LUẬN THÍCH MA HA DIỄN
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Phiệt Đề Ma Đa.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 3

Đã nói về môn Thức gồm thâu chung phát sinh viên mãn. Tiếp theo là nói về môn Tổng tướng phân biệt nêu rộng.

* Bản luận viết: Nói về nghĩa giác tức là tướng lìa niệm nơi thể của tâm. Tướng lìa niệm là ngang bằng hư không giới. Một tướng pháp giới không đâu là không hiện bày khắp, tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai. Dựa nơi pháp thân này nên gọi là Bản giác. Vì sao? Vì nghĩa của bản giác là đối với thủy giác mà nói. Do thủy giác tức đồng với bản giác. Nghĩa của thủy giác là dựa vào bản giác mà có bất giác, dựa nơi bất giác nên nói là có Thủy giác. Lại, vì giác ngộ về gốc của tâm nên gọi là Cứu cánh giác. Không giác ngộ về gốc của tâm nên không phải là Cứu cánh giác.

* Luận giải thích: Ở trong phần văn này có hai môn. Những gì là hai? Một là môn lược nói về an lập Bản giác. Hai là môn lược nói về an lập Thủy giác. Trong môn Bản giác tức gồm có hai môn. Những gì là hai? Một là môn Bản giác thanh tịnh. Hai là môn Bản giác nhiễm tịnh. Trong môn Thủy giác lại có hai môn. Những gì là hai? Một là môn Thủy giác thanh tịnh. Hai là môn Thủy giác nhiễm tịnh.

Thế nào gọi là Bản giác thanh tịnh? Là pháp thân vốn có từ vô thủy đến nay gồm đủ các đức viên mãn vượt quá Hằng sa số, luôn sáng sạch.

Thế nào gọi là Bản giác nhiễm tịnh? Là tâm tự tánh tịnh nhận lấy sự huân tập của vô minh nên lưu chuyển trong sinh tử không đoạn dứt.

Thế nào gọi là Thủy giác thanh tịnh? Là trí của tánh vô lậu xuất ly tất cả vô lượng vô minh, không nhận lấy sự huân tập của hết thảy vô minh.

Thế nào gọi là Thủy giác nhiễm tịnh? Là Bát nhã của Thủy giác đã nhận lấy sự huân tập của vô minh nên không thể lìa bỏ.

Các giác như vậy đều là quyến thuộc của trí, nên chứng được lý nào để trở thành phần của Thể? Đó là lý của tánh Chân như và lý Hư không. Hai lý như vậy đều có bao nhiêu loại? Tức đều có hai loại? Những gì gọi là hai loại Chân như? Một là Chân như thanh tịnh. Hai là Chân như nhiễm tịnh. Lý của Hư không cũng lại như vậy. Thế nào gọi là Chân như thanh tịnh? Đó là chân như của hai loại giác thanh tịnh đã chứng, lìa các thứ huân tập. Thế nào gọi là Chân như nhiễm tịnh? Đó là chân như của hai loại giác nhiễm tịnh đã chứng, không lìa các thứ huân tập. Lý của Hư không cũng lại như vậy. Do nghĩa nào mà tạm gọi là Bản, Giác? Sự chữ có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Bản, Giác đều có mười

Thể tuy đồng sự chữ

Mỗi mỗi đều sai biệt

Tức nghĩa như căn, gương.

* Luận giải thích: Bản, giác mỗi loại có mười. Những gì là mười Bản? Đó là:

1. Bản của sự chữ là Căn: Là bản có pháp thân có thể khéo trụ giữ tất cả công đức. Ví như gốc rễ (Căn) của cây có thể khéo trụ giữ tất cả cành lá và hoa quả khiến không thể hoại mất.

2. Bản của sự chữ là Bản: Tức bản có pháp thân từ vô thủy đến nay, tánh tự nhiên có không phải là mới khởi.

3. Bản của sự chữ là Viễn: Tức bản có pháp thân và lúc có công đức thì lớp lớp lâu xa không phân chia giới hạn.

4. Bản của sự chữ là Tự: Tức bản có pháp thân, ngã tự thành ngã, không phải là kẻ khác thành ngã.

5. Bản của sự chữ là Thể: Là bản có pháp thân, vì các cành nhánh công đức làm nơi nương dựa.

6. Bản của sự chữ là Tánh: Là bản có pháp thân theo nghĩa không chuyển, vì luôn được kiến lập.

7. Bản của sự chữ là Trụ: Tức bản có pháp thân trụ ở nơi vô trụ, không có đi đến.

8. Bản của sự chữ là Thường: Tức bản có pháp thân quyết định về thật tế không lưu chuyển.

9. Bản của sự chữ là Kiên: Tức bản có pháp thân xa lìa tướng lay động (Gió), kiên cố bất động như kim cương.

10. Bản của sự chữ là Tổng: Tức bản có pháp thân rộng lớn tròn đủ, không đâu là không hiện bày khắp, là Thể thông hợp.

Đấy gọi là mười Bản.

Những gì là mười Giác? Đó là:

1. Giác của sự chữ là Kính (Gương): Là tuệ của nhất thiết trí thanh tịnh minh bạch, không vướng bụi bặm.

2. Giác của sự chữ là Khai: Là tuệ của nhất thiết trí thông đạt hiện bày rõ không có chướng ngại.

3. Giác của sự chữ là Nhất: Là tuệ của nhất thiết trí độc tôn độc nhất không gì có thể so sánh.

4. Giác của sự chữ là Ly: Là tuệ của nhất thiết trí có tự tánh giải thoát, xuất ly tất cả các thứ trói buộc.

5. Giác của sự chữ là Mãn: Là tuệ của nhất thiết trí có đầy đủ vô lượng các thứ công đức, không thiếu sót.

6. Giác của sự chữ là Chiếu: Là tuệ của nhất thiết trí phóng ra ánh sáng lớn, soi chiếu khắp tất cả vô lượng cảnh giới.

7. Giác của sự chữ là Sát (Quan sát): Là tuệ của nhất thiết trí luôn luôn phân minh không mê loạn.

8. Giác của sự chữ là Hiển: Là tuệ của nhất thiết trí nơi phẩm tịnh trong thể thanh tịnh, quyến thuộc đều hiện tiền.

9. Giác của sự chữ là Tri: Là tuệ của nhất thiết trí, đối với tất cả các pháp không pháp nào là không cùng tận.

10. Giác của sự chữ là Giác: Là tuệ của nhất thiết trí nơi công đức hiện có chỉ có giác chiếu, không một pháp nào không phải là giác. Đấy gọi là mười Giác.

Như vậy, mười loại nghĩa của chữ Bản, Giác, chỉ dựa vào một loại pháp thân của đại tánh, tùy theo nghĩa nên có giải thích khác nhau, nhưng căn cứ nơi tự thể thì không sai biệt. Nơi hai loại Bản giác đã nói trong này, đúng nghĩa là Bản giác nào? Đó là Bản giác thanh tịnh, không phải là Bản giác nhiễm tịnh.

Nghĩa của chữ Bản giác nhiễm tịnh có sai biệt và tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Trong Bản giác nhiễm tịnh

Hoặc đều có mười nghĩa

Trước nói trong mười sự

Đều có tánh xa lìa.

* Luận giải thích: Trong Bản giác này hoặc đều có mười nghĩa. Vì sao? Vì trong mười nghĩa ở trước đều có nghĩa “Không giữ lấy tự tánh”, sự chữ phối hợp là dựa nơi điều vừa nêu, nên biết.

Hai giác như vậy là đồng hay là khác? Chẳng phải đồng mà đồng nên chẳng phải khác mà khác. Do nghĩa này nên hoặc là đồng, hoặc là khác, hoặc chẳng phải là đồng, hoặc chẳng phải là khác. Do đó đều là thị, đều là phi.

Do nghĩa nào mà tạm gọi là Thủy giác? Sự chữ có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Từ vô thủy đến nay

Không có lúc mê loạn

Ngày nay lần đầu giác

Nên gọi là Thủy giác.

* Luận giải thích: Tức Bát nhã của Thủy giác từ vô thủy đến nay, không có lúc nào bị mê loạn, vì không có lúc mê lầm, nhưng nay mới lần đầu giác, nên gọi là Thủy giác. Như vậy, thủy giác nếu trước mê sau giác thì chẳng phải là Thủy giác. Nhưng thời gian không mê lầm nơi lý thường, nay thường là đầu tiên, nên gọi là Thủy giác. Như thế thủy giác trong hai loại thủy giác, đúng nghĩa là Thủy giác nào? Đó là Thủy giác thanh tịnh không phải là Thủy giác nhiễm tịnh. Thủy giác nhiễm tịnh về sự chữ có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Trí thủy giác thanh tịnh

Vì không giữ tự tánh

Mà bị nhiễm huân tập

Nên gọi giác nhiễm tịnh.

* Luận giải thích: Thủy giác thanh tịnh tuy không có lúc nào mê lầm, nhưng vì không giữ lấy tự tánh nên có thể bị pháp nhiễm huân tập, thuận theo duyên lưu chuyển. Do nghĩa này nên gọi là Thủy giác nhiễm tịnh.

Vì nghĩa nào mà tạm gọi là Chân như, sự chữ có sai biệt tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Thể lý tánh Chân như

Bình đẳng bình đẳng một

Không có tướng một, nhiều

Nên gọi là Chân như.

* Luận giải thích: Lý của tánh chân như là bình đẳng nơi bình đẳng, chỉ đồng một tướng, cũng không có một tướng, cũng không có nhiều tướng. Vì không có một tướng nên xa lìa duyên đồng. Vì không có nhiều tướng nên lìa duyên khác. Do nghĩa ấy nên gọi là Chân như. Như vậy, hai loại trí tịnh của chân như tự thân đã nội chứng. Lại nữa, Chân Như đều có mười nghĩa.

Những gì là mười Chân? Đó là: (1) Chân của sự chữ là Căn, cho đến thứ mười là Chân của sự chữ là Tổng. Mười Chân như vậy cùng với mười loại nghĩa của Bản là tương ưng đều cùng có và không lìa bỏ nhau. Vì vậy nên đồng tên gọi để biểu thị.

Những gì là mười Như? Đó là: (1) Như của sự chữ là Kính, cho đến thứ mười là Như của sự chữ là Giác. Như vậy mười Như cùng với mười loại nghĩa của Giác là tương ưng đều cùng có và không lìa bỏ nhau. Vì vậy nên đồng tên gọi để biểu thị.

Vì sao? Vì mười loại lý của Chân nơi pháp thân vốn có tức có phương tiện của công đức. Mười loại lý của Như nơi tuệ của nhất thiết trí thì có phương tiện của giác ngộ. Do nghĩa này nên đã lặp lại ngôn từ nêu bày chỉ rõ như vậy. Nơi hai loại Chân Như đã nói trong đây thì đúng nghĩa là Chân Như nào? Đó là Chân Như thanh tịnh, không phải là Chân Như nhiễm tịnh. Chân – Như nhiễm tịnh về sự chữ có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Lý Chân Như thanh tịnh

Vì không giữ tự tánh

Mà bị nhiễm huân tập

Gọi Chân Như nhiễm tịnh.

