LUẬN THÍCH MA HA DIỄN
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Phiệt Đề Ma Đa.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).
QUYỂN 5
Từ đây trở xuống là nêu rõ về tướng của sinh diệt có sai biệt.
* Bản luận viết: Lại nữa, phân biệt về tướng sinh diệt có hai loại. Những gì là hai loại? Một là thô cùng với tâm tương ưng. Hai là tế cùng với tâm không tương ưng. Lại, thô ở trong thô là cảnh giới của phàm phu. Tế ở trong thô và thô ở trong tế là cảnh giới của Bồ-tát. Tế ở trong tế là cảnh giới của Phật. Hai loại sinh diệt này dựa nơi vô minh huân tập mà có. Đó gọi là dựa vào nhân dựa vào duyên. Dựa vào nhân: Là nghĩa bất giác. Dựa vào duyên: Là nghĩa vọng tạo cảnh giới. Nếu nhân diệt thì duyên diệt, nhân diệt nên tâm không tương ưng diệt. Duyên diệt nên tâm tương ưng diệt.
Hỏi: Nếu tâm diệt thì vì sao nói là tương tục. Nếu tương tục thì vì sao nói là diệt hoàn toàn?
Đáp: Nói là diệt chỉ có tướng của tâm diệt không phải là thể của tâm diệt. Như gió dựa vào nước mà có tướng động. Nếu nước kia diệt thì gió đoạn dứt không có nơi chốn nương dựa. Do nước không diệt nên tướng của gió tương tục. Chỉ khi gió diệt nên tướng động theo đấy diệt, không phải là nước diệt. Vô minh cũng như vậy. Dựa nơi thể của tâm mà động. Nếu thể của tâm diệt thì chúng sinh đoạn dứt không có nơi chốn nương dựa. Do thể không diệt nên tâm được tương tục. Chỉ khi si diệt thì tướng của tâm theo đấy diệt, không phải là trí của tâm diệt.
* Luận giải thích: Tức trong văn này tự có năm môn. Những gì là năm môn? Một là môn nêu lên giải thích cùng thành chỉ rõ về tướng. Hai là môn theo tướng thuộc về người giả. Ba là môn nêu rõ về chỗ nương dựa thô tế. Bốn là môn bản giác đối trị theo thứ lớp. Năm là môn phát khởi hỏi đáp đã trừ bỏ nghi.
Nói về môn nêu lên giải thích cùng thành chỉ rõ về tướng: Là sinh diệt thô trọng cùng với tâm tương ưng. Sinh diệt vi tế cùng với tâm không tương ưng. Thế nào gọi là sinh diệt thô trọng nên cùng với thức nào tương ưng? Đó là thức Mạt-na, cùng với thức phân biệt sự cùng tương ưng. Thế nào gọi là sinh diệt vi tế nên cùng với thức nào không tương ưng? Đó là thức Mạt-na cùng với ba phần nơi bản thức nhưng không tương ưng.
Bồ-tát Mã Minh dựa vào bản kinh nào để giải thích như vậy? Đó là Kinh Lăng Già. Trong Khế kinh ấy đã nêu giảng như thế nào? Nghĩa là trong một bản Khế kinh Phân Lưu Lăng Già nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Ma ha tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Các thức có bao nhiêu thứ sinh trụ diệt? Đức Phật bảo Đại Tuệ: Các thức có hai thứ sinh trụ diệt, không phải là đối tượng nhận biết của suy lường. Các thức có hai thứ sinh, nghĩa là Lưu chú sinh và Tương sinh. Có hai thứ trụ, là Lưu chú trụ và Tương trụ. Có hai thứ diệt, là Lưu chú diệt và Tương diệt”.
Lại trong một bản Khế kinh Phân Lưu Lăng Già nói như vầy: “Này Đại Tuệ! Các thức có hai loại diệt. Những gì là hai loại? Một là Tương diệt. Hai là Tương tục diệt. Có hai loại sinh. Những gì là hai loại? Một là Tương sinh. Hai là Tương tục sinh. Có hai loại trụ. Những gì là hai loại? Một là Tương trụ. Hai là Tương tục trụ”. Trong Khế kinh Đại Bản Lăng Già giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền bạch Phật: Thế Tôn! Các pháp của tâm thức có bao nhiêu tướng vô thường? Đức Phật bảo Văn-thù: Nếu thứ nhất có thức vi tế trói buộc, thì có thượng phẩm không lìa sinh diệt. Nếu phần giữa chuyển có thức vi tế trói buộc, thì có trung phẩm không lìa sinh diệt. Nếu phần xa chuyển có thức vi tế trói buộc, thì có hạ phẩm không lìa sinh diệt. Nếu phân biệt khắp về thức thô, thì có gương phân ly diện không lìa sinh diệt”. Ba bản Khế kinh Lăng Già như vậy là nêu rõ về nghĩa gì? Vì muốn hiển bày chỉ rõ về hai loại tướng sinh diệt thô trọng và vi tế có sai biệt, nên ở trong Khế kinh chỉ đưa ra tên gọi mà không chỉ rõ về nghĩa của chúng. Do nghĩa này nên Bồ-tát Mã Minh đã phân biệt khế hợp hay không khế hợp để làm rõ hai loại sinh diệt thô tế. Như Bản luận viết: “Lại nữa, phân biệt về tướng sinh diệt thì có hai loại. Những gì là hai loại? Một là thô cùng với tâm tương ưng. Hai là tế cùng với tâm không tương ưng”.
Đã nói về môn nêu lên giải thích cùng thành chỉ rõ về tướng. Tiếp đến là nói về môn theo tướng thuộc về người giả.
Người giả trong đây tức có ba loại. Những gì là ba loại? Một là phàm phu không thoái chuyển. Hai là bậc thanh tịnh tùy phần. Ba là bậc thanh tịnh hoàn toàn. Đấy gọi là ba người giả. Người thứ nhất dùng tương ưng gì để làm cảnh giới của mình? Đó là lấy tương ưng với nhiễm chấp để làm cảnh giới của mình. Như Bản luận viết: “Lại, thô ở trong thô là cảnh giới của phàm phu”.
Người thứ hai dùng những nhiễm nào để làm cảnh giới của mình? Đó là hai tương ưng sau và hai không tương ưng đầu, cùng với một phần của nghiệp thức để làm cảnh giới của mình. Như Bản luận viết: “Tế trong thô và thô trong tế là cảnh giới của Bồ-tát”.
Người thứ ba dùng không tương ưng với nhiễm nào để làm cảnh giới của mình? Đó là cùng hợp một phần của tướng động và toàn phần tướng độc lực nghiệp để làm cảnh giới của mình. Như Bản luận viết: “Tế trong tế là cảnh giới của Phật”.
Đã nói về môn theo tướng thuộc về người giả. Tiếp đến là nói về môn nêu rõ về chỗ dựa của thô tế. Chỗ dựa trong đây tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là chung. Hai là riêng. Chung là hai loại sinh diệt, đều lấy vô minh làm chỗ dựa. Riêng là hai loại sinh diệt như thứ lớp ấy đều là nhân và duyên làm chỗ dựa. Như Bản luận viết: “Hai loại sinh diệt này dựa nơi vô minh huân tập mà có, đó gọi là dựa vào nhân và dựa vào duyên. Dựa vào nhân là nghĩa bất giác. Dựa vào duyên là nghĩa vọng tạo tác cảnh giới”. Nay văn của Luận này dựa vào kinh nào dấy khởi? Đó là Kinh Lăng Già. Trong Khế kinh ấy đã giảng nói như thế nào? Nghĩa là trong Khế kinh Phân Lưu Lăng Già giảng nói như vầy: “Này Đại Tuệ! Huân tập không thể nghĩ bàn và biến chuyển không thể nghĩ bàn là nhân của thức hiện. Giữ lấy các loại trần và huân tập vọng tưởng từ vô thủy là nhân của thức phân biệt sự”. Còn trong Khế kinh Đại Bản Lăng Già thì giảng nói như sau: “Lại nữa, nhân không lìa nhiễm là huân tập có thể nghĩ bàn và huân tập không thể nghĩ bàn, cho đến biến chuyển có thể nghĩ bàn và biến chuyển không thể nghĩ bàn. Lại nữa, nhân phân ly nhiễm là vô số các loại gió mạnh, vọng tưởng thức hiện cảnh cho đến nói rộng”. Pháp nào gọi là huân tập không thể nghĩ bàn? Đó gọi là vô minh căn bản. Do nghĩa nào gọi là huân tập không thể nghĩ bàn? Nghĩa là vì rất sâu rộng. Thế nào là rất sâu rộng? Nghĩa là từ phần vị kim cang trở lại vì tất cả chúng sinh đều không hiểu rõ về xứ này, vì vậy gọi là huân tập không thể nghĩ bàn. Như huân tập, thì biến chuyển cũng như vậy. Nên trong Kinh Đại Bản nói: “Có thể nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn, là căn cứ theo người tự vị kim cang trở về trước”.
