LUẬN THÍCH MA HA DIỄN
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Phiệt Đề Ma Đa.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 2

Đã nói về phần Lập nghĩa. Tiếp theo là nói về phần Giải thích.

Danh tự, pháp môn trong phần Giải thích, số lượng ấy có bao nhiêu, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Chỉ có bốn loại pháp

Hai mươi chín môn khác

Tóm lược không giải thích

Trong chín luận đã nêu.

* Luận giải thích: Trong phần Giải thích, chỉ giải thích về bốn pháp. Các pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn một thể. (2) Ma-ha-diễn ba tự. (3) Môn chân như. (4) Môn sinh diệt. Vì sao các pháp còn lại thì lược không giải thích? Vì trong chín luận như Luận Nhất Tâm Biến Mãn đã giải thích. Nghĩa là trong Luận Nhất Tâm Biến Mãn chỉ giải thích bốn pháp, các pháp môn còn lại thì lược, không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn của một thể một tâm. (2) Ma-ha-diễn của ba tự một tâm. (3) Môn một thể một tâm. (4) Môn ba tự một tâm. Trong Luận Dung Tục Quy Chân chỉ giải thích bốn pháp, pháp môn còn lại thì lược, không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn của thể đại là vô lượng vô biên các pháp sai biệt không tăng không giảm. (2) Ma-ha-diễn của thể đại là các pháp tịch tĩnh không tạp loạn, chỉ một vị bình đẳng không tăng không giảm. (3) Môn của thể đại là các pháp sai biệt không tăng không giảm. (4) Môn của thể đại là một vị bình đẳng không tăng không giảm.

Trong Luận Pháp Giới Trung Tạng chỉ giải thích bốn pháp, pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn của tướng đại là Như Lai tạng gồm đủ công đức. (2) Ma-ha-diễn của tướng đại có đầy đủ tánh công đức. (3) Môn tướng đại là Như Lai tạng gồm đủ công đức. (4) Môn tướng đại có đầy đủ tánh công đức.

Trong Luận Bí Mật Vi Diệu chỉ giải thích bốn pháp, pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn của dụng đại có khả năng phát sinh tất cả nhân quả thiện của của thế gian. (2) Ma-ha-diễn của dụng đại có khả năng phát sinh tất cả nhân quả thiện của xuất thế gian. (3) Môn dụng đại nơi nhân quả thiện của thế gian. (4) Môn dụng đại nơi nhân quả thiện của xuất thế gian.

Trong Luận Chúng Mạng Hợp Nhất chỉ giải thích bốn pháp, pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn của vô lượng vô biên các pháp sai biệt không tăng không giảm. (2) Ma-ha-diễn của tịch tĩnh không tạp loạn, chỉ một vị bình đẳng không tăng không giảm. (3) Môn các pháp sai biệt không tăng không giảm. (4) Môn một vị bình đẳng không tăng không giảm.

Trong Luận Chân Chư Tam Muội chỉ giải thích bốn pháp, pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn của Như Lai tạng gồm đủ công đức. (2) Ma-ha-diễn có đầy đủ tánh công đức. (3) Môn Như Lai tạng có đủ công đức. (4) Môn có đầy đủ tánh công đức.

Trong Luận Tâm Tánh Thanh Tịnh chỉ giải thích bốn pháp, pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Ma-ha-diễn có khả năng phát sinh tất cả nhân quả của thế gian. (2) Ma-ha-diễn có khả năng phát sinh tất cả nhân quả thiện của xuất thế gian. (3) Môn nhân quả của thế gian. (4) Môn nhân quả thiện của xuất thế gian.

Trong hai loại Luận Bất Động Bản Nguyên và Thậm Thâm Huyền Lý chỉ giải thích một pháp, pháp môn còn lại thì lược không giải thích riêng. Thế nào là một pháp? Đó là pháp Ma-ha-diễn bất nhị, giải thích rộng hay giải thích lược đều có sai biệt. Vì sao các luận trong môn kiến lập đều nêu đủ số lượng vốn có, còn trong môn giảng giải rộng thì đều thiếu số lượng đó? Vì muốn hiển bày chỉ rõ thể của pháp không phân chia nghĩa lý nhưng môn loại có thể dị biệt. Lại nữa, vì muốn khiến cho người học tăng trưởng lực tư duy. Lại nữa, vì nhằm mở bày chỉ rõ về lý giáo là hết sức sâu xa huyền diệu, khiến xuất sinh tâm tán thán tôn trọng. Lại nữa, vì muốn làm rõ pháp môn rộng lớn như cảnh giới hư không, nghĩa lý vô cùng như biển thần trong lặng, ngôn thuyết không thể luận bàn đủ, tư duy không nhận biết về lượng.

Đã nói về số lượng căn bản, tiếp theo là sẽ giải thích riêng.

* Bản luận viết: Giải thích có ba loại. Những gì là ba loại? Đó là: (1) Hiển bày chỉ rõ về nghĩa chánh yếu. (2) Đối trị các thứ tà chấp. (3) Phân biệt tướng phát khởi hướng về đạo.

* Luận giải thích: Ba môn như vậy giải thích số lượng môn bốn pháp đại.

* Bản luận viết: Hiển bày chỉ rõ về nghĩa chánh yếu, là dựa vào một tâm pháp có hai thứ môn. Những gì là hai thứ? Đó là: (1) Môn tâm chân như. (2) Môn tâm sinh diệt. Hai thứ môn này mỗi môn đều thâu tóm chung tất cả các pháp. Nghĩa này là thế nào? Do hai môn ấy là không cùng lìa nhau.

* Luận giải thích: Tức là phần giảng nêu tóm lược, trong ấy có ba môn. Những gì là ba môn? Đó là: (1) Môn kiến lập bốn loại pháp tướng. (2) Môn pháp môn thâu tóm toàn bộ viên mãn. (3) Môn phát khởi hỏi đáp để làm rõ nhân.

Dựa vào một tâm pháp có hai thứ môn. Những gì là hai thứ? Đó là: (1) Môn tâm chân như. (2) Môn tâm sinh diệt. Tức là môn kiến lập bốn loại pháp tướng. Tên gọi của hai pháp nơi hai môn là sai biệt, số lượng ấy có bao nhiêu, tướng ấy như thế nào?

* Tụng nêu:

Đều có mười loại tên

Khế kinh nói khác nhau

Nhưng không có Thể khác

Thuận theo thể lập tên.

* Luận giải thích: Hai pháp nơi hai môn đều có mười tên gọi, trong các Khế kinh đã phân biệt nêu giảng khác nhau, nhưng Thể của pháp ấy thì không có sai biệt, tùy theo công năng kia để lập tên gọi của chúng. Mười tên gọi của hai loại pháp căn bản là thế nào?

* Tụng nêu:

Tỳ Ma Ha Kiện Na

Ma Ha Cưu Thi Đế

Ma Thi Đà Na La

Ma Ca La Câu Xá

Tất Tát Y Ni La

Bà Già Bà Câu Xá

Tất Đạt Ma Biên Na

Hoặc gọi Ma-ha-diễn

Bà Già Xoa La Bà

Tất A Tố Ma Lợi.

Mười tên gọi như vậy

Chung hai loại pháp gốc.

* Luận giải thích: Hai loại pháp căn bản đều có mười tên gọi. Tên gọi thì chung nhưng nghĩa khác nhau. Những gì là mười tên gọi? Đó là:

1. Gọi là Quảng Đại Thần Vương. Trong đây có hai. Những gì là hai? Một là Cưu Na Da Thần Vương. Hai là Già Tỳ Khư La Thần Vương. Thần Vương thứ nhất ở nơi núi Kim Cang, hoàn toàn sinh ra thần chúng an lành. Thần Vương thứ hai ở trong biển lớn, nối thông khắp nơi, sinh ra tất cả các loại thần chúng an lành và thần chúng lỗi lầm tai họa. Quảng Đại Thần Vương của hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Pháp căn bản của một thể hoàn toàn sinh ra pháp chân như thanh tịnh. Pháp căn bản của ba tự nối thông khắp nơi sinh ra tất cả các loại phẩm pháp thanh bạch và phẩm pháp nhiễm ô. Trong Khế kinh Tự Thể thuyết giảng như vầy: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến trước Đức Phật thưa: Thế Tôn! Hai loại Đại thừa là hết sức sâu xa vi diệu, chúng tâm không nhận biết, không hiểu rõ là đồng hay dị, nên rất nghi hoặc. Như chỗ thích hợp kính xin Đức Thế Tôn vì đại chủng nên giảng nói lại Đức Phật thị hiện sắc tướng nói với Bồ-tát Văn-thù: Này thiện nam! Hai pháp như vậy: Ví như Kim Cang Thần Vương và Chủ Hải Thần Vương, tướng của họ đều dị biệt”.

Nghĩa là như Kim Cang Thần Vương ở nơi núi Kim Cang, hiện ra các cảnh giới, chỉ hiện bày ánh sáng vàng ròng, không hiện ra ánh sáng khác. Kim Cang Thần Vương của một tâm chân như cũng lại như vậy, chỉ có pháp tịnh, không có pháp khác. Lại như Kim Cang Thần Vương chỉ sinh ra quyến thuộc thanh tịnh, luôn không sinh ra quyến thuộc tạp loạn. Chân như nhất tâm cũng lại như vậy, chỉ sinh ra pháp thanh tịnh vô cấu.

Lại nữa, ví như Chủ Hải Thần Vương ở trong biển lớn, sinh ra các loại quyến thuộc thô ác và các loại quyến thuộc thiện diệu. Chủ Hải Thần Vương của một tâm sinh diệt cũng lại như vậy, sinh ra tất cả các pháp tịnh nhiễm.

2. Gọi là Đại Hư Không Vương. Ở đây có hai. Những gì là hai? Một là Không Tự Tại Không Vương. Hai là Sắc Tự Tại Không Vương. Không Vương thứ nhất lấy không dung nạp thọ nhận mà làm tự tại. Không Vương thứ hai lấy sắc dung nạp thọ nhận mà làm tự tại.

Hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Không Vương của một thể dùng xứ vô trụ để thành tự tại, Không Vương ba tự lấy xứ hữu trụ để thành tự tại.

Trong Khế kinh Kim Cang Tam Muội nói như vầy: “Nhất tâm như pháp, lý tự thể hoàn toàn rỗng lặng, như Không Vương kia vốn không có trụ xứ”. Trong Khế kinh Nhất Địa thì nêu bày như vầy: “Nhất tâm pháp thể, đối với các chướng ngại là không có chướng ngại, khiến trụ nơi các pháp. Ví như Không Vương đối với tất cả các sắc được tự tại nên dung nạp thọ nhận đại chủng”.

3. Gọi là Xuất Sinh Long Vương. Trong đây có hai. Những gì là hai? Một là Xuất Sinh Quang Minh Long Vương. Hai là Xuất Sinh Phong Thủy Long Vương. Long Vương thứ nhất dùng ánh sáng thanh tịnh làm nơi nương dựa. Long Vương thứ hai dùng đức của gió nước làm nơi nương dựa. Xuất Sinh Long Vương của hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Pháp căn bản của một thể lấy pháp thuần tịnh làm thể của mình. Pháp căn bản của ba tự lấy pháp nhiễm tịnh làm đức của mình.

Trong Khế kinh Thuận Lý nêu bày như vầy: “Pháp căn bản của nhất tâm là thuần nhất không có xen tạp, ví như Quang Minh Long Vương lấy ánh sáng thanh tịnh làm cung điện, lấy ánh sáng thanh tịnh làm tướng thân mình, lấy ánh sáng thanh tịnh để làm đồ chúng”.

Trong Khế kinh Vô Thủy nêu giảng như vầy: “Ví như trong biển lớn có Đại Long Vương, tên là Xuất Sinh Phong Thủy, từ trên đỉnh đầu của Long Vương đó sinh ra nước trong lặng. Từ cuối phần đuôi của Long Vương ấy sinh ra ngọn gió mịt mù. Do Long Vương này nên nước trong biển lớn gió luôn nối tiếp nhau không có đoạn dứt. Long Vương của Nhất Tâm cũng lại như vậy, có khả năng sinh ra tất cả các pháp sai biệt và bình đẳng, các thứ ấy luôn nối tiếp nhau không có đoạn dứt”.

4. Gọi là Như Ý Châu Tạng. Trong ấy có hai. Những gì là hai? Một là Kim Chủ Như Ý. Hai là Mãn Chủ Như Ý. Như Ý thứ nhất chỉ sinh ra kim cang, Như Ý thứ hai sinh ra đầy đủ các vật thiện và bất thiện. Hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Như Ý của một Thể chỉ sinh ra pháp thanh tịnh. Như Ý của ba tự sinh chung pháp nhiễm và tịnh.

Trong Khế kinh Như Như nói như vầy: “Đức Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Tạng: Này Phật tử! Ví như Kim Sí Điểu Vương mạng chung, sau đấy tim của nó rơi vào biển thành ngọc báu như ý, có khả năng phát sinh cát vàng tạo lợi ích cho Long Vương. Pháp căn bản của một tâm cũng lại như vậy, có khả năng phát sinh chân lý tạo lợi ích viên mãn”.

