LUẬN THÍCH MA HA DIỄN
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Phiệt Đề Ma Đa.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 10

Đã nói về môn tán thán công đức của tam muội. Tiếp theo là nói về môn hai luân đủ thiếu, tăng giảm.

* Bản luận viết: Lại nữa, nếu người chỉ tu tập pháp chỉ, thì tâm trầm lặng, hoặc sinh khởi lười nhác không vui thích các thứ thiện, xa lìa đại bi. Vì vậy cần tu quán. Tu tập pháp quán là nên quán xét tất cả pháp hữu vi của thế gian, không thể dừng trụ lâu mà phút chốc biến hoại, tất cả tâm hành niệm niệm sinh diệt, do đấy nên khổ. Nên quán xét các pháp đã nhớ nghĩ của quá khứ thì lờ mờ không rõ như mộng huyễn. Nên quán xét các pháp đang nhớ nghĩ của hiện tại giống như ánh chớp. Nên quán xét các pháp sẽ nhớ nghĩ của vị lai cũng như là mây nổi hốt nhiên khởi lên. Nên quán xét tất cả hữu thân ở thế gian thảy đều bất tịnh, đủ loại cấu uế, không một thứ gì đáng yêu thích. Như vậy tức nên suy niệm: Tất cả chúng sinh từ đời kiếp vô thủy đến nay đều nhân nơi vô minh đã huân tập, khiến tâm sinh diệt, đã thọ nhận khổ lớn của hết thảy thân tâm, hiện tại tức có vô lượng bức bách, đời vị lai thọ khổ cũng không có giới hạn sai biệt, khó bỏ, khó lìa, lại không hiểu biết. Chúng sinh như vậy rất là đáng thương xót. Khởi lên tư duy ấy, tức nên dũng mãnh lập thệ nguyện lớn, nguyện khiến tâm ta lìa các thứ phân biệt, ở khắp mười phương tu hành tất cả các công đức thiện. Tận cùng nơi đời vị lai dùng vô lượng phương tiện, cứu độ tất cả chúng sinh khổ não, khiến đạt được Niết-bàn đệ nhất nghĩa an lạc. Do khởi nguyện như thế, nên đối với tất cả thời, tất cả xứ hiện có các thiện đều tùy theo khả năng của mình luôn tu học không lìa bỏ, tâm không biếng trễ, chỉ trừ lúc an tọa chuyên niệm nơi pháp chỉ, tất cả thời gian còn lại đều nên quán xét về điều nên làm và không nên làm. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc dậy, đều thuận theo chỉ quán cùng hành. Đó là tuy suy niệm tự tánh của các pháp là không sinh, nhưng lại liền nghĩ về nhân duyên hòa hợp, các báo như khổ vui v.v… của nghiệp thiện ác là không mất không hoại. Tuy nghĩ về nhân duyên nơi nghiệp báo thiện ác, nhưng cũng tức nhớ nghĩ về tánh chẳng thể thủ đắc. Nếu tu pháp chỉ thì đối trị hành trụ chấp nơi thế gian của hạng phàm phu, có thể xả bỏ kiến giải khiếp nhược của hàng Nhị thừa. Nếu tu pháp quán thì đối trị lỗi lầm của tâm ý hẹp kém không phát khởi đại bi của hàng Nhị thừa, xa lìa hàng phàm phu không tu tập căn thiện. Do nghĩa ấy nên hai môn chỉ quán luôn cùng tương trợ để thành tựu, không lìa bỏ nhau. Nếu chỉ quán không gồm đủ thì không thể hội nhập nơi đạo Bồ-đề.

* Luận giải thích: Theo trong văn này tức có sáu môn. Những gì là sáu môn? Đó là: (1) Môn nêu ra lỗi lầm của luận chỉ do thiếu quán. (2) Môn hiển thị về tu hành luân quán. (3) Môn duyên nơi cảnh giới chúng sinh để lập nguyện. (4) Môn nêu hai luân cùng chuyển không lìa. (5) Môn hiển thị hai luân đã đối trị. (6) Môn tổng kết hai luân cùng chuyển.

Theo trong môn thứ nhất tức có bốn lỗi lầm. Những gì là bốn lỗi lầm? Một là lỗi lầm do chìm đắm. Vì tâm có nhiều mê muội nên không thể nhận biết rõ. Như đi vào trong căn nhà tối tăm của Ma-kiện-ha thi. Như Bản luận viết: “Lại nữa, nếu người chỉ tu tập pháp chỉ thì tâm trầm lặng”. Hai là lỗi lầm do không siêng năng. Vì tâm ấy biếng trễ nên không thể tinh tấn, như người A na tỳ đề. Như Bản luận viết: “Hoặc sinh khởi lười nhác”. Ba là lỗi lầm do bỏ điều thiện. Vì tâm chuyên nhất không thể phân biệt được điều gì nên làm và không nên làm, như người Bà đa ha di thi. Như Bản luận viết: “Không vui thích các pháp thiện”. Bốn là lỗi lầm do lìa tâm bi. Vì tâm ấy an tịch không thể phát khởi tâm đại từ bi. Như người căn bị hoại thì những mong muốn nơi tự thân lại không tăng trưởng. Như Bản luận viết: “Xa lìa tâm đại bi”. Vì vậy cần tu pháp quán, tức là khuyên cùng chuyển.

Đã nói về môn nêu ra lỗi lầm của luân chỉ do thiếu quán. Tiếp theo là nói về môn hiển thị về tu hành luân quán. Ở đây tức có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn quán về tướng khổ. Hai là môn quán về vô thường. Ba là môn quán về bất tịnh.