Đã nói về môn nêu rõ chỗ dựa của thô tế. Tiếp theo là nói về môn đối trị theo thứ lớp của bản giác. Nghĩa là trí của bản giác lấy vô minh căn bản là đầu, tướng diệt là sau cùng. Như thứ lớp ấy để dần dần đối trị. Nhưng trong đây đoạn là không xả bỏ vô minh để làm nghĩa đoạn, không phải lấy đoạn trừ làm nghĩa đoạn. Nếu như vậy thì vì sao nghĩa đoạn được thành tựu? Nghĩa là đoạn tâm phiền não, vì đoạn trừ nên không khởi. Đó gọi là đạo đối trị theo thứ lớp của bản giác. Như Bản luận viết: “Nếu nhân diệt thì duyên diệt. Nhân diệt nên tâm không tương ưng diệt. Duyên diệt nên tâm tương ưng diệt”.
Đã nói về môn đối trị theo thứ lớp của bản giác. Tiếp đến là nói về môn phát khởi hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Tức trong môn này tự nó có hai ý. Những gì là hai ý? Một là môn đóng cửa cả hai vấn nạn. Hai là môn khai thông để trừ bỏ nghi. Văn nghĩa tức có thể nhận thấy. Trí sáng của bản giác đoạn trừ vô minh căn bản, ba loại nhiễm vi tế vĩnh viễn diệt trừ không còn khởi. Ba loại tâm vi tế đã không còn thì sáu loại tâm thô trọng cũng không thể khởi. Ba loại tâm tế, sáu loại tâm thô vĩnh viễn diệt trừ, không còn khởi. Nhưng tánh trí của bản giác không thể tự hiện hữu. Vì sao như vậy? Vì ba loại tâm tế, sáu loại tâm thô không phải chỉ là vô minh mà bản giác cũng cùng có. Chân vọng hòa hợp gọi là ba tâm tế, sáu tâm thô. Nhưng nếu nói ba tâm tế, sáu tâm thô diệt, thì bản giác cùng diệt chẳng còn gì, há có thể nói được là tâm của bản giác cần phải tương tục đến nơi định chăng? Nên có vấn nạn: Nếu tâm diệt thì làm sao tương tục? Đây tức là vấn đề thứ nhất. Nếu nói bản giác là pháp công đức chẳng phải là pháp đoạn dứt, luôn luôn tương tục không hề đoạn tuyệt, há có thể nói được ba tâm tế, sáu tâm thô vĩnh viễn diệt trừ không còn khởi? Nên nói: Nếu như tương tục thì làm sao nêu bày là cứu cánh diệt? Đấy tức là vấn đề thứ hai. Từ đây tiếp xuống là nêu giải thích để trừ bỏ nghi. Văn nghĩa hiện rõ nên không cần phải giải thích lại.
Từ trước đến nay phần quyết trạch về tướng của sinh diệt đã xong. Từ đây về sau là nêu bày chỉ rõ về nghĩa nhiễm tịnh cùng huân tập cùng sinh khởi không đoạn dứt.
* Bản luận viết: “Lại nữa, có nghĩa huân tập của bốn loại pháp, vì vậy pháp nhiễm pháp tịnh dấy khởi liên tục. Những gì là bốn loại? Một là pháp tịnh, gọi là chân như. Hai là tất cả nhân nhiễm, gọi là vô minh. Ba là tâm vọng, gọi là nghiệp thức. Bốn là cảnh giới vọng, đó là sáu trần. Nghĩa huân tập như y phục ở thế gian thật sự không có mùi thơm, nếu người dùng mùi thơm để huân tập thì có hơi thơm. Ở đây cũng như vậy. Pháp tịnh của chân như thật sự không có nơi nhiễm, chỉ vì vô minh huân tập nên có tướng nhiễm. Pháp nhiễm của vô minh thật sự không có nghiệp tịnh, chỉ do chân như huân tập nên có dụng tịnh.
Vì sao nói là huân tập dấy khởi pháp nhiễm không dứt? Đó là vì dựa nơi pháp chân như nên có nơi vô minh. Do có nhân của pháp nhiễm nơi vô minh nên tức huân tập chân như, vì huân tập nên tức có tâm vọng. Do có tâm vọng nên tức huân tập vô minh, không rõ về pháp chân như, nên niệm bất giác khởi hiện bày cảnh giới vọng. Vì có cảnh giới vọng duyên theo pháp nhiễm, nên tức huân tập tâm vọng, khiến niệm kia vướng mắc trong vô số nghiệp, nhận chịu khổ đau nơi tất cả thân tâm. Nghĩa huân tập của cảnh giới vọng này tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập tăng trưởng niệm. Hai là huân tập tăng trưởng thủ. Nghĩa huân tập của tâm vọng có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập thức nghiệp căn bản, vì có thể thọ nhận khổ sinh diệt của A-la-hán, Phật-bích-chi và tất cả Bồ-tát. Hai là huân tập tăng trưởng thức phân biệt sự, vì có thể thọ nhận khổ trói buộc của nghiệp phàm phu.
Nghĩa huân tập của vô minh có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập căn bản, do có thể thành tựu nghĩa thức nghiệp. Hai là huân tập kiến ái đã dấy khởi, do có thể thành tựu nghĩa thức phân biệt sự. Thế nào là huân tập dấy khởi pháp tịnh không dứt? Đó là do có pháp chân như, có thể huân tập vô minh. Do lực của nhân duyên huân tập, tức khiến tâm vọng chán lìa khổ của sinh tử vui cầu Niết-bàn. Vì tâm vọng này có nhân duyên chán cầu, nên tức huân tập chân như, tự tin nơi tánh của mình, nhận biết tâm vộng động, không có cảnh giới trước, tu pháp xa lìa. Do nhận biết như thật là không có cảnh giới trước, nên có vô số phương tiện dấy khởi thuận theo hành không thủ, không niệm, cho đến do sức huân tập lâu dài thì vô minh tức diệt. Do vô minh diệt nên tâm không có dấy khởi. Vì tâm không dấy khởi nên cảnh giới theo đấy diệt. Do nhân duyên cùng diệt nên tâm tướng đều hết, gọi là đạt được Niết-bàn thành tựu nghiệp tự nhiên.
Nghĩa huân tập của tâm vọng có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập thức phân biệt sự, là dựa vào các phàm phu, người của hai thừa, chán lìa khổ của sinh tử, tùy theo sức của mình có thể đạt được, do đấy dần dần hướng tới đạo vô thượng. Hai là huân tập ý, tức là các Bồ-tát phát tâm dũng mãnh nhanh chóng hướng đến Niết-bàn.
Nghĩa huân tập của chân như có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập tự thể tướng. Hai là huân tập dụng. Huân tập tự thể tướng là từ đời kiếp vô thủy đến nay vốn có đủ pháp vô lậu. Huân tập dụng là tánh có đầy đủ nghiệp bất tư nghị tạo thành cảnh giới. Dựa nơi hai nghĩa này là thường xuyên huân tập, vì có lực huân tập nên có thể khiến cho chúng sinh chán lìa khổ của sinh tử vui thích cầu Niết-bàn, tự tin nơi bản thân mình có pháp chân như mà phát tâm tu hành.
Hỏi: Nếu là nghĩa như vậy thì tất cả chúng sinh đều có chân như v.v… đều đang huân tập, vì sao có người tin, có người không tin, trước sau có vô lượng sai biệt? Tất cả đều phải trong một lúc tự nhận biết mình có pháp chân như, siêng năng tu tập các phương tiện để cùng nhập Niết-bàn?