Vì vậy trong Khế kinh Bản Tánh Trí nêu rõ như vầy: “Ví như loài quỷ Già-đa-lợi, vì báo ân nên ở trong một vạn kiếp, làm ngọc châu như ý, tạo lợi ích cho chúng sinh ở biển. Như Ý của một tâm cũng lại như vậy, có khả năng sinh trưởng pháp sinh tử cùng pháp Niết-bàn”.

5. Gọi là Phương Thốn. Trong ấy có hai. Những gì là hai? Một là Bạch Hào Phương Thốn. Hai là Loạn Sắc Phương Thốn. Trong Phương Đẳng thứ nhất chỉ hiện tiền hình tượng nẻo trời. Trong Phương Thốn thứ hai hiện tiền chung cả năm nẻo. Như thế phần thân của hai hào chúng sinh, hiển bày phân minh ví như gương sáng. Hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy.

Trong Khế kinh Nhiếp Vô Lượng nói như vầy: “Pháp giới thanh tịnh như Bạch Tất Tát Y Ni La. Pháp giới vô tận như Loạn Tất Tát Y Ni La”.

6. Gọi là Như Lai tạng. Ở đây có hai. Những gì là hai? Một là Như Lai tạng Viễn Chuyển Viễn Phược. Hai là Như Lai tạng Dữ Hành Dữ Tướng. Trong Khế kinh Thật Tế nêu giảng như vầy: “Này Phật tử! Như Lai tạng là chỉ có giác ngộ, chỉ có như như, lìa nhân lưu chuyển, lìa trói buộc của suy nghĩ nhận biết, mỗi mỗi sáng sạch, vì vậy gọi là Như Lai tạng”.

Trong Khế kinh Lăng Già nêu rõ như vầy: “Như Lai tạng là nhân của thiện và bất thiện, thọ nhận khổ vui, cùng với nhân cùng hợp, hoặc sinh hoặc diệt, cũng như người có tài nghệ”.

7. Gọi là Nhất Pháp Giới. Trong đây có hai. Những gì là hai? Một là Nhất Pháp Giới Thuần Bạch. Hai là Nhất Pháp Giới Vô Tận. Pháp giới thứ nhất như thời kiếp Không. Pháp giới thứ hai như thời kiếp Trụ.

Trong Khế kinh Chân Pháp Giới nêu bày như vầy: “Chủng loại không vô ngại như thời không trưởng. Chủng loại biến vô ngại như thời hữu trưởng”.

8. Gọi là Ma-ha-diễn. Nghĩa như trước đã nêu rõ.

9. Gọi là Trung Thật. Trong ấy có hai. Những gì là hai? Một là Trung Thật Đẳng Trụ. Hai là Trung Thật Biệt Trụ. Trung Thật thứ nhất như hạt minh châu riêng biệt, Trung Thật thứ hai như hạt minh châu thuận theo. Trong Khế kinh Minh Trung Thật nêu rõ như vầy: “Chân tâm lìa biên. Nếu chân như nương dựa như hạt ngọc dị đồng. Nếu sinh diệt nương dựa thì như hạt ngọc đồng dị”.

10. Gọi là Nhất Tâm. Ở đây có hai. Thế nào là hai? Một là Nhất Tâm Thị Nhất Thị Nhất. Hai là Nhất Tâm Thị Nhất Thiết Thị Nhất Thiết. Nhất Tâm thứ nhất tùy theo đối tượng tạo tác để lập tên gọi. Nhất Tâm thứ hai tùy theo chủ thể tạo tác để lập tên gọi.

Trong Khế kinh Nhất Tâm Pháp thuyết giảng như vầy: “Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đến trước Đức Phật, thưa: Thế Tôn! Trong Khế kinh Bản Địa nêu rõ như vầy: Thể tánh của tâm ấy chẳng phải lớn – chẳng phải nhỏ, chẳng phải là pháp – chẳng phải là phi pháp, chẳng phải là đồng – chẳng phải là dị, chẳng phải là một – chẳng phải là tất cả. Do nhân duyên gì hôm nay tự nói nhất tâm chân như nhân một nên là một. Nhất tâm sinh diệt nhân nhiều nên là một? Há chẳng phải Đức Thế Tôn đã có lỗi trái nhau, vì không có trước sau chăng? Đức Phật dạy: Này thiện nam! Chớ nên nói lời như vậy. Vì sao? Vì tâm pháp chẳng phải là một, nhân nơi đối tượng tạo tác là một nên giả gọi là một. Tâm pháp chẳng phải là tất cả, nhân nơi đối tượng tạo tác là tất cả nên giả gọi là tất cả. Nhưng nói một tâm không nói tất cả các tâm, là tùy theo tâm của chủ thể tạo tác để lập tên gọi. Cho đến nói rộng”.

Đấy gọi là mười tên gọi. Mười tên gọi như vậy là gồm thâu chung danh tự căn bản nơi tất cả các Pháp tạng của chư Phật.

Đã nói về mười loại tên gọi riêng của hai pháp. Tiếp theo nói về tên gọi của hai môn có sai biệt. Mười tên gọi của Chân như, tướng của chúng là thế nào?

* Tụng nêu:

Bà Già Bà Câu Xá

Kiện Già A Đa Na

Tất Bồ Đề Bà Lê

Kiện Ha Kiện Bà Na

1. Đà A Chỉ Ni

A Già A Thủy Da

Độ La Nặc Bổ Đế

Mạc Hô Kiện Na Địa

Ma Ha Tiêu Đà Nhất

Bà A Xoa Ni La

Mười thứ tên gọi như vậy

Chân như không cùng xưng.

* Luận giải thích: Môn tâm Chân như có mười thứ tên gọi. Những gì là mười? Đó là: (1) Gọi là môn Như Lai tạng, vì không hề tạp loạn. (2) Gọi là môn Bình đẳng bất nhị, vì không có sai biệt. (3) Gọi là môn Nhất đạo thanh tịnh, vì không có đường rẽ khác. (4) Gọi là môn Bất khởi bất động, vì lìa mọi thứ tác nghiệp. (5) Gọi là môn Vô đoạn vô phược, vì không có đối trị chướng ngại. (6) Gọi là môn Vô khứ vô lai, vì không có trên dưới. (7) Gọi là môn Xuất thế gian, vì không có bốn tướng. (8) Gọi là môn Tịch diệt tịch tĩnh, vì không có qua lại. (9) Gọi là môn Đại tổng tướng, vì không có tướng riêng. (10) Gọi là môn Chân như, vì không có hư giả.

Đấy gọi là mười tên gọi. Mười tên gọi như vậy là gồm thâu toàn bộ danh tự, pháp môn, nghĩa lý bình đẳng nơi tất cả Pháp tạng của chư Phật.

Mười tên gọi của môn sinh diệt, tướng của chúng là thế nào?

* Tụng nêu:

A-lê-da Kiện Ma

Bà Già Bà Câu Xá

2. Y Bà Na La

Kiện Ha Kiện Chỉ Ni.

Kiện Già Kiện Thủy Da

Xoa Xoa Phiệt Na La

La Nặc Bổ Đế Ni

Xà Phược Đa Niết Bàn.

Ha Chỉ Già Na Thi

Đa Bạt Đa Kiện Xá

Mười thứ tên như vậy

Sinh diệt không cùng xưng.

* Luận giải thích: Môn tâm sinh diệt có mười thứ tên gọi. Những gì là mười? Đó là: (1) Gọi là môn Tạng thức, vì thâu giữ tất cả các pháp nhiễm tịnh. (2) Gọi là môn Như Lai tạng, vì che giữ thể của pháp thân Như Lai. (3) Gọi là môn Khởi động, vì tương tục tạo nghiệp. (4) Gọi là môn Hữu đoạn hữu phược, vì có đối trị chướng ngại. (5) Gọi là môn Hữu khứ hữu lai, vì có trên dưới. (6) Gọi là môn Đa tướng phần dị, vì pháp nhiễm tịnh là nhiều vô số kể. (7) Gọi là môn Thế gian, vì bốn tướng đều cùng chuyển. (8) Gọi là môn Lưu chuyển hoàn diệt, vì có đầy đủ pháp sinh tử và Niết-bàn. (9) Gọi là môn Tương đãi câu thành, vì không có pháp tự thành. (10) Gọi là môn Sinh diệt, vì biểu hiện tướng vô thường.

Đấy gọi là mười. Mười tên gọi như vậy là gồm thâu chung vô số loại danh tự, pháp môn sai biệt nơi tất cả Pháp tạng của chư Phật.

Đã nói về mười thứ tên gọi riêng khác của hai môn. Tiếp theo nói về môn phần tướng đồng – dị. Hai loại pháp căn bản đồng – dị có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Có ba dị – hai đồng

Đều nương môn cảnh riêng

Đều hiện khắp tên đồng

Đồng tên nhưng nghĩa khác.

* Luận giải thích: Hai loại pháp căn bản có ba dị và hai đồng. Những gì là ba dị biệt? Đó là: (1) Nương dựa dị biệt, vì đều có đối tượng dựa là Ma-ha-diễn. (2) Môn dị biệt, vì đều có đủ môn chủ thể nhập có sai biệt. (3) Cảnh giới dị biệt, vì đều duyên vào nơi tự nương dựa làm cảnh giới.

Đấy gọi là ba dị biệt. Những gì là hai đồng? Đó là: (1) Hiện bày khắp là đồng, vì hiện bày trọn khắp pháp giới là cùng số lượng. (2) Tên gọi là đồng. Mười loại tên gọi là thông hợp hai pháp. Đấy gọi là hai thứ đồng. Vì sao như thế? Vì đồng tên gọi nhưng nghĩa khác nhau. Hai loại pháp môn đồng – dị có sai biệt, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Có bảy dị – một đồng

Người, Pháp, Nương, Hành, Thể

Cảnh giới Phần vị khác

Tên gọi khác, nghĩa khác.

* Luận giải thích: Hai loại môn này có bảy dị biệt và một đồng. Những gì là bảy dị biệt? Đó là: (1) Chúng người dị biệt. Vì trong môn Chân như chỉ có người giải thoát thanh tịnh. Trong môn sinh diệt có đủ các chúng sinh thuộc ba tụ. (2) Pháp môn dị biệt. Vì trong môn Chân như chỉ có phẩm pháp hoàn toàn thanh bạch. Trong môn sinh diệt thì có đủ tất cả pháp nhiễm tịnh. (3) Đối tượng nương dựa dị biệt. Do đều có đối tượng nương dựa là Ma-ha-diễn. (4) Hành pháp dị biệt. Vì trong môn Chân như một tâm một niệm sinh khởi, trói buộc thì không sinh khởi, dùng làm hành tác. Trong môn sinh diệt lấy sinh diệt sinh, lấy diệt diệt diệt dùng làm hành tác. (5) Thể tướng dị biệt. Do môn tâm Chân như cùng với gốc kia là như nhau. Môn tâm sinh diệt cùng với gốc kia là khác nhau. Trong Khế kinh Lăng Già nêu rõ như vầy: “Tịch diệt gọi là nhất tâm, nhất tâm gọi là Như Lai tạng”. (6) Cảnh giới dị biệt, vì đều duyên với tự nương dựa làm cảnh giới. (7) Vị địa dị biệt. Vì trong môn Chân như thì an trụ tương tạp, còn trong môn sinh diệt thì an trụ qua lại. Đấy gọi là bảy thứ dị biệt. Thế nào là một thứ đồng? Nghĩa là hiện bày khắp là đồng. Vì sao như thế? Vì khác tên gọi và khác nghĩa.

Hai môn vị, địa trong các Khế kinh nào nêu giảng phân minh hiện rõ? Đều có bao nhiêu địa vị?

* Tụng nêu:

Khế kinh như Lăng Già…

Chân như có một loại

Môn sinh diệt có hai

Vì trên dưới tạp loạn.

* Luận giải thích: Hai môn địa, vị trong các Khế kinh như Lăng Già… đã thuyết giảng hiển bày. Nghĩa là trong Khế kinh Đại Bản Lăng Già nói như vầy:

Hồi hướng tức tín tâm

Tín tâm là Phật địa

Phật địa tức mười Địa

Mười Địa tức phát tâm.

Trong Khế kinh Phân Lưu Lăng Già nêu rõ như vầy:

Mười Địa là Địa một

Địa một là Địa tám

Chín Địa là bảy Địa

Bảy Địa là tám Địa.

Hai Địa là ba Địa

Bốn Địa là năm Địa

Ba Địa là sáu Địa

Tịch diệt có lớp gì?

Trong Khế kinh Chân Tu nêu bày như vầy:

Mẹ một tuổi một thời

Sinh con năm mươi tuổi

Con năm mươi tuổi kia

Mẹ một tuổi mang thai.

Một tuổi sinh năm mươi

Đại trượng phu nam tử

Hoặc há có như thế?

Hoặc há không như thế?