Trong môn thứ nhất quán về tướng khổ có hai loại. Những gì là hai loại? Một là hoại khổ. Hai là hành khổ.

Nói về hoại khổ: Là tất cả pháp hữu vi thanh tịnh, có thể hoại tất cả pháp không thanh tịnh. Cũng như tất cả các pháp không thanh tịnh có thể hủy hoại tất cả các pháp thanh tịnh. Lại nữa, hai loại thế gian cũng hỗ tương hủy hoại. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Thế gian gồm đủ tất cả. (2) Thế gian hữu vi vọng tưởng.

Như vậy, pháp của hai loại thế gian là cùng hủy hoại lẫn nhau, vì thế nói là hoại khổ. Nếu tu pháp quán này thì đạt được lợi ích gì? Đó nghĩa là thành tựu một pháp thâm diệu do một mình tự làm. Như Bản luận viết: “Tu tập pháp quán là nên quán xét tất cả các pháp hữu vi của thế gian, không thể dừng trụ lâu mà chỉ phút chốc thì biến hoại”.

Nói về hành khổ: Là tất cả tâm hành ở trong niệm niệm luôn luôn dời chuyển, chóng sinh chóng diệt, không thể từ xứ này đến nơi xứ kia. Như Bản luận viết: “Tất cả tâm hành thì niệm niệm sinh diệt, vì thế nên khổ”.

Đã nói về môn quán tướng khổ. Tiếp theo là nói về môn quán vô thường. Theo trong môn này tức có ba loại. Những gì là ba loại? Đó là: (1) Vô thường đã qua: Là các pháp quá khứ trước có sau không. Ví như giấc mộng lúc ngủ say thì có nhưng khi tỉnh giấc thì không có gì. Như Bản luận viết: “Nên quán xét các pháp đã nhớ nghĩ của quá khứ thì lờ mờ không rõ giống như mộng huyễn”. (2) Vô thường nay đang có: Là các pháp hiện tại, xưa không nay có, ví như ánh chớp tức thì liền diệt không thể dừng trụ lâu. Như Bản luận viết: “Nên quán xét các pháp đã nhớ nghĩ của hiện tại cũng như ánh chớp”. (3) Vô thường sẽ có: Là các pháp vị lai không có tự tánh hốt nhiên hiện đến, ví như mây nổi không biết từ đâu có, bỗng nhiên nổi lên khắp các phương. Như Bản luận viết: “Nên quán xét các pháp sẽ nhớ nghĩ của vị lai giống như mây nổi hốt nhiên khởi lên”.

Đã nói về môn quán vô thường. Tiếp theo là nói về môn quán bất tịnh. Nói quán bất tịnh: Là duyên với vô số thân khởi lên kiến giải về bất tịnh, xa lìa tham. Như Bản luận viết: “Nên quán xét tất cả hữu thân của thế gian thảy đều bất tịnh, có đủ loại cấu uế, không một thứ gì đáng yêu thích”.

Đã nói về môn hiển thị tu hành luân quán. Tiếp theo là nói về môn duyên với chúng sinh giới để lập nguyện. Theo trong môn này tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là môn duyên với chúng sinh để khởi tư duy. Hai là môn kiến lập thệ nguyện khắp chốn.

Nói về môn duyên với chúng sinh để khởi tư duy: Nghĩa là duyên với vô lượng vô biên hết thảy chúng sinh trong ba cõi, khởi suy niệm như vầy: Từ vô thủy đến nay, vì bị vô minh căn bản che lấp, nên đã từ bỏ Phật tánh thanh tịnh của bản giác tự có, không biết ngày trở về nguồn cội, thời gian ra khỏi chốn che lấp của vô minh thì lại càng xa vời. Nếu ta không phát khởi tâm bi, không thâu giữ các chúng sinh, thì con đường đi đến quả vị chánh giác chỉ vượt quá vô số kiếp, thật sự là không có kỳ hạn. Vì thế nên phát khởi tâm đại bi không giới hạn. Như Bản luận viết: “Như thế là nên suy niệm: Tất cả chúng sinh từ đời kiếp vô thủy đến nay, đều nhân nơi vô minh đã huân tập, nên khiến tâm sinh diệt, đã nhận lấy khổ lớn của hết thảy thân tâm, hiện tại tức có vô lượng thứ bức bách, đời vị lai thọ nhận khổ cũng không có giới hạn, khó bỏ khó lìa lại không hiểu biết. Chúng sinh như vậy thật là đáng thương xót”.

Nói về môn kiến lập thệ nguyện khắp chốn: Nghĩa là khởi tư duy như vậy rồi, tức lập thệ nguyện lớn, phát ra ánh sáng trí tuệ soi chiếu vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương, thông hiểu các loại tướng tâm trong vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương ấy, đối trị tất cả các phiền não nghiệp chướng trong vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương ấy, làm viên mãn biển hành nhân trong vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương ấy, chứng đắc quả đức trong vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương ấy, tất cả đều khiến trọn vẹn. Như Bản luận viết: “Khởi tư duy này, tức nên dũng mãnh lập thệ nguyện lớn, khiến tâm ta lìa các thứ phân biệt, ở khắp mười phương tu hành tất cả các công đức thiện, tận cùng đời vị lai dùng vô lượng phương tiện, cứu độ hết thảy chúng sinh khổ, khiến đạt được Niết-bàn đệ nhất nghĩa an lạc”.