Đáp: Chân như vốn có một nhưng có vô lượng vô biên vô minh. Từ xưa đến nay tự tánh có sai biệt, dày mỏng không đồng. Các phiền não tăng lên vượt quá Hằng hà sa số dựa nơi vô minh dấy khởi sai biệt. Ngã kiến, ngã ái là phiền não nhiễm dựa vào vô minh dấy khởi sai biệt. Như vậy, tất cả phiền não là dựa nơi vô minh đã khởi trước sau có vô lượng sai biệt, chỉ có Đức Như Lai là có năng lực nhận biết rõ. Lại, pháp của chư Phật đều có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ thì mới được thành tựu. Như tánh lửa trong gỗ là nhân chánh của lửa, nếu người không nhận biết không nhờ vào phương tiện mà có thể tự làm cháy gỗ thì không có điều ấy. Chúng sinh cũng như vậy. Tuy có sức huân tập của nhân chánh, nhưng nếu không gặp được chư Phật, Bồ-tát, các thiện tri thức, lấy đó làm duyên mà có thể tự mình đoạn trừ phiền não, chứng nhập Niết-bàn thì không có điều ấy. Nếu tuy có sức của ngoại duyên, nhưng pháp tịnh bên trong chưa có sức của huân tập, thì cũng không thể hoàn toàn chán lìa khổ của sinh tử vui cầu Niết-bàn. Nếu nhân duyên đầy đủ, thì đó là tự có sức mạnh của huân tập, lại được chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ, nên có thể dấy khởi tâm chán lìa khổ, tin có Niết-bàn và tu tập căn thiện. Do tu tập căn thiện thành tựu, vì thế được gặp chư Phật, Bồ-tát chỉ dạy khiến vui mừng được lợi ích mới có thể tiến lên hướng đến đạo Niết-bàn. Huân tập dụng: Tức là lực nơi ngoại duyên của chúng sinh. Ngoại duyên như vậy có vô lượng nghĩa, lược nói có hai loại. Những gì là hai loại? Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng. Duyên sai biệt: Là người này nương nơi chư Phật, Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm cầu đạo cho đến khi được thành Phật, ở trong thời gian đó, hoặc thấy, hoặc nhớ nghĩ, hoặc làm các người thân như cha mẹ quyến thuộc, hoặc làm tôi tớ phục dịch, hoặc làm bạn bè quen biết, hoặc làm kẻ oán đối, hoặc khởi bốn nhiếp pháp, cho đến tất cả duyên đã tạo nên vô lượng hành, dùng lực huân tập khởi đại bi, có thể khiến cho chúng sinh tăng trưởng căn thiện, hoặc thấy hoặc nghe đều được lợi ích. Duyên này có hai thứ. Những gì là hai thứ? Một là duyên gần, vì nhanh chóng được hóa độ. Hai là duyên xa, vì về lâu xa mới được hóa độ. Hai duyên gần xa này phân biệt lại có hai thứ. Những gì là hai thứ? Một là duyên tăng trưởng hành. Hai là duyên thọ nhận đạo. Duyên bình đẳng: Là hết thảy chư Phật, Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên huân tập luôn thường không xả bỏ, vì trí lực đồng một thể, theo chỗ nên thấy nghe mà hiện, đó gọi là chúng sinh dựa nơi tam muội mới được bình đẳng thấy chư Phật. Huân tập thể dụng này phân biệt lại có hai loại. Những gì là hai loại? Một là chưa tương ưng, nghĩa là phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát mới phát tâm, do huân tập ý và ý thức, dựa vào tín lực để tu hành, nhưng chưa được tâm không phân biệt cùng với thể tương ưng, chưa đạt được nghiệp tự tại tu hành cùng với dụng tương ưng. Hai là đã tương ưng, nghĩa là Bồ-tát pháp thân đạt được tâm không phân biệt, cùng với trí dụng của chư Phật tương ưng, chỉ dựa vào pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập chân như diệt trừ vô minh.
Lại nữa, pháp nhiễm từ vô thủy đến nay huân tập không dứt, cho đến sau khi thành Phật tức có đoạn dứt. Huân tập pháp tịnh thì không có đoạn tận nơi vị lai. Nghĩa này là thế nào? Vì pháp chân như luôn huân tập, tâm vọng tức diệt trừ, pháp thân hiển hiện, khởi huân tập dụng nên không có đoạn dứt.
* Luận giải thích: Tức trong văn này tự có năm môn. Những gì là năm môn? Một là môn nêu tổng quát về cương yếu. Hai là môn lập tên gọi lược chỉ rõ. Ba là môn giải thích chung về huân tập. Bốn là môn phân tích nói chi tiết. Năm là môn phân biệt về tận và bất tận.
Trong môn thứ nhất tự có sáu ý. Những gì là sáu ý?
Một là ý cùng đối đãi cùng thành tợ như có. Nghĩa là muốn hiển bày chỉ rõ các pháp nhiễm tịnh thảy đều cùng đối đãi mà được thành lập, vì không có pháp chỉ tự kiến lập.
Hai là ý vốn vô tánh, rỗng lặng chẳng phải là có. Nghĩa là muốn hiển bày chỉ rõ vô số loại tên gọi của các pháp nhiễm tịnh, từ trong gốc không có chỉ theo phương tiện giả kiến lập, vì tất cả đều không phải là tên gọi của chính nó.
Ba là ý cùng đối đãi cùng thành hiển bày về không. Tức là muốn nêu rõ các pháp nhiễm tịnh do cùng quán xét, nên từ xưa đến nay không có tự thể và tự tánh là không.
Bốn là ý tự nhiên như hư không vô ngại. Tức là muốn hiển bày chỉ rõ tất cả các pháp chẳng phải là có, chẳng phải là có nên tự nhiên tạo tác như hư không, chẳng phải là ngại, chẳng phải là ngại nên luôn tạo thành nghĩa không chướng ngại.
Năm là ý tự nhiên chẳng phải làm chẳng phải tạo. Nghĩa là muốn hiển bày chỉ rõ tất cả các pháp có Phật hay không có Phật vẫn cùng huân tập cùng sinh khởi không đoạn dứt, vì tánh của đạo lý pháp nhĩ là như thế.
Sáu là ý không giữ lấy tự tánh và vô trụ. Tức là muốn hiện rõ tất cả các pháp, tạo nghĩa duyên khởi Đà-la-ni. Nêu chung về vô lượng nghĩa như vậy, nên gọi là môn nêu tổng quát về cương yếu. Như Bản luận viết: “Lại nữa, có nghĩa huân tập của bốn loại pháp, nên pháp nhiễm pháp tịnh dấy khởi không đoạn dứt”.
Đã nói về môn nêu tổng quát về cương yếu. Tiếp đến là nói về môn lập tên gọi lược chỉ rõ. Ở trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn pháp tướng tịnh chân. Hai là môn pháp tướng nhiễm vọng. Nói là chân: Là tự tánh thanh tịnh nơi trí của tạng bản giác. Nói là vọng: Là vô minh trên gốc lìa khỏi thể tướng. Trong môn nhiễm vọng tức có ba loại. Những gì là ba loại? Một là vô minh. Hai là nghiệp thức. Ba là cảnh giới. Bốn pháp như vậy là gồm một chân và ba vọng, có thể tạo sự huân tập số tên gọi gốc. Nay trong văn này nêu lên một, về sau có cùng gồm phần giữa có nên quán xét kỹ. Vì sao? Vì tất cả pháp nhiễm thảy đều có sự huân tập. Như Bản luận viết: “Những gì là bốn loại? Một là pháp tịnh, gọi là chân như. Hai là tất cả nhân nhiễm, gọi là vô minh. Ba là tâm vọng, gọi là nghiệp thức. Bốn là cảnh giới vọng, đó là sáu trần”.
Đã nói về môn lập tên gọi lược chỉ rõ. Tiếp theo là nói về môn giải thích chung về huân tập. Ở trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn tỷ lượng thí dụ thiện xảo. Hai là môn pháp dụ hợp thuyết an lập. Môn tỷ lượng thí dụ thiện xảo là ví như y phục từ trước đến nay, cũng không có mùi thơm, cũng không có mùi hôi, hoàn toàn không có mùi gì, nhưng nhiều người lúc đi vào rừng Ban đa già da sa xoa đề ô, vì Hội mạt da đề huân tập nên có mùi hôi, lúc đi vào rừng Phạm đàn chỉ đa na, vì Đà ma kiện đa huân tập, do đó có mùi thơm. Như Bản luận viết: “Như y phục của thế gian thật sự không có mùi thơm, nếu người ta dùng mùi thơm để huân tập thì có mùi thơm”.
Môn pháp dụ hợp thuyết an lập là đạo lý thắng nghĩa cũng lại như vậy. Tự tánh thanh tịnh và tánh đức vô lậu, từ vô thủy đến nay là hoàn toàn sáng sạch, cũng không có cấu uế, cũng không có nhiễm ô, nhưng vì vô minh huân tập nên tức có cấu uế. Biển chứa vô minh từ vô thủy đến nay hoàn toàn là đen tối, cũng không có trí sáng, cũng không có phẩm sạch, nhưng do bản giác huân tập nên có dụng tịnh. Nhiễm tịnh như vậy chỉ là giả lập. Nhiễm không phải là nhiễm that. Tịnh không phải là tịnh thật, đều là huyễn hóa, không có tự tánh thật. Như Bản luận viết: “Ở đây cũng như vậy, pháp tịnh của chân như thật sự không ở nơi nhiễm, chỉ do vô minh huân tập nên tức có tướng nhiễm. Pháp nhiễm của vô minh thật sự không có nơi nghiệp tịnh, chỉ do chân như huân tập nên tức có dụng tịnh”.
Đã nói về môn giải thích chung về huân tập. Tiếp đến là nói về môn phân tích nói chi tiết. Ở trong môn này tức có bốn môn. Những gì là bốn môn? Một là môn phẩm hắc có lực cùng huân tập. Hai là môn phẩm bạch có lực cùng huân tập. Ba là môn phát khởi hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Bốn là môn nêu duyên nói rộng để thông hợp.