Các Khế kinh như vậy v.v… đã dựa vào tâm nơi môn Chân như để kiến lập vị địa kia. Đối với môn Chân như chỉ có trụ nơi vị hoàn toàn tạp loạn, không có vị nào khác. Do vậy tụng nói là “Chỉ loạn”. Trong Khế kinh khác nói đủ các loại vị địa thứ lớp qua lại, dựa nơi môn sinh diệt mà được an lập, tức nên quán xét kỹ. Đối với môn sinh diệt có hai loại vị. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Môn Hướng thượng. (2) Môn Hướng hạ. Hai môn Sinh diệt và Quyết trạch như vậy tự sẽ nói rõ. Môn tâm sinh diệt từ chánh trí đã chứng tánh thì lý chân như thuộc về môn nào? Thuộc về môn sinh diệt không phải là môn chân như, vì phần giới dị biệt. Chân như của hai môn lại có sai biệt thế nào? Lý của môn chân như là lý từ nơi lý. Lý của môn sinh diệt là trí từ nơi lý. Vị địa của hai môn do nghĩa gì nên lý kia đều khác biệt? Vì chân như thì không có chướng ngại còn sinh diệt thì có chướng ngại. Nêu lên một phương diện này để tùy theo đấy quán xét thích hợp.

Đã nói về môn kiến lập bốn loại pháp tướng, hai thứ môn này thảy đều gồm thâu chung tất cả các pháp. Tức là môn Pháp môn thâu tóm toàn bộ viên mãn. Nghĩa là dùng môn chân như gồm thâu tất cả các pháp, nên không một pháp nào không phải là chân như. Dùng môn sinh diệt gồm thâu tất cả các pháp, tức không một pháp nào không phải là sinh diệt. Nhưng môn chân như không thể gồm thâu tất cả các pháp của môn sinh diệt. Lại môn sinh diệt cũng không thể gồm thâu tất cả các pháp của môn chân như. Nhưng nói gồm thâu chung tất cả các pháp, là thâu tóm chung tất cả pháp sinh diệt, gồm thâu chung tất cả pháp chân như. Vì sao? Vì hai môn như vậy thảy đều bình đẳng mỗi mỗi môn đều có những sai biệt.

Đã nói về môn Pháp môn gồm thâu toàn bộ viên mãn. Nghĩa ấy là thế nào? Vì hai môn này không cùng lìa nhau, tức là môn phát khởi hỏi đáp để hiển bày nhân. Nghĩa là trực tiếp nêu câu hỏi và trực tiếp nêu bày đáp lại.

Đã nói về phần nêu giảng tóm lược. Tiếp theo là nói về phần thuyết giảng rộng.

* Bản luận viết: Tâm chân như tức là Thể của pháp môn nơi tổng tướng đại của một pháp giới. Nghĩa là tánh của tâm không sinh không diệt. Tất cả các pháp chỉ dựa vào vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Vì vậy tất cả các pháp từ xưa đến nay, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên và hoàn toàn bình đẳng, không có biến đổi, không thể hủy hoại, chỉ là một tâm nên gọi là chân như. Do tất cả ngôn thuyết là giả danh không thật, chỉ tùy theo vọng niệm nên không thể đạt được. Nói chân như là cũng không có tướng. Nghĩa là chốn tột cùng của ngôn thuyết nhân nơi ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ. Thể của chân như này không gì có thể trừ bỏ, vì tất cả các pháp thảy đều là Chân. Cũng không gì có thể thiết lập, vì tất cả các pháp đều đồng là Như. Nên biết tất cả pháp không thể nêu diễn, không thể suy niệm, nên gọi là Chân Như.

Hỏi: Nếu nghĩa như vậy thì các chúng sinh làm sao tùy thuận để có thể hội nhập được?

Đáp: Nếu nhận biết tất cả pháp, tuy nói nêu nhưng không có chủ thể nói có thể nói nêu, tuy suy niệm cũng không có chủ thể niệm có thể suy niệm, thì đó gọi là tùy thuận. Nếu lìa nói nêu suy niệm thì gọi là được hội nhập.

Lại nữa, chân như là dựa vào ngôn thuyết phân biệt có hai loại nghĩa. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Như thật không, do có thể hiển bày thật một cách rốt ráo. (2) Như thật bất không, vì có tự thể đầy đủ công đức của tánh vô lậu. Nói là không tức từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả pháp nhiễm. Nghĩa là lìa tướng sai biệt của tất cả pháp, do không có tâm niệm hư vọng. Nên biết tự tánh của chân như chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không tướng. Phi phi có tướng, phi phi không tướng. Chẳng phải là tướng có không cùng hợp. Chẳng phải một tướng, chẳng phải khác tướng, phi phi một tướng, phi phi khác tướng. Chẳng phải là tướng một và khác cùng hợp. Cho đến nói chung. Dựa nơi tất cả chúng sinh do có tâm vọng, niệm niệm phân biệt đều không tương ưng, nên nói là không. Nếu lìa tâm vọng thì thật sự không gì có thể là không. Nói là bất không, vì đã hiển bày thể của pháp là không, không có vọng, tức là chân tâm thường hằng bất biến, pháp tịnh đầy đủ, gọi là bất không, cũng không có tướng để có thể giữ lấy, vì lìa cảnh giới của suy niệm chỉ chứng tương ưng.

* Luận giải thích: Đây tức là phần thuyết giảng rộng. Trong ấy có ba môn. Những gì là ba môn? Đó là: (1) Môn chân như của thể tánh căn bản. (2) Môn phát khởi vấn đáp trừ bỏ nghi. (3) Môn chân như giả nêu mở tướng.

Trong môn thứ nhất tức có ba môn. Những gì là ba? Một là môn kiến lập danh tự. Hai là môn trực tiếp giảng giải chân thể. Ba là môn giải thích danh tự.

Tâm chân như tức là pháp môn nơi tổng tướng đại của một pháp giới. Thể tức là môn kiến lập danh tự. Nghĩa là tùy theo công năng để lập tên gọi. Chân như của một tâm đều có mười tên gọi, vì sao loại trừ những tên gọi khác, chỉ lập tên gọi này? Vì tác nghiệp thích hợp. Những tên gọi còn lại tất không phải như vậy nên lược bớt, không lập. Nghĩa này là thế nào? Vì một tâm tạo nghiệp lớn, pháp tạo nghiệp chung, giới tạo nghiệp tướng. Nên môn của pháp thì môn tức là thể, do đó nói là thể của pháp môn. Các loại biệt tướng theo như trước nên xét kỹ.

Đã nói về môn kiến lập danh tự. Tiếp đến là nói về môn trực tiếp giảng giải về chân thể. Nói là tánh của tâm không sinh diệt là trực tiếp giảng giải về môn chân như phân biệt với môn sinh diệt. Nghĩa là pháp chân như chẳng phải sinh, chẳng phải diệt, không sinh, không diệt, chẳng phải trụ, chẳng phải dị, không trụ, không dị, không phải như pháp sinh diệt, là sinh là diệt, có sinh, có diệt, là trụ, là dị, có trụ, có dị, vì tướng có không là sai biệt.

Lại nữa, chẳng phải thị nói là chẳng (Bất), chẳng phải nghĩa là phi nên nói là chẳng (Bất). Vì sao? Vì pháp chân như kia là trăm phi chẳng phải là phi, ngàn thị chẳng phải là thị, chẳng phải phi, chẳng phải thị, đối với chẳng phải hai cũng chẳng trụ. Tất cả các pháp chỉ dựa nơi vọng niệm mà có sai biệt, tức lại nhờ nơi có kia để hiển bày cái này là không. Nghĩa là mượn cái giả có của môn sinh diệt để chỉ rõ cái thật không của môn chân như. Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Nếu lìa nhận thức của các hý luận thì không có tất cả các cảnh giới hư vọng. Vì thế tất cả pháp từ xưa đến nay là lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, là trực tiếp hiển thị về tướng lìa dứt của pháp chân như.

Ngôn thuyết, danh tự, tâm lượng đều có bao nhiêu số, tướng ấy là thế nào?

* Tụng nêu:

Ngôn thuyết có năm loại

Danh tự có hai loại

Tâm lượng có mười thứ

Khế kinh nói có khác.

* Luận giải thích: Ngôn thuyết có năm loại. Những gì là năm loại? Đó là: (1) Ngôn thuyết của tướng. (2) Ngôn thuyết của mộng. (3) Ngôn thuyết vọng chấp. (4) Ngôn thuyết vô thủy. (5) Ngôn thuyết như nghĩa.

Trong Khế kinh Lăng Già nêu giảng như vầy: “Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết của tướng đó là chấp trước các tướng như sắc v.v… sinh ra. Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết của mộng là nghĩ đến cảnh giới hư vọng đã thọ dụng trước đây, rồi nương theo cảnh giới ấy để sinh mộng, đến khi tỉnh rồi tức biết là đã dựa vào cảnh giới hư vọng không thật phát sinh. Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết chấp trước là nghĩ đến các nghiệp đã nghe, đã tạo tác từ trước mà sinh khởi. Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết vô thủy là từ vô thủy đến nay chấp trước hý luận, huân tập chủng tử của phiền não mà sinh”.

Trong Khế kinh Kim Cương Tam Muội nêu giảng như vầy: Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: Tất cả vạn pháp thảy đều là ngôn ngữ văn tự. Tướng của ngôn ngữ văn tự tức không phải là nghĩa, vì nghĩa như thật thì không thể ngôn thuyết. Vậy hôm nay Như Lai làm sao thuyết pháp? Đức Phật nói: Ta thuyết pháp là vì chúng sinh như các ông đang phát sinh để nói. Nói về pháp không thể nói được, vì vậy nên nói về điều ấy. Những gì Ta nêu giảng là nghĩa ngữ không phải là văn. Chúng sinh nói nêu là văn ngữ không phải là nghĩa. Không phải là nghĩa ngữ thì thảy đều là trống không. Ngôn thuyết trống không là không nói về nghĩa. Không nói về nghĩa thì đều là vọng ngữ.

Như nghĩa ngữ ấy là thật không chẳng không. Không thật chẳng thật lìa nơi hai tướng. Trung gian chẳng trung gian pháp của chẳng trung gian lìa nơi ba tướng. Vì không thấy xứ sở nên như như như thuyết.

Như vậy, trong năm loại ngôn thuyết thì bốn loại ngôn thuyết trước là thuyết hư vọng nên không thể bàn luận về chân. Một loại ngôn thuyết sau là thuyết như thật nên được bàn luận về chân lý. Bồ-tát Mã Minh tức căn cứ vào bốn loại trước nên đã nói về lìa tướng ngôn thuyết như vậy.

Danh có hai loại. Những gì là hai? Một là danh của tự tự. Hai là danh của tự ảnh. Trong Khế kinh Lăng Già nêu bày như vầy: “Này Đại Tuệ! Lại nữa, danh thân nghĩa là các chữ thuận theo danh tự có sai biệt, từ chữ A cho đến chữ Ha, gọi là danh thân”.

Trong Khế kinh Đạo Phẩm giảng nói như vầy: “Ở trong gương cùng nêu bày gọi là danh hiển ảnh”.

Tự (Chữ) có hai loại. Những gì là hai? Một là tự dựa vào thanh. Hai là tự dựa vào không.

Trong Khế kinh Lăng Già nói như vầy: “Này Đại Tuệ! Lại nữa, tự thân nghĩa là thanh dài ngắn, âm vận cao thấp gọi là tự thân”. Trong Khế kinh Đại Hải nêu rõ như vầy: “Đức Phật nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Như trước ông đã hỏi, thế nào gọi là Luân tự hư không? Đó là ví như chim bay trong hư không, lúc vượt qua vùng ánh sáng mặt trời thì phát ra mười loại âm thanh hòa hợp. Luận tự hư không nên quán xét như vậy”. Như thế trong hai loại danh thì một loại đầu tức không thể giảng nêu khẳng định về chân lý thâm diệu. Một loại sau thì có thể giảng giải được chân lý. Nay dựa vào môn trước nên nói: “Lìa tướng danh tự” như vậy.

Tâm lượng có mười loại. Những gì là mười? Đó là: (1) Tâm nhãn thức. (2) Tâm nhĩ thức. (3) Tâm tỷ thức. (4) Tâm thiệt thức. (5) Tâm thân thức. (6) Tâm ý thức. (7) Tâm mạt-na thức. (8) Tâm A-lê-da thức. (9) Tâm đa nhất thức. (10) Tâm nhất nhất thức.