Đã nói về môn duyên với chúng sinh giới để lập nguyện. Tiếp theo là nói về môn hai luân cùng chuyển không lìa. Đó là khởi lập thệ nguyện như vậy rồi, thì không ngừng tu tập hành trì biển nhân. Nếu như dấy khởi biển nguyện mà không siêng năng tu hành, thì không thể trang nghiêm làm viên mãn quả. Nếu là tu hành thì nên hành trì như thế nào? Nghĩa là gồm đủ hai luân khiến không thiên lệch. Có đủ tướng của hai luân thì trong Khế kinh nào đã nêu rõ về điều ấy? Đó là trong Khế kinh Văn Thù Sư Lợi Phát Khởi Thập Vạn Nhất Thiên Chủng Thậm Thâm Quảng Đại Viên mãn Đà La Ni Khai Vấn Vấn Đại Giác Tôn Ích Đại Chúng Hải. Trong Khế kinh ấy đã giảng nói như thế nào? Đó là ở trong Khế kinh ấy giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền bạch Phật: Thế Tôn! Thế nào gọi là môn chỉ quán cùng hành không lìa nhau? Con cùng với tất cả vô lượng vô biên biển đại chúng thảy đều đi vào biển lớn của vô minh không hiểu không biết, không thể thông đạt, không thể xuất ly. Như chỗ thích hợp, nguyện xin Đức Thế Tôn vì chúng con và các hàng nam nữ mê muội cần được hiển thị phân minh. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ. Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Ví như chim thiếu cánh

Và chỉ một bánh xe

Người đồng phần một chân

Ngựa thiếu mắt thật nguy.

Không thể bay cao xa

Không chuyển được hàng hóa

Đi qua các nẻo đường

Không rơi hầm nẻo ác.

Nếu đầy đủ một luân

Hành giả thiếu một luân

Cũng lại biết như vậy

Do thật kia không có.

Trong hư không pháp tánh

Nương như lượng trí bay

Vào nơi biển pháp tạng

Chuyên chở báu nghĩa lý.

Nơi đường phẳng chân như

Đi lại thông suốt khắp

Hết thảy ma, ngoại đạo

Trong hầm sâu tà kiến.

Không lại rơi xuống hố

Thế nên các hành giả

Hai luân gồm đủ chuyển

Trọn không thể lìa bỏ.

Nếu có người tu hành

Không đủ hai luân này

Chung không thể thông đạt

Địa Đại giác vô thượng.

Nay nơi văn kinh này là nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiển bày chỉ rõ tu tập tam muội đạt được cảnh giới tịch tĩnh, tu tập trí tuệ soi chiếu cảnh giới tán động. Ở trong tịch tĩnh luôn không bỏ động. Ở trong tán loạn thường không lìa tịch. Nhưng không cùng lìa bỏ vì cùng hành cùng chuyển.

Lại nữa, vì nhằm hiển thị về tu tập tam muội đạt được cảnh giới rỗng lặng, tu tập trí tuệ soi chiếu cảnh giới đang có. Ở trong không vướng mắc vào có. Ở nơi có không nhiễm chấp vào không. Có không cùng soi chiếu, không có biện riêng. Nhưng không cùng lìa bỏ vì cùng hành cùng chuyển.

Lại nữa, vì muốn nêu bày chỉ rõ tu tập tam muội đạt được lý bình đẳng, tu tập trí tuệ soi chiếu sự sai biệt. Lý sự cùng đạt không có lệch về bên nào. Nhưng không lìa bỏ nhau vì cùng hành cùng chuyển.

Lại nữa, vì muốn làm rõ chỉ cần phải đợi quán mới được kiến lập, vì không phải là chỉ của tự tánh. Quán cần phải đợi chỉ mới được kiến lập, vì không phải là quán của tự tánh, vì cũng không có chỉ cũng không có quán.

Lại nữa, vì nhằm làm rõ chỉ tức là quán, quán tức là chỉ. Chỉ quán cùng một thể không có sai biệt. Như thứ lớp ấy nên xét chọn kỹ.

Như Bản luận viết: “Vì phát khởi nguyện như vậy, nên nơi tất cả thời, nơi tất cả xứ hiện có chúng thiện, tùy theo khả năng của mình không bỏ việc tu học, tâm không biếng trễ. Chỉ trừ lúc an tọa chuyên niệm đối với chỉ, tất cả thời gian còn lại đều nên quán xét điều gì nên làm và không nên làm. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc dậy, đều thuận theo chỉ quán cùng hành. Đó gọi là tuy suy niệm tự tánh của các pháp là không sinh, nhưng lại tức suy niệm về nhân duyên hòa hợp thì các báo như khổ vui v.v… của nghiệp thiện ác đều không mất không hoại. Tuy suy niệm về nhân duyên nơi nghiệp báo thiện ác, nhưng cũng tức suy niệm về tánh chẳng thể thủ đắc”.

Đã nói về môn hai luân cùng chuyển không lìa. Tiếp đến là nói về môn hiển thị hai luân đã đối trị. Nếu có hành giả tu tập luân chỉ thì sẽ đối trị những lỗi lầm nào? Nghĩa là đối trị lỗi lầm của chúng sinh phàm phu chấp trước nơi có, cùng lỗi lầm của chúng sinh Nhị thừa vui thích nơi không. Cả hai lỗi lầm này đều dứt lìa hẳn. Như Bản luận viết: “Nếu tu pháp chỉ thì đối trị hàng phàm phu trụ chấp nơi thế gian, có thể xả bỏ kiến giải khiếp nhược của hàng Nhị thừa”.

