chốn có thể nhận biết của hàng phàm phu, Nhị thừa. Như Bản luận viết: “Điều này không phải là tâm thức phân biệt có thể nhận biết, do chính nơi dụng tự tại của chân như”. Như vậy, ba loại nghĩa của đại thâm diệu, trong hai thứ môn làm thế nào để an lập? Nghĩa là trong môn chân như thì ba loại nghĩa của đại, chỉ đều lập một, không cùng lập hai. Nếu trong môn sinh diệt thì ba loại nghĩa của đại tức cả ba loại nghĩa ấy đều song lập đầy đủ, vì không có trước sau để lấy đó làm sai khác. Vì thế trong Khế kinh Đại Ấn Đà La Võng Thí Dụ đã giảng nói như vầy: “Có nghĩa của thể đại thì không có tướng và dụng. Có nghĩa của tướng đại thì không có Thể và dụng. Có nghĩa của dụng đại thì không có Thể và tướng. Như vậy, ba đại có một thứ nhất không có một thứ hai. Lại nữa, có nghĩa của thể đại tức nên có tướng dụng. Có nghĩa của tướng đại tức nên có Thể dụng. Có nghĩa của dụng đại tức nên có Thể tướng. Như vậy, ba đại tùy thuận có một thứ nhất, có một thứ hai, không cùng lìa nhau”. Các thứ tướng còn lại, trong phần quyết trạch kết nối tổng trì tự sẽ nêu rõ về lý.

Đã nói về môn hiển thị ba loại nghĩa đại. Tiếp theo là nói về môn tự nhập môn phá dị môn.

* Bản luận viết: Lại nữa, hiện bày rõ là từ môn sinh diệt tức nhập nơi môn chân như. Đó gọi là suy tìm sắc của năm ấm cùng với tâm và cảnh giới của sáu trần rốt ráo là không niệm. Vì tâm không có hình tướng, cầu tìm khắp mười phương rốt cuộc là không thể đạt được. Như người mê lầm nên cho phương Đông phương Tây thật sự phương hướng không chuyển đổi. Chúng sinh cũng như vậy, vì vô minh làm cho mê hoặc nên nói tâm là niệm, thật sự thì tâm không động. Nếu có thể quán xét nhận biết tâm không khởi, tức được tùy thuận nhập nơi môn chân như.

* Luận giải thích: Nay văn của Luận này là nêu rõ về nghĩa gì? Vì nhằm đối trị các thứ dị chấp về rộng hẹp lớn nhỏ. Thế nào là dị chấp? Nghĩa là có chúng sinh khởi chấp như vầy: Tâm của một pháp giới là pháp gốc ấy thì cũng rộng cũng lớn. Hai môn chân vọng là pháp ngọn kia tức cũng hẹp cũng nhỏ. Do nhằm đối trị chấp trước này nên nêu bày như vầy: Môn cũng là đối tượng hội nhập, cùng với lượng căn bản là như nhau. Lại nữa, vì muốn hiển thị trong môn chân như không có tướng sai biệt của pháp hữu vi. Lại nữa, vì muốn hiển thị trí của năm ấm là không, như ấm của đối tượng không thì tự thể là hoàn toàn không. Do chủ thể không và đối tượng không này đều là không, tức nhập nơi môn chân như bình đẳng. Lại nữa, vì nhằm hiển bày chỉ rõ về môn sinh diệt là giả, môn chân như là thật. Như Bản luận viết: “Lại nữa, nêu rõ từ môn sinh diệt tức nhập nơi môn chân như. Đó là suy cầu sắc của năm ấm cùng với tâm và cảnh giới của sáu trần, rốt ráo là không có niệm, vì tâm không có hình tướng, nên cầu tìm khắp mười phương rốt cuộc là không thể đạt được”. Do nghĩa nào mà trong môn thí dụ, đông phương dụ cho giác, tây phương dụ cho niệm? Vì muốn nêu rõ về Bát nhã của bản giác, xuất hiện ánh sáng của trí tuệ thanh tịnh, chiếu sáng nơi đêm tối của sinh tử u minh. Ví như vầng mặt trời xuất hiện rồi, thì tỏa ra ánh sáng tịnh xua tan màn đêm của thế gian. Vô minh trụ địa xuất sinh các loại quyến thuộc của pháp nhiễm, che lấp vô lượng ánh sáng của trí tuệ thanh tịnh nơi tánh vô lậu. Ví như vầng mặt trời đã lặn rồi, thì đêm tối bao trùm tất cả ngăn che mắt thanh tịnh phân biệt nhận biết rõ. Như Bản luận viết: “Như người mê lầm nên cho phương đông là phương tây, thật sự thì phương hướng không chuyển đổi. Chúng sinh cũng như vậy, vì vô minh làm cho mê hoặc nên cho tâm là niệm, thật sự thì tâm không động”. Từ đây tiếp xuống là nêu rõ về tướng đạt được lợi ích. Nghĩa là có chúng sinh nhận biết rõ tâm pháp không có chủ thể dấy khởi và đối tượng dấy khởi là tướng sai khác, tức được thành tựu chân như tùy thuận, tức được thành tựu chân như đắc nhập. Vì không có tùy thuận thì không có đắc nhập. Như Bản luận viết: “Nếu có thể quán xét nhận biết tâm không dấy khởi, thì được tùy thuận nhập nơi môn chân như”.