* Luận giải thích: Chân như thanh tịnh từ vô thủy đến nay, tự tánh thanh tịnh, bình đẳng nơi bình đẳng, không sinh không diệt, cũng không có đi đến, cũng không có nơi chốn. Nhưng lý tánh của Chân như không giữ lấy tự tánh, nên tùy duyên động chuyển, vì vậy gọi là Chân như nhiễm tịnh. Như thế, hai trí tịnh nhiễm của Chân như tự thân đã nội chứng là tương ưng đều cùng có, không cùng lìa bỏ. Các nghĩa như vậy, tức xem ở trước đã nói, so sánh chỗ tương tợ nên biết. Do nghĩa nào mà tạm gọi là Hư không, sự chữ có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Hư không có mười nghĩa

Thể tuy đồng sự nghĩa

Mỗi mỗi đều sai biệt

Là nghĩa như vô ngại.

* Luận giải thích: Lý của tánh hư không có mười loại nghĩa. Những gì là mười loại? Đó là: (1) Nghĩa không chướng ngại, vì trong các sắc pháp không có chướng ngại. (2) Nghĩa hiện bày trọn khắp, vì không đâu là không đến. (3) Nghĩa bình đẳng, vì không phân biệt lựa chọn. (4) Nghĩa rộng lớn, vì không phân chia giới hạn. (5) Nghĩa vô tướng, vì dứt hẳn sắc tướng. (6) Nghĩa thanh tịnh, vì không vướng mắc trần cấu. (7) Nghĩa bất động, vì không có thành hoại. (8) Nghĩa hữu không, vì diệt trừ hữu lượng. (9) Nghĩa không không, vì lìa chấp trước không. (10) Nghĩa vô đắc, vì không thể nắm giữ.

Đấy gọi là mười nghĩa. Như vậy, dụng của mười sự nghĩa thì có sai biệt, nếu căn cứ nơi thể thì không dị biệt.

Hai loại trí thanh tịnh của lý hư không này tự thân đã nội chứng là tương ưng đều cùng có và không lìa bỏ nhau. Trong hai hư không thì đúng nghĩa là hư không nào? Đó là hư không thanh tịnh, không phải là hư không nhiễm tịnh. Sự chữ của hư không nhiễm tịnh có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Lý hư không thanh tịnh

Vì không giữ tự tánh

Nên bị nhiễm huân tập

Gọi hư không nhiễm tịnh.

* Luận giải thích: Hư không thanh tịnh gồm đủ mười đức, cũng không có tướng nhiễm, cũng không có tướng tịnh, nhưng tánh hư không chẳng giữ lấy tự tánh, tức có thể bị pháp nhiễm huân tập, tùy duyên lưu chuyển, nên gọi là hư không nhiễm tịnh. Chủ thể huân tập, đối tượng được huân tập đã kiến lập vô số các thứ môn như phỉ báng v.v… Đến phần nói rộng thì lý ấy sẽ hiển bày đầy đủ.

Đã nói về môn sự chữ. Tiếp theo là nói về môn theo đấy giải thích.

Nói về nghĩa của giác, tức là câu nêu chung. Từ đấy trở xuống đều là câu riêng. Chung là biểu hiện chung về tất cả giác. Riêng là mỗi mỗi đều nêu bày khác nhau. Dựa theo trong câu riêng thì trước là nói về Bản giác thanh tịnh, Thủy giác thanh tịnh. Tiếp đến là nói về Bản giác nhiễm tịnh và Thủy giác nhiễm tịnh. Như thứ lớp ấy đã nói về tướng có thể nhận thấy. Nghĩa là thể của tâm là tướng lìa suy niệm, tức là Bản giác thanh tịnh. Tâm nghĩa là tâm thanh tịnh của tự tánh. Thể tức là thể của pháp thân vốn có. Như vậy thể của tâm tức gọi là Bản giác. Tướng lìa suy niệm tức là hiện bày chỉ rõ về nghĩa thanh tịnh. Đó gọi là xa lìa niệm của vô minh lớn nên nói lìa niệm. Xa lìa bốn loại tướng của vô thường nên nói là lìa tướng. Vượt quá Hằng sa quyến thuộc của phiền não. Năm hữu vi này dùng làm căn bản, vì vậy nêu lên gốc là không, chỉ rõ quyến thuộc đều là không. Tướng lìa niệm tức là người xướng nêu Bản giác thanh tịnh. Từ (Ngôn từ) tức là người. Ngang bằng hư không giới, không đâu là không hiện bày khắp: Là người giác ngộ như vậy, là khéo chứng đắc lý hư không gồm đủ nghĩa của mười loại công đức. Một tướng pháp giới: Là như người giác ngộ này, đối với chân như pháp giới của đối tượng chứng đắc, đã cùng hòa hợp, cùng một vị, một tướng không có sai biệt. Tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai. Khéo chứng đắc lý của hai loại thắng diệu. Người giác ngộ thanh tịnh tức là tự thể tự tánh của pháp thân Như Lai. Dựa nơi pháp thân này gọi là Bản giác: Tức pháp thân vốn có trong đức của tự tánh, tạo nên nơi quay về nương dựa, kiến lập gọi là Bản giác thanh tịnh.

Đã nói về Bản giác thanh tịnh. Tiếp theo là nói về Thủy giác thanh tịnh.

Vì sao? Tức là ngôn từ thưa hỏi. Nghĩa là muốn kiến lập Thủy giác thanh tịnh nên tạo sự thưa hỏi như thế. Tướng thưa hỏi như thế nào? Nghĩa là có chúng sinh nêu vấn nạn như vầy: Pháp thân vốn có từ xưa đến nay, gồm đủ vô lượng tánh công đức, luôn luôn sáng sạch, thường hằng tự tại. Dựa vào nghĩa này nên gọi là Bản giác. Bản giác như vậy ở trong thời gian nào, do nhân duyên gì mà có đầy đủ tất cả vô lượng công đức gọi là Bản giác? Nếu nói như vậy thì Bản giác này có đại trí lực, có thể khéo đoạn trừ tất cả lỗi lầm tai hại. Đầy đủ các công đức viên mãn: Tức là Bản giác này trước mê lầm sau giác ngộ, không phải là Bản giác luôn sáng sạch. Tức công đức này đoạn trừ lỗi lầm rồi, thì trước là ẩn, về sau mới là hiển, thì không phải là tự tánh sáng rõ. Há mê lầm – giác ngộ, ẩn giấu – hiển bày, là nghĩa vốn có mà được thành lập sao? Nếu nói như vậy thì thường đoạn lại không đoạn, thường đầy đủ lại không đầy đủ. Vì vậy tức nên có Bản Đoạn, Bản Đức, nghĩa này cũng không thành lập, là không có lỗi lầm của công đức. Nghĩa là tất cả chướng ngại từ xưa đã đoạn xong lại không đợi phải đoạn nữa. Tất cả công đức từ xưa đã đầy đủ lại không đợi phải đầy đủ nữa. Giác ấy tức là Thủy giác không phải là Bản giác kia. Vì vậy trong Bát nhã Ba-la-mật đã nêu bày như vầy: “Nếu giác là Thủy giác, thì hoặc bất giác tức là vô minh. Nếu lìa hai thứ này thì gọi là Bản giác”. Do nghĩa gì để có thể nói như vậy? Trong đức nơi tự tánh của pháp thân vốn có, mà tạo nơi chốn quay về nương dựa gọi là Bản giác, nên nói là vì sao. Nghĩa của Bản giác là đối với Thủy giác mà nói là trực tiếp trừ bỏ nghi kia. Nghĩa là Đại sư Mã Minh tự thông suốt để nói: Bản giác thanh tịnh, từ xưa đến nay là không sinh không diệt, không phải do kiến lập mà có, không phải do hủy báng mà không. Hoặc chẳng phải là lỗi lầm tai hại, hoặc chẳng phải là công đức, nêu xưng đường ngôn ngữ dứt, xứ tâm hành diệt. Nhưng có ngôn thuyết đầy đủ vô lượng tánh đức viên mãn vượt quá Hằng sa số gọi là Bản giác. Nên biết từ vô thủy đến nay lại có Thủy giác thanh tịnh, phát khởi trí lực lớn, phát khởi định lực lớn, nơi tất cả thời, nơi tất cả xứ, luôn luôn đối trị, vô lượng vô biên vượt quá Hằng sa số biển lỗi lầm tai hại, đầy đủ vô lượng vô biên phẩm tịnh công đức viên mãn vượt quá Hằng sa số. Đối với Thủy giác thanh tịnh này, nên lập danh xưng của Bản giác thanh tịnh kia, do Thủy giác tức đồng Bản giác. Nêu lên lý do ấy, nghĩa là vì Thủy giác tự nhiên cùng với Bản giác kia là đồng, tức có thể đối với Thủy giác chỉ ra Bản giác. Như vậy, hai giác huân tập có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Bản, Thủy giác thanh tịnh

Từ vô thủy đến giờ

Xa lìa tất cả nhiễm

Trong sáng như hư không.

Thế nên trong môn này

Pháp nhiễm không huân tập

Pháp tịnh không huân tập

Chỉ có tự gia đức.

* Luận giải thích: Hai giác như vậy, không có chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập có sai biệt, chỉ có công đức chân thật của chính nó. Trong môn này không cần phải kiến lập chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập. Nếu là như vậy thì ở trong môn này có nghĩa huân tập gì để cho là có huân tập? Pháp nhiễm, pháp tịnh không cùng đối đãi mà thành. Đó tức là đầy đủ để chuyển huân tập. Huân tập ấy là thế nào? Nghĩa là hoàn toàn sáng rõ thanh tịnh. Trong Khế kinh Tam Thân Bản Hữu nêu rõ như vầy: “Bản giác vốn có nơi Thủy giác vốn có, chỉ có đức huân tập không có lỗi lầm. Đức huân tập chỉ có sự chuyển đầy đủ, không có sự chuyển từng phần”.

Đã nói về Thủy giác thanh tịnh. Tiếp đến là nói về hai giác lìa tánh.

Nghĩa của Thủy giác là dựa vào Bản giác mà có Bất giác. Dựa nơi Bất giác nên nói có Thủy giác: Là chỉ rõ chung về hai loại Bản, Thủy lìa tánh. Tức là dựa vào Bản giác mà có Bất giác. Đó là Bản giác lìa tánh. Dựa vào Bất giác nên nói là có Thủy giác: Tức là Thủy giác lìa tánh. Nghĩa này là thế nào? Là Bát nhã của Bản giác không giữ lấy tự tánh, nên dễ bị pháp nhiễm huân tập, các pháp nhiễm kia khiến được dừng trụ tức là nghĩa của Bản giác lìa tánh. Bát nhã của Thủy giác không giữ lấy tự tánh, tức đã dựa vào các pháp nhiễm đến nay mới dấy khởi vì bị pháp nhiễm lừa dối, đó là nghĩa của Thủy giác lìa tánh. Bát nhã của Thủy giác có thể đoạn trừ các chướng ngại chứng đắc các công đức, vì sao nói là trí của Thủy giác bị pháp nhiễm lừa dối? Vì đối với pháp không có lỗi lầm lập các thứ lỗi lầm để đoạn trừ chướng ngại. Đối với pháp không có công đức lập các công đức để chứng đắc lý. Nếu như vậy thì Thủy giác ở trong thời gian nào mới được lìa vọng? Là lúc đạo giải thoát đạt tới tột cùng mới được lìa bỏ hoàn toàn, vì trong thời gian ấy đã đạt đến vô niệm. Hai sự việc chuyển đầy đủ và chuyển từng phần nơi đoạn sau sẽ nêu rõ.