Trong môn thứ nhất tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn hỏi chung đáp chung để hiển bày tông chỉ. Hai là môn quy về chung tạo tác riêng để nói chi tiết. Trong môn thứ hai cũng gồm đủ hai môn này, nên quán xét kỹ. Trong môn thứ tư tự có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn nêu tổng quát về phép tắc quyết định. Hai là môn nhân duyên đều chỉ rõ để phát sinh hiểu biết. Như thứ lớp ấy đã nói về tướng có thể nhận thấy.
Thế nào là huân tập dấy khởi pháp nhiễm không dứt? Tức là hỏi chung. Nghĩa là nêu hỏi chung về nghĩa của hết thảy phẩm hắc cùng huân tập cùng sinh khởi không đoạn dứt.
Từ đây tiếp xuống tức là phần đáp chung. Căn cứ ở trong phần đáp này tức nêu rõ từ tạng tịnh diệu cho đến thô trọng, từ bỏ gốc hướng về ngọn, dần dần chuyển sang hơn hẳn để nói về thứ lớp kia. Nói thứ lớp của tướng nên quán xét kỹ. Vô minh căn bản không thể tự có, phải dựa vào chân như mới được dừng trụ. Vì sao? Vì tánh của chân như thì như cảnh giới hư không, cho đến bộ phận thật chủ, ở trong chướng ngại và không chướng ngại đã tạo nơi quay về nương dựa không chốn trở ngại. Như Bản luận viết: “Đó là vì dựa vào pháp chân như nên có nơi vô minh”. Như vậy, vô minh có được nơi chốn của chính nó rồi thì khí lực hơn hẳn, công năng tự tại, có thể huân tập chân như khiến tạo ra pháp vọng, tăng trưởng tướng không hiểu rõ thêm nhiều dụng ám độn. Ví như cha ái dục sinh ra các nam nữ. Như Bản luận viết: “Do có vô minh là nhân của pháp nhiễm nên tức huân tập chân như. Vì huân tập nên tức có tâm vọng”. Tâm vọng của nghiệp thức vi tế như thế nhập nơi vô minh nên tự thể sinh rồi trở lại huân tập vô minh có thể khiến tăng trưởng. Ví như sinh con nuôi lớn có thể sinh ra cha. Lực huân tập như vậy lại tăng trưởng, không thể thông đạt được nhất tâm viên mãn bình đẳng như lý, vì thế dấy khởi niệm hoặc của chuyển thức, sinh ra cảnh vọng của hiện tướng, khiến biển sinh tử càng sâu, bờ Niết-bàn càng cao. Như Bản luận viết: “Do có tâm vọng tức huân tập vô minh, không rõ về pháp chân như nên niệm bất giác khởi hiện bày cảnh giới vọng”. Như vậy, gió của cảnh giới trở lại huân tập biển của hiện thức, xuất sinh sóng nước của bảy thức. Các thức này vui thích tham đắm nơi các trần của cảnh giới. Cảnh kia đối diện trước nhãn thức, tạo khắp các nghiệp ác, thọ nhận đủ hết thảy khổ báo nơi vòng tuần hoàn của ba cõi, sóng của giặc bốn độc phát sinh. Như Bản luận viết: “Do có cảnh giới duyên theo pháp nhiễm, tức huân tập tâm vọng, khiến niệm kia tham vướng tạo ra vô số thứ nghiệp, thọ nhận tất cả khổ nơi thân tâm”.
Đã nói về môn hỏi chung đáp chung để hiển bày tông chỉ. Tiếp đến là nói về môn quy về chung tạo tác riêng để nói chi tiết. Theo trong môn này tức có ba lớp. Những gì là ba lớp? Một là cảnh giới. Hai là tâm vọng. Ba là vô minh. Đây gọi là ba lớp. Ba loại như vậy, mỗi loại đều có hai, nên thành sáu số. Như thứ lớp ấy, đầu dùng làm sau, sau dùng làm đầu, lần lượt hiện bày rõ.
Lớp thứ nhất là thế nào? Vì cảnh giới vọng này có lực huân tập như thật nên tăng thêm niệm chấp pháp, hiện có như có lực huân tập, nên tăng trưởng chấp trước nhân. Hai chấp về nhân pháp dấy khởi đầy đủ, thì các loại phiền não đứng đầu nhiều hơn số hằng sa thảy đều phát khởi, vì thế gọi là huân tập cảnh giới. Như Bản luận viết: “Nghĩa huân tập cảnh giới vọng này tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là tăng trưởng huân tập niệm. Hai là tăng trưởng huân tập thủ”.
Lớp thứ hai là thế nào? Tâm vọng của nghiệp thức có lực huân tập của biên trên, đã lìa khỏi hàng Thánh nhân của ba thừa, tức có thể khiến thọ nhận khổ vi tế của sinh tử biến dịch. Có lực huân tập của biên dưới, chưa được ra khỏi phần vị của tất cả phàm phu, nên có thể khiến thọ nhận khổ thô trọng của sinh tử phần đoạn, vì vậy gọi là huân tập tâm vọng. Như Bản luận viết: “Nghĩa huân tập tâm vọng có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập nghiệp thức căn bản, có thể thọ nhận khổ sinh diệt của A-la-hán, Phật-bích-chi và tất cả Bồ-tát. Hai là huân tập làm tăng trưởng thức phân biệt sự có thể thọ nhận khổ do nghiệp trói buộc của phàm phu”.
Lớp thứ ba là thế nào? Do vô minh trụ địa là gốc của tự thể, có thể huân tập nơi đầu cuối khiến được thành tựu, tức thông đạt khắp. Có thể huân tập sự thức khiến được thành tựu. Vì sao chỉ nêu lên phần đầu cuối còn phần trung gian thì không hiện bày? Vì có hai ý. Những gì là hai ý? Một là ý về hữu thành tựu. Hai là ý về không thành tựu. Thế nào gọi là ý về hữu thành tựu? Vì nêu lên biên được có, tức hiển bày trung gian cũng có. Thế nào gọi là ý về không thành tựu? Tức nêu lên trung gian là hoàn toàn không để hiển bày biên không. Nghĩa sau là thế nào? Ở trong Khế kinh đã giảng nói như vậy. Đích thực là Khế kinh nào? Đó là Kinh Huân Tập. Trong Khế kinh ấy đã nêu giảng như thế nào? Nghĩa là trong Khế kinh Huân Tập đã thuyết giảng như vầy: “Thức chuyển, thức hiện và thức Mạt-na, ba thức ấy không phải theo vô minh mà được thành tựu. Vì sao? Vì vô minh căn bản chỉ thành tựu ở nơi biên, không phải thành tựu ở phần giữa”. Nghĩa sau của văn này giải thích trực tiếp về kinh ấy, vì thế nhận biết rõ là nghĩa này được thành. Như Bản luận viết: “Nghĩa huân tập của vô minh có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập căn bản, do nghĩa có thể thành tựu thức nghiệp. Hai là huân tập kiến ái đã khởi, do nghĩa có thể thành tựu thức phân biệt sự”.
Đã nói về môn phẩm hắc có lực cùng huân tập. Tiếp đến là nói về môn phẩm bạch có lực cùng huân tập. Thế nào là huân tập dấy khởi pháp tịnh không đoạn dứt? Tức là câu hỏi chung. Nghĩa là nêu hỏi tổng quát về nghĩa của hết thảy phẩm bạch cùng huân tập, cùng sinh khởi không đoạn dứt.
Từ đây tiếp xuống tức là phần đáp chung. theo trong phần đáp này, tức nêu tự có hai loại huân tập. Những gì là hai loại? Một là huân tập tự nhiên từ vô thủy. Hai là huân tập từ lúc mới có kiến lập. Huân tập từ vô thủy: Là từ vô thủy đến nay có hai phần vị của nhân quả. Huân tập từ lúc mới có: Là nhân nơi lực tu hành nên có hai phần vị nhân quả. Nhân quả vốn có ấy, tướng của chúng là thế nào? Nghĩa là từ vô thủy đến nay có phần vị của ba Hiền mười Thánh, nên có quả của ba Thân bốn Đức. Nhân quả mới bắt đầu ấy, tướng của chúng là thế nào? Nay vào lúc tu hành mới có được mười Địa của vô thủy, hiển bày nhân quả vốn có. Nhân quả gốc ấy theo thứ lớp như thế nào? Từ vô thủy đến nay do có mười loại chân trí của bản giác và mười loại pháp giới như thật, nên có thể huân tập mười loại vô minh chi mạt, vì có một loại tâm pháp giới nên có thể huân tập vô minh căn bản. Đấy gọi là bản địa. Như Bản luận viết: “Đó gọi là vì có pháp chân như nên có thể huân tập vô minh”.