Đã nói về môn tự nhập môn phá dị môn. Tiếp theo là nói về môn chánh giải đối trị tà chấp.

* Bản luận viết: Đối trị tà chấp: Là tất cả tà chấp đều dựa vào ngã kiến. Nếu lìa nơi ngã thì không có tà chấp. Ngã kiến này có hai loại. Những gì là hai loại? Một là ngã kiến của người. Hai là ngã kiến của pháp. Ngã kiến của người là dựa nơi các phàm phu, nói có năm loại. Những gì là năm loại?

Một là nghe kinh giáo nói về pháp thân của Như Lai hoàn toàn vắng lặng cũng như hư không. Do không nhận biết điều ấy là để phá trừ chấp trước, liền cho hư không là tánh của Như Lai. Đối trị như thế nào? Là nêu rõ về tướng hư không là pháp vọng, thể không có, không thật, vì đối với sắc nên có là tướng có thể thấy khiến tâm sinh diệt. Do tất cả sắc pháp xưa nay là tâm, thật sự không có sắc ngoài. Nếu không có sắc thì không có tướng của hư không. Đó gọi là tất cả cảnh giới chỉ do tâm vọng khởi nên có. Nếu tâm lìa nơi vọng động thì tất cả cảnh giới diệt, chỉ một chân tâm không nơi chốn nào là không hiện khắp. Đây gọi là nghĩa thuộc tánh trí quảng đại cứu cánh của Như Lai, không phải như tướng của hư không.

Hai là nghe kinh giáo nói các pháp của thế gian thể rốt ráo là không. Cho đến pháp chân như Niết-bàn cũng rốt ráo là không. Từ xưa đến nay tự là không lìa tất cả tướng. Vì không nhận biết đây là để phá trừ chấp trước, liền cho tánh của chân như Niết-bàn chỉ là không. Đối trị như thế nào? Là nêu rõ tự thể của pháp thân chân như là chẳng không, vì có đầy đủ vô lượng tánh công đức.

Ba là nghe kinh giáo nói Như Lai tạng không có tăng giảm, thể gồm đủ pháp của tất cả công đức. Vì không hiểu nên tức cho: Như Lai tạng có pháp sắc tâm và tự tướng sai biệt. Đối trị như thế nào? Do chỉ dựa vào nghĩa chân như để nói nên nhân nơi nghĩa của pháp nhiễm sinh diệt hiện rõ để nói về sai biệt.

Bốn là nghe kinh giáo nói tất cả pháp như nhiễm của thế gian như sinh tử đều dựa vào Như Lai tạng mà có, vì tất cả các pháp không lìa nơi chân như. Do không hiểu rõ nên cho tự thể của Như Lai tạng có đủ tất cả các pháp như sinh tử v.v… của thế gian. Đối trị như thế nào? Vì Như Lai tạng từ xưa đến nay chỉ có các nghĩa của chân như không lìa không không không khác và các công đức tịnh vượt quá Hằng sa số. Do các pháp nhiễm như phiền não vượt quá Hằng sa số, chỉ là vọng có, tánh tự vốn không, nên từ vô thủy đời kiếp đến nay chưa từng cùng với Như Lai tạng tương ưng. Nếu thể của Như Lai tạng có pháp vọng mà khiến chứng đắc hội nhập, vĩnh viễn dứt trừ pháp vọng, thì không có điều ấy.

Năm là nghe kinh giáo nói dựa vào Như Lai tạng nên có sinh tử, dựa vào Như Lai tạng nên được Niết-bàn. Do không hiểu rõ nên cho chúng sinh là có bắt đầu. Vì thấy có bắt đầu, nên lại cho Niết-bàn do Như Lai đạt được là có chung cuộc chấm dứt, tức trở lại làm chúng sinh. Đối trị như thế nào? Vì Như Lai tạng không có đời trước, nên tướng của vô minh cũng không có bắt đầu. Nếu nói ngoài ba cõi lại có chúng sinh mới sinh khởi, tức là kinh sách của ngoại đạo nói. Lại, Như Lai tạng không có đời sau, vì Niết-bàn của chư Phật đạt được là cùng với đấy tương ưng, nên Niết-bàn ấy không có đời sau.