Đã nói về môn lược nêu an lập hai giác. Tiếp theo là nói về môn rộng nêu quyết trạch hai giác.

* Bản luận viết: Nghĩa này là thế nào? Như người phàm phu, vì nhận biết niệm trước dấy khởi là ác, nên có thể ngăn niệm sau khiến niệm ác ấy không khởi. Tuy lại gọi là giác mà chính là bất giác. Như hàng Nhị thừa quán trí, Bồ-tát mới phát tâm, nhận biết nơi niệm khác nhau nhưng niệm không có tướng khác. Do xả bỏ tướng chấp trước riêng thuộc phần thô, nên gọi là Tương tợ giác. Như hàng Bồ-tát pháp thân nhận biết đối với niệm, trụ nơi niệm không trú vào tướng, vì lìa tướng phân biệt niệm thô, nên gọi là Tùy phần giác. Như Bồ-tát ở địa sau cùng đầy đủ phương tiện, một niệm tương ưng, nhận biết tâm mới khởi nhưng tâm không có tướng ban đầu, vì xa lìa niệm vi tế, thấy được tánh của tâm thì tâm tức thường trụ, gọi là Cứu cánh giác. Vì vậy Khế kinh nói: “Nếu có chúng sinh có thể quán xét về vô niệm, tức là hướng về Phật địa”. Lại, tâm khởi lên không có tướng ban đầu có thể nhận biết, nhưng nói là nhận biết tướng ban đầu, tức nói là vô niệm. Vì vậy tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm cùng nối tiếp chưa từng lìa niệm, nên nói là vô minh vô thủy. Nếu người đạt được vô niệm thì nhận biết tướng sinh trụ dị diệt của tâm. Do vô niệm v.v… nên thật sự không có chỗ dị biệt của Thủy giác. Vì bốn tướng cùng lúc mà có đều không tự lập, xưa nay bình đẳng đồng một giác.

* Luận giải thích: Đây tức là phần nêu rộng để quyết trạch về Thủy giác. Trong văn này có hai môn. Những gì là hai môn? Đó là: (1) Môn kiến lập bốn tướng. (2) Môn kiến lập tùy giác.

Trong môn Bốn tướng tức có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là bốn tướng của lỗi lầm thô trọng. Hai là bốn tướng của lỗi lầm vi tế. Ba là bốn tướng của công đức vô thường. Bốn là bốn tướng của công đức thường trụ. Bốn tướng thô trọng tức là thời gian dài. Bốn tướng vi tế tức là thời gian ngắn. Tướng vô thường là công đức mới khởi cùng trái với lỗi lầm. Tướng thường trụ là công đức thường trụ đã có cùng trái với lỗi lầm.

Trong môn Tùy giác cũng có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn Mãn giác. Hai là môn Phần giác. Môn Mãn giác là làm sáng tỏ về một giác. Môn Phần giác là hiện bày đủ về giác và bất giác.

Thế nào gọi là bốn tướng của thời gian dài? Đó là từ vị thập tín cho đến lúc đạo giải thoát đạt tới tột cùng mới hoàn toàn lìa. Thế nào gọi là bốn tướng của thời gian ngắn? Vì nhân duyên có được pháp không quá một sát-na. Thế nào gọi là bốn tướng mới bắt đầu khởi? Đó là khởi diệt thì diệt diệt, khởi dị thì khác với dị, khởi trụ thì đức trụ, khởi sinh thì đức sinh. Vì vậy nói là bốn tướng mới khởi. Trái với lỗi lầm nên gọi là công đức, nay mới dấy khởi nên gọi là vô thường. Thế nào gọi là bốn tướng thường trụ? Đó là nay mới dấy khởi nhưng đức thì xưa nay vốn có.

Thế nào gọi là một loại giác? Vì giác cùng với bất giác là không có hai. Thế nào gọi là giác, bất giác? Là giác hoặc bị pháp nhiễm huân tập, hoặc không bị huân tập. Như thứ lớp ấy nói về tướng có thể quán xét. Bốn tướng trong đây có hai thứ lớp. Những gì là hai thứ lớp? Một là thứ lớp trước sau. Hai là thứ lớp cùng có.

Thứ lớp trước sau là trước sau có sai biệt trong lúc các tướng kia không có. Thứ lớp cùng có là trong lúc các tướng kia có thì chúng trước sau cùng một lúc. Lúc các tướng kia không có là căn cứ vào thời gian gián đoạn. Lúc các tướng kia có là dựa vào thời gian tạp loạn. Thứ lớp cùng có tướng ấy là thế nào? * Tụng nêu:

Tướng sinh trụ dị diệt

Bốn thứ tướng như vậy

Một lúc tức trước sau

Không dần dần chuyển được.

Một lúc nên cùng có

Trước sau nên thứ lớp

Cùng lúc thành một tướng

Riêng nên thành bốn tướng.

* Luận giải thích: Bốn tướng của thứ lớp cùng có: (1) Tướng sinh. (2) Tướng trụ. (3) Tướng dị. (4) Tướng diệt. Bốn tướng như vậy hoặc là một lúc, hoặc là trước sau. Do nghĩa nào nên gọi là một lúc? Do được đồng với nhau. Do nghĩa nào nên nói là trước sau? Do thô tế khác nhau. Không phải dần dần chuyển đổi được: Vì phân biệt là để hiện bày chỉ rõ về nghĩa một lúc. Do nghĩa nào nên nói là cùng có? Do nơi một lúc. Do nghĩa nào nên gọi là thứ lớp? Do trước sau. Bốn tướng như vậy là cùng có nên một, vì thô tế nên bốn. Trong đây một lúc nói đến là ở nơi thời gian nào? Ở vào lúc vô minh căn bản huân tập chân tâm. Ở trong thời gian ấy đã khởi đủ bốn tướng, không hiểu không biết về tánh chân thật của tất cả các pháp hiện bày cùng khắp nơi, tức kiến lập vô lượng phiền não vượt quá Hằng sa số, có thể che phủ tự tánh tịnh nên tâm không biết bao giờ trở về với gốc. Vì vậy nên gọi là bốn tướng cùng có. Vì sao gọi là sinh cho đến gọi là diệt? Nghĩa của chữ có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Trụ địa đại vô minh

Trong thời huân Bản giác

Sinh ba loại tướng tế

Nên gọi là tướng sinh.

* Luận giải thích: Thời gian vô minh căn bản huân tập Bản giác đã phát sinh ba loại tướng, nên gọi là tướng sinh. Những gì là ba tướng? Một là tướng Độc lực nghiệp. Hai là tướng Độc lực tùy. Ba là tướng Câu hợp động. Tướng Độc lực nghiệp là không nhận lấy thể của vô minh mà nhận lấy nghiệp của vô minh. Tướng Độc lực tùy thì không nhận lấy thể của Bản giác mà nhận lấy dụng của Bản giác. Tướng Câu hợp động thì nhận lấy tướng động hòa hợp. Nêu chung về ba loại này nên gọi là tướng sinh, vì danh xưng của tướng sinh được lập vào lúc mới sinh. Nghĩa chữ của tướng trụ, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Tướng trụ có bốn loại

Tướng chuyển và tướng hiện

Tướng trí cùng tương tục

Đấy gọi là bốn loại.

* Luận giải thích: Tướng trụ có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là tướng chuyển. Hai là tướng hiện. Ba là tướng trí. Bốn là tướng tương tục. Đấy gọi là bốn loại tướng. Bốn tướng như vậy do nghĩa nào nên gọi là trụ? Nghĩa của trụ trong đây là tùy thuận ưng hợp có sai biệt. Đó là nếu căn cứ nơi tướng chuyển để nói về tướng trụ kia, tức có thể trụ giữ tâm thức huân tập, nên gọi là tướng trụ. Nếu căn cứ theo tướng hiện để nói về tướng trụ kia, tức có thể trụ giữ sắc tướng huân tập, nên gọi là tướng trụ. Nếu căn cứ nơi tướng trí để nói về tướng trụ kia, tức có thể trụ giữ sáu loại phân biệt trí dần dần tương ưng với nhiễm, nên gọi là tướng trụ. Nếu căn cứ theo tướng tương tục để nói về tướng trụ kia, tức có thể trụ giữ thức của sự phân biệt liên tục nhiễm ô, nên gọi là tướng trụ. Đây tức là phần tế không phải là phần thô. Nghĩa chữ của tướng dị, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Tướng dị có hai thứ

Chấp thủ, chấp danh tự

Hai thứ tướng như vậy

Chính là phẩm người chấp.

* Luận giải thích: Tướng dị có hai loại. Những gì là hai loại? Một là tướng chấp thủ. Hai là tướng chấp danh tự. Hai tướng như vậy chính là phẩm người chấp. Hai tướng như thế do nghĩa gì nên gọi là tướng dị? Nếu dựa theo tướng chấp thủ để nói về tướng dị kia, tức có thể duyên với tất cả vô lượng biệt tướng, tùy theo các tướng ấy, thức phân biệt phần thô mà có thể chấp trước về dị tự thành dị nên gọi là tướng dị. Nếu dựa theo chấp danh tự để nói về tướng dị kia, tức tùy theo tướng để lập tên gọi, dựa vào tên gọi đó để khởi chấp nên gọi là tướng dị. Nghĩa chữ của tướng diệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Tướng diệt có hai thứ

Khởi nghiệp và quả báo

Tổn hoại tâm dị trước

Khiến chịu khổ là diệt.

* Luận giải thích: Tướng diệt có hai thứ. Những gì là hai thứ? Một là tướng khởi nghiệp. Hai là tướng nghiệp hệ khổ. Hai tướng như vậy đã hủy hoại phần vị dị ở trước khiến nhận lấy vòng khổ, nên gọi là tướng diệt. Lại nữa, lúc nhận lấy vòng khổ, có thể diệt trừ tất cả vô lượng phẩm thiện, nên gọi là tướng diệt. Lại nữa, lúc nghiệp phát khởi thì căn thiện của Phật tánh dần dần tổn diệt, nên gọi là tướng diệt.

Đã nói về cùng có. Tiếp theo là nói về trước sau. Tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Tướng diệt, dị, trụ, sinh

Bốn thứ tướng như thế

Theo trí lực hơn kém

Có tăng giảm không đồng.