Nhân quả mới bắt đầu thứ lớp như thế nào? Nghĩa là tuy chưa được phần vị mười Tín, nhưng do lực huân tập gốc, tức trong tự tâm chán lìa khổ của sinh tử và cầu đạt vui của Niết-bàn. Vì lực này tức huân tập tánh chân như, tự tin có Phật tánh đi vào vị mười Tín. Nhận biết tâm hư vọng đi vào vị mười Giải. Nhận biết cảnh giới không đi vào vị mười Hạnh. Tu tập pháp xuất ly, hướng nhập vị mười Hướng. Dùng Bát nhã như thật nhận biết cảnh giới không, phát khởi vô lượng phương tiện, hành thuận theo tánh pháp giới, không giữ lấy Niết-bàn, không phân biệt sinh tử, đi vào địa Cực hỷ cho đến Kim cang. Vì huân tập từ lâu xa, nên phát khởi đạo giải thoát, vô minh tức thì đoạn trừ, gốc rễ dứt hết, nên cành ngọn đều không. Gốc, ngọn nơi phẩm hắc đã không có, nên đạt được Niết-bàn của pháp thân, thành tựu nghiệp dụng của ứng hóa. Đấy gọi là Thủy địa. Như Bản luận viết: “Do lực nhân duyên huân tập, tức khiến tâm vọng chán lìa khổ của sinh tử vui cầu đạt Niết-bàn. Vì tâm vọng này có nhân duyên chán lìa cùng mong cầu, nên tức huân tập chân như, tự tin vào tánh của chính mình, nhận biết tâm vọng động, không có cảnh giới, trước tu pháp xa lìa. Do nhận biết như thật là không có cảnh giới trước, nên vô số phương tiện sinh khởi thuận theo hành không giữ lấy, không suy niệm, cho đến do sức huân tập từ lâu xa, nên vô minh tức diệt. Vì vô minh diệt nên tâm không có dấy khởi, vì không dấy khởi nên cảnh giới theo đó diệt. Do nhân duyên đều cùng diệt nên tâm tướng đều hết, gọi là đạt được Niết-bàn, thành tựu nghiệp tự nhiên”.
Đã nói về môn hỏi chung đáp chung để hiển bày tông chỉ. Tiếp đến là nói môn quy về chung tạo tác riêng để nói chi tiết. Căn cứ trong này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn huân tập vọng nhiễm. Hai là môn huân tập pháp tịnh. Trong môn pháp nhiễm lại có hai loại. Những gì là hai loại? Một là loại thô. Hai là loại tế. Nói về thô tức là ý thức. Nói về tế là mười một Mạtna. Huân tập ý thức thì tướng ấy là thế nào? Đó là bốn mươi tâm phàm phu và các hàng Nhị thừa dùng phần trí của bản giác trong ý thức, huân tập phần si của vô minh trong ý thức, chán bỏ khổ của sinh tử, vui với an lạc của Niết-bàn, dần dần chuyển thành thù thắng hướng đến Phật đạo. Như Bản luận viết: “Nghĩa huân tập tâm vọng có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập thức phân biệt sự là dựa vào các hạng phàm phu, người của hai thừa, chán lìa khổ của sinh tử, tùy theo sức của mình có thể đạt được, theo đó dần dần hướng về đạo vô thượng”. Nghĩa huân tập mười một Mạt-na, tướng ấy là thế nào? Là từ địa của hàng Thánh thứ nhất cho đến địa Kim cang, như thứ lớp ấy, dùng phần thanh tịnh huân tập phần nhiễm ô, để chứng nhập đạo Bồ-đề vô thượng. Do các Bồ-tát v.v… đã đoạn trừ vô minh. Như Bản luận viết: “Hai là huân tập ý, nghĩa là các Bồ-tát phát tâm dũng mãnh nhanh chóng hướng tới Niết-bàn”.
Đã nói về môn huân tập vọng nhiễm. Tiếp đến là nói về môn huân tập pháp tịnh. Căn cứ trong môn này tự có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn nêu tổng quát. Hai là môn giải thích. Môn nêu tổng quát là nêu chung về tên gọi. Như Bản luận viết: “Nghĩa của huân tập chân như có hai loại. Những gì là hai loại? Một là huân tập tự thể tướng. Hai là huân tập dụng”. Trong môn giải thích tự có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn huân tập pháp thân tự nhiên. Hai là môn huân tập ứng hóa thường hằng. Nói môn huân tập pháp thân: Là tánh trí của bản giác từ vô thủy đến nay có công đức viên mãn và trí tuệ đầy đủ, từ tự mình tạo tác, từ không có tha lực. Như Bản luận viết: “Huân tập tự thể tướng, là từ đời kiếp vô thủy đến nay luôn có đủ pháp vô lậu”. Nói môn huân tập ứng hóa: Là bản giác như vậy đã phát khởi vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn vượt quá hằng hà sa số các loại nghiệp dụng, trong các tâm tướng của tất cả chúng sinh, theo đấy nên giáo hóa, đoạn trừ hết thảy ác tu hết thảy thiện, có đủ nhân của trăm hành, tròn đầy quả của vạn đức. Như Bản luận viết: “Huân tập dụng là có đầy đủ nghiệp bất tư nghị tạo tác tánh của cảnh giới”. Hai môn như vậy không cùng lìa bỏ, ở trong tất cả thời, tất cả xứ, thường xuyên huân tập khởi tín, sinh giải, kiến lập sự tu hành, tạo tác không chuyển đổi, đến đúng hai địa, sau cùng đạt được cảnh giới chân tục khiến không còn chướng ngại. Như Bản luận viết: “Dựa vào hai nghĩa này luôn luôn huân tập, vì có lực huân tập nên có thể khiến cho sinh chán lìa khổ của sinh tử, vui cầu đạt Niết-bàn, tự tin vào bản thân mình có pháp chân như nên phát tâm tu hành”. Do nghĩa ấy nên lý của ba thân vốn có đã hiển bày.
Đã nói về môn phẩm bạch có lực cùng huân tập. Tiếp đến là nói về môn phát khởi hỏi đáp trừ bỏ nghi. Môn trừ bỏ nghi này, nghĩa lý khó giải thích, văn giáo lại khép kín. Nếu giải thích nhưng không nói chi tiết, vì không có người quyết định thông suốt mà không thể hiểu rõ. Vì vậy nay lại tạo ra nhiều loại giải thích. Tức là khai thị đầy đủ, làm rõ về tâm của hành giả, như thứ lớp ấy theo tướng hỏi đáp, nên quán xét kỹ. Tất cả chúng sinh đều có bản giác, có số chúng sinh nhưng không có bản giác, là đều có lý. Vì sao? Vì bậc Đại Giác Thế Tôn đã giảng nói như vậy. Nghĩa này là thế nào? Vì tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay có đầy đủ bản giác, từ vô thủy đến nay không có bản giác. Nếu dựa vào môn đầu là tất cả chúng sinh đều có bản giác. Bản giác như vậy chỉ là một thể hiện bày khắp nơi các chúng sinh, mỗi mỗi chúng sinh đều có tánh giác riêng, nhưng tất cả chúng sinh chỉ có một tánh giác không có tánh giác riêng khác. Nếu như vậy thì chúng sinh chỉ nên là một, bản giác sở hữu là một. Bản giác tức nên không phải là một, vì có thể có nhiều chúng sinh. Sự việc này là không đúng. Vì sao? Vì ý nghĩa sâu xa riêng khác. Nghĩa là tâm của bản giác là tánh bình đẳng nên không thể khác nhau về chủng loại. Tất cả chúng sinh có tánh sai biệt nên không thể như nhau về chủng loại. Không thể khác nhau về chủng loại nên là một. Không thể như nhau về chủng loại nên là nhiều. Nếu như vậy thì văn này làm sao thông suốt? Nghĩa là trong Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bản, Tôn giả Mã Minh nêu giảng như vầy:
Ví như trong hư không
Vầng trăng tròn thanh tịnh
Chỉ một không hai thể
Hiện khắp ngàn vật chứa.
Bản giác cũng như vậy
Chỉ một không hai thể
Hiện khắp các chúng sinh
Trong vô số tâm tướng.
Ví như một áng mây
Che vầng trăng tròn kia
Ngàn vật chứa vầng trăng
Đều ẩn mất không hiện.
Vô minh cũng như thế
Chỉ một thể, không hai
Đến khắp các chúng sinh
Có thể tạo huân tập.
Có hai nghĩa nên không có lỗi cùng trái nhau. Những gì là hai nghĩa? Một là tự tông chỉ quyết định. Hai là dẫn ra để gồm thâu quyết định. Nói tự tông chỉ quyết định: Là hiển bày chỉ rõ về nghĩa tương tục đồng nhất. Nói dẫn ra để gồm thâu quyết định: Là hiển bày chỉ rõ về nghĩa tương tục sai biệt. Luận Huyền Văn kia là hiển bày về nghĩa thứ nhất. Luận Khởi Tín này là hiển bày về nghĩa thứ hai. Do nghĩa này nên không có lỗi trái nhau. Do vậy trong Luận Hư Không Địa Địa, Tôn giả Mã Minh đã giảng nói như vầy:
Ví như dùng lá sen
Che vật chứa vầng trăng
Vật chứa vầng trăng khác
Trọn không ẩn, hiện trước.