Ngã kiến của pháp là dựa vào hàng độn căn của Nhị thừa. Như Lai chỉ vì họ giảng nói về người vô ngã, vì thuyết giảng không rốt ráo, nên họ thấy có pháp sinh diệt của năm ấm, sợ hãi sinh tử, nên vọng giữ lấy Niết-bàn. Đối trị như thế nào? Vì pháp của năm ấm, tự tánh là không sinh, thì không có Niết-bàn xưa nay diệt. Lại nữa, hoàn toàn lìa vọng chấp, nên biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều là cùng đối đãi, không có tự tướng để có thể nêu bày. Vì vậy tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng phải là sắc, chẳng phải là tâm, chẳng phải là trí, chẳng phải là thức, chẳng phải là có, chẳng phải là không, hoàn toàn không thể nói về tướng. Nhưng có ngôn thuyết, nên biết là Đức Như Lai đã dùng phương tiện thiện xảo, mượn ngôn ngữ diễn tả để dẫn dắt chúng sinh. Tông chỉ sâu xa kia đều là nhằm lìa niệm quy về chân như, do niệm về tất cả các pháp thì khiến tâm sinh diệt không hội nhập với thật trí.

* Luận giải thích: Tức trong văn này tự có bốn môn. Những gì là bốn môn? Một là môn nêu rõ về tổng tướng căn bản. Hai là môn nêu rõ về đối trị nhân kiến. Ba là môn nêu rõ về đối trị pháp kiến. Bốn là môn nêu rõ câu phi tuyệt ly. Đó gọi là bốn môn.

Nói về môn nêu rõ về tổng tướng căn bản: Là vô lượng vô biên tất cả tà đạo vượt quá Hằng sa số, vô lượng vô biên tất cả định chấp vượt quá Hằng sa số, đều lấy ngã kiến làm nơi chốn nương dựa của mình, sinh ra và tăng trưởng lại không có trọn vẹn, vì những thứ tà chấp này làm căn bản. Do vậy trong Khế kinh Vô Minh Trụ Địa Vô Biên Tế giảng nói như sau: “Tất cả vô lượng các loại biển tà luận hư vọng đã lấy núi lớn ngã kiến làm nơi nương dựa để chuyển biến. Ví như tất cả vô lượng vô biên các loại cây rừng, các loại cỏ cây, thảy đều lấy núi làm nơi nương dựa để chuyển biến”. Như Bản luận viết: “Đối trị tà chấp là tất cả tà chấp đều dựa nơi ngã kiến. Nếu lìa nơi ngã thì không có tà chấp. Ngã kiến này có hai loại. Những gì là hai loại? Một là ngã kiến của người. Hai là ngã kiến của pháp”.

Đã nói về môn nêu rõ về tổng tướng căn bản. Tiếp theo là nói về môn nêu rõ về sự đối trị nhân kiến. Nói về môn nêu rõ về sự đối trị nhân kiến: Chính là đối trị tà định tụ và bất định tụ, là những lỗi lầm của tất cả hàng phàm phu đã chấp sai lạc, để sinh khởi kiến giải thắng diệu. Tướng riêng để đối trị chướng ngại của năm loại nhân kiến phần văn đã nêu rõ nên không cần giải thích lại. Lại nữa, không có gì là chính yếu. Như Bản luận viết: “Ngã kiến của người là dựa vào các phàm phu để nói có năm loại… cho đến nói rộng. Lại nữa, Như Lai tạng không có đời sau, Niết-bàn của chư Phật đã chứng đắc cùng với Như Lai tạng kia tương ưng tức Niết-bàn không có đời sau”.

Đã nói về môn nêu rõ về sự đối trị nhân kiến. Tiếp theo là nói về môn nêu rõ về sự đối trị pháp kiến. Nói về môn nêu rõ về sự đối trị pháp kiến: Là trực tiếp đối trị lỗi lầm của hàng Nhị thừa choc so sánh là thật có, khiến thành tựu được lý lớn của pháp không. Tướng riêng để đối trị chướng ngại của hai loại pháp kiến, trong văn đã nêu rõ nên không cần giải thích lại. Như Bản luận viết: “Ngã kiến của pháp là dựa vào hàng độn căn của Nhị thừa. Như Lai chỉ vì giảng nói về nhân vô ngã… cho đến nói rộng. Tức không có Niết-bàn xưa nay diệt”.

Đã nói về môn nêu rõ về sự đối trị pháp kiến. Tiếp theo là nói về môn nêu rõ về câu phi tuyệt ly. Nói về môn nêu rõ về câu phi tuyệt ly (cùng dứt lìa cả hai): Là nếu như có chúng sinh trừ bỏ được hai chấp, chứng đắc hai không, thông đạt các pháp là đạo ngôn ngữ đoạn, xứ tâm hành diệt, đoạn trừ lại đoạn trừ, soi chiếu vắng lặng, diệt hết lại diệt hết, suy lường chấm dứt, không có đối tượng thông đạt. Như Bản luận viết: “Lại nữa, rốt ráo lìa vọng chấp, nên biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều là cùng đối đãi, không có tự tướng để có thể nêu bày. Vì vậy tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng phải là sắc, chẳng phải là tâm, chẳng phải là trí, chẳng phải là thức, chẳng phải là có, chẳng phải là không, hoàn toàn là không thể nói về tướng… cho đến nói rộng, khiến tâm sinh diệt không hội nhập với thật trí”.

HẾT – QUYỂN 6

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10