* Luận giải thích: Theo thứ lớp trước sau thì: Một là tướng diệt. Hai là tướng dị. Ba là tướng trụ. Bốn là tướng sinh. Bốn tướng như vậy, tùy theo lượng trí tuệ tăng giảm không đồng. Nghĩa này là thế nào? Do người của vị tín thiếu một đủ ba. Người của vị ba Hiền thiếu hai đủ hai. Ở trong mười Địa thì Địa thứ chín thiếu ba đủ một. Nơi Địa thứ mười thiếu một phần thô đủ một phần tế. Trong Địa Như Lai thì bốn tướng đều không có, là thanh tịnh rốt ráo. Vì vậy nói là tăng giảm không đồng.

Đã nói về môn kiến lập. Tiếp đến là nói về môn thuận theo giải thích.

Dựa vào bốn tướng kia để làm rõ về giác có sai biệt, tức là có năm vị. Những gì là năm vị? Đó là: (1) Vị mười Tín. (2) Vị ba Hiền. (3) Vị chín Địa. (4) Vị Nhân mãn. (5) Vị Quả mãn.

Trong bốn vị trước, mỗi vị đều có bốn sự. Những gì là bốn sự? Một là Người tu hành hướng đến. Hai là Tướng của nhân tu hành. Ba là Tướng hành nhân quả. Bốn là Tướng huân tập lìa cả hai. Nơi vị thứ năm chỉ có ba sự. Những gì là ba sự? Một là Người có thể viên mãn. Hai là Hành tướng đối trị. Ba là Tướng viên mãn cứu cánh. Như thứ lớp ấy để nói về tướng, nên quán xét.

Vị thứ nhất nói như người phàm phu: Tức là người tu hành hướng đến, là vị ở mười Tín chưa được bất thoái nên gọi là phàm phu. Đã ra khỏi định tà gọi là người giác ngộ. Nhận biết được niệm trước dấy lên là ác: Tức là hiện bày chỉ rõ về tướng của nhân tu hành. Nghĩa là chưa hội nhập nơi mười Tín trở về trước, hai thứ tướng diệt là lỗi lầm lớn, đã không biết không hiểu, nên tạo đủ tất cả nghiệp ác thuộc các loại, thọ nhận đủ khắp tất cả quả khổ vô lượng, mãi luân hồi trong bốn loài nơi năm nẻo, không lúc nào dừng dứt. Ngày nay do vâng theo diệu duyên của tri thức, là Thánh thuyết giảng về phép tắc thanh tịnh, có thể được nhập trong vị mười tín, nhận biết các nghiệp ác là lỗi lầm cùng cực, hiểu rõ quả của các khổ là thật không an lạc. Nói nhận biết được niệm trước dấy lên là ác, tức là hiển thị về nghĩa nhận biết tướng diệt. Nên có thể ngăn niệm sau khiến không khởi lên: Tức hiện bày rõ về tướng hành nhân quả. Nghĩa là trong vị này mới khởi đạo đối trị, khí lực rất kém nên gọi là nguyên nhân. Phát tâm trở đi là dấy khởi đạo đối trị chuyển dần tự tại. Lại nữa, lúc trước không hiểu biết nên luôn khởi nghiệp ác. Nay nhận biết rõ nên tâm có hổ thẹn không gây tạo nghiệp ác. Phần uế tạp của tướng diệt dừng dứt không khởi. Tuy cũng gọi là giác nhưng tức là bất giác. là hiển bày chỉ rõ về tướng huân tập cùng hợp cùng lìa. Đó gọi là nhận biết đúng pháp của tướng diệt thật sự là lỗi lầm. Phẩm tướng diệt kia không tạo ra sự diệt, nên nói là huân tập cùng lìa phẩm tướng diệt ấy. Từ vô thủy đến nay thể tánh thanh tịnh, thật sự là công đức, nhưng đã không biết không hiểu nên nói là huân tập cùng có. Câu chữ trong đây lưu chuyển xa tức nên đến nơi Địa thứ mười. Lại nữa, hiển thị về giác và bất giác hỗ tương tức chung là một vị.

Vị thứ hai nói như hàng Nhị thừa quán trí và Bồ-tát mới phát tâm: Tức là người tu hành hướng đến, vị tại ba Hiền, ở trong vị này là người hoàn toàn vô lậu, thành tựu tự tại không có nghi sợ, nên đem Nhị thừa đồng nơi Bồ-tát để nêu rõ chung. Lại nữa, hiển bày rõ tất cả Nhị thừa thảy đều tu hành đạo Bồ-tát, chứng nhập trong biển cả của địa Đại giác tự tại. Nhận biết nơi niệm dị, chính là chỉ rõ về tướng của nhân tu hành. Nghĩa là hai loại tướng dị hỗ tương cùng sức nhưng có thể chấp giữ tướng của cảnh giới, phát khởi tham ái để tìm cầu tên gọi, phân biệt về ngôn tướng. Do đấy không chán bỏ ngã và ngã sở chuyển thịnh, duyên dựa nơi xét lường tại tăng trọn ngày không dứt. Ngày nay phát khởi Bát nhã của người không theo phương tiện kiến lập pháp không hiện tiền. Nhận biết rõ về tâm tịnh của bản giác là vô minh ngủ say. Mộng nơi tướng dị dấy khởi tất cả chướng ngại, từng phần từng phần dần dần cùng xa lìa trí mà cùng tương ưng. Theo niệm của mộng kia nên được nơi giác ngộ. Vì vậy nói là giác ngộ đối với niệm dị. Niệm không có tướng dị: Tức là hiển thị về tướng hành nhân quả. Nghĩa là trong chánh niệm của thủy giác hai loại tướng dị là không hiện có. Vì xả bỏ tướng phân biệt chấp trước của phần thô: Tức là chỉ rõ không có duyên của tướng dị. Đó gọi là ý thức có hai phân biệt, nhưng có thể phân biệt tất cả các pháp. Những gì là hai? Một là phân biệt thô. Hai là phân biệt tế. Thô là khởi lên các thứ tham sân…, có thể khéo phân biệt các cảnh giới trái thuận. Tế là phân biệt của pháp chấp, vì luôn lưu chuyển tràn ngập. Nay đã xa lìa phân biệt thô kia, không phải là phân biệt tế. Phân biệt tế là rất vui mừng vì xa lìa. Nên gọi là tương tợ giác: Chính là tóm kết phần trước, gồm cả việc hiển bày chỉ rõ về tướng huân tập lìa cả hai. Nghĩa tương tợ trong đây có hai thứ. Những gì là hai thứ? Một là tương tợ của dị loại. Hai là tương tợ của đồng loại. Tương tợ của dị loại: Là tương tợ của hàng Nhị thừa. Tương tợ của đồng loại: Là tương tợ của Bồ-tát. Nhị thừa nhân không hiện bày ba Hiền không để tạo nghĩa tương tợ. Bồ-tát của ba Hiền theo phương tiện pháp không hiện bày địa tâm tịnh để nghĩa tương tợ. Vì vậy nói chung là tương tợ giác.

Vị thứ ba nói như hàng Bồ-tát Pháp thân: Tức là người tu hành hướng đến, tức vị ở tại chín địa. Bồ-tát của chín địa thì chân như pháp giới dùng tự làm thân, thật trí Bát nhã dùng làm tự tâm. Cấu lụy đã xuất ly chướng buộc đều đoạn dứt, thanh tịnh sáng tỏ, tự tại vô ngại, vì thế gọi là Bồ-tát pháp thân. Nhận biết nơi niệm trụ: Tức hiện bày rõ về tướng của nhân tu hành. Nghĩa là bốn loại tướng trụ ở nơi tất cả thời, có thể phát khởi phân biệt pháp chấp, lìa tánh bản giác, có thể khiến ngủ say. Tâm của bản giác mộng nơi tướng trụ, không thể tỉnh biết, chỉ theo cuồng loạn mà trụ. Nay mặt trời Bát nhã của thủy giác mọc lên, chiếu xua màn đen tối của tướng trụ mê loạn. Chánh trí của thủy giác không có tánh phân biệt, tướng trụ mê loạn thì có tánh phân biệt. Vì có – không, giác – loạn là hết sức trái nhau, nên không thể đều cùng hành. Đạo lý như vậy phân minh hiện tiền, do đó nói là nhận biết rõ nơi niệm trụ. Niệm không có tướng trụ: Tức là hiện bày rõ về tướng của hành nhân quả. Do lìa phân biệt về tướng niệm thô: Chính là chỉ rõ có duyên của tướng trụ. Nghĩa là bốn loại tướng trụ so sánh với tướng sinh kia thì hiện bày hết sức thô, nên e rằng biên vực sinh trụ hỗ tương tạp loạn, tức nói như vầy: Ngừng tư duy, thuận quán xét. Như vậy bốn loại tướng trụ mê loạn là như theo thứ lớp ấy. Ở trong địa Cực hỷ, địa Quá tam hữu, địa Tịch tĩnh, địa Thiện tuệ, mỗi địa đều l;ìa một tướng. Nên gọi là tùy phần giác: Tức là tóm kết phần trước và gồm luôn việc nêu rõ về tướng huân tập cùng hợp cùng lìa, vì tướng sinh đối với niệm vi tế chưa xuất ly.

Vị thứ tư nói như Bồ-tát ở địa sau cùng: Tức là hành giả hướng đến. Trong câu chữ này tự có hai người. Những gì là hai? Một là người của nhân viên mãn. Hai là người của quả viên mãn. Người của nhân viên mãn là vị cuối cùng của địa học. Người của quả viên mãn là quả vị vô học hoàn toàn đầy đủ. Người trước đối trị tướng câu hợp động. Người sau đối trị tướng độc lực nghiệp và đại vô minh. Còn tướng độc lực tùy thì không phải là pháp đoạn trừ, nên không có đạo đối trị. Từ đây trở xuống là hiển bày chỉ rõ về hai loại viên mãn. Đầy đủ phương tiện nhất niệm tương ưng: Tức là nêu rõ về người của nhân viên mãn. Nghĩa là trong phần vị này đã có hai loại định kim cang dụ. Những gì là hai loại? Một là kim cang của phương tiện. Hai là kim cang của chánh thể. Hành giả vô cấu đối với hai loại Tam-ma-đề kim cang dụ thì dùng làm tự thể, vì vậy đưa ra đạo để nêu rõ về người kia. Tâm giác mới khởi lên thì tâm ấy không có tướng ban đầu: Tức là nêu rõ về người của quả viên mãn. Đại viên cảnh trí phân minh hiện tiền, không nơi nào là không thông tỏ, không chốn nào là không tận cùng, pháp giới một thể không có gì sánh bằng. Tướng động lực nghiệp nơi vô minh căn bản không thể tự hiện hữu. Hư không bình đẳng một tướng là vô tướng, nên không có niệm ban đầu. Do xa lìa niệm vi tế nên thấy được tánh của tâm. Tâm tức thường trụ gọi là cứu cánh giác. Đó là chỉ rõ về tướng Bát nhã viên mãn của thủy giác. Nhưng đạt đến nơi vô sinh giác, vì thế kinh nói: “Nếu có chúng sinh có thể quán về vô niệm, tức là hướng tới Phật địa”. Chính là nêu dẫn kinh để thay cho phần mình đã nói. Văn của kinh như vậy là chứng minh về nghĩa gì? Chứng minh cho quả Phật. Thế nào là chứng? Nghĩa là trong quả Phật đã chứng thành việc xa lìa hai loại niệm. Những gì là hai loại? Một là niệm về đại vô minh. Hai là niệm về tướng nghiệp vi tế. Hai niệm như vậy nơi đạo giải thoát tột cùng trong một thời là trái ngược nhau, không thể cùng hành. Vì thế nói quả Phật là vô niệm. Nếu không có vọng niệm thì nên có niệm gì? Đó gọi là chánh niệm. Thế nào gọi là chánh niệm? Vì tương ưng với mười đức. Những gì là mười đức? Đó là: (1) Công đức xuất ly, là xa lìa tất cả các xứ nạn. (2) Công đức đồng thể, là tất cả pháp nhiễm quy về nơi chính mình. (3) Công đức thường trụ, là xa lìa các luôn mới sinh. (4) Công đức nhất vị, là thủy giác viên mãn luôn là bản giác. (5) Công đức cùng lìa, là xa lìa tất cả pháp nhiễm tịnh. (6) Công đức hoàn chuyển, là sinh ra đủ khắp nơi các nẻo. (7) Công đức vô trụ, là đối với tất cả xứ không thuộc về xứ nào. (8) Công đức tu hành, là vì các chúng sinh nên tu tập vạn hạnh. (9) Công đức viên mãn, là vì các chúng sinh nên thành tựu đạo quả giác ngộ. (10) Công đức hư không, là vô số các loại công đức đã nói như trước, từ xưa đến nay tự tánh đều không, là vô sở hữu. Đấy gọi là mười đức.