Vô minh cũng như vậy
Che người mê lúc giác
Người đã giác bản giác
Trọn không thể che lấp.
Văn này là nêu rõ về gì? Là muốn hiển bày về nghĩa tương tục sai biệt. Lại nữa, trong Khế kinh Văn Thù Sư Lợi Luận Nghị Đệ Nhất Thần Lực Thù Thắng Từ Bi Viên Mãn Hư Không Công Đức đã nêu giảng như sau:
Có vô lượng vô biên
Vô minh phiền não chướng
Đến khắp thân chúng sinh
Hay tạo sự chướng ngại.
Văn này là nêu rõ về nghĩa gì? Tức là muốn hiển thị về nghĩa tu hành tinh tấn. Thế nào là hiển thị? Nghĩa là có chúng sinh dấy khởi niệm như vầy: Nếu thể của vô minh chỉ là một loại, hiện hữu khắp nơi tất cả các chúng sinh, thì vô minh chỉ là một còn chúng sinh rất nhiều, tức dễ có thể đoạn trừ đâu cần phải dũng mãnh vượt gian khó để có thể tu hành? Như thấy sự tướng ở thế gian, nhiều người làm một việc, không đủ để cho là khó nên không siêng năng tu hành. Vì nhằm đối trị hàng chúng sinh biếng trễ si ám như vậy, nên Đức Như Lai đã giảng nói có vô lượng vô biên vô minh có thể che phủ Phật tánh. Do nghĩa này nên nghĩa về một vô minh được thành lập. Nếu như vậy thì trong lúc phiền não của một chúng sinh dứt hết, thì tất cả chúng sinh còn lại thảy đều cũng có thể dứt hết. Vì sao? Vì chỉ có một vô minh. Nếu một người lúc đoạn trừ mà những người khác không thể đoạn trừ, thì không thể nói là đồng một vô minh. Lại nữa, có cõi chúng sinh nào đoạn dứt lỗi lầm? Sự việc này là không đúng. Vô minh tuy là một nhưng tương tục thì có sai khác. Tướng ấy là thế nào?
* Tụng nêu:
Ví như đêm tối một
Đến khắp trong mười nhà
Lúc diệt tối một nhà
Diệt còn lại không nói.
* Luận giải thích: Đêm tối tuy là một, nhưng có thể đến khắp trong mười căn nhà. Cũng không thể nói bóng tối là một, căn nhà là một. Cũng không thể nói bóng tối là mười căn nhà là mười. Ở trong một căn nhà người ta dùng ngọn đèn sáng soi chiếu bên trong căn nhà, bóng tối hết sạch hoàn toàn. Ánh sáng đầy đủ soi chiếu khắp trong một căn nhà, bóng tối hết sạch không còn gì, nhưng cũng không thể nói là trong chín căn nhà kia không còn bóng tối. Bóng tối trong chín căn nhà kia vẫn còn đủ không mất, mà đèn soi chiếu trong một căn nhà và bóng tối không mất ấy cũng không thể nêu bày. Vô minh phiền não cũng lại như vậy. Nói đêm tối: Là dụ cho vô minh. Nói mười căn nhà: Là dụ cho thân của chúng sinh. Nói đèn sáng: Là dụ cho trí tuệ. Vì vậy nên biết: Vô minh tuy là một nhưng tương tục thì riêng khác. Do đó đoạn trừ và không đoạn trừ mỗi mỗi đều không đồng. Nếu lúc một chúng sinh trừ hết phiền não, mà các chúng sinh khác không thể đoạn trừ, là vì phiền não trong thân chúng sinh chưa dứt hết, nên Phật tánh của bản giác bị vô minh che phủ. Phiền não trong thân chúng sinh đã diệt hết thì Phật tánh của bản giác vốn bị vô minh che phủ đã hoàn toàn xuất ly. Phật tánh lìa chướng ngại và Phật tánh bị chướng ngại là hết sức khác nhau, vì sao nay nói là đồng một Phật tánh? Do thể của Phật tánh ấy là không phân biệt, đã hiện hữu khắp các chúng sinh. Phật tánh của bản giác là ngang bằng cõi hư không, không nơi nào là không hiện bày khắp, không chốn nào là không đi đến, không xứ nào là không thông suốt, không phương nào là không ứng hợp, bình đẳng và bình đẳng, chỉ một vị, một tướng, không có sai biệt. Nhưng trong tạng vô minh thì Phật tánh của bản giác bị pháp nhiễm che ngăn. Phật tánh của bản giác nơi bên ngoài pháp giới thì lìa pháp nhiễm che phủ, đấy là tâm cùng duyên dựa xét biết về cảnh giới của hiện lượng, không phải là tâm của thật lý trong tự tánh. Vì vậy nên biết lý của Phật tánh chỉ là một loại như nhau không có sai biệt. Do đó, trong Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Tôn giả Mã Minh đã nêu giảng như vầy:
Trăng hiện ngàn vật chứa
Vật chứa có nước đục
Hiện ra nhưng chẳng rõ
Vật chứa có nước trong.
Hiện tròn mà sáng rõ
Tối sáng tuy không đồng
Chỉ một vầng trăng tròn
Bản giác cũng như vậy.
Tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay đều có bản giác không lúc nào lìa bỏ. Vì sao chúng sinh có người thành Phật trước, có người thành Phật sau, có người nay sẽ thành Phật? Cũng có người siêng năng hành trì, cũng có người không hành trì? Cũng có người thông minh, cũng có người ám độn, tức có vô lượng sai biệt? Đồng có một tánh giác thảy đều trong một lúc phát tâm tu hành đạt đến đạo vô thượng. Vì Phật tánh của bản giác mạnh yếu có riêng khác, nên có sai biệt như vậy. Do vô minh phiền não dày mỏng riêng khác, nên có sai biệt như thế. Nếu nói như nghĩa đầu thì sự việc này là không đúng. Vì sao? Vì Phật tánh của bản giác vốn viên mãn, các công đức nhiều hơn số hằng sa không tăng, không giảm. Nếu nói như nghĩa sau thì sự việc ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì nghĩa đoạn trừ của một địa không thành lập. Các loại như vậy là có vô lượng sai biệt, đều dựa vào vô minh mà được trụ giữ, ở trong lý cùng tột không có liên quan gì. Nếu như thế thì tất cả hành giả đoạn trừ hết thảy ác, tu hết thảy thiện, vượt quá mười Địa đến địa Vô thượng, viên mãn ba thân đầy đủ bốn đức. Hành giả như vậy là minh hay là vô minh? Hành giả như thế là ở phần vị vô minh, không phải là phần vị minh. Nếu vậy thì bản giác thanh tịnh từ vô thủy đến nay, không quán xét tu hành, không phải nhờ vào tha lực, tánh đức viên mãn, trí gốc đầy đủ, cũng ra khỏi bốn câu, cũng lìa bỏ năm biên, lời nói tự nhiên không thể tự nhiên, tâm thanh tịnh không thể thanh tịnh, tuyệt đối xa lìa, hoàn toàn xa lìa. Bản xứ như vậy là minh hay là vô minh? Bản xứ như vậy là biên vực của vô minh, không phải là phần vị của minh. Nếu như thế thì một tâm pháp giới, không phải là trăm phi, trái với ngàn thị. Không phải là ở giữa, không phải là ở giữa trái bỏ tự nhiên, trái bỏ tự nhiên, luận diễn về nước, đủ để quyết đoán mà dừng trụ. Lường xét kỹ để buông tay mà đứng vững. Một tâm như vậy là minh hay là vô minh? Một tâm như vậy là biên vực của vô minh, không phải là phần vị của minh. Cả ba loại từ một tâm phát sinh. Pháp Ma-hadiễn chỉ là một, không thể là một giả có thể đi vào một tâm, không thể là tâm giả có thể đi vào tâm. Thật sự không phải là tên gọi của ngã mà nêu nói về ngã. Cũng không phải tự mình xướng lên mà khế hợp với tự mình. Như ngã lập danh mà không phải là ngã thật. Như tự mình được xướng lên mà không phải thật sự là tự mình. Huyền diệu huyền diệu lại huyền diệu. Xa vời xa vời lại xa vời. Thắng xứ như vậy là minh hay là vô minh? Thắng xứ như vậy là biên vực của cải vô minh, không phải là phần vị của minh. Pháp Ma-ha-diễn bất nhị, chỉ là pháp Ma-ha-diễn bất nhị. Pháp Ma-hadiễn bất nhị như vậy là minh hay là vô minh? (Cả một đoạn này không hiểu là nói về gì!)