Trong mười loại như vậy thì chín loại đầu tâm không duyên với chân lý, một loại sau thì tâm có thể duyên với chân lý để làm cảnh giới. Nay dựa vào chín loại trước nên nói như vầy: “Lìa tướng của tâm duyên”. Trong Khế kinh Bản Hữu nói như vầy: “Chân lý thâm diệu không phải là cảnh giới khác, chỉ duyên nơi đối tượng nương dựa của chính nó để làm cảnh giới”. “Hoàn toàn bình đẳng, không có biến đổi, không thể hủy hoại. Là hiện bày rõ công đức của ba loại xa lìa. Nghĩa là tất cả sai biệt dùng bốn loại ngôn thuyết hư vọng làm căn bản để chuyển biến. Chín loại biến luận, mười loại dị chấp của tất cả ngoại đạo, chỉ lấy danh tự làm căn bản chuyển đổi. Tất cả phiền não phá chướng, tất cả sở tri hoại chướng, chỉ dùng tâm pháp làm chỗ dựa để chuyển biến. Nhưng trong thể của chân thì lìa ba tướng nên gồm đủ ba đức. “Chỉ là một tâm nên gọi là chân như”, là tổng kết về Thể nơi chân như. “Do tất cả ngôn thuyết đều là giả danh không thật, chỉ tùy theo vọng niệm nên không thể đạt được”, là làm rõ về nhân duyên của ba xa lìa.

Nghĩa là vì tất cả ngôn thuyết không thật, tất cả đều là giả danh không thật, tất cả tâm thức chỉ tùy theo vọng niệm không thể đạt được, nên không thể ngôn thuyết. Trong lý chân thật thì không có lìa ba tướng. Vì tướng hư giả và pháp như thật là hoàn toàn trái nhau. Nói chân như cũng không có tướng, là phần chuyển thứ hai, dùng ngôn ngữ để loại trừ lỗi lầm của những chấp trước. Nghĩa là chúng sinh ngu muội dấy lên chấp như vầy: Xa lìa ba tướng trọn đủ ba đức là lý của thể chân như, tuy không có tướng giả mà có tướng thật, tự nhiên thường trụ quyết định là thật có. Do chấp như vậy nên rơi vào biên chấp thường, không biết lúc nào ra khỏi. Vì thế để loại trừ kiến chấp như vậy, nên nói chân như cũng không có tướng. Nghĩa là chốn tột cùng của ngôn thuyết, nhân nơi ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ, là trực tiếp chỉ rõ nhân duyên vô tướng của chân như. Tức là các thứ ngôn thuyết đạt đến mức tột cùng, đối với chân như lại không thể vượt quá. Đã đoạn dứt ngôn ngữ diễn tả, há có thể có tướng vô ngôn? Tức nên được nhân nơi ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ mà thôi. Ở đây, chủ thể loại trừ là như như đúng như thuyết, đối tượng loại trừ là bốn thứ ngôn thuyết hư vọng.

Trong Khế kinh Đại Bản Duy Ma Cật nêu giảng như vầy: “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Cưu-na-a-phiệt-đàđa: Các đại chúng chúng tôi, mỗi mỗi thảy đều tùy theo chỗ vui thích của mình, tuyên thuyết về một loại của tánh ngàn pháp hướng về môn Bất nhị. Như chỗ thích hợp, thì Duy Ma Cật vì đại chúng chúng tôi, lìa ngôn thuyết nơi ngôn thuyết để nói về phi bất nhị nơi bất nhị, trừ bỏ cấu uế của giả nói. Lúc này Duy Ma Cật im lặng không nói gì. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khen ngợi Duy Ma Cật: Lành thay! Lành thay! Cư sĩ như ngôn ngữ diễn tả về như, như tai nghe theo như. Lành thay! Lành thay! Đây mới là pháp môn bất nhị chân thật. Đây chính là pháp môn bất nhị chân thật”.

Đã nói về môn trực tiếp giảng giải về thể của chân như. Tiếp theo là nói về môn giải thích danh tự. Thể của chân như này không gì có thể trừ bỏ, vì tất cả các pháp thảy đều là chân, là căn cứ theo chân để giải thích về danh (Tên gọi). “Cũng không gì có thể thiết lập, vì tất cả pháp đều đồng là như”, là căn cứ theo như để giải thích về danh. Văn này nêu rõ về nghĩa gì? Đó gọi là hiển bày làm rõ không có trí đoạn chứng. Nghĩa này là thế nào? Nghĩa là đạo đoạn khởi lên tất nhân nơi việc đối trị chướng ngại, không thể tự khởi. Nhưng trong thể của chân thì không có pháp nhiễm để có thể trừ bỏ, nên cũng không có đạo đoạn của chủ thể đối trị. Vì sao? Vì không có một pháp nào không phải là thể của chân. Lại nữa, nếu như trí có chướng ngại, tùy theo tâm cao thấp, tức nên có thể kiến lập tất cả các vị địa. Nhưng trong Thể của như thì không có phần vị nào để có thể kiến lập. Không có phương tiện của chủ thể kiến lập. Vì sao? Vì không có một pháp nào không phải là Thể của như. “Nên biết tất cả pháp không thể nêu diễn, không thể suy niệm, nên gọi là Chân như”, là tổng kết những điều đã nói ở trên.

Đã nói về môn Chân như của Thể tánh căn bản. Tiếp theo là nói về môn Phát khởi vấn đáp trừ bỏ Nghi.

Hỏi: Nếu nghĩa như vậy thì các chúng sinh làm sao tùy thuận để có thể nhập được? Tức là sinh nghi dẫn đến thưa hỏi như vậy. Người hỏi căn cứ vào những câu nào, phát sinh những nghi như thế? Đó là dựa vào câu “Không thể nêu diễn, không thể suy niệm” mà phát sinh vấn nạn nghi về nghĩa tùy thuận. Dựa vào chuyển ngôn thứ hai, nên phát sinh vấn nạn để nghi về điều có thể hội nhập được. Đối với câu tùy thuận thì trực tiếp nêu nghi về nhân. Còn đối với câu có thể hội nhập được thì trực tiếp nêu nghi về quả. Vì sao? Vì ngôn thuyết thiện xảo là phương tiện tùy thuận để sinh trưởng văn tuệ, tuệ do văn tạo thành là phương tiện tùy thuận để sinh trưởng tư tuệ. Tuệ do tư tạo thành là phương tiện tùy thuận để sinh trưởng tu tuệ. Tất cả thiện giáo đạt tới chỗ tột cùng nơi ngôn ngữ diễn tả, thì hết thảy ba tuệ đã thực hiện hết sự việc niệm pháp. Nếu không có ngôn ngữ diễn tả thì không có ba tuệ. Nếu không có ba tuệ thì không có vạn hạnh. Nhưng pháp chân như không thể nêu bày nên không có ngôn giáo. Không thể suy niệm thì không có ba Tuệ, không có ba Tuệ nên không thể thành tựu vạn hạnh của mười địa. Các loại chúng sinh lấy gì để dựa vào mà dần dần tiến tu? Vì nghi ngờ như vậy nên dẫn đến chất vấn làm sao tùy thuận thực hành nhân nơi chủ thể khởi và có quả đức nơi đối tượng được khởi. Nếu không có nhân phát khởi thì không có chủ thể hội nhập. Nếu không có chủ thể hội nhập thì không thể chứng đắc đối tượng hội nhập. Chủ thể hội nhập gọi là tâm kim cang, đối tượng hội nhập gọi là địa kim cang. Đã không có nhân thì lấy gì làm cách thức để chứng thực hội nhập trong đại dương Nhất thiết chủng trí của Như Lai? Vì nghi ngờ như vậy nên dẫn đến chất vấn: Làm sao có thể hội nhập được? Hai câu hỏi như vậy là căn cứ vào môn sinh diệt mà nghi ngờ về môn Chân như. Nghĩa là có chúng sinh dấy lên nghi ngờ như vầy: Nếu như trong môn sinh diệt đoạn trừ tất cả mọi pháp ác, tu tập tất cả các pháp thiện, thì đầy đủ mọi nhân hạnh, quả đức viên mãn. Trong môn Chân như cũng lại như vậy, há môn Chân như “Không thể nói” là bỏ pháp khéo gia hạnh, “Không thể nghĩ đến” là bài báng vị địa năm bậc sao? Nay nêu ra ý này là khởi câu hỏi như vậy.

Đáp: Nếu nhận biết được tất cả các pháp, tuy nói là không có chủ thể nên nêu dẫn nhưng có thể nêu bày. Tuy suy niệm cũng không có chủ thể suy niệm nhưng có thể suy nghĩ. Đó gọi là được tùy thuận. Nếu như lìa nêu bày suy niệm thì gọi là được hội nhập, tức là như thứ lớp ấy để giải quyết hai nghi ngờ kia. Nghĩa là tùy thuận tự có hai loại. Những gì là hai? Một là tùy thuận Sinh diệt. Hai là tùy thuận Chân như. Trong tùy thuận sinh diệt lại có hai loại. Những gì là hai? Một là tùy thuận hướng thượng. Hai là tùy thuận hướng hạ. Tùy thuận hướng thượng là từ Tín cho đến kim cương, có thể làm phương tiện tùy thuận của quả vị Bồ-đề. Tùy thuận hướng hạ là từ Địa Tạng tự tánh thanh tịnh vi diệu cho đến Niệm Tín thứ nhất, có thể làm phương tiện tùy thuận của Địa Da Da. Nói tùy thuận hướng thượng, là nhân nơi âm thanh ngôn thuyết vô thường sinh trưởng Văn Tuệ về vô thường. Nhân nơi Văn Tuệ về vô thường sinh trưởng Tư Tuệ về vô thường. Nhân nơi Tư Tuệ về vô thường sinh trưởng Tu Tuệ về vô thường. Nhân nơi Tu Tuệ về vô thường sinh trưởng hành đức của vô thường. Đó gọi là tùy thuận hướng thượng.

Nói tùy thuận hướng hạ là nhân nơi hành đức về thường sinh trưởng Tu Tuệ về thường. Nhân nơi Tu Tuệ về thường sinh trưởng Tư Tuệ về thường. Nhân nơi Tư Tuệ về thường, sinh trưởng Văn Tuệ về thường. Nhân nơi Văn Tuệ về thường sinh trưởng ngôn thuyết về thường. Đó gọi là tùy thuận hướng hạ. Hai môn như vậy là đồng thời đầy đủ không có trước sau. Còn các biệt tướng chướng trí đến nơi Văn xứ tự sẽ nêu rõ.

Trong môn Chân như nói như vầy: “Không thể nói nêu” là vì không có âm thanh ngôn thuyết về thường và vô thường. “Không thể suy niệm” là vì không có ba Tuệ về thường và vô thường, chứ không phải là không có tự môn về ngôn thuyết và suy niệm để nói như thế này: “Không thể nói nêu, không thể suy niệm”. Do nghĩa này nên không thể dùng môn khác để vấn nạn môn khác. Do đây có nên kia có, vì kia có nên đây có. Nếu như vậy thì trong môn Chân như ngôn thuyết cùng suy niệm là có những tướng gì? Nghĩa là có ngôn thuyết, không phải là âm thanh của thường, không phải là âm thanh của vô thường. Nghĩa là không có chủ thể nêu bày nhưng có thể nêu bày, như như như thuyết. Lại nữa, có suy niệm không phải là ba tuệ của thường, không phải là ba tuệ của vô thường. nghĩa là không có chủ thể suy niệm nhưng có thể suy niệm là niệm của tịch diệt tịch tĩnh. Vì sao? Vì trong môn Chân như không có qua lại để trụ trong tạp loạn.

Thế nào gọi là tùy thuận Chân như? Nghĩa là nếu nhận biết tất cả các pháp tuy thuyết nêu, nhưng không có thuyết nêu của thường thuyết, không có thuyết nêu của vô thường thuyết. Không có thuyết nêu của chủ thể thuyết, không có thuyết nêu của có thể thuyết. Đó gọi là tùy thuận nơi âm thanh của Chân như. Nếu cùng với đây trái nhau thì đó gọi là điên đảo nơi âm thanh của Chân như.

Lại nữa, nếu nhận biết được tất cả các pháp tuy có suy niệm nhưng không có suy niệm của tuệ thường, không có suy niệm của tuệ về vô thường. Không có suy niệm của chủ thể niệm, không có suy niệm có thể niệm. Đó gọi là tùy thuận nơi niệm tịch diệt tịch tĩnh. Nếu cùng với đây trái nhau thì đó gọi là điên đảo nơi niệm tịch diệt tịch tĩnh.

Đã nói về phần tướng tùy thuận. Tiếp theo là giải trừ nghi về nghĩa có thể nhập được. Trong đây có hai. Những gì là hai? Một là Sinh diệt được nhập. Hai là Chân như được nhập. Trong phần Sinh diệt được nhập lại có hai loại. Những gì là hai loại? Một là Được nhập về hướng thượng. Hai là Được nhập về hướng hạ. Nói được nhập về hướng thượng tức là địa Kim Cương. Nói được nhập về hướng hạ tức là địa Da Da. Nên có câu nói như vầy: Cần tùy thuận tức nên quán xét kỹ.

Chân như được hội nhập là từ nơi chốn của đối tượng được nương dựa. Dùng gì để được hội nhập? Nghĩa là phần vị đang xen lẫn nhau. Thế nào là được hội nhập? Nghĩa là xa lìa ngôn thuyết suy niệm. Lìa những ngôn thuyết suy niệm là như thế nào? Nghĩa là môn Chân như đều cùng chẳng phải là ngôn ngữ diễn tả và cũng đều chẳng phải là suy niệm. Vì vậy nên nói: Nếu xa lìa ngôn thuyết suy niệm thì đó gọi là được hội nhập. Tức là chuyển ngôn thuyết thứ nhất được thành tựu. Chuyển ngôn thuyết thứ hai là nghi đã được đoạn trừ thì nghĩa lý sẽ được sáng rõ.