Mười đức như vậy cùng với giải thoát sau cùng trong sát-na đầu tiên là cùng hành, cùng khởi không có trước sau, một lúc cùng chuyển, đó gọi là chánh niệm. Văn của kinh đã dẫn không ra ngoài nghĩa này, nên quán xét kỹ.

Lại, tâm khởi lên không có tướng ban đầu có thể nhận biết mà nói nhận biết tướng ban đầu: Tức nghĩa là vô niệm: Là trừ bỏ nghi khiến sinh thắng giải. Nghĩa là có chúng sinh dấy khởi nghi như vầy: Lúc đạo giải thoát đạt tới tột cùng hội nhập nơi bản giác tức mới phát sinh rất là vi tế, vậy nhận biết được là có hay nhận biết được là không có? Nếu nhận biết được là có thì đạo giải thoát tột cùng sẽ không phải là vô niệm. Vì sao? Vì nhận biết có niệm ban đầu. Nếu nhận biết là không có thì đạo giải thoát tột cùng sẽ không thể có. Vì sao? Vì đã không có niệm ban đầu, thì đợi niệm nào không có để lập đạo giải thoát là có? Nghi là như vậy. Nay tự thông suốt nói: Tướng của đối tượng nhận biết từ xưa đến nay tự tánh là hoàn toàn không. Trí của chủ thể nhận biết từ xưa đến nay thì không lúc nào khởi lên. Đã không có tướng của đối tượng giác ngộ thì cũng không có trí của chủ thể giác ngộ, há có thể nói được là có tướng ban đầu vi tế mà trí tuệ có thể nhận biết được sao? Nhưng có ngôn thuyết nhận biết tướng ban đầu: Tức là nêu rõ về đạo lý vô niệm. Vì sao? Vì lý của pháp tánh tuy không có tướng mới dấy khởi của đối tượng nhận biết, cũng không có trí thủy giác của chủ thể nhận biết để có thể thông đạt không có tướng của đối tượng nhận biết, và không có trí của chủ thể nhận biết. Không hề có gì để giác ngộ và tất cả không phải là hoàn toàn không có. Vì vậy nay lại dựa vào đạo lý ấy để nói như vầy: Nhận biết tướng ban đầu. Do đó tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm cùng nối tiếp chưa từng lìa niệm nên nói là vô minh vô thủy. Tức là thành lập nghĩa vô niệm nói ở trên. Nghĩa là từ định kim cang trở về sau tất cả chúng sinh, niệm của đại vô minh nơi tướng động lực nghiệp là chưa xuất ly. Đó là chỉ rõ tất cả chúng sinh đều là có niệm nên gọi là chúng sinh. Hết thảy chư Phật đều đạt vô niệm nên xưng là Phật.

Từ đây tiếp xuống là nêu rõ về cảnh giới viên mãn rộng khắp của thủy giác. Nghĩa là bậc đại giác đã đến bờ kia nhận biết khắp về tất cả vô lượng chúng sinh, là một tâm lưu chuyển tạo ra bốn tướng. Như Bản luận viết: “Nếu người đạt đến vô niệm tức nhận biết tướng sinh trụ dị diệt của tâm”. Do nghĩa nào mà nhận biết như vậy? Do lúc tự mình đạt đến vô niệm thì tất cả các chúng sinh đều được bình đẳng. Như Bản luận viết: “Do vô niệm v.v…”. Vì nghĩa nào mà lúc chỉ một hành giả đạt đến vô niệm thì tất cả các chúng sinh đều được vô niệm? Do mỗi mỗi chúng sinh thảy đều có Bản giác. Nghĩa này là thế nào? Nghĩa là một hành giả vào lúc thủy giác viên mãn đồng với bản giác, thì đồng khắp với bản giác trong tâm của tất cả vô lượng chúng sinh, không phải là bản giác riêng mình. Vì sao? Vì tự tánh nơi bản giác hiện hữu khắp các cõi chúng sinh, không nơi chốn nào là không đến. Vị giác ngộ thanh tịnh vào lúc đạt được vô niệm thì tất cả chúng sinh đều được vô niệm. Vị giác ngộ thanh tịnh vào lúc đoạn dứt vô minh thì tất cả chúng sinh cũng có thể đoạn trừ vô minh chăng? Nếu như vậy thì có thể gì? Nếu thủy giác đoạn trừ vô minh, tất cả chúng sinh đều được đoạn trừ thì vì sao ở trên nói là từ định kim cang trở về sau tất cả chúng sinh, vì niệm của đại vô minh nơi tướng độc lực nghiệp, chưa xuất ly nên không gọi là giác? Nếu các chúng sinh đối với vô minh vô thủy chưa được xuất ly mà cùng với chư Phật đồng đạt được vô niệm thì các nghĩa như vô niệm v.v… chỉ có nơi ngôn thuyết, không có thật nghĩa. Há có thể nói được là tất cả chúng sinh đều có bản giác cũng có thủy giác? Quyết đoán về vấn nạn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn tự tông quyết đoán. Hai là môn vọng biệt quyết đoán. Tự động quyết đoán: Là chánh tông của Luận này. Vì muốn hiện bày rõ tất cả chúng sinh đồng một tướng tục không sai biệt, do đó có thể nói được một người tu hành lúc đoạn trừ hoàn toàn vô minh vô thủy, thì tất cả chúng sinh cũng đồng đoạn trừ hết. Một người tu hành lúc đầy đủ thủy giác, thì tất cả chúng sinh cũng đồng được đầy đủ. Vì vậy trong Khế kinh Tam Thân Bản Hữu nói như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Ta do nơi hai đẳng mà thành tựu Chánh giác. Những gì là hai đẳng? Một là đoạn đẳng. Hai là đắc đẳng. Nói đoạn đẳng: Là lúc đạo giải thoát cùng tột của ta mới phát khởi, thì tất cả chúng sinh hiện có vô lượng vô minh vô thủy, trọn một lúc hoàn toàn quyết đoán tức khắc. Nói đắc đẳng: Là lúc ta mới thành đạo đầy đủ thủy giác, thì tất cả chúng sinh đều được đầy đủ. Đấy gọi là hai đẳng”. Vọng biệt quyết đoán: Là nêu lên sự viên mãn để đối chiếu với các cõi chúng sinh, không một pháp nào mà không thanh tịnh. Nêu ra các chúng sinh để đối chiếu với Vô Thượng Tôn, nhập nơi tạng vô minh, không có đối tượng nhận biết, thảy đều thanh tịnh không có chướng ngại. Các nghĩa như vô niệm v.v… tức được thành lập. Nhập nơi tạng vô minh không có đối tượng nhận biết. Văn đã nêu bày ở trên không có lỗi trái nhau. Nêu dẫn một khía cạnh này tức nên quán xét rộng.

Từ đây trở xuống là dung hợp các thủy giác khiến đồng với bản giác. Nghĩa là năm mươi mốt phần vị đầy đủ thủy giác, thật không có dị biệt của sự dần dần chuyển thắng, cũng không có hoàn toàn viên mãn tột cùng. Vì sao? Vì bốn tướng của tất cả thủy giác là cùng thời mà được dừng trụ đều không tự lập. Từ xưa đến nay tự tánh viên mãn là một vị bình đẳng, hợp đồng không hai, là một tướng giác. Như Bản luận viết: “Nhưng thật không có chỗ dị biệt của thủy giác, vì bốn tướng cùng lúc mà có, đều không tự lập, xưa nay bình đẳng đồng một thứ giác”.

Trong Khế kinh Đại Tổng Trì nói như vầy: “Bát nhã của thủy giác tỏ ngộ về phẩm tướng diệt, trong phần vị có tướng diệt thì cùng lúc cùng có. Trong lúc không có tướng diệt thì thủy giác theo đấy cũng không có. Bát nhã của thủy giác tỏ ngộ về phẩm tướng dị, trong phần vị có tướng dị thì cùng lúc cùng có. Trong lúc không có tướng dị thì thủy giác theo đấy cũng không có. Bát nhã của thủy giác tỏ ngộ về phẩm tướng trụ, trong phần vị có tướng trụ thì cùng lúc cùng có. Trong lúc không có tướng trụ thì thủy giác theo đấy cũng không có. Bát nhã của thủy giác tỏ ngộ về phẩm tướng sinh, trong phần vị có tướng sinh thì cùng lúc cùng có. Trong lúc không có tướng sinh thì thủy giác theo đấy cũng không có. Vì sao? Vì tất cả thủy giác không thể tự khởi, phải chờ đợi pháp nhiễm mới có thể khởi lên. Tất cả pháp nhiễm không thể tự diệt, phải đợi trí lực mới có thể diệt hết. Nói rộng cho đến từ xưa tới nay, tất cả pháp nhiễm tự thể là hoàn toàn không có. Nhưng thủy giác thì vốn trong không xứ tạo hiểu biết về có, cùng thời mà chuyển nên không gọi là chánh”.

Đã nói về phần nói rộng để quyết trạch thủy giác. Tiếp theo là nói về phần nói rộng để quyết trạch bản giác.