Đã nói về môn hữu giác. Tiếp đến là nói về môn vô giác. Vì sao tất cả chúng sinh không có bản giác? Vì không có bản giác. Vì sao không có bản giác? Vì không có chúng sinh. Vì sao không có chúng sinh? Vì không dựa vào bản giác. Dựa theo hai môn này nên thông suốt rộng. Như Bản luận viết: “Hỏi: Nếu là nghĩa như vậy thì tất cả chúng sinh đều có chân như như nhau và đều huân tập. Vì sao có người tin, có người không tin và trước sau có vô lượng sai biệt? Tất cả đều nên trong một lúc tự nhận biết mình có pháp chân như, siêng năng tu các phương tiện để hội nhập Niết-bàn? Đáp: Chân như vốn có một mà có vô lượng vô biên vô minh. Từ xưa đến nay tự tánh sai biệt, dày mỏng chẳng đồng. Các thứ phiền não tăng lên vượt quá hằng sa số dựa nơi vô minh dấy khởi có sai biệt. Ngã kiến, ngã ái đủ thứ phiền não nhiễm dựa nơi vô minh dấy khởi có sai biệt. Như vậy, tất cả phiền não dựa vào vô minh đã dấy khởi, trước sau có vô lượng sai biệt, chỉ có Đức Như Lai là có thể nhận biết”.
Đã nói về môn phát khởi hỏi đáp để trừ bỏ nghi. Tiếp đến là nói về môn nêu lên duyên nói rộng để thông suốt. Căn cứ theo trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn nêu chung về phép tắc quyết định. Hai là môn duyên theo tướng chỉ rõ rộng khắp sinh kiến giải. Đối với môn thứ nhất tức có ba loại. Những gì là ba loại? Một là nói về thể của pháp. Hai là nói về thí dụ. Ba là nói về khế hợp. Lại, pháp của chư Phật thì có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu. Đây tức là nói về pháp. Nghĩa là các pháp của Phật phải chờ đợi nhân duyên, không có pháp tự lập. Vì sao? Vì pháp là như thế. Nói là nhân là chủng tánh của bản giác. Nói là duyên tức quyền thật theo dụng riêng khác. Do hai sự việc này nên các pháp được thành lập, phải nên quán xét kỹ.
Đã nêu dẫn về loại nói về pháp. Tiếp theo là nêu dẫn về loại nói về thí dụ. Như tánh lửa trong gỗ là nhân chánh của lửa, nếu người không hiểu biết, không nhờ vào phương tiện mà có thể tự làm cháy gỗ thì không có điều ấy. Đây tức là nói dụ. Thí dụ trong đây tức có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là dụ về gỗ. Hai là dụ về lửa. Ba là dụ về người. Bốn là dụ về lửa cháy. Nói về gỗ là dụ cho pháp nhiễm. Nói về lửa là dụ cho trí tuệ. Nói về người là dụ cho chúng sinh. Nói về lửa cháy là dụ cho đối trị.
Thí dụ thứ nhất ý ấy là thế nào? Đó là A lê la đa yểm thi. Gỗ tức có đủ năm sự việc. Những gì là năm? Một là gốc rễ sâu chắc không gì có thể vượt qua. Hai là thân cành hoa lá, cho đến quả hạt sinh ra sắc nhọn vô cùng. Ba là mùi hương hết sức xú uế. Bốn là côn trùng độc hại ưa thích bám vào. Năm là quyến thuộc không cùng tận. Đó gọi là năm sự việc. Pháp nhiễm của vô minh cũng lại như vậy. Vô minh căn bản sâu dày rộng lớn không gì có thể vượt qua. Tất cả các loại cảnh ngọn là bất giác, mê hoặc, lỗi lầm, là không thể lường tính.
Thí dụ thứ hai ý ấy là thế nào? Đó là ngọn lửa ẩn tàng tức có bảy sự việc. Những gì là bảy? Một là nghĩa khô chết, vì có thể khiến cây khô cho đến chết. Hai là nghĩa sinh trưởng, vì có thể ngăn chận khí lạnh khiến được sinh. Ba là nghĩa không thể đo lường được, vì không nhận biết nơi chốn. Bốn là nghĩa ẩn giấu, vì không thể trông thấy. Năm là nghĩa xuất hiện, vì phát ra ngọn lửa cháy sáng. Sáu là nghĩa tùy có, tức tùy theo gỗ mà có. Bảy là nghĩa tùy không, tức là tùy theo gỗ mà không. Đấy gọi là bảy sự việc. Bát nhã của bản giác cũng lại như vậy. Huân tập pháp nhiễm cho đến lúc diệt hết chúng. Nhận lấy sự huân tập mà lưu chuyển. Nơi chốn cư trú là không nghĩ bàn. Bí mật ẩn mất trong tạng vô minh, xuất hiện đầy đủ không còn sót. Tùy theo pháp nhiễm có không mà bản giác có không.
Thí dụ thứ ba thì ý ấy là thế nào? Nghĩa là người giả có hai loại. Những gì là hai loại? Một là người giả Bà la lợi đa đề. Hai là người giả Na thi a đa la. Người thứ nhất kia tức nhận biết năm sự việc. Những gì là năm? Một là nhận biết gỗ sinh ra lửa. Hai là nhận biết cọ xát gỗ chuyển. Ba là nhận biết thời gian chậm nhanh. Bốn là nhận biết nơi chốn dừng lại. Năm là nhận biết thứ lớp thành tựu. Đó gọi là năm sự việc. Nếu người thứ hai không nhận biết những sự việc này thì rốt cuộc không có được lửa. Những người tu hành cũng lại như vậy, vì cũng có phương tiện và không có phương tiện.
Thí dụ thứ tư thì ý ấy là thế nào? Nghĩa là lửa đốt cháy gỗ tức có ba sự việc. Những gì là ba sự việc? Một là sự việc bỏ sắc bén tạo chậm lụt. Nghĩa là lửa đốt cháy thì các thứ cây củi bén nhọn không thể làm hại. Hai là sự việc bỏ khác nhau tạo giống nhau. Nghĩa là bỏ hết sắc bén tức cùng hợp với tro. Ba là sự việc từ bỏ ngọn trở lại gốc. Nghĩa là tướng đồng tức cùng với đất là như nhau. Đó gọi là ba sự việc. Đạo đối trị theo thứ lớp cũng lại như vậy. Nghĩa là đoạn trừ chướng ngại, chứng được lý, quy về một tâm.
Đã nêu dẫn về loại nói về thí dụ. Tiếp theo là nêu dẫn về loại nói về khế hợp.
Trong loại nói về khế hợp có hai môn. Những gì là hai môn? Một là nói chung. Hai là nói riêng. Gọi là nói chung: Là nêu chung về đối tượng thực hiện. Như Bản luận viết: “Chúng sinh cũng như vậy”. Gọi là nói riêng: Là nói riêng về đối tượng hành tác. Trong phần nói riêng này tức có ba môn. Những gì là ba môn? Một là môn duyên thiếu chỉ có nhân thì không có sức. Hai là môn nhân thiếu chỉ có duyên thì không có sức. Ba là môn nhân duyên đầy đủ thì thành tựu trọn vẹn.
Môn duyên thiếu chỉ có nhân thì không có sức: Là ví như tuy tánh lửa trong gỗ, từ xưa đến nay có lửa tiềm ẩn, nếu không nhờ nơi phương tiện thì không lấy được lửa. Như vậy, tuy tánh của Như Lai trong tạng vô minh, từ xưa đến nay có tâm của tự tánh thanh tịnh, nhưng không cần dụng công của sự tu hành thì không do đâu đạt được Phật. Như Bản luận viết: “Tuy có sức huân tập của chánh nhân nhưng nếu không gặp được chư Phật, Bồ-tát, các vị thiện tri thức, lấy đó làm duyên để có thể tự mình đoạn trừ phiền não, hội nhập Niết-bàn, thì không có điều ấy”.
Môn nhân thiếu chỉ có duyên thì không có sức: Là ví như có người tuy gồm đủ các phương tiện, nhưng trong cây gỗ kia nếu không có tánh lửa thì rốt cuộc không có được lửa. Như vậy, tất cả hành giả tuy tu hành gồm đủ vô số phương tiện, nhưng trong tâm chúng sinh nếu không có Phật tánh của bản giác, thì rốt cuộc không đạt được Phật. Như Bản luận viết: “Nếu như tuy có sức của ngoại duyên, nhưng pháp tịnh bên trong chưa có sức huân tập, thì cũng không thể chán lìa hoàn toàn khổ của sinh tử, vui cầu đạt Niết-bàn”.
Môn nhân duyên đầy đủ thì thành tựu trọn vẹn: Là ví như trong cây gỗ có tánh lửa cũng gồm đủ phương tiện làm ra lửa, tức ngọn lửa xuất hiện, đốt cháy cây gỗ hết sạch. Nhân duyên đầy đủ cũng lại như vậy, Phật tánh của bản giác có ở bên trong, hợp với bên ngoài là công năng tu hành gồm đủ. Nhân của trăm hành viên mãn, quả của vạn đức tròn đầy, ba trí đều hành, bốn đức cùng mở. Như Bản luận viết: “Nếu nhân duyên đầy đủ, thì đó gọi là tự mình có sức của huân tập, lại được chư Phật, Bồ-tát v.v… từ bi gia hộ, nên có thể dấy khởi tâm chán lìa khổ, tin có Niết-bàn và tu tập căn thiện. Do tu tập căn thiện thành tựu, nên được gặp chư Phật, Bồtát, chỉ dạy khiến vui mừng được lợi ích, mới có thể tiến tới hướng đến đạo Niết-bàn”.