Nếu có hành giả tu tập luân quán thì sẽ đối trị những lỗi lầm nào? Nghĩa là đối trị lỗi lầm của chúng sinh Nhị thừa đã xa lìa đại bi, không cứu độ chúng sinh khổ não, thấp kém. Đối trị lỗi lầm của chúng sinh phàm phu thường xuyên biếng trễ không thể tinh tấn, không tu phẩm thiện, ưa thích điều ác. Cả hai lỗi lầm cùng nên xuất ly. Như Bản luận viết: “Nếu tu pháp quán thì đối trị lỗi lầm của tâm ý hẹp kém không phát khởi đại bi của hàng Nhị thừa, xa lìa hàng phàm phu không tu căn thiện”.

Đã nói về môn hiển thị về hai luân đã đối trị. Tiếp theo là nói về môn tổng kết hai luân cùng chuyển. Nghĩa là tổng kết như trên đã nói về lỗi lầm lớn của hành giả khi tu tập không đồng bộ về hai luân chỉ quán. Như Bản luận viết: “Do nghĩa này nên môn chỉ quán là cùng tương trợ để thành tựu, không cùng lìa bỏ. Nếu chỉ quán không gồm đủ thì không thể hội nhập nơi đạo Bồ-đề”.

Đã nói về môn hai luân đủ thiếu tăng giảm. Tiếp theo là nói về môn khuyến khích hạng kém hướng về hạng hơn không thoái chuyển.

* Bản luận viết: “Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này, mong cầu chánh tín nhưng tâm họ khiếp nhược, vì ở nơi thế giới Ta-bà này, tự sợ mình không thể thường được gặp chư Phật, gần gũi thừa sự cúng dường, sợ hãi cho là tín tâm khó có thể thành tựu, ý muốn thoái bỏ. Nên biết Đức Như Lai có phương tiện thù thắng để gồm thâu hộ trì tín tâm. Nghĩa là do nhân duyên chuyên ý niệm Phật, tùy nguyện được sinh đến cõi Phật ở phương khác, thường được thấy Phật và vĩnh viễn xa lìa đường ác. Như trong kinh nói: “Nếu người chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương, đem căn thiện đã tu tập hồi hướng nguyện cầu sinh đến thế giới ấy, tức được vãng sinh, luôn được thấy Phật, nên rốt cuộc không có thoái chuyển. Nếu quán tưởng về pháp thân chân như của Đức Phật kia để thường siêng năng tu tập, thì cuối cùng được sinh trụ trong chánh định”.

* Luận giải thích: Theo trong văn này tức có bảy môn. Những gì là bảy môn? Đó là: (1) Môn hiển thị về người giả định hướng đến. (2) Môn quy y nơi giáo pháp đã học. (3) Môn nêu chán bỏ nơi chốn xấu ác khiến tín tâm thoái chuyển. (4) Môn nêu phương tiện thù thắng của Như Lai. (5) Môn nương theo uy lực đạt được xứ thắng diệu. (6) Môn nêu đạt được xứ thiện quyết định không thoái. (7) Môn nêu dẫn kinh để chứng minh điều mình đã nói. Đó gọi là bảy môn.

Nói về môn hiển thị về người giả định hướng đến: Đó là nêu rõ về bốn loại tâm trước khi đạt được vị mười tín. Lại là chúng sinh thuộc phẩm hạ không thắng tấn. Như Bản luận viết: “Lại nữa, chúng sinh v.v…”.

Nói về môn quy y nơi giáo pháp đã học: Là chúng sinh thuộc phẩm hạ của vị mười tín kia đã quy y làm người mới tu học nơi giáo pháp Đại thừa thâm diệu không gì hơn. Đó gọi là bậc thầy của hết thảy chư Phật, ba đời không động, bốn tướng không dời, tự nhiên thường trụ nơi đạo lộ lớn của vị trước địa, trên địa. Như Bản luận viết: “Mới học pháp này”.

Nói về môn nêu chán bỏ nơi chốn xấu ác khiến tín tâm thoái chuyển: Là chúng sinh thuộc phẩm hạ của vị mười tín kia, tuy đích thân nghe nhận pháp môn thâm diệu, nhưng tâm ý căn trí của họ thì rất thấp kém, sợ hãi hai sự việc lớn không thể thắng tấn, nên muốn thoái bỏ. Những gì là hai sự việc lớn? Một là cõi nước. Hai là thắng duyên. Nói cõi nước: Tức là thế giới Ta Bà này là xứ sở thô ác, chúng sinh ô trược tạp loạn. Phát khởi tâm tịnh để siêng năng tu hành là điều hết sức khó khăn. Vì sao? Vì ở trong tâm kia là cảnh giới trái ngược, nên nơi tất cả thời, nơi tất cả xứ, thường xuyên hiện tiền. Nhưng trong phương diện của tâm thắng tấn thì không lìa bỏ. Nói thắng duyên: Là ở nơi thế giới này thì y báo chánh báo là ô trược tạp loạn, hết thảy chư Phật xuất thế là rất ít, vô lượng Bồ-tát theo cảm ứng hiện đến thì thời gian rất xa. Chư Phật, Bồ-tát xuất hiện ở thế gian là tùy thuận vào gương của tâm tình thanh tịnh hay không thanh tịnh. Do nghĩa này nên người tu hành kia không gặp được thắng duyên, hết sức sợ hãi, nên phát sinh ý thoái bỏ. Như Bản luận viết: “Mong cầu chánh tín nhưng tâm họ khiếp nhược, vì ở nơi thế giới Ta Bà này, tự sợ mình không thể thường được gặp chư Phật, gần gũi thừa sự cúng dường, sợ hãi cho là tín tâm khó có thể thành tựu, ý muốn thoái bỏ”.