* Bản luận viết: “Lại nữa, bản giác tùy theo pháp nhiễm phân biệt sinh hai thứ tướng, cùng với bản giác kia không lìa bỏ nhau. Những gì là hai tướng? Một là tướng trí tịnh. Hai là tướng bất tư nghị nghiệp. Tướng trí tịnh: Nghĩa là dựa vào lực của pháp huân tập để tu hành như thật đầy đủ phương tiện, phá bỏ tướng thức hòa hợp, diệt trừ tướng tâm nối tiếp, hiện rõ trí tuệ thuần tịnh của pháp thân. Nghĩa nầy là thế nào? Vì tướng của tất cả tâm thức đều là vô minh, tướng của vô minh không lìa tánh giác, không phải có thể hủy hoại, không phải không thể hủy hoại, như nước của biển lớn nhân nơi gió mà sóng động. Tướng của nước và tướng của gió không cùng lìa bỏ, nhưng nước không phải là tánh động. Nếu gió ngừng dứt thì tướng động tức diệt, nhưng tánh ướt thì không hoại. Như vậy tâm thanh tịnh nơi tự tánh của chúng sinh, nhân nơi gió vô minh nên động, tâm và vô minh đều cùng không có hình tướng, không cùng lìa bỏ, nhưng tâm không phải là tánh động. Nếu vô minh diệt thì sự tương tục tức diệt nhưng tánh của trí thì không hoại. Tướng bất tư nghị nghiệp do dựa vào trí tịnh, có thể tạo ra tất cả cảnh giới thắng diệu. Đó là tướng của vô lượng công đức luôn không đoạn dứt, tùy theo căn cơ của chúng sinh tự nhiên tương ưng, vô số thứ mà hiện được lợi ích”.

* Luận giải thích: Đây tức là phần nói rộng tùy theo pháp nhiễm để quyết trạch bản giác. Ở trong văn này tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn tánh trí thanh tịnh vốn có. Hai là môn nghiệp dụng tự tại vô ngại. Trong môn thứ nhất tức có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn không giữ tự tánh tùy theo duyên. Hai là môn đối trị tất cả nghiệp chướng. Trong môn thứ hai lại có hai môn. Những gì là hai môn? Một là môn tùy thuận căn cơ khế hợp. Hai là môn bản tánh thường tịch bất động. Bốn môn như vậy nên phối hợp để theo đấy giải thích. Bản giác tùy nhiễm tức là câu phân biệt, phân biệt chỗ khác với trí của bản giác thanh tịnh. Câu này là muốn nêu rõ về nghĩa gì? Đó là để chỉ rõ về nghĩa nhận lấy sự huân tập, nêu thẳng là bản giác nhận lấy vô minh huân tập vì không giữ lấy tự tánh, tùy duyên vô ngại cùng lúc mà chuyển. Vì vậy gọi là bản giác tùy nhiễm. Tức nơi câu chữ này cũng từ chỗ tùy nhiễm để lập tên gọi.

Từ đây trở xuống là trực tiếp hiển bày bản giác có thể tùy theo thể tướng, phân biệt phát sinh hai thứ tướng cùng với bản giác kia không lìa bỏ nhau. Những gì là hai tướng? Một là tướng trí tịnh. Hai là tướng bất tư nghị nghiệp. Như vậy hai thứ tướng thù thắng này, cùng với tánh trí của bản giác tùy nhiễm kia là cùng hành cùng chuyển không lìa bỏ nhau. Hành tướng trí tịnh của bản giác như vậy, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Phá trừ tất cả chướng

Hiển bày thân pháp tánh

Trí tuệ thật thanh tịnh

Gọi là tướng trí tịnh.

* Luận giải thích: Đoạn trừ tất cả ác, tu tất cả thiện, công đức đầy đủ, trí tuệ viên mãn, trang nghiêm pháp thân gọi là tướng trí tịnh. Đoạn trừ tất cả chướng ngại nên cần đến lực gì? Cần lực đầy đủ. Lực đầy đủ thì số lượng ấy có bao nhiêu? Có hai loại. Những gì là hai loại? Một là lực phương tiện của pháp lực huân tập đầy đủ. Hai là lực phương tiện của sự tu hành như thật đầy đủ. Hai loại lực phương tiện như vậy, từ vô thủy đến nay tự nhiên thường trụ không phải là mới khởi. Trong hai loại ấy, thì lực phương tiện dựa vào pháp lực huân tập đầy đủ, là phá trừ vô minh căn bản và tướng động lực nghiệp. Còn lực phương tiện dựa vào sự tu hành như thật đầy đủ là diệt trừ tướng câu hợp nghiệp, tướng có thể thấy cùng với tướng hiện, tướng phân biệt trí và tướng tương tục. Phá trừ vô minh căn bản và tướng động lực nghiệp, nên thể của tự tánh nơi thân phân minh hiện tiền. Diệt trừ tướng câu hợp cùng tương tục, nên thật trí Bát nhã thuần tịnh sáng rõ. Như Bản luận viết: “Tướng trí tịnh nghĩa là dựa vào lực của pháp huân tập để tu hành như thật đầy đủ phương tiện, phá bỏ tướng thức hòa hợp, diệt trừ tướng tâm tương tục, hiển hiện trí thuần tịnh của pháp thân”. Vì sao vị ba Hiền và vị thập Tín đã lược bỏ không nêu bày? Vì so với thứ lớp kế tiếp đã hiển bày phân minh. Vì sao nay trong môn này, đầu tiên là đối trị vô minh căn bản, cho đến sau cùng là đối trị tướng diệt? Vì muốn phân biệt chỗ khác với Bát nhã của thủy giác, đã tỏ ngộ về thứ lớp. Vì sao thủy giác lìa bỏ phàm hướng về Thánh? Vì trên trên cách cách là theo thứ lớp chuyển, Bản giác tùy nhiễm thì lìa bỏ Thánh hướng về phàm, dưới dưới tiếp tiếp là theo thứ lớp chuyển, do pháp là như vậy. Hai thứ lớp chuyển như thế nên là trong một lúc hay là có trước sau? Quyết định trong một lúc tức không có trước sau. Những nghĩa như vậy trong Khế kinh nào đã thuyết giảng giải thích biểu hiện rõ? Đó là kinh Chứng Thuyết. Trong Khế kinh ấy đã thuyết giảng như thế nào? Nghĩa là trong Khế kinh Chứng Thuyết kia nêu rõ như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Đàla-ni nêu ra mười ngàn câu hỏi thưa hỏi Đức Như Lai. Lúc ấy Đức Như Lai liền tạo ra mười vạn câu trả lời để quyết đoán các nghi vấn khai thông toàn bộ câu hỏi của Bồ-tát. Như thứ lớp ấy đáp lại những câu hỏi kia rồi tức nói với Bồ-tát Đà-la-ni: Vì sao nhân giả không hỏi về một sự việc mà cần phải hỏi về những sự việc khác? Lại càng thích hợp vì người Phật tử lại thưa hỏi để mở bày, vì lợi mình lợi người nên thưa hỏi Như Lai. Khi đó, Bồ-tát Đà-la-ni tức vâng theo uy thần của Đức Phật thưa với Phật: Thế Tôn! Vì nhân duyên gì Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng nói ra lời như vầy:

Các Phật tử nghe kỹ

Ta từ phàm buộc đủ

Trải đủ tất cả địa

Viên mãn biển nhân hành

Trang nghiêm quả Đại giác

Ta từ địa thanh tịnh

Trải đủ tất cả địa

Đem hết thảy muôn hạnh

Đạt vị tín thứ nhất

Nhập biển tạng vô minh

Hai đại sự như vậy

Một lúc, chẳng trước sau.

Con và tất cả vô số các đại chúng thảy đều hoài nghi về không có thời hạn giải thoát. Nếu như thích hợp xin Đức Thế Tôn vì các Phật tử tạo ra vô số phương tiện, tùy nghi mở bày chỉ rõ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tổng Trì: Hãy lắng nghe kỹ cùng khéo tư duy, ghi nhớ. Ta sẽ vì ông lược nói về những điều chính. Này thiện nam! Hai đại sự này là nêu rõ về hai loại Bát nhã giác trí. Những gì là hai loại? Một là Bát nhã của thủy giác. Hai là Bát nhã của bản giác. Này thiện nam! Bát nhã của thủy giác là từ địa bị trói buộc đủ dần dần xuất ly, cho đến địa kim cang viên mãn nhân hành phát khởi đạo cứu cánh, lập tức đoạn trừ địa vô minh căn bản trụ, mặt trời giác ngộ soi chiếu viên mãn không đâu là không cùng khắp, vì vậy gọi là Bát nhã của thủy giác. Này thiện nam! Bát nhã của bản giác là từ nơi tánh thanh tịnh dần dần xa lìa cho đến vị tín mới phát khởi trí cứu cánh, đoạn trừ phẩm tướng diệt nhập biển vô minh tùy theo duyên động chuyển, do đấy gọi là Bát nhã của bản giác. Lúc này Bồ-tát Tổng Trì và các đại chúng nghe lời nói này rồi, nhận biết rõ về các pháp là một tướng, một thể, cũng không một tướng, cũng không một thể, cũng không vô ngôn không, vô ngôn cũng không. Nhưng tánh của các pháp cũng là thật tướng, cũng là thường trụ, cũng là quyết định, cũng là thật có.

Từ đây tiếp xuống dưới là giải thích riêng, nói rộng để chỉ rõ về nhân duyên. Nghĩa này là thế nào? Tức là nêu hỏi tổng quát. Vì tướng của tất cả tâm thức đều là vô minh: Chính là câu trả lời chung. Đó gọi là rất nhiều các loại thức hý luận, phát khởi vô số loại các lượng duyên dựa, suy nghĩ nhận biết tất cả vô lượng cảnh giới, mê chấp theo tướng của hết thảy cảnh giới không lìa bỏ, đều là phần khí của vô minh. Tức là thành lập hai nghĩa phá diệt đã nói trong phần trên.

Từ đây tiếp xuống là chỉ rõ về đoạn trừ và không đoạn trừ có sai biệt. Trong đây vô minh nên định rõ là có thể đoạn trừ hay là không thể đoạn trừ? Những nghi ấy là do đâu? Nếu có thể đoạn thì tâm của bản giác cũng nên có thể đoạn. Vì sao? Vì pháp nhiễm của vô minh và tánh trí của bản giác là cùng hành, cùng chuyển, không xa lìa nhau. Ví như người đàn ông ngủ cùng với người đàn ông thức, là cùng hành, cùng chuyển, không lìa nhau. Cũng không thể nói là lúc chém người đang ngủ mà người thức không bị thương, vì sự tương tục là một. Cũng không thể nói lúc người ấy được thức và người ấy đang ngủ là không có gì xảy ra, vì sự tương tục là đồng. Nếu nói là khác nhau tức là lỗi lầm lớn. Nếu không thể đoạn trừ thì tâm của tự tánh thanh tịnh luôn bị vô minh che lấp, luân chuyển trong năm đường không lúc nào xuất ly. Vì vậy nếu nói không thể đoạn trừ thì lỗi lầm cũng lớn. Như thế thì vô minh cũng có thể đoạn trừ, cũng không thể đoạn trừ. Nghĩa này là thế nào? Vì vô minh và bản giác có hai nghĩa. Những gì là hai nghĩa? Một là nghĩa đồng thể đồng tướng. Hai là nghĩa dị thể dị tướng. Nói nghĩa đồng: Là nói về tất cả các pháp đều là lý. Nói về nghĩa dị: Là tất cả các pháp với công đức và lỗi lầm tai hại đều sai biệt. Nếu dựa theo môn đầu thì không thể đoạn trừ. Nếu căn cứ theo môn sau thì cũng có thể đoạn trừ. Trong Khế kinh Chư Pháp Vô Hành nêu giảng như vầy:

Tham dục là Niết-bàn

Giận, si cũng như vậy

Như thế trong ba sự

Có vô lượng Phật đạo.