Đã nói về môn nêu chung về phép tắc quyết định. Tiếp theo là nói về môn duyên theo tướng chỉ rõ rộng khắp sinh kiến giải. Theo trong môn này tức có hai cách nói. Những gì là hai cách? Một là nói chung. Hai là nói riêng. Ở trong cách nói chung thì có hai ý. Những gì là hai ý? Một là chủ thể duyên. Hai là đối tượng duyên. Nói chủ thể duyên: Tức là ứng hóa thân, có thể vì chúng sinh tạo tác thành cảnh giới của bản giác. Như Bản luận viết: “Huân tập dụng”. Nói đối tượng duyên: Tức là chúng sinh giới, là hết thảy chúng sinh thuộc đối tượng hóa độ của chư Phật. Như Bản luận viết: “Tức là lực ngoại duyên của chúng sinh”.
Ở trong cách nói riêng tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là duyên có phân biệt chọn lựa. Hai là duyên không phân biệt chọn lựa. Như Bản luận viết: “Ngoại duyên như thế có vô lượng nghĩa”. Lược nêu có hai loại: Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng. Nói là duyên có phân biệt chọn lựa tức có hai ý. Những gì là hai ý? Một là người của chủ thể duyên. Hai là cảnh của đối tượng duyên. Người của chủ thể duyên thì phần vị có sai biệt như thế nào? Đó gọi là phát tâm dùng làm phần vị ban đầu. Địa Như Lai dùng làm phần vị sau cùng. Tức có thể tạo được duyên này. Cảnh của đối tượng duyên thì phần vị có sai biệt như thế nào? Đó là chung nơi hai loại chúng sinh thuộc tụ tà định và tụ bất định. Lại nữa, là chung nơi tụ chánh định. Như Bản luận viết: “Duyên sai biệt là người này dựa nơi chư Phật, Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm bắt đầu cầu đạo, cho đến khi được thành Phật, ở trong thời gian ấy hoặc thấy biết, hoặc nhớ nghĩ, hoặc làm các người thân, cha mẹ, bà con, hoặc làm tôi tớ phục dịch, hoặc làm bạn bè quen biết, hoặc làm kẻ oán đối nhau, hoặc dấy khởi bốn nhiếp pháp, cho đến tất cả vô lượng hành duyên đã tạo tác, do sức huân tập để khởi đại bi, có thể khiến cho chúng sinh tăng trưởng căn thiện, hoặc thấy hoặc nghe đều có được lợi ích”.
Từ đây tiếp xuống dưới là nêu rõ về căn thiện đã thành thục và chưa thành thục có sai biệt. Nghĩa là có chúng sinh căn thiện đã thành thục, thì thân ứng hóa liền ứng hợp thời nhanh chóng khiến được độ thoát. Cũng có chúng sinh căn thiện chưa thành thục, thì thân ứng hóa thuận theo thời gian lâu xa mới khiến được độ thoát. Như Bản luận viết: “Duyên này có hai loại. Những gì là hai loại? Một là duyên gần, nhanh chóng được độ thoát. Hai là duyên xa, về lâu xa mới được độ thoát”.
Từ đây tiếp xuống là đối với duyên gần xa đều phân ra làm hai duyên, hiển bày về tướng sai biệt của nhân quả. Những gì là hai duyên? Một là duyên tăng về nhân. Hai là duyên tăng về quả. Duyên tăng về nhân: Là hai loại duyên kia mỗi mỗi loại đều có tăng trưởng về vạn hạnh của mười địa. Duyên tăng về quả: Là nơi hai loại duyên kia mỗi mỗi loại đều tăng trưởng về quả viên mãn ở địa Như Lai. Như Bản luận viết: “Hai duyên gần xa này phân biệt lại có hai loại. Những gì là hai loại? Một là duyên tăng trưởng hành. Hai là duyên thọ nhận đạo”.
Đã nói về duyên có phân biệt chọn lựa. Tiếp đến là nói về duyên không phân biệt chọn lựa. Ở trong văn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là chung. Hai là riêng. Trong môn chung là nói về duyên bình đẳng. Tức hết thảy chư Phật, Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên huân tập thường xuyên không xả bỏ, đó là duyên của nguyện lực từ bi. Nghĩa là hết thảy chư Phật, Bồ-tát, đối với tất cả thời, nơi tất cả xứ, luôn luôn huân tập thích ứng với vô lượng các chúng sinh để có thể tạo thành cảnh giới, phát khởi khí lực của căn thiện còn tiềm ẩn luôn không lìa bỏ. Do trí lực đồng một thể, thuận theo chỗ nên thấy nghe hiện bày tác nghiệp, tức là hành thật. Đó là ứng hóa Phật nêu trên, do lực tùy chuyển tự tại vô ngại, nên tùy, tùy xứ, tùy nghi, tùy sự, tùy ý lạc, thuận thuận như như, hiển thị tám loại nghiệp dụng tạo lợi ích, giáo hóa trọn vẹn các chúng sinh. Đấy là chúng sinh dựa nơi tam muội mới được bình đẳng thấy chư Phật, tức là hiển bày chỉ rõ về sự việc quán xét chánh pháp của Phật. Nghĩa là hết thảy chư Phật xuất hiện trong các cõi chúng sinh, ví như sợi lông ở trong cái sừng, lớp lớp vô số không thể nói về đời kiếp. Như vậy, tuy có vô lượng vô biên, nhưng nếu không tu tập Xa-ma-tha (Pháp chỉ) thì rốt cuộc là không thấy Phật. Vì vậy tất cả chư vị Bồ-tát phát tâm rồi thì dùng lực tam muội quán thấy thân pháp tánh của chư Phật, bình đẳng bình đẳng không có sai biệt, đồng một chân như, đồng một pháp thân, khác nhau chỉ là thấy về chính mình, vì ngã tự không sai khác. Vì vậy nói là bình đẳng thấy Phật.
Đã nói về môn nói chung. Tiếp đến là nói về môn nói riêng. Ở trong môn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là chưa đi vào chánh vị. Hai là đã đi vào chánh vị.
Thế nào gọi là chưa đi vào chánh vị? Nghĩa là hàng phàm phu mười tín, tất cả Nhị thừa, Bồ-tát ba Hiền chưa đạt trí chánh thể, chưa chứng trí hậu đắc, chưa chứng nhập như lý. Như Bản luận viết: “Huân tập thể dụng này phân biệt lại có hai loại. Những gì là hai loại? Một là chưa tương ưng. Nghĩa là hàng phàm phu, Nhị thừa và các Bồ-tát mới phát tâm, do huân tập ý và ý thức, dựa vào tín lực, nhưng tu hành chưa đạt được tâm không phân biệt, cùng với thể tương ưng, chưa đạt được nghiệp tự tại để tu hành cùng với dụng tương ưng”.
Thế nào gọi là đã đi vào chánh vị? Nghĩa là hàng Bồ-tát mười địa, bên trong đạt được chánh trí, bên ngoài đạt được hậu trí, một phần trí dụng là ngang bằng với Như Lai, chỉ dựa vào lực huân tập gốc tự nhiên tu hành, tăng trưởng chân như có thể diệt trừ vô minh. Như Bản luận viết: “Hai là đã được tương ưng. Nghĩa là Bồtát pháp thân được tâm không phân biệt, cùng với tự thể của chư Phật tương ưng đạt được nghiệp tự tại để tu hành cùng với trí dụng tương ưng, chỉ dựa vào pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập chân như diệt trừ vô minh”.
Đã nói về môn phân tích nói chi tiết. Tiếp đến là nói về môn tận và bất tận có sai biệt. Môn này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển thị về tất cả pháp vọng tức trái với đạo lý nên không có bắt đầu mà có kết thúc. Tất cả pháp tịnh thì khế hợp đạo lý nên có bắt đầu mà không có kết thúc. Lại nữa, vì muốn hiển bày làm rõ về hai pháp chân vọng là hoàn toàn trái nhau nên không cùng hành. Lại nữa, vì muốn hiển thị hai pháp chân vọng không có hơn kém, thể tướng ấy là như nhau không có rộng hẹp, nên nghiệp dụng tạo tác là đồng. Như Bản luận viết: “Lại nữa, pháp nhiễm từ vô thủy đến nay huân tập không dứt, cho đến sau khi thành Phật tức có đoạn dứt. Pháp tịnh huân tập thì không có đoạn dứt cho đến tận cùng nơi đời vị lai. Nghĩa này là thế nào? Vì pháp chân như luôn huân tập, nên tâm vọng tức diệt, pháp thân hiển hiện, khởi huân tập dụng nên không có đoạn dứt”.
HẾT – QUYỂN 5