Nói về môn nêu phương tiện thù thắng của Như Lai: Nghĩa là chư Phật Như Lai có phương tiện lớn rất sâu xa kỳ diệu không thể nghĩ bàn, có thể khéo thâu tóm hộ trì tín tâm của người kia chuyển thành thắng tấn.

Thế nào gọi là phương tiện thắng diệu? Đó là chuyên niệm về phương tiện của Như Lai. Thế nào là chuyên niệm? Nghĩa là tâm ý chuyên chú nghĩ đến vô số thứ y báo, chánh báo của tịnh độ nơi phương khác. Niệm ấy nối tiếp nhau khiến không đoạn dứt. Như Bản luận viết: “Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng luôn thâu tóm hộ trì tín tâm. Nghĩa là do nhân duyên chuyên ý niệm Phật”.

Nói về môn nương nơi uy lực đạt được xứ thắng diệu: Là nhờ vào diệu lực nơi phương tiện không thể nghĩ bàn của các Đức Như Lai, tùy theo sở nguyện của chính mình tức được vãng sinh đến cõi diệu lạc. Như Bản luận viết: “Tùy nguyện được sinh đến cõi Phật ở phương khác”.

Nói về môn nêu đạt được xứ thiện quyết định không thoái: Là sinh đến cõi kia rồi, mắt được thấy hình tướng Như Lai có đủ tướng tốt. Tai được nghe bậc Thánh phát ra Phạm âm thâm diệu, vĩnh viễn lìa bỏ tên gọi đường ác. Từ trong định bất động nên biển tâm lắng trong, thân thể sáng tỏ, y diệu, chánh thanh. Như Bản luận viết: “Thường được thấy Phật, vĩnh viễn lìa bỏ đường ác”.

Nói về môn nêu dẫn kinh để chứng minh điều mình đã nói: Nghĩa là gồm thâu toàn bộ, nêu bày về hình tướng là thuộc về từ ngữ của bản kinh. Thay thế cho điều mình đã giảng nói là văn giải thích. Kinh văn đã dẫn chứng nói về hình tướng là rất rõ, nên không cần giải thích lần nữa. Như Bản luận viết: “Như nơi kinh nói: Nếu người chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương, đem căn thiện đã tu tập hồi hướng nguyện cầu sinh đến thế giới ấy, tức được vãng sinh, luôn được thấy Phật, nên rốt cuộc không có thoái chuyển. Nếu quán tưởng về pháp thân chân như của Đức Phật kia để thường siêng năng tu tập, thì cuối cùng được sinh trụ trong chánh định”.

Đã nói về môn tín tâm tu hành. Tiếp theo là nói về môn khuyên tu đạt lợi ích.

* Bản luận viết: Như vậy, Ma-ha-diễn là kho tàng bí mật của chư Phật, tôi đã nêu bày tổng quát. Nếu có chúng sinh mong muốn ở nơi cảnh giới rất sâu xa của Như Lai có thể sinh khởi chánh tín, xa lìa những thứ phỉ báng, hội nhập đạo Đại thừa, tức nên giữ lấy luận nầy lường xét để tu tập, cuối cùng có thể đạt đến đạo quả vô thượng. Nếu người được nghe pháp này rồi không sinh khiếp nhược, nên biết người này nhất định kế thừa chủng tánh của Phật, tất được chư Phật thọ ký. Giả sử có người có thể hóa độ chúng sinh đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, khiến tất cả đều hành mười nghiệp thiện, không bằng có người ở trong khoảnh khắc một bữa ăn chánh tư duy về pháp này, tức công đức hơn hẳn người trước, vì công đức này là không thể ví dụ.

Lại nữa, nếu có người thọ trì luận này, quán xét tu hành, như trong một ngày một đêm thì công đức có được là vô lượng vô biên không thể nêu bày. Giả như khiến hết thảy chư Phật trong mười phương, ở nơi vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp tán thán công đức của người kia, cũng không thể hết. Vì sao? Vì công đức của pháp tánh thì không có cùng tận, nên công đức của người ấy cũng lại như vậy, tức không có biên vực. Nếu có chúng sinh đối với luận này dấy khởi hủy báng không tin, thì tội báo phải nhận lấy là trải qua vô lượng kiếp thọ nhận khổ não lớn. Vì vậy chúng sinh chỉ nên kính ngưỡng tin tưởng không nên phỉ báng. Vì rất có hại cho mình mà cũng làm hại người khác, đoạn dứt tất cả chủng tử của Tam bảo. Do tất cả chư Như Lai đều dựa vào pháp này để đạt đến Niết-bàn, tất cả Bồ-tát nhân nơi pháp này để hội nhập tu hành Phật trí. Nên biết chư vị Bồ-tát trong quá khứ đã dựa vào pháp này mà thành tựu được tịnh tín. Các vị Bồ-tát nơi hiện tại đang dựa vào pháp này mà thành tựu được tịnh tín. Các vị Bồ-tát nơi vị lai sẽ dựa vào pháp này mà thành tựu được tịnh tín. Do vậy các chúng sinh nên siêng năng tu học.

* Luận giải thích: Theo trong văn này tức có tám môn. Những gì là tám môn? Đó là: (1) Môn nêu lên tổng kết những gì đã nói ở trước. (2) Môn nêu lên lợi ích khuyên người khiến tu. (3) Môn hiển bày công đức tin tưởng lìa bỏ nghi. (4) Môn so sánh về chỗ đối nhau để chỉ ra chỗ hơn hẳn. (5) Môn nêu lên công đức thọ trì để tán dương. (6) Môn nêu ra tội lỗi do phỉ báng để khiến sợ hãi. (7) Môn nói rộng về sự thù thắng để lìa hủy báng. (8) Môn tổng kết để khuyên người tu hành. Đó gọi là tám môn.