Thấy, chẳng thấy một tướng

Chấp, không chấp cũng vậy

Đây không Phật, không pháp

Biết đấy gọi thế trí.

Trong Khế kinh Bản Trí nói như vầy:

Vô minh căn bản tối

Lực ấy là rất lớn

Hay chướng Nhất thiết trí

Khiến không được tự tại.

Đoạn cần kiếm Bát nhã

Trang nghiêm báu công đức

Biển vô minh dần cạn

Núi pháp thân hiển bày.

Như Bản luận viết: “Tướng của vô minh không lìa tánh giác, chẳng phải có thể hủy hoại, chẳng phải không thể hủy hoại”.

Từ đây tiếp xuống là nói về dụ để hiển bày chỉ rõ. Biển cả là dụ cho thức A-lê-da. Thức này có hai thứ nghĩa, vì rộng lớn, tròn đầy như biển cả. Nước là dụ cho tâm của bản giác, vì tâm của tự tánh thanh tịnh hiển bày sáng rõ, như nước trong. Gió là dụ cho vô minh căn bản, vì bất giác căn bản có thể khởi động chuyển khiến thức suy nghĩ nhận biết, như gió kia. Sóng nổi lên là dụ cho các thức hý luận, vì các thức như vậy là dời động lưu chuyển, qua lại bất tưởng như sóng biển. Tướng nước tướng gió không cùng lìa bỏ: Là dụ cho chân vọng cùng trợ giúp nhau cùng hành, hợp chuyển. Nghĩa là tâm của bản giác không tự khởi lên, phải nhờ vào lực của vô minh mới có thể dấy khởi. Vô minh căn bản không tự chuyển, cần phải nhờ vào lực của chân tâm mới có thể chuyển biến. Như nước không tự tạo nên sóng nước, phải nhờ vào sức của gió mới có thể làm thành sóng. Gió không tự mình hiện rõ tướng động, cần phải dựa vào nước kia mới có thể hiện rõ tướng chuyển động. Nhưng nước không phải là tánh động: Là dụ cho tâm của bản giác lìa tướng hữu vi. Nghĩa là chân tâm của bản giác từ xưa đến nay luôn xa lìa niệm động, cởi bỏ mọi thứ trói buộc, thể tánh thanh tịnh, tướng dụng tự tại. Nhưng không giữ lấy tự tánh, tùy theo duyên của vô minh tạo thành các thứ tướng. Như nước không phải là tánh động nhưng không giữ lấy tự tánh, tùy theo duyên của gió dấy lên vô số các sóng. Nếu gió ngừng dứt thì tướng động liền diệt: Là dụ cho vô minh căn bản diệt thì các thức hý luận đều diệt hoàn toàn. Bản giác đoạn trừ chướng ngại thì trước là đối trị vô minh căn bản, sau là đối trị các thức suy nghĩ nhận biết vin dựa theo duyên. Tánh ướt không hoại: Là dụ cho trí của bản giác lìa pháp đoạn diệt. Nghĩa là vô minh diệt thì các thức đều không còn. Vì chân tâm của bản giác không có hoại diệt, giống như gió kia diệt thì các sóng đều ngừng mà nước trong sạch chung quy không hề hoại diệt.

Từ đây tiếp xuống là nêu rõ về hợp để nói. Như thứ lớp ấy nên tạo sự phối hợp. Biển cả, gió, nước từ nơi gì mà sinh? Đó là từ Long vương sinh khởi. Đều từ xứ nào phát sinh? Nghĩa là nếu như nước thì từ đỉnh đầu Long vương phát ra. Nếu là gió thì từ phần cuối đuôi Long vương sinh ra. Vì sao nước biển bị gió làm cho động tạo thành vô số sóng không ngừng dứt? Là do hai sự việc? Những gì là hai sự việc? Một là có đại chủng cùng loại. Hai là do pháp vốn như vậy. Nghĩa này là thế nào? Đó là trong thủy đại kia cũng có phong đại, trong phong đại kia cũng có thủy đại, hỗ tương cùng có, hòa hợp cùng nhau tạo thành vô số thứ sóng luôn nối tiếp nhau không đoạn dứt. Nếu trong thủy đại không có phong đại kia, thì gió sẽ không thể khiến nước động. Nếu trong phong đại không có thủy đại kia, thì nước sẽ không thể tùy theo gió chuyển. Vì sao? Vì bốn đại chủng cùng sinh, cùng chuyển không cùng lìa. Tùy theo một đại hiện bày phân minh nhưng nhận biết không rõ về các đại còn lại thì tướng tăng tướng giảm là không đồng.

Lại nữa, từ vô thủy đến nay do pháp vốn như vậy, nên vô minh và bản giác cũng lại như thế. Đại Long vương: Là dụ cho một tâm pháp. Gió là dụ cho vô minh trụ địa. Từ phần cuối đuôi phát ra là chỉ rõ về hình tướng xấu kém của pháp này. Nước là dụ cho chân tâm của bản giác. Từ đỉnh đầu phát ra: Là hiển bày làm rõ về hình tướng thắng diệu của pháp ấy. Trong thủy đại kia cũng có phong đại: Là dụ cho trong tâm của bản giác nơi tự tánh thanh tịnh có vô minh căn bản. Trong phong đại kia cũng có thủy đại: Là dụ cho trong tạng vô minh căn bản có Phật tánh của bản giác. Bản ý của Luận này nói tướng dị là đầu, tướng đồng là sau, theo đấy giải thích nên quán xét. Trong Khế kinh Chư Phật Vô Tận Tạng thuyết giảng như vầy: “Trong biển lớn phiền não có Như Lai viên mãn, tuyên thuyết về lý của thật tướng thường trụ. Trong thật tánh của bản giác có chúng sinh vô minh, dấy lên vô lượng vô biên sóng của phiền não. Như thế đại sự nơi cảnh giới của Phật và Bồ-tát không phải là nơi chốn có thể nhận biết của hàng phàm phu, Nhị thừa”.

Đã nói về môn tánh trí thanh tịnh vốn có. Tiếp theo là nói về môn nghiệp dụng tự tại vô ngại. Nghĩa là trong môn này, tánh trí vốn có dùng làm nơi nương dựa, khởi lên dụng ứng hóa. Vì tất cả người tu hành: Là nêu rõ về vô số sắc tướng thắng diệu, vì nhãn căn làm cảnh giới. Xuất hiện đủ các loại âm thanh thắng diệu, vì nhĩ căn làm cảnh giới. Phát khởi vô số hương thơm thắng diệu, vì tỷ căn làm cảnh giới. Hiện bày đủ các loại pháp vị thắng diệu, vì thiệt căn làm cảnh giới. Dấy lên đủ các loại tiếp xúc của tam muội thắng diệu, vì thân căn làm cảnh giới. Hiện ra vô số thứ pháp tạng thâm diệu, vì ý căn làm cảnh giới. Như thứ lớp ấy chính là Như Lai Quang Minh Nhật Nguyệt Bảo Đức, Như Lai Âm Thanh Phạm Hưởng Thanh Tịnh, Như Lai Hương Tích Phần Lưu Viên Mãn, Như Lai Nhất Vị Vô Tạp Bình Đẳng, Như Lai Giác Xúc Phân Minh Hiển Tướng, Như Lai Trí Tuệ Minh Đạt Biến Mãn, đã thành tựu đầy đủ tùy thời, tùy xứ, tùy lượng của căn cơ, giáo hóa tạo lợi ích tự tại vô ngại. Một niệm không động hiện hữu khắp ba đời, một thân không phân mà đầy đủ trong mười phương có thể làm Phật sự. Như Bản luận viết: “Tướng bất tư nghị nghiệp do dựa vào trí tịnh, tức có thể tạo ra tất cả cảnh giới thắng diệu. Đó gọi là tướng của vô lượng công đức thường không đoạn dứt. Tùy theo căn cơ của chúng sinh tự nhiên tương ưng, vô số thứ loại hiện đạt được lợi ích”.

Đã nói về môn nêu rộng bản giác tùy nhiễm. Tiếp theo nói về môn nêu rộng bản giác tánh tịnh.

* Bản luận viết: Lại nữa, thể tướng của giác có bốn loại nghĩa đại, sánh cùng với hư không cũng như gương sáng sạch. Những gì là bốn loại? Một là gương như thật không, xa lìa tất cả tướng cảnh giới của tâm, không pháp nào có thể hiện bày, vì không phải là nghĩa của giác tuệ soi chiếu. Hai là gương nhân huân tập, nghĩa là như thật bất không, hết thảy cảnh giới của thế gian đều hiện rõ trong ấy, không ra không vào, không mất không hoại, thường trụ nơi một tâm, vì tất cả các pháp tức là tánh chân thật. Lại, tất cả pháp nhiễm đều không thể nhiễm, là thể của trí bất động, đầy đủ vô lậu huân tập chúng sinh. Ba là gương pháp xuất ly, nghĩa là pháp bất không ra khỏi phiền não chướng. Trí chướng lìa tướng hòa hợp, thuần tịnh sáng rõ. Bốn là gương duyên huân tập, nghĩa là dựa vào pháp xuất ly, soi chiếu khắp tâm của chúng sinh khiến tu tập căn thiện, tùy niệm thị hiện.

* Luận giải thích: Đây là phần nói rộng về bản giác tánh tịnh. Trong bốn loại nghĩa đại này, mỗi loại có hai nghĩa, cùng với nghĩa đại kia không lìa bỏ nhau. Những gì là hai nghĩa? Một là nghĩa sánh bằng hư không. Hai là nghĩa đồng với gương sáng. Như Bản luận viết: “Lại nữa, thể tướng của giác có bốn loại nghĩa đại, sánh cùng với hư không cũng như gương sáng sạch”.

Thế nào gọi là gương như thật không cùng có hai nghĩa, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Trong bản giác tánh tịnh

Xa lìa nghĩ biết như

Xa lìa vọng cảnh thật

Chỉ nghĩa xa lìa không

Gương Ma Xa Phu Sa

Nêu một bày tỏ một.