Đã nói về môn Phát khởi vấn đáp giải trừ nghi. Tiếp theo là nói về môn Nhờ vào ngôn thuyết mở ra tướng Chân như. Trong ấy có hai môn. Những gì là hai? Một là môn Chân như của như thật không. Hai là môn Chân như của như thật bất không. Như thật không là trong Thể của Như như có Hằng hà sa số tất cả các pháp nhiễm nhiều hơn Hằng hà sa thảy đều rỗng không có thật. Như thật bất không, là trong Thể của Như như có Hằng hà sa số tất cả các pháp tịnh nhiều hơn Hằng hà sa, thảy đều đầy đủ không thiếu. Hai môn như vậy tùy theo mỗi mỗi đều có đủ và không cùng lìa bỏ. Ở đây, nên đọc lời tụng về huyền lý. Như tụng ấy nêu:

Xa lìa ba tướng giả

Viên mãn ba đức thật

Vì những nhân duyên ấy

Kiến lập thể Chân như.

Xa lìa tướng Tứ cú

Viên mãn đức bốn pháp

Do nhân duyên như vậy

Kiến lập tướng Chân như.

Tất cả hành lầm lỗi

Ba – bốn tướng làm gốc

Tất cả Phẩm Công Đức

Ba – bốn đức làm gốc.

Do nơi nhân duyên ấy

Không tăng cũng không giảm

Chỉ ở số lượng phẩm

Tạo an lập như vậy.

Nay đọc tụng này, vốn nên giữ lấy môn Chân như, vì lìa cảnh giới của suy niệm thì chỉ chứng đắc tương ưng, là chứng phần loạn trụ nhưng không phải chứng phần qua lại đan xen.

Đã nói về môn tâm Chân như. Tiếp đến là nói về môn tâm Sinh diệt.

* Bản luận viết: Tâm sinh diệt là dựa nơi Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt. Đó gọi là bất sinh, bất diệt cùng với sinh diệt hòa hợp, không phải một không phải khác, gọi là thức A-lê-da. Thức này có hai thứ nghĩa, có thể gồm thâu tất cả các pháp, có thể phát sinh tất cả các pháp. Những gì là hai thứ? Một là nghĩa giác. Hai là nghĩa bất giác.

* Luận giải thích: Trong đây có hai môn. Những gì gọi là hai? Đó là: (1) Môn tổng tướng của đối tượng được nương dựa. (2) Môn biệt tướng của chủ thể nương dựa. Ở đây có hai lớp an trụ nơi tư duy nên quán xét. Nghĩa là môn sinh diệt lấy nhất tâm làm nơi nương dựa. Môn sinh diệt gồm thâu nghĩa giác và nghĩa bất giác, vì thức A-lê-da làm nơi nương dựa. Trước nói về môn thứ nhất: Tâm sinh diệt là xướng nêu phần trên để lập phần dưới. Dựa nơi Như Lai tạng là đối tượng nương dựa nơi nhất tâm. Đối tượng nương dựa kia là nhiều hay một tâm cũng gọi là Như Lai tạng. Tức là chữ tâm trên, tiếp xuống dưới là kiến lập tên gọi khác. Có tâm sinh diệt là pháp môn của chủ thể nương dựa, nghĩa là môn sinh diệt. Nay sẽ căn cứ vào Khế kinh để hiển bày chỉ rõ về môn Như Lai tạng. Tạng của Như Lai có số lượng bao nhiêu? Nay Như Lai tạng này là thuộc về gì?

* Tụng nêu:

Như Lai tạng có mười

Khế kinh thuyết giảng khác

Như Lai tạng trong đây

Cùng hành cùng tướng thâu.

* Luận giải thích: Như Lai tạng có mười loại. Ở trong các Khế kinh đã nêu giảng có khác nhau. Những gì là mười loại? Đó là:

1. Như Lai tạng Đại Tổng trì, gồm thâu hết thảy tất cả Như Lai tạng. Trong Khế kinh chư Phật Vô Tận Tạng thuyết giảng như vầy: “Đức Phật nói với Bồ-tát Văn-thù: Có Như Lai tạng, tên là Đại Bảo Vô Tận Thù Thắng Viên Mãn Đà La Ni, gồm thâu hết các Tạng, không gì là không thông suốt, không gì là không thích hợp, viên mãn nơi viên mãn, bình đẳng nơi bình đẳng, tất cả các Như Lai tạng hiện có, không Tạng nào là không dùng đấy làm căn bản. Vì sao? Vì Như Lai tạng này là Như Lai tạng vương, Như Lai tạng chủ, là Như Lai tạng thiên, Như Lai tạng địa. Do các nghĩa ấy nên gọi là Như Lai tạng Đại Bảo Vô Tận Thù Thắng Viên Mãn Đà La Ni”. Văn của Khế kinh này nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiển thị về tổng tướng nơi đối tượng nương dựa của Tạng Đà-la-ni. Trong các Khế kinh khác thì các Như Lai tạng là biệt tướng của chủ thể nương dựa. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Do nơi nghĩa thâu giữ.

2. Như Lai tạng viễn chuyển viễn phược, do chỉ một Thể thanh tịnh, một Thể viên mãn. Trong Khế kinh Thật Tế nêu bày như vầy: “Này Phật tử! Như Lai tạng tức chỉ có giác ngộ, chỉ có Như như, lìa nhân lưu chuyển, lìa trói buộc của suy xét nhận biết, mỗi mỗi đều sáng tỏ, vì vậy gọi là Như Lai tạng”. Văn của Khế kinh nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiện bày rõ về một tâm của môn Chân như, không có nhân của mê lầm, không có nhân của giác ngộ, không có quả của mê lầm, không có quả của giác ngộ, vì một Chân một Như, chỉ có Thể của Như Lai diệu tịnh. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Do nghĩa không xen tạp.

3. Như Lai tạng cùng hành cùng tướng. Cùng với sức lưu chuyển khiến pháp thân Như Lai bị che giấu. Trong Khế kinh Lăng Già thuyết giảng như vầy: “Như Lai tạng là nhân thiện bất thiện thọ nhận khổ vui, cùng với nhân đều cùng có hoặc sinh hoặc diệt, cũng như người trẻ có tài”. Văn của Kinh này nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiển bày chỉ rõ về một tâm của môn sinh diệt. Đối với mê lầm cho lực. Cũng đối với giác ngộ cho lực, xuất hiện pháp sinh tử và Niết-bàn. Ví như người không phải là huyễn mà huyễn hóa, đối với các sự việc huyễn, tùy theo chỗ thích ứng mà cho lực dụng. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Do nghĩa khiến bị che giấu.

4. Như Lai tạng Chân như nơi chân như, vì chỉ có Như như. Trong Khế kinh Chân Tu nói như vầy: “Như Lai tạng Như lý – Như lý, chẳng phải là kiến lập, chẳng phải là hủy báng, chẳng phải là thường, chẳng phải là vô thường, chẳng phải là đối tượng chứng đắc của trí chánh thể, cũng chẳng phải là cảnh giới nơi đối tượng duyên của ý và ý thức. Vì sao? Vì chỉ có lý nơi lý không có đây kia”. Văn của Kinh này biện minh về nghĩa gì? Đó là hiển thị lý của tánh Chân như trong môn Chân như. Chỉ có lý nơi tự lý không phải là trí nơi tự lý. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Do nghĩa không có thứ khác.

5. Như Lai tạng Sinh diệt, Chân như: Là bất sinh bất diệt bị sinh diệt làm cấu nhiễm. Trong Khế kinh Lăng Già nêu bày như vầy: “Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si không hiểu không biết, chấp trước các pháp sát-na không dừng trụ, rơi vào nẻo tà kiến, nói: Pháp vô lậu cũng sát-na không dừng trụ, phá bỏ Như Lai tạng chân như kia. Lại nữa, này Đại Tuệ! Như Lai tạng Kim cương là pháp Như Lai chứng đắc, không phải là sát-na không dừng trụ. Này Đại Tuệ! Pháp Như Lai chứng đắc nếu sát-na không dừng trụ, thì tất cả Thánh nhân không thành Thánh nhân”. Văn của Kinh này nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiện bày rõ về lý của tánh Chân như trong môn sinh diệt, xa lìa tướng vô thường nơi pháp bất sinh bất diệt. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Do nghĩa bị cấu nhiễm.

6. Như Lai tạng không, vì tất cả các không đã che giấu Như Lai. Trong Khế kinh Thắng Man thuyết giảng như vầy: “Thưa Thế Tôn! Như Lai tạng không, hoặc lìa, hoặc thoát, hoặc khác với tất cả tạng phiền não”. Văn của Kinh này làm rõ về nghĩa gì? Đó là hiển thị về tất cả các pháp nhiễm trong môn sinh diệt, vì che kín vô lượng tánh công đức nơi Bản giác của tự tướng. Do nghĩa nào mà tất cả pháp nhiễm gọi chung là không? Đó là vì tất cả pháp nhiễm đều là huyễn hóa sai biệt, thể tướng không thật, tác dụng chẳng phải chân nên gọi là không. Nhưng có thể che kín Thể chân Đức thật nơi pháp thân Như Lai, vì vậy gọi là Như Lai tạng. Vì thuận theo năng lực chứa giữ nhiễm mà lập tên gọi.

7. Như Lai tạng Bất không, vì tất cả bất không bị không làm cấu nhiễm. Trong Khế kinh Thắng Man giảng nói như vầy: “Thưa Thế Tôn! Như Lai tạng Bất không vượt quá Hằng sa số pháp Phật không lìa, không thoát, không khác và không nghĩ bàn”. Văn của Kinh này biện rõ về nghĩa gì? Đó là hiển bày rõ về Bản giác của tự tướng trong môn sinh diệt, đầy đủ tất cả công đức vượt quá Hằng sa số, bị tất cả pháp nhiễm vượt quá Hằng sa số làm cấu nhiễm. Do nghĩa nào mà tất cả pháp tịnh gọi chung là Bất không? Đó là tác dụng thắng diệu thật sự trong tự thể của tất cả các pháp tịnh, xa lìa hư giả, vượt lên trên các thứ giả dối xảo trá, nên gọi là Bất không. Bị che lấp do pháp nhiễm nên gọi là Như Lai tạng. Nơi lúc xuất hiện thì gọi là Pháp thân, vào lúc lấp kín thì gọi là Như Lai tạng. Thuận theo nghĩa tịnh bị chứa giữ để lập tên gọi.

8. Như Lai tạng năng nhiếp là tâm tịnh của tự tánh trong tạng vô minh, có thể gồm thâu tất cả các công đức. Trong Khế kinh Bất Tăng Bất Giảm nói như vầy: “Như Lai tạng bản tế tương ưng với Thể và pháp thanh tịnh. Pháp này là pháp như thật, không hư vọng, không lìa, không thoát, là trí không thể nghĩ bàn. Từ bản tế vô thủy đến nay đã có thể của pháp tương ưng và thanh tịnh ấy”.

Văn của Kinh này nêu bày về nghĩa gì? Đó là hiện rõ tâm thanh tịnh nơi tự tánh của tất cả các chúng sinh, từ vô thủy đến nay đều có đủ ba trí, viên mãn bốn đức, không có thiếu mất. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Vì tâm điên đảo không hiểu không biết. Tùy theo chủ thể và đối tượng đều thanh tịnh mà lập tên gọi.

9. Như Lai tạng sở nhiếp là tất cả pháp nhiễm chứa giữ trong địa vô minh, chính là đã xuất ly và gồm đủ giác ngộ là đối tượng được gồm thâu. Trong Khế kinh Bất Tăng Bất Giảm nêu rõ như vầy: “Bản tế của Như Lai tạng không tương ưng với Thể và phiền não triền là pháp không thanh tịnh. Bản tế của pháp này là lìa thoát không tương ưng với pháp không thanh tịnh của phiền não triền. Chỉ có trí Bồ-đề của Như Lai mới có thể đoạn trừ”. Văn của Kinh này nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiển bày chỉ rõ về Thủy giác tròn đủ nơi Phật, đoạn trừ tất cả chướng, có đủ Nhất thiết trí. Trí sáng tỏ là bên ngoài, ngăn chận tối tăm là bên trong, tất cả pháp nhiễm đã được trí thâu giữ. Do nghĩa nào nên gọi là Như Lai tạng? Do nghĩa thâu giữ.

10. Như Lai tạng ẩn phú, vì Pháp thân của Như Lai bị phiền não che phủ ẩn mất. Trong Khế kinh Bất Tăng Bất Giảm thuyết giảng như vầy: “Như Lai tạng vào thời gian vị lai luôn bình đẳng cùng với pháp hiện hữu. Đây là phần căn bản của tất cả các pháp, gồm đủ hết thảy pháp, hoàn bị hết thảy pháp, ở trong pháp thế gian không lìa, không thoát”. Văn của đoạn Kinh này nêu bày về nghĩa gì? Đó là hiện bày chỉ rõ về Thể của nhiều tâm, một tâm, bình đẳng đối với pháp giới hiện khắp cả ba đời, hoàn toàn có đủ các pháp nhiễm tịnh, không nơi nào là không thông suốt, không chốn nào là không đến được.