Nói về môn nêu lên tổng kết những gì đã nói ở trước: Nghĩa là dùng một chữ Tổng để tổng kết về tám loại Ma-ha-diễn. Vì sao pháp còn lại đã lược bỏ không tóm kết. Đó gọi là nêu lên phần gốc để gồm thâu phần ngọn. Như Bản luận viết: “Như vậy, Ma-ha-diễn là kho tàng bí mật của chư Phật, tôi đã nêu bày tổng quát”.

Nói về môn nêu lên lợi ích khuyên người khiến tu: Đó là tập thành biển lớn của hành nhân, dùng để trang nghiêm cho quả của pháp thân. Thọ trì luận này, tư duy về nghĩa lý, thường xuyên nối tiếp không đoạn dứt. Như Bản luận viết: “Nếu có chúng sinh mong muốn ở nơi cảnh giới rất sâu xa của Như Lai có thể sinh khởi chánh tín, xa lìa những thứ phỉ báng, hội nhập đạo Đại thừa, tức nên giữ lấy luận này lường xét để tu tập, cuối cùng có thể đạt đến đạo quả vô thượng”.

Nói về môn hiển bày về công đức tin tưởng lìa bỏ nghi: Nghĩa là có chúng sinh nghe được pháp môn Ma-ha-diễn này là rộng lớn hết sức sâu xa vi diệu tột cùng rồi, tức trong tâm của chúng sinh kia cũng không nghi sợ, cũng không khiếp nhược, cũng chẳng xem thường, cũng chẳng phỉ báng, mà phát tâm quyết định, phát tâm kiên cố, phát tâm tôn trọng, phát tâm ái tín, nên biết người này là Phật tử chân thật, không đoạn dứt chủng tử của Pháp, không đoạn dứt chủng tử của Tăng, không đoạn dứt chủng tử của Phật, thường hằng tương tục chuyển chuyển tăng trưởng tận cùng nơi đời vị lai, cũng được chư Phật đích thân thọ ký, cũng được hết thảy vô lượng Bồ-tát luôn hộ niệm. Như Bản luận viết: “Nếu người nghe được pháp này rồi, không sinh khiếp nhược, nên biết người này nhất định kế thừa chủng tánh của Phật, tất được chư Phật thọ ký”.

Nói về môn so sánh chỗ đối nhau để chỉ ra chỗ hơn hẳn: Nghĩa là nếu có người có thể khéo gồm thâu giáo hóa chúng sinh đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, thảy đều trọn vẹn khiến hành mười nghiệp thiện, hoặc có chúng sinh nơi khoảnh khắc một bữa ăn, đối với giáo pháp thâm diệu này đã quán xét suy nghĩ để hành trì. Nếu đối chiếu về lượng công đức của hai người ấy, thì người thứ nhất kia đạt được công đức rất là nhỏ ít, ví như hạt cải nghiền nát thành một trăm phần thì lượng công đức kia chỉ bằng một phần. Còn công đức của người thứ hai này đã đạt được là hết sức rộng lớn, ví như số lượng vi trần trong mười phương thế giới được nghiền nát. Như Bản luận viết: “Giả sử có người có thể hóa độ chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, khiến hành mười nghiệp thiện, không bằng có người ở trong khoảng thời gian một bữa ăn, chánh tư duy về pháp này, thì công đức hơn hẳn người trước, vì công đức này là không thể ví dụ”.

Nói về môn nêu lên công đức thọ trì để tán dương: Nghĩa là nếu có người thọ trì luận này, quán xét về nghĩa lý, hoặc một ngày hoặc một đêm, thì công đức đạt được trong thời gian ấy là vô lượng vô biên, không thể ngôn thuyết, không thể lường xét. Hoặc giả sử hết thảy chư Phật nơi ba đời trong mười phương, hoặc là tất cả các vị Bồ-tát trong ba đời khắp mười phương, dùng số lượng lưỡi nhiều như số vi trần trong mười phương thế giới, mỗi mỗi thảy đều ở nơi số lượng kiếp nhiều như số vi trần trong mười phương thế giới không thể nói hết, tán dương công đức hiện có của người kia cũng không thể hết. Vì sao? Vì công đức của pháp thân chân như là bằng với hư không giới không có biên vực. Huống hồ là người của hàng phàm phu, Nhị thừa có thể xưng tán được sao? Người thọ trì luận này trong thời gian một ngày một đêm là không nhiều, công đức đạt được hãy còn không thể nghĩ bàn, huống hồ là thọ trì trong hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, cho đến trăm ngày, cùng đọc tụng, tư duy, quán xét, thì công đức có được là không thể nghĩ bàn trong số lượng không thể nghĩ bàn, không thể nêu bày trong số lượng không thể nêu bày. Như Bản luận viết: “Lại nữa, nếu người thọ trì luận này quán xét để tu hành, như trong một ngày một đêm thì công đức có được là vô lượng vô biên không thể nêu bày hết. Giả như khiến tất cả chư Phật khắp mười phương đều ở nơi vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp tán thán về công đức của người kia, thì cũng không thể hết được. Vì sao? Vì công đức của pháp tánh là không có cùng tận, tức công đức của người ấy cũng lại như vậy, không có biên vực”.