* Luận giải thích: Trong thể tánh của bản giác tánh tịnh, là xa lìa tất cả suy nghĩ nhận biết duyên dựa nơi các thức hý luận, thành tựu nghĩa của một vị bình đẳng nên gọi là như. Xa lìa hết thảy cảnh giới hư vọng nơi vô số tướng phần, thành tựu tướng quyết định chân thật nên gọi là thật. Vì muốn chỉ rõ nghĩa của xa lìa nên gọi là không. Gương là tên gọi của dụ. Nhưng gương trong đây tức dụ cho gương bằng ngọc báu Ma Xa Phu Sa, không phải là các loại gương khác như Du Ma v.v… dùng làm ví dụ. Vì sao? Vì lấy gương ngọc báu Ma Xa Phu Sa này đặt ở một nơi thì bên trong gương ngọc báu hoặc tụ tập các loại đá, hoặc là tụ tập các loại thức ăn uống, hoặc tụ tập vô số các vật dụng trang nghiêm, hoặc tụ tập các gương ngọc báu cùng loại. Trong gương ngọc báu kia, các hình tượng khác không hiện, chỉ hiển bày phân minh thứ ngọc báu cùng loại. Gương như thật không cũng lại như vậy. Ở trong gương này chỉ an lập tập thành công đức thanh tịnh đồng với tự loại, vô số các pháp lỗi lầm tai hại của dị loại đều xa lìa. Như Bản luận viết: “Những gì là bốn loại? Một là gương như thật không, là xa lìa tất cả tướng cảnh giới của tâm, không pháp nào có thể hiện bày”. Vì sao mỗi loại có hai thứ nghĩa nhưng chỉ nêu ra nghĩa đồng với gương, còn nghĩa sánh bằng hư không thì chẳng hiển bày chỉ rõ chăng? Vì nêu lên một nghĩa là gồm luôn việc bày tỏ một nghĩa. Nếu như vậy thì vì sao gọi là nghĩa sánh bằng hư không? Nghĩa là như hư không thanh tịnh chẳng nhiễm vướng, bốn chướng đã không thể che lấp, rộng lớn vô biên, ba đời không thể gồm thâu. Gương như thật không cũng lại như vậy. Vì không phải là nghĩa của giác tuệ soi chiếu: Tức là nêu rõ về sự xa lìa nhân duyên. Nghĩa là như trong gương ngọc báu Ma Xa Phu Sa kia, các hình tượng như đá v.v… không hiện tiền, vì các pháp như đá v.v… đều là thô uế. Trong gương ngọc báu bản giác này, vô số pháp vọng không hiện tiền. Vì tất cả pháp nhiễm đều là tướng của vô minh bất giác, nên không có nghĩa soi chiếu đến.

Thế nào gọi là gương nhân huân tập và có hai nghĩa, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Trí bản giác tánh tịnh

Ba loại pháp thế gian

Thảy đều không lìa bỏ

Vì huân tập một giác.

Trang nghiêm quả pháp thân

Nên gọi nhân huân tập

Gương tròn Đa lê hoa

Không dung nạp khắp một.

* Luận giải thích: Bản giác tánh tịnh, trong ba thế gian thảy đều không lìa. Huân tập ba thế gian kia để làm một giác. Trang nghiêm cho quả của một đại pháp thân, vì vậy gọi là gương nhân huân tập. Thế nào gọi là ba loại thế gian? Một là chúng sinh thế gian. Hai là khí thế gian. Ba là trí chánh giác thế gian. Chúng sinh thế gian: Nghĩa là cõi của tánh phàm phu. Khí thế gian: Nghĩa là cõi nước của đối tượng nương dựa. Trí chánh giác thế gian: Nghĩa là Phật, Bồ-tát. Đấy gọi là ba thế gian. Gương trong đây nghĩa là gương làm bằng vòng hoa Đa Lê. Như lấy vòng hoa Đa Lê đặt vào một nơi, xung quanh tập hợp các vật, thì do hoa này huân tập nên tất cả các vật kia thảy đều sáng sạch. Lại các vật sáng sạch trong vòng hoa hiện rõ ở trước thảy đều không sót vật gì. Trong tất cả các vật do hoa kia hiện rõ ở trước cũng lại không sót vật gì. Gương nhân huân tập cũng lại như thế, huân tập tất cả pháp thành giác thanh tịnh, khiến đều được bình đẳng. Lại nữa, nghĩa hư không tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là nghĩa dung nạp. Hai là nghĩa hiện bày khắp một. Nghĩa dung nạp là dung nạp các sắc không có chướng ngại. Nghĩa hiện bày khắp một là vô số các sắc chỉ đồng một loại đại hư không. Như Bản luận viết: “Hai là gương nhân huân tập, nghĩa là như thật bất không. Tất cả cảnh giới thế gian đều hiện rõ trong ấy”. Như vậy, bản giác từ vô thủy đến nay luôn xa lìa bốn thứ lỗi lầm, tự tánh thanh tịnh thường trụ nơi một tâm. Những gì là bốn? Một là xa lìa lỗi lầm của sự việc không hiện bày khắp, vì ba loại thế gian không ra ngoài gương của bản giác thanh tịnh, như Bản luận nói là Bất xuất. Hai là xa lìa lỗi lầm của sự tạp loạn, vì tất cả các pháp không nhập nơi gương của bản giác thanh tịnh, như Bản luận nói là Bất nhập. Ba là xa lìa lỗi lầm của những lỗi lầm tai họa, vì trong gương của bản giác các pháp đã hiện rõ ở trước, đều là công đức thanh tịnh của bản giác, như Bản luận nói là Bất thất. Bốn là xa lìa lỗi lầm của sự vô thường, vì trong gương của bản giác các pháp đã hiện rõ ở trước, đều là trí vô vi thường trụ, như Bản luận nói Bất hoại. Xa lìa biên lỗi lầm là làm viên mãn trung thật, vì thế nói là thường trụ nơi một tâm.

Từ đây trở xuống là nêu rõ về nhân duyên. Do nhân duyên gì mà trong trí của bản giác đã có vô số các pháp như bản giác kia đã lìa các lỗi lầm chăng? Do vô số các pháp thảy đều là thể chân thật, như Bản luận viết: Vì tất cả pháp tức là tánh chân thật.

Từ đây tiếp xuống là tạo ra duyên để trừ bỏ nghi. Nghĩa là có chúng sinh dấy khởi nghi như vầy: Trong ba thế gian thì chúng sinh thế gian có đầy đủ các thứ pháp nhiễm của vô minh, lưu chuyển dời động không lúc nào ngừng dứt. Thế gian như vậy hiện bày trong bản giác thì không thể nói được là bản giác thanh tịnh xa lìa các lỗi lầm. Do nghĩa này nên nay thông suốt mà nói: Tất cả pháp nhiễm đã không thể nhiễm. Thật trí Bát nhã thể ấy là không động, tự tánh thanh tịnh đầy đủ viên mãn, luôn huân tập chúng sinh thế gian khiến được thanh tịnh. Như Bản luận viết: “Lại, tất cả pháp nhiễm đã không thể nhiễm, là thể của trí bất động đầy đủ vô lậu huân tập chúng sinh”.

Thế nào gọi là gương của pháp xuất ly và có hai nghĩa, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Pháp như thật bất không

Xuất ly ba lỗi lầm

Viên mãn ba loại đức

Nên gọi pháp xuất ly

Gương luyện từ pha lê

Nghĩa không vượt khỏi sắc.

* Luận giải thích: Tánh đức vô lậu, xuất ly ba thứ lỗi lầm làm viên mãn ba loại công đức, gọi là pháp xuất ly. Những gì là ba thứ lỗi lầm? Một là phẩm vô minh nhiễm, gọi là phiền não chướng. Hai là vô minh căn bản, gọi là trí chướng. Ba là tướng câu hợp chuyển, gọi là thức hý luận. Đấy gọi là ba thứ lỗi lầm. Ba thứ lỗi lầm như vậy đã hoàn toàn lìa bỏ, nên gọi là xuất ly. Như Bản luận viết: “Ba là gương của pháp xuất ly. Nghĩa là pháp bất không vượt khỏi phiền não chướng, trí chướng, lìa tướng hòa hợp”. Thế nào gọi là ba loại công đức? Một là công đức thuần thành tựu. Hai là công đức tịnh thành tựu. Ba là công đức minh thành tựu. Đấy gọi là ba loại công đức. Như Bản luận viết: “Thuần là sáng sạch”. Xuất ly lỗi lầm gì và làm viên mãn công đức gì? Nghĩa là xuất ly phiền não chướng làm viên mãn công đức tịnh thành tựu. Xuất ly trí chướng làm viên mãn công đức minh thành tựu. Xuất ly tướng hòa hợp chuyển làm viên mãn công đức thuần thành tựu. Vì sao?

Vì cùng đối theo pháp vốn như vậy. Gương trong đây nghĩa là ngọc báu pha lê. Ví như ngọc báu pha lê chìm sâu trong bùn, tức liền xuất hiện vọt khỏi bùn lầy kia, văng ra ngoài hơn một trượng. Nếu đặt ngọc báu ấy vào trong nước đục thì xua trừ phần đục cấu, chỉ giữ lại phần nước trong an trụ trong đó. Nếu đặt vào trong rừng Phước Đa Già thì phát ra hương thơm ngăn xua các mùi hôi thối nơi kia, cách xa mà trụ. Gương của pháp xuất ly cũng lại như vậy. Dụ giảng giải trong này là dụ về nghĩa thanh tịnh của tự thể, trụ nơi tư duy tức nên quán xét. Nghĩa sánh bằng hư không là nghĩa xuất ly sắc. Nghĩa là như hư không xa lìa đại chủng, hoàn toàn thanh tịnh. Gương xong pháp xuất ly cũng lại như vậy.

Thế nào gọi là gương của duyên huân tập và có hai nghĩa, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Nơi vô lượng vô biên

Trong duyên các chúng sinh

Hiện vô lượng vô biên

Ứng, Hóa thân thù thắng.

Huân tập tâm chúng sinh

Sinh ra các căn thiện

Tăng trưởng hai vòng hoa

Trang nghiêm quả Pháp thân.

Nên gọi duyên huân tập

Pha lê trong gương biếc

Tùy thuận không thành nghĩa

Như pháp nên quán xét.

* Luận giải thích: Ví như lấy ngọc pha lê đặt vào một nơi, xung quanh tích tập nhiều loại châu ngọc đủ màu sắc. Ngọc pha lê kia hướng theo loại ngọc màu gì thì màu sắc nơi ngọc ấy hiện tiền chuyển biến. Gương của duyên huân tập cũng lại như vậy. Lại, ví như hư không có lực tự tại, nên ở trong tất cả các sự việc đã tạo tùy thuận thành lập. Gương của duyên huân tập cũng lại như thế. Ở trong sự việc tu hành của tất cả chúng sinh, theo chỗ ứng hợp để kiến lập. Như Bản luận viết: “Bốn là gương của duyên huân tập. Nghĩa là dựa vào pháp xuất ly, soi chiếu khắp nơi tâm chúng sinh khiến tu tập căn thiện theo niệm hiện rõ”.

Bốn loại nghĩa đại của bản giác như vậy là hiện bày khắp trong cảnh giới của tất cả chúng sinh, cảnh giới của tất cả hàng Nhị thừa, cảnh giới của tất cả Bồ-tát, cảnh giới của tất cả Như Lai, không nơi nào là không an trụ, không chốn nào là không soi chiếu, không xứ nào là không thông đạt, không nơi nào là không đi đến, thảy đều đầy đủ viên mãn.

HẾT – QUYỂN 3

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10