Lại nữa, vì hiện rõ về tâm thanh tịnh của tự tánh trong môn tùy duyên, ở nơi pháp nhiễm đã bị che giấu ẩn mất, nên Pháp thân Như Lai chưa xuất hiện. Đó gọi là mười loại Như Lai tạng. Như vậy, trong mười loại Như Lai tạng ấy, thì Như Lai tạng hiện nay là thuộc về Như Lai tạng cùng hành cùng tướng.

Đã nói về môn Như Lai tạng. Tiếp theo là nói về môn thức A-lê-da. Đó tức là bất sinh bất diệt cùng với sinh diệt hòa hợp, chẳng phải một, chẳng phải khác, gọi là thức A-lê-da, là lược bỏ tên gọi phân biệt, kiến lập tên gọi đầy đủ, tuy nghĩa đã gồm đủ nhưng ngôn từ chưa đủ. Trong đây đã nói về bất sinh, bất diệt cùng với sinh diệt, thì mỗi loại đều có những pháp nào và phần hạn thích hợp?

* Tụng nêu:

Thâu chung các vô vi

Gọi là không sinh diệt

Thâu chung các hữu vi

Nên gọi là sinh diệt.

* Luận giải thích: Gồm thâu chung tất cả pháp vô vi, vì vậy gọi là bất sinh bất diệt, là tổng tướng của các pháp vô vi bất sinh bất diệt. Gồm thâu chung tất cả pháp hữu vi, nên gọi là sinh diệt. Tức nói sinh diệt là tổng tướng của các pháp hữu vi. Hai pháp hữu vi và vô vi như thế, mỗi loại có số lượng bao nhiêu, tên gọi như thế nào?

* Tụng nêu:

Vô vi tuy vô lượng

Lược nói có bốn loại

 Là Chân như, Bản giác

Thủy giác cùng Hư không.

Hữu vi tuy vô lượng

Lược nói có năm thứ

Là vô minh căn bản

Cùng phẩm của bốn tướng.

* Luận giải thích: Pháp vô vi có bốn loại. Những gì là bốn? Đó là: (1) Vô vi của Chân như. (2) Vô vi của Bản giác. (3) Vô vi của Thủy giác. (4) Vô vi của Hư không. Đấy gọi là bốn loại.

Pháp hữu vi có năm loại. Những gì là năm? Đó là: (1) Hữu vi của vô minh căn bản. (2) Hữu vi của tướng sinh. (3) Hữu vi của tướng trụ. (4) Hữu vi của tướng dị. (5) Hữu vi của tướng diệt. Đấy gọi là năm loại.

Lại, bốn loại pháp vô vi dùng gì làm Thể, có những dụng như thế nào?

* Tụng nêu:

Dựa đều có hai loại

Đó là chung và riêng

Như Thể, Dụng cũng vậy

Theo giải thích nên xét.

* Luận giải thích: Vô vi của Chân như có hai đối tượng nương dựa. Những gì là hai? Đó là: (1) Đối tượng nương dựa chung: Là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm, lấy đó làm Thể. (2) Đối tượng nương dựa riêng: Là pháp của lý tịch tĩnh trong môn sinh diệt, lấy đó làm Thể.

Vô vi của Bản giác có hai đối tượng nương dựa. Những gì là hai? Đó là: (1) Đối tượng nương dựa chung: Là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm, lấy đó làm Thể. (2) Đối tượng nương dựa riêng: Là bản trí tự nhiên trong môn sinh diệt, lấy đó làm Thể.

Vô vi của Thủy giác có hai đối tượng nương dựa. Những gì là hai? Đó là: (1) Đối tượng nương dựa chung: Tức chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm, lấy đó làm Thể. (2) Đối tượng nương dựa riêng: Tức là trì tùy theo kẻ khác khởi trong môn sinh diệt, lấy đó làm Thể.

Vô vi của Hư không có hai đối tượng nương dựa. Những gì là hai? Đó là: (1) Đối tượng nương dựa chung: Tức là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm, lấy đó làm Thể. (2) Đối tượng nương dựa riêng: Tức là sự không hiện có trong môn sinh diệt và lấy đó làm Thể.

Đấy gọi là hai loại đối tượng nương dựa.

Lại nữa, vô vi của Chân như có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là khiến cho tất cả các pháp được sinh ra. (2) Dụng riêng. Là khiến cho tánh bình đẳng không mất.

Vô vi của Bản giác có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là không giữ lấy tự tánh. (2) Dụng riêng. Là không chuyển biến.

Vô vi của Thủy giác có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là tùy theo vọng chuyển. (2) Dụng riêng. Là đối trị sai lầm của tự mình.

Vô vi của Hư không có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là muốn có tức khiến có. (2) Dụng riêng. Là tánh không vô khiến không mất.

Đấy gọi là hai dụng. Trong đây đã nói về chung, là nghĩa từ kẻ khác và riêng là nghĩa của tự thân. Dựa vào hai lời nêu này nên quán xét rộng có vô số loại biệt tướng, đến xứ văn tự sẽ nói rõ.

Năm loại hữu vi dùng gì làm Thể, có những dụng như thế nào?

* Tụng nêu:

Dựa đều có hai loại

Đó là chung và riêng

Như Thể, Dụng cũng vậy

Theo giải thích nên xét.

* Luận giải thích: Hữu vi của vô minh căn bản có hai loại nương dựa. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dựa chung. Tức chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm lấy đó làm Thể. (2) Dựa riêng. Là địa của trụ đại lực trong môn sinh diệt và lấy đó làm Thể.

Hữu vi của tướng sinh có hai loại nương dựa. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dựa chung. Tức chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm và lấy đó làm thể. (2) Dựa riêng. Là pháp nhiễm của phần vi tế trong môn sinh diệt và lấy đó làm Thể.

Hữu vi của tướng trụ có hai loại nương dựa. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dựa chung. Nghĩa là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm và lấy đó làm Thể. (2) Dựa riêng. Là pháp nhiễm của phần thô trong môn sinh diệt và lấy đó làm thể.

Hữu vi của tướng dị có hai loại nương dựa. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dựa chung. Tức là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm và lấy đó làm Thể. (2) Dựa riêng. Tức pháp nhiễm thuộc phần thô trong môn sinh diệt và lấy đó làm Thể.

Hữu vi của tướng diệt có hai loại nương dựa. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dựa chung. Nghĩa là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp căn bản của một tâm và lấy đó làm Thể. (2) Dựa riêng. Là pháp nhiễm thuộc phần thô trong môn sinh diệt và lấy đó làm Thể.

Đấy gọi là hai loại nương dựa.

Lại nữa, hữu vi của vô minh căn bản có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là có thể sinh khởi tất cả các pháp nhiễm. (2) Dụng riêng. Là tùy những nơi chốn đạt đến, tạo ra các sự việc chướng ngại.

Hữu vi của tướng sinh có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là đối với hạng thượng, hạ, trung đều trao cho lực dụng kia. (2) Dụng riêng. Là tùy theo những nơi chốn đi đến đều tạo ra các sự việc chướng ngại.

Như nói về tướng sinh thì tướng trụ và tướng dị cũng như vậy.

Hữu vi của tướng diệt có hai loại dụng. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Dụng chung. Là đối với phần trên và tự thân đều trao cho lực dụng kia. (2) Dụng riêng. Là có khả năng tạo ra các sự chướng ngại. Đấy gọi là hai loại dụng. Vô số các loại biệt tướng đến nơi xứ văn tự sẽ nêu rõ.

Do nơi nghĩa nào mà thuyết giảng như vậy? Vì tất cả các pháp hữu vi, vô vi đều dùng chung một tâm để làm Thể của mình. Ở trong Khế kinh đều nêu giảng như vậy. Là những Khế kinh nào? Đó là Kinh Đạo Trí. Thuyết giảng như thế nào? Ở trong Kinh ấy nêu: Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở trước Đức Phật thưa: Thế Tôn! Thức A-lê-da vốn có đủ tất cả pháp, gồm đủ tất cả pháp, vô lượng vô biên số vượt quá Hằng hà sa. Các pháp như vậy lấy gì làm căn bản và sinh khởi ở nơi xứ nào? Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi, vô vi như vậy, xứ sinh là thù thắng không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì ở nơi xứ chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi, là pháp hữu vi, là pháp vô vi, nhưng có thể phát sinh. Bồ-tát Vănthù-sư-lợi lại thưa với Đức Phật: Thế Tôn! Vì sao gọi là xứ chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi? Đức Phật nói: Xứ chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi, đó tức là pháp căn bản của một tâm, vì chẳng phải là hữu vi nên có thể tạo ra hữu vi. Do chẳng phải là vô vi nên có thể tạo ra vô vi. Vì vậy Ta nói xứ sinh là thù thắng không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như con thứ có hai nơi nương dựa: Một là nhà vua. Hai là cha mẹ. Tất cả các pháp hữu vi, vô vi cũng lại như vậy, đều có hai nơi nương dựa, đó là nương dựa của thông đạt và nương dựa của chi phần.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như tất cả các loại cỏ cây có hai nơi nương dựa: Một là đại địa. Hai là hạt giống. Tất cả các pháp hữu vi, vô vi cũng lại như vậy, đều có hai nơi nương dựa, đó là nương dựa của thông đạt và nương dựa của chi phần. Cho đến nói rộng.

Cùng hòa hợp tức là phân bày chỉ rõ về chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập có sai biệt. Phân bày chỉ rõ như thế nào? Đó là hiển thị các pháp nhiễm tịnh, có lực, không lực, cùng có hơn kém. Nay nên tạo ra hai môn để nêu giảng phân minh. Những gì là hai môn? Đó là: (1) Môn hạ chuyển. (2) Môn thượng chuyển. Trong môn sinh diệt không ra ngoài hai môn này. Hai môn như vậy có sai biệt như thế nào?

* Tụng nêu:

Các pháp nhiễm có lực

Các pháp tịnh không lực

Bỏ gốc, hạ hạ chuyển

Gọi là môn hạ chuyển.

Các pháp tịnh có lực

Các pháp nhiễm không lực

Hướng gốc, trên trên chuyển

Gọi là môn thượng chuyển.

* Luận giải thích: Do các pháp nhiễm tịnh đều cùng có hơn kém, nên hai loại môn chuyển được thành lập. Nay trước nên nói về môn thứ nhất là môn hạ chuyển. Vô minh căn bản lấy những pháp nào để làm đối tượng huân tập? Ở trong thời gian nào để tạo sự huân tập?

* Tụng nêu:

Đối tượng huân có năm

Là tâm một pháp giới

Cùng bốn loại vô vi

Không đầu chẳng giữa sau.

Chọn lấy đầu giữa sau

Như Khế kinh nói rõ.

* Luận giải thích: Vô minh căn bản dùng năm loại pháp để làm đối tượng huân tập. Đó là một pháp giới và bốn vô vi. Huân tập một pháp giới, tướng ấy như thế nào?

* Tụng nêu:

Tâm một loại pháp giới

Có hai thứ tự tại

Là hữu vi, vô vi

Vô minh căn bản này

Dựa vào tự tại đầu

Để tạo sự huân tập.

* Luận giải thích: Tâm của pháp giới có hai loại tự tại. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Hữu vi tự tại. Là có thể vì pháp hữu vi làm nơi chốn nương dựa. (2) Vô vi tự tại. Tức có thể vì pháp vô vi làm nơi chốn nương dựa. Vô minh căn bản dựa vào tự tại thứ nhất (Hữu vi tự tại) để có thể dấy tạo sự huân tập các pháp, không phải là tự tại thứ hai (Vô vi tự tại). Trong Khế kinh Trung Thật nói như vầy: “Vô minh căn bản huân tập nơi chỗ nương dựa của chính nó, với lượng có phần hạn, không phải là nơi chốn nương dựa khác”. Huân tập pháp Chân như, tướng ấy như thế nào?

* Tụng nêu:

Pháp vô vi chân như

Có hai loại tác dụng

Đó là chung và riêng

Như trước nói quyết trạch.

Vô minh căn bản này

Dựa tác dụng thứ nhất

Để tạo sự huân tập

Vô vi khác cũng vậy.

* Luận giải thích: Vô vi của chân như có hai loại dụng, đó là chung và riêng, như trước đã nói. Vô minh căn bản dựa vào tác dụng thứ nhất, có thể tạo ra sự huân tập các pháp, không phải là tác dụng thứ hai. Như nói về vô vi của chân như, thì ba vô vi còn lại cũng lại như vậy, đều dựa vào tác dụng thứ nhất không phải là tác dụng thứ hai. Vô minh căn bản tạo ra sự huân tập các pháp, về thời lượng chẳng phải là đầu cũng chẳng phải là giữa, sau, vì nhận lấy cả đầu, giữa, sau. Trong Khế kinh Bản Trí nêu rõ như vầy: “Đại lực vô minh vào lúc tạo ra sự huân tập các pháp, thì đầu và giữa, sau đều cùng một lúc nhận lấy đủ, không phải là nhận lấy riêng biệt”.