Nói về môn nêu lên tội lỗi do phỉ báng để khiến sợ hãi: Nghĩa là có chúng sinh đối với giáo pháp trong luận này sinh khởi tâm không tin, phá bỏ hủy báng không hành trì, chúng sinh như vậy thì tội báo phải nhận lấy, ở trong các kiếp là không thể nêu bày, không thể nói hết, nhận lấy khổ lớn nặng trong các khổ. Như Bản luận viết: “Nếu có chúng sinh đối với luận này khởi tâm hủy báng không tin, thì tội báo phải nhận chịu là trải qua vô lượng kiếp thọ nhận khổ não lớn. Vì vậy chúng sinh chỉ nên kính ngưỡng tin tưởng không nên phỉ báng”. Đây tức là tổng kết về phần quyết trạch và khuyến thỉnh hành giả đã nói ở trên.

Từ đây tiếp xuống dưới là nêu ra nhân duyên, chỉ rõ những lỗi lầm nghiêm trọng. Nghĩa là trong pháp này, nếu hủy báng không tin, thì mất đi căn thiện của chính mình, làm tổn hại đến công đức của người khác, đoạn dứt tất cả chủng tử của Tam bảo, không có kỳ hạn nối tiếp. Như Bản luận viết: “Do rất có hại cho mình cũng hại đến người khác, đoạn dứt tất cả chủng tử của Tam bảo”.

Nói về môn nói rộng về sự thù thắng để lìa hủy báng: Nghĩa là các Đức Như Lai nơi ba đời trong mười phương, tất cả thảy đều lấy Ma-ha-diễn làm căn bản để thành tựu quả vị Chánh giác. Vô lượng Bồ-tát nơi ba đời trong mười phương, tất cả thảy đều lấy Ma-ha-diễn làm nền tảng để có đủ biển nhân. Như vậy pháp Maha-diễn là hết sức quan trọng. Nếu có chúng sinh sinh khởi tâm không tin, lại tranh luận phỉ báng, thì chúng sinh như vậy cũng gọi là đoạn dứt hết thảy chư Phật, cũng gọi là đoạn dứt hết thảy Bồtát, cũng gọi là đoạn dứt Phật tánh của bản giác, Như Lai tạng nơi chính mình. Như Bản luận viết: “Do tất cả chư Như Lai đều dựa vào pháp này để đạt đến Niết-bàn, tất cả Bồ-tát nhân nơi pháp này để tu hành hội nhập Phật trí. Nên biết các vị Bồ-tát trong quá khứ đã dựa vào pháp này mà được thành tựu tịnh tín. Các vị Bồ-tát nơi hiện tại đang dựa vào pháp này mà được thành tựu tịnh tín. Các vị Bồ-tát nơi vị lai sẽ dựa vào pháp này mà được thành tựu tịnh tín. Vì vậy các chúng sinh tức nên siêng năng tu học”. Đây tức là môn tổng kết khuyên người tu hành. Nên xét chọn kỹ.

Đã nói về môn khuyên tu đạt được lợi ích. Tiếp theo là nói về môn hồi hướng khắp chốn.

* Bản luận viết:

Chư Phật, nghĩa thâm diệu rộng lớn

Con nay tùy phần nói tổng trì

Chuyển công đức này như pháp tánh

Lợi khắp tất cả cõi chúng sinh.

* Luận giải thích: Theo trong một tụng này tức có ba loại môn. Những gì gọi là ba loại môn? Đó là: (1) Môn nêu tổng kết gồm thâu những điều đã nói ở trước. (2) Môn mở ra công đức khiến được rộng. (3) Môn thí lợi ích khắp cho chúng sinh. Đó gọi là ba loại môn.

Theo trong môn thứ nhất tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là môn gồm thâu chung tất cả những điều đã nói ở trước. Hai là môn hiển thị về tướng của chữ năng thuyết (Chủ thể giảng nói). Như thứ lớp ấy nên quán xét kỹ.

“Chư Phật, nghĩa thâm diệu rộng lớn”: Tức là môn gồm thâu chung tất cả những điều đã nói ở trước. Đó gọi là gồm thâu chung ba mươi ba loại số pháp căn bản. Nghĩa này là thế nào? Đó là: Nói chư Phật: Tức là pháp Ma-ha-diễn bất nhị. Vì sao? Vì pháp bất nhị này hiện bày rõ nơi công đức thù thắng của chư Phật. Trong Khế kinh Đại Bản Hoa Nghiêm đã giảng nói như vầy: “Biển đức tròn đầy mênh mông là sự thắng diệu chư Phật, vì tất cả chư Phật không thể thành tựu biển đức tròn đầy mênh mông mà thấp kém”. Nếu như vậy thì vì sao trong Khế kinh Phân Lưu Hoa Nghiêm lại nói như thế này: “Phật Lô Xá Na dùng ba thứ thế gian làm thân tâm của mình”. Ba thứ thế gian gồm thâu pháp là trọn vẹn. Thân tâm của Phật kia cũng lại không có gì là không gồm thâu. Phật Lô Xá Na tuy gồm thâu ba thế gian, nhưng gồm thâu là không gồm thâu, vì vậy tức không có lỗi.

Nói thâm diệu: Tức là hai lớp nơi tám loại pháp căn bản của Ma-ha-diễn. Do nghĩa gì mà gọi là thâm diệu? Hai lớp pháp Maha-diễn như vậy, có thể nhập môn đối chiếu vô cùng sâu xa. Do nghĩa này nên gọi là thâm diệu. Nên xét chọn kỹ.

Nói nghĩa rộng lớn: Tức là hai lớp pháp có thể nhập môn. Vì nghĩa gì nên gọi là nghĩa rộng lớn? Hai lớp pháp như vậy có thể nhập môn, mỗi mỗi thảy đều có thể mở rộng pháp của mình, có thể làm lớn pháp của mình, có thể vì pháp của mình tạo ra danh nghĩa.

Do nghĩa ấy nên kiến lập tên gọi là nghĩa rộng lớn.

Đã nói về môn gồm thâu chung tất cả những điều đã nói ở trước. Tiếp đến là nói về môn hiển thị về tướng của chữ năng thuyết. Nói “Con nay tùy phần nói tổng trì”: Tức là môn hiển thị về tướng của chữ năng thuyết. Nghĩa là dùng chữ Tổng để trì (nắm giữ) toàn bộ tất cả các thứ đã nói. Nên trong phần lập nghĩa thì Ma-ha-diễn là Tổng, tức là điều này. Vì sao chỉ một chữ mà nắm giữ (Trì) chung các thuyết? Vì muốn làm rõ Luận Ma Ha Diễn là Luận Như Ý.

Đã nói về môn nêu tổng kết gồm thâu những điều đã nói ở trước. Tiếp theo là nói về môn mở ra công đức khiến được rộng. Nói “Chuyển công đức này như pháp tánh”: Tức là môn mở ra công đức khiến được rộng. Đó là công đức của mình đã tạo được đem hồi hướng về ba xứ. Những gì là ba xứ? Một là chân như. Hai là pháp nhất tâm. Ba là Phật tánh của bản giác. Do nghĩa gì mà hồi hướng về ba xứ? Nghĩa là vì muốn công đức do mình đã tạo ra khiến được bình đẳng, nên hồi hướng về chân như. Hoặc vì muốn công đức do mình đã tạo ra khiến được rộng lớn nên hồi hướng về nhất tâm. Hoặc vì muốn công đức do mình đã tạo ra khiến được sáng rõ nên hồi hướng về bản giác. Nên nhận biết như vậy. Nên quán xét như vậy. Hồi hướng như thế có lợi ích gì? Tức có rất nhiều lợi ích. Nghĩa nầy là thế nào? Ví như dùng một vi trần đặt trong đại địa. Vi trần được đặt vào cùng với dại địa kia là như nhau không sai biệt. Pháp môn hồi hướng cũng như vậy.

Lại, ví như dùng một giọt nước nhỏ vào trong biển lớn, giọt nước đã nhỏ vào cùng với biển lớn kia là bình đẳng, không có sai biệt. Pháp môn hồi hướng cũng như vậy.

Lại, ví như đập vỡ một vật nhỏ bé, tức thì cùng với đại hư không là như nhau không có sai biệt. Pháp môn hồi hướng cũng như vậy.

Đã nói về môn mở ra công đức khiến được rộng. Tiếp theo là nói về môn thí lợi ích khắp cho chúng sinh . Nói “Lợi khắp tất cả cõi chúng sinh”: Tức là môn thí lợi ích khắp cho chúng sinh. Đó là nêu lên công đức viên mãn rộng lớn để đem lại lợi ích trọn khắp cho cõi chúng sinh.

Đại sĩ hoan hỷ chí tâm khuyên

Trong chúng biển vô lượng Phật tử

Con vượt khỏi Mao đầu ba góc

Vượt quá bốn căn của sinh tử.

Vô số thứ nhất thô đã mãn

Tăng kỳ thứ hai mới vào không

Như hợp các ông: Những Phật tử

Dùng hai tay bên trái bên phải.

Nâng gương sáng nơi bản giải thích

Theo diện mạo bảy thức xét rộng

Thấy rõ cấu: Cảnh giới sáu trần

Trừ sạch lỗi pháp chấp nhân ngã.

Phật tử các ông nếu như vậy

Thì ba thân Pháp thân Ứng Hóa

Như chữ Thư Y tròn hiện tiền

Bốn đức của thường lạc ngã tịnh.

Như vào Ao Đạt xuất sinh đủ

Con từ Tứ Vương xứ tự tại

Xuống vào biển lớn cung điện rồng

 Tùy phần nhìn biển các Khế kinh.

Gồm có một trăm số Lạc-xoa

Các kinh như vậy pháp chân thật

Vô lượng vô biên nghĩa sai biệt

Trong Luận Ma-ha-diễn lập nghĩa.

Thâu trọn an lập nói đầy đủ

Có người thiện nam, người thiện nữ

Nếu tự tay nâng quyển Luận này

Gọi người nâng trăm Lạc-xoa kinh.

Nếu tự miệng tụng kinh phần gốc

Gọi người tụng trăm Lạc-xoa kinh

Công đức của người này đạt được

Số vi trần mười phương thế giới.

Chư Phật cùng chúng Đại Bồ-tát

Đều hiện tướng lưỡi số vi trần

Trong vi trần số kiếp như vậy

Không ngừng xưng nêu không thể hết.

Huống chi quán xét nghĩa lý kia

Tư duy đã giảng giải nơi văn

Có người thiện nam người thiện nữ

Sinh tâm không tin bác Luận này.

Nghiệp tội người ấy phải nhận lấy

Số vi trần thế giới mười phương

Chư Phật cùng chúng Đại Bồ-tát

Đều hiện tướng lưỡi số vi trần.

Trong vi trần số kiếp như vậy

Không ngừng nói tội không thể hết

Người này nhận tội không chốn diệt

Hết thảy chư Phật không thể cứu.

Vì vậy hành giả quy nguồn gốc

Nên dựa Luận này thuận tu hành

Thật không thể sinh tâm không tin

Phỉ báng giáo Đại thừa thâm diệu.

Tức nguyện khuyên này lưu truyền xa

Khắp trùng trùng cõi không thể nói.

HẾT – QUYỂN 10

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10