Ở đây đã nói về chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập, do nghĩa gì nên gọi là huân tập? Nghĩa là có thể dẫn dắt pháp kia để hợp với tự thể không cùng lìa bỏ, đều cùng hành, cùng chuyển, nên gọi là chủ thể huân tập. Lại có thể khiến cho pháp kia không tạo chướng ngại, hoặc tùy hoặc thuận không trái ngược, vì thế gọi là đối tượng được huân tập, tức là năm loại hữu vi.

Chủ thể huân tập là bốn loại pháp vô vi và tâm của một pháp giới. Đối tượng được huân tập là năm pháp tùy thuận xuất hiện, nhưng cùng với năm thứ chủ thể huân tập cùng hội hợp hòa hợp đồng sự và cùng chuyển. Vì vậy nói là bất sinh bất diệt cùng với sinh diệt hòa hợp. Như đại lực vô minh và pháp căn bản của một tâm là nương dựa chung, tức dựa vào hữu vi tự tại để tạo sự huân tập, thì hữu vi của bốn tướng nên biết như vậy. Như đại lực vô minh dựa vào tác dụng thông đạt của bốn loại vô vi, tức có thể tạo ra sự huân tập, thì bốn tướng hữu vi nên biết cũng như vậy. Những nghĩa như thế đến phần tự quyết định chọn lựa thì lý ấy tức phân minh.

Chẳng phải một, chẳng phải khác: Tức là mở bày chỉ rõ về chỗ đồng dị của pháp hữu vi và vô vi có sai biệt. Mở bày chỉ rõ như thế nào? Đó là nhằm hiển thị tâm của một pháp giới là vô vi tự tại. Bốn loại vô vi với sự tác dụng riêng, cùng với tâm của một pháp giới là hữu vi tự tại. Bốn loại vô vi với tác dụng thông đạt, về lý là không đồng, nên gọi là chẳng phải một. Vì nhằm hiển thị về pháp nhiễm thọ nhận chủ thể huân tập và tâm của một pháp giới là hữu vi tự tại. Bốn loại vô vi với tác dụng thông đạt, cùng với năm loại hữu vi của chủ thể tạo ra sự huân tập, về lý là không khác, vì thế gọi là chẳng phải khác. Lại nữa, pháp tịnh của đối tượng được huân tập cùng với pháp nhiễm của chủ thể huân tập, thảy đều sai biệt, nên gọi là chẳng phải một. Chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập là cùng một tâm tạo ra, không có thứ khác, nên gọi là chẳng phải khác. Gọi là thức A-lê-da, là tổng kết về phần tự viên mãn.

Đã nói về môn hạ chuyển. Tiếp đến là nói về môn thượng chuyển. Nếu muốn thành lập môn thượng chuyển này, lại nên căn cứ theo ngôn từ gốc của kinh. Đó là trong Khế kinh Lăng Già Vương giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với đại chúng: Các Phật tử! Ta nhớ về thời xưa kia, trong lúc đi ra, Ta đến nương nhờ nơi người khác. Trong lúc đi vào thì người khác đến nương nhờ nơi Ta”. Văn của đoạn kinh này nêu rõ về nghĩa gì? Đó là hiển bày rõ về hai chuyển. Hiển bày rõ như thế nào? Nghĩa là trong lúc đi ra, Ta đến nương nhờ nơi người khác, tức là hạ chuyển. Trong lúc đi vào, người khác đến nương nhờ nơi Ta, tức là thượng chuyển. Nghĩa này là thế nào? Ta có nghĩa là Phật, là Chân như, Bản giác, Như Lai tạng. Đến là nghĩa thọ nhận huân tập. Nương nhờ nơi người khác là từ bỏ Bản giác của mình để dựa vào vô minh của kẻ khác. Căn cứ vào văn của đoạn kinh này để đưa ra giải thích như vậy. Thế nên nói là bất sinh bất diệt cùng với sinh diệt hòa hợp, tức là môn hạ chuyển. Nếu muốn thành lập môn thượng chuyển, thì có thể nói sinh diệt cùng với bất sinh bất diệt hòa hợp. Vì nghĩa này nên trong Luận Huyền Lý vẫn giữ lại lời nói ấy. Bồ-tát Mã Minh, vốn theo A-thế-da, so với nghĩa tiếp theo thì thứ lớp phân minh hiện rõ. Đưa ra một gồm đủ một để cùng được chỉ rõ. Vì vậy không có sai lầm thiếu sót. Nghĩa của môn thượng chuyển đối với phần đối trị, lý ấy tự sáng tỏ.

Đã nói về môn thượng chuyển. Tiếp theo là nói về môn gồm thâu trọn khắp để an lập. Các thức sai biệt số lượng ấy có bao nhiêu? Trong những Khế kinh nào đều giảng nói có bao nhiêu loại thức?

* Tụng nêu:

Mâu Ni Đại Giác Tôn

Trong một đời Thánh thuyết

Hợp chung có mười loại

Khế kinh đều nói khác.

Tức một loại là đầu

Mười loại là sau cùng

Các Khế kinh quy bản

Đều thuyết giảng phân minh.

* Luận giải thích: Tập hợp trong một đời các Thánh thuyết giảng, Khế kinh nói khác nhau, gồm có mười loại. Nghĩa là từ một loại thức cho đến mười loại thức. Những gì là mười loại thức theo kinh nêu bày sai biệt? Đó là:

(1) Thiết lập một loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Trong đây có bốn loại. Những gì là bốn?

Một là thiết lập tất cả thức của một tâm thâu tóm chung các thức. Đó là dùng thức của một tâm hiện hữu khắp nơi hai thứ tự tại, không nơi nào là không an lập. Trong Khế kinh Nhất Tâm Pháp Giới thuyết giảng như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vâng theo lực uy thần của Đức Phật, tức thì thưa Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Ngài đã thuyết giảng có bao nhiêu loại thức, thể tướng của chúng như thế nào? Xin hãy vì con phân biệt khai thị. Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Lành thay! Lành thay! Này Vănthù-sư-lợi! Ông đã vì các đại chúng nên thưa hỏi về sự việc này. Hãy lắng nghe kỹ và khéo suy nghĩ ghi nhớ, Ta sẽ vì ông phân biệt giảng nói. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: Lành thay Đức Thế Tôn! Con xin vui thích được nghe! Đức Phật nói với Văn-thù-sư-lợi: Ta chỉ kiến lập một loại thức, những thức khác chẳng phải kiến lập. Vì sao như thế? Vì một loại thức ấy gồm nhiều các loại thức, thức này có vô số các loại lực, có thể tạo nên tất cả các loại tên gọi, nhưng chỉ một thức, hoàn toàn không có pháp khác. Vì vậy Ta nói chỉ kiến lập một loại thức, những thức còn lại không phải kiến lập.

Hai là thiết lập thức A-lê-da gồm thâu toàn bộ các thức. Đó là dùng thức A-lê-da có đầy đủ nghĩa chướng ngại và không chướng ngại, không nơi chốn nào là không gồm thâu. Trong Khế kinh A Lê Da Thức nêu bày như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Quán Tự Tại liền bạch Phật: Thưa Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là thức của tổng tướng thông đạt? Do nghĩa gì nên gọi là Tổng tướng? Đức Phật nói với Bồ-tát Quán Tự Tại: Nơi thức của tổng tướng thông đạt tức là thức A-lê-da. Thức này có sự ngăn ngại và sự không ngăn ngại, gồm đủ tất cả các pháp hoàn bị và tất cả pháp các pháp không hoàn bị. Ví như biển cả vì nước, sóng v.v…, nên đã tạo ra danh xưng Tổng tướng. Vì nghĩa này nên gọi là Tổng tướng”.

Ba là thiết lập thức Mạt-na gồm thâu toàn bộ các thức. Đó là vì thức Mạt-na gồm đủ mười một loại nghĩa, không có thứ gì là không gồm thâu. Trong Khế kinh Hiển Liễu nêu rõ như vầy: “Các loại tâm thức tuy có vô lượng, nhưng chỉ do thức Mạt-na chuyển biến không có pháp khác. Vì sao? Vì thức Mạt-na này gồm đủ mười một nghĩa, không có thứ gì là không tạo tác”.

Bốn là thiết lập một ý thức gồm thâu chung các thức. Đó là vì ý thức có bảy thứ chuyển biến tự tại, theo đấy có thể tạo nên sự việc kia. Trong Khế kinh Thất Hóa nói như vầy: “Ví như Huyễn sự chỉ là một người, dùng sức của huyễn thuật biến hóa ra bảy người. Người ngu thấy như thế cho là có bảy người, nhưng người trí thì thấy chỉ có một người chứ không có bảy người khác. Huyễn sự của ý thức cũng lại như vậy, chỉ là một thức nhưng có thể tạo ra bảy sự, hàng phàm phu thấy như thế cho là có bảy sự, nhưng người giác ngộ thì thấy chỉ có ý thức, không có bảy sự khác”.

Đấy gọi là bốn thứ Khế kinh kiến lập đồng một loại thức.

1. Thiết lập hai loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là hai loại? Một là thức A-lê-da. Hai là ý thức. Thức A-lê-da: Là nêu chung về ba thức: Nghiệp, chuyển và hiện. Ý thức: Là nêu chung về bảy loại thức chuyển. Trong Khế kinh Lăng Già nêu bày như vầy: “Này Đại Tuệ! Nói rộng có tám loại thức. Nói lược thì có hai loại thức. Những gì là hai loại? Một là thức liễu biệt. Hai là thức phân biệt sự”. Cho đến nói rộng.

2. Thiết lập ba loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là ba loại? Một là thức A-lê-da. Hai là thức Mạt-na. Ba là ý thức. Thức A-lê-da là nêu chung về ba tướng thức. Thức Mạt-na là chỉ thẳng về ý căn. Ý thức là nêu chung về sáu loại chuyển thức. Trong Khế kinh Từ Vân nói như vầy: “Lại nữa, này Kính Thủ! Nói rộng có mười loại thức. Nói lược thì có ba loại thức. Những gì là ba loại? Một là thức tế tướng tánh. Hai là thức căn tướng tánh. Ba là thức phân ly tướng tánh”. Cho đến nói rộng.

3. Thiết lập bốn loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là bốn loại? Đó là trong ba loại trước thêm vào một tâm thức. Trong Khế kinh Vô Tướng nói rõ như vầy: “Pháp của thức tuy là vô lượng, nhưng không ra ngoài bốn loại thức. Những gì là bốn loại? Một là thức sở y bản nhất. Hai là thức năng y trì tạng. Ba là thức ý trì. Bốn là thức biến phân biệt”. Cho đến nói rộng.

4. Thiết lập năm loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là năm loại? Đó là trong bốn loại trước, thêm vào Thức tùy thuận biến chuyển. Trong Khế kinh Đại Vô Lượng thuyết giảng như vầy: “Lại nữa, có thức không phải do những thức kia gồm thâu nhưng hiện bày khắp nơi các thức ấy, đó là thức tùy thuận biến chuyển”.

5. Thiết lập sáu loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là sáu loại? Đó là năm thứ thức riêng biệt như nhãn v.v… và thức thứ sáu là ý thức. Trong Khế kinh Tứ Thánh Đế nói như vầy: “Đức Phật bảo Thọ Vương: Ta vì các chúng sinh căn cơ nhỏ, dùng ý hướng bí mật, khởi xướng như vầy: Chỉ có sáu thức, không có thức nào khác. Nhưng bản ý thật là muốn khiến nhận biết trong sáu loại thức là gồm đủ tất cả thức, nên ở trong đại chúng nói rõ như vậy”.

6. Thiết lập bảy loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là bảy loại? Đó là trong sáu loại trước thêm vào thức Mạt-na. Trong Khế kinh Pháp Môn nói rõ như vầy: “Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Pháp của thức có bảy loại. Những gì là bảy? Đó là sáu thức thân và thức Mạt-na. Bảy thức như vậy hoặc là cùng một thời chuyển, hoặc là theo trước sau chuyển. Lại nữa, thức thứ bảy có lực thù thắng. Hoặc có lúc tạo tác công dụng trì tạng. Hoặc có lúc tạo tác chỗ nương dựa phân biệt”.

7. Thiết lập tám loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là tám loại? Đó là trong bảy thức trước thêm vào thức A-lê-da. Trong Khế kinh Đạo Trí nói rõ như vầy: “Tâm vương có tám loại. Những gì là tám? Một là tâm vương của nhãn thức, cho đến tám là tâm vương của thức dị thục báo. Vô số các loại pháp của thức không ra ngoài số lượng này”.

8. Thiết lập chín loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là chín loại? Đó là trong tám loại trước thêm vào thức Am-mala. Trong Khế kinh Kim Cương Tam Muội nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Vô Trụ thưa Đức Phật: Thưa Tôn giả! Do lợi chuyển gì để chuyển tất cả tình thức của chúng sinh nhập nơi thức Am-ma-la? Đức Phật bảo: Chư Phật Như Lai thường dùng một thứ giác ngộ để chuyển các thức nhập nơi thức Am-ma-la”.

9. Thiết lập mười loại thức gồm thâu toàn bộ các thức. Những gì là mười loại? Đó là trong chín loại trước thêm vào thức Nhất thiết nhất tâm. Trong Khế kinh Pháp Môn nêu giảng như vầy: “Tâm lượng tuy là vô lượng nhưng không ra ngoài mười thức”. Cho đến nói rộng.

Đấy là mười loại thức, các Khế kinh đã giảng nói khác nhau. Mười loại như vậy ở trong Bảo San đã gồm đủ như thế nào, an lập như thế nào?

* Tụng nêu:

Nơi Bản luận tuy rõ

Nay lại giải thích nữa

Dùng văn tán Khế kinh

Nói chung thuộc Luận này.

* Luận giải thích: Ở trong Bản luận tuy đã nêu bày phân minh, nhưng nay vì hàng độn căn nên lại giải thích lần nữa, dùng văn của Khế kinh có liên quan đến ngôn thuyết của luận. Đó là trong Khế kinh Nhất Tâm Pháp Giới đã kiến lập chung về thức Nhất thiết nhất tâm. Luận Ma-ha-diễn gồm thâu một pháp giới, nghĩa như trước đã nói.

Trong Khế kinh Thức A Lê Da đã kiến lập chung về thức A-lê-da. Luận Ma-ha-diễn đã gồm thâu toàn bộ thức A-lê-da. Vì sao? Vì ở trong Bản luận đã nói như vầy: “Đó gọi là bất sinh bất diệt cùng với sinh diệt hòa hợp, chẳng phải một, chẳng phải khác, nên gọi là thức A-lê-da. Thức này có hai loại nghĩa, có thể gồm thâu tất cả pháp và phát sinh tất cả pháp. Những gì là hai loại? Một là nghĩa giác. Hai là nghĩa bất giác”.

Trong Khế kinh Hiển Liễu đã kiến lập chung thức Đại-mạtna. Luận Ma-ha-diễn đã gồm thâu toàn bộ thức Mạt-na. Vì sao? Vì ở trong luận đã nêu rõ như vầy: “Lại nữa, nhân duyên sinh diệt, nghĩa là chúng sinh dựa vào tâm, ý, ý thức chuyển. Nghĩa này là thế nào? Vì dựa nơi thức A-lê-da, nên nói có vô minh bất giác dấy khởi. Có thể thấy, có thể hiện, có thể nhận lấy cảnh giới, dấy khởi suy niệm tương tục, nên nói là ý. Ý này lại có năm thứ tên gọi. Những gì là năm tên gọi? (1) Gọi là thức nghiệp. Nghĩa là lực vô minh bất giác khiến tâm động. (2) Gọi là thức chuyển. Vì dựa nơi tâm động nên có thể thấy tướng. (3) Gọi là thức hiện. Đó là có thể hiện bày tất cả cảnh giới. Cũng như gương sáng hiện rõ các cảnh sắc hình tượng. Thức hiện cũng vậy, tùy theo năm trần hướng đến lập tức hiện rõ không có trước sau. Do nơi tất cả thời tự nhiên mà khởi lên luôn ở trước. (4) Gọi là thức trí. Nghĩa là phân biệt các pháp nhiễm tịnh. (5) Gọi là thức tương tục. Do niệm tương ưng không đoạn dứt”. Cho đến nói rộng.

Trong Khế kinh Thất Hóa đã kiến lập chung đồng một ý thức. Luận Ma-ha-diễn đã gồm thâu một phần ý thức, nói về tướng tuy thiếu nhưng mật ý thì đầy đủ. Ở trong Bản luận nêu rõ như vầy: “Lại nữa, nói ý thức tức là thức tương tục này. Dựa vào đấy các hàng phàm phu chấp giữ càng sâu, chấp về ngã và ngã sở, có vô số các thứ vọng chấp, tùy theo sự duyên dựa phân biệt về sáu trần, gọi là ý thức”. Cho đến nói rộng.

Tất cả các Kinh như vậy như vậy, tùy theo xứ thích hợp nên phối hợp tương xứng như thế.

Đã nói về môn gồm thâu đủ để an lập. Tiếp theo là nói về môn tạng thức phân tích theo tên chữ. Tên gọi của thức A-lê-da có sai biệt, số lượng ấy có bao nhiêu? Khế kinh thuyết giảng khác nhau, tướng ấy là thế nào? Những gì là nghĩa của chữ và thuộc về những xứ nào?

* Tụng nêu:

A-lê-da có mười

Khế kinh giảng nói khác

Ma Ha Kiện Đát Tiêu

Kiện A Thi Già La.

Bạch Bạch Am Ma La

Hắc Bạch Am Ma La

Yết La La Kiện Ma

Phược Đa Đề Kiện Ma.

Xa Ha Na Kiện Ma

Bà A Xoa Ni La Bạch

Bạch Ca Tát La Hắc

Bạch Ca Tát la.

Mười loại thức như vậy

Trong Luận Ma Ha Diễn

Nêu giảng phân minh rõ

Tùy thuận nên phối hợp.

* Luận giải thích: Thức A-lê-da gồm có mười loại. Vì sao? Vì ở trong Khế kinh đã thuyết giảng có riêng khác. Những gì là mười? Đó là: (1) Gọi là Thức A-lê-da Đại Nhiếp Chủ. Đó tức là thức tổng tướng đại, nghĩa như trước đã nói.

1. Gọi là Thức A-lê-da của căn bản vô minh. Đó gọi là vô minh căn bản được lập riêng, dùng làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Thập Chủng Vọng Tưởng thuyết giảng như vầy: “Thức Sát xa chỉ đa đề vương chính là pháp hư vọng, không thể thấu đạt Thể của một pháp giới. Thức A-lê-da của tất cả pháp nhiễm lấy đó làm căn bản, xuất sinh tăng trưởng, không lúc nào đoạn dứt. Nếu không có thức Đề vương thì quyến thuộc của phẩm đen vĩnh viễn không có nơi chốn nương dựa, không thể sinh trưởng”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nêu rõ như vầy: “Đó là nói về nghĩa bất giác. Tức là không nhận biết như thật về pháp Chân như duy nhất, tâm bất giác dấy khởi nên có suy niệm”. Cho đến nói rộng.

2. Gọi là Thức A-lê-da của bản giác thanh tịnh. Đó là trí căn bản tự nhiên được lập riêng, lấy đó làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Bản Giác nói như vầy: “Thức A-lê-da của tự thể tịnh Phật gồm đủ công đức vô lậu viên mãn, luôn thanh tịnh, luôn quyết định, không có tướng thọ nhận huân tập, không có tướng biến dị, Thể của trí bất động có đủ phẩm trắng. Vì vậy gọi là thức độc nhất tịnh”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nói như vầy: “Lại nữa, thể tướng của giác có bốn loại nghĩa đại, cùng bằng với hư không, giống như gương sáng”. Cho đến nói rộng.

3. Gọi là Thức A-lê-da của bản giác nhiễm tịnh. Đó là trí Đà-la-ni không giữ lấy tự tánh được lập riêng, lấy đó làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Bản Nhân Duyên Khởi nêu bày như vầy: “Bấy giờ, Đồng tử Quang Nghiêm liền thưa với Đức Phật: Tôn giả! Do nhân duyên gì khó vào trong hội chưa từng có mà nói nêu như vậy? Vì tùy theo duyên khác khởi lên trí Đà-la-ni, gọi là thức Lăng già vương. Thế nào gọi là Lăng già vương? Lấy đó làm dụ bày tỏ trí Đà-la-ni duyên khởi kia. Lúc này, Tôn giả nói với Đồng tử Quang Nghiêm: Lăng già vương này thường ở trong núi Ma-la giữa biển lớn, dẫn theo mười vạn sáu ngàn chúng quỷ thần để làm quyến thuộc. Các quyến thuộc như vậy đều nương nơi cung điện hóa hiện du hành qua các cõi nước, thảy đều nhờ vào Lăng già vương kia mới được đến nơi. Nghĩa là các chúng quỷ thần cùng nói như vầy: Chúng thần chúng tôi không có uy đức, không có khí lực, đối với những gì đã làm đều không có công năng. Nếu như thích hợp, mong Đại vương ban cho năng lực để trong đám chúng tôi hành trì được. Lăng già vương lập tức thuận theo, lúc đó ban cho lực thù thắng, không cùng lìa bỏ nhưng cùng chuyển biến. Tức Lăng già vương tuy không phân thân nhưng có thể hiện hữu khắp nơi trong các thần chúng, mỗi mỗi đều khiến đạt được lượng toàn thân nơi tất cả thời, nơi tất cả xứ, đều cùng chuyển biến không lìa. Trí không giữ lấy tự tánh cũng lại như vậy, có thể thọ nhận vô lượng vô biên phiền não của tất cả pháp nhiễm do chúng quỷ thần huân tập, không cùng lìa bỏ mà đều cùng chuyển. Do nhân duyên này, Ta mới nói như thế là khó vào trong hội, thuận theo giác trí chuyển gọi là thức Lăng già vương”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nói như vầy: “Tự tánh nơi tâm thanh tịnh, do gió vô minh nên động, tâm và vô minh đều cùng không hình tướng, không lìa bỏ nhau”. Cho đến nói rộng.

4. Gọi là Thức A-lê-da của nghiệp tướng nghiệp thức. Đó là tướng nghiệp cùng với thức nghiệp căn bản, được lập riêng để làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Bản Tánh Trí nêu giảng như vầy: “Thức A-lê-da không có chủ thể tạo tác phân biệt, không có đối tượng được tạo tác phân biệt, không thể phân tích và không thể làm cách biệt, chỉ do nơi nghĩa thuần động ẩn chuyển, nên gọi là Kiện-ma”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nói như vầy: “Lại nữa, dựa vào bất giác nên sinh ba loại tướng, cùng với bất giác kia tương ưng không lìa. Những gì là ba tướng? Một là tướng vô minh nghiệp. Do dựa vào bất giác, nên tâm động nói là nghiệp. Giác thì không động, động tức có khổ, vì quả không lìa nhân”.

5. Gọi là Thức A-lê-da của chuyển tướng chuyển thức. Đó là tướng có thể thấy rõ cảnh giới cùng với chuyển thức, được lập riêng để làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Đại Vô Lượng nói như vầy: “Thức A-lê-da có nhận thấy thì nhận thấy chuyển, không nhận thấy thì nhận thấy khởi”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nêu rõ như vầy: “Hai là tướng có thể thấy. Vì dựa nơi động nên có thể thấy, không động thì không thấy”.

6. Gọi là Thức A-lê-da của hiện tướng hiện thức. Đó là tướng của cảnh giới cùng với hiện thức, được lập riêng để làm thức A-lêda. Trong Khế kinh Thật Tế nêu bày như vầy: “Biệt dị và biệt dị nơi địa hiện tiền chuyển. Cùng khác và cùng khác thì gồm đủ hành chuyển. Vì vậy gọi là thức A-lê-da. Lại nữa, thức A-lê-da này thực sự là pháp dị thục vô ký, tướng tịnh bạch, nên hoặc gọi là thành thục”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nói như vầy: “Ba là tướng cảnh giới. Do dựa vào chủ thể nhận thấy, nên cảnh giới vọng hiện, tức lìa nhận thấy thì không có cảnh giới”.

7. Gọi là Thức A-lê-da của lý tánh chân như. Đó là chân như thanh tịnh do chánh trí đã chứng đắc, được lập riêng để làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Chư Pháp Đồng Thể nói như vầy: “Có thức là thức, không phải thức thuộc về thức, đó gọi là thức A-lê-da như như”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Tức là cảnh thật của Bát nhã thanh tịnh thuộc về chân như.

8. Gọi là Thức A-lê-da của thủy giác thanh tịnh. Đó là Bát nhã của thủy giác thanh bạch vốn có, được lập riêng để làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Quả Viên Mãn nêu bày như vầy: “Đức Phật nói với Thọ vương Bồ Đề: Thức A-lê-da của thủy giác tự nhiên, tức luôn không lìa bản giác thanh tịnh. Bản giác thanh tịnh tức luôn không lìa thức thanh tịnh của thủy giác. Tùy theo nơi này mà nơi kia có. Hoặc chẳng phải đồng loại, hoặc chẳng phải khác loại”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nêu rõ như vầy: “Nghĩa bản giác là đối với thủy giác mà nói. Do thủy giác tức đồng với bản giác”.

9. Gọi là Thức A-lê-da của thủy giác nhiễm tịnh. Đó là Bát nhã của thủy giác tùy duyên, được lập riêng để làm thức A-lê-da. Trong Khế kinh Quả Viên Mãn nói như vầy: “Lại nữa, này Thọ vương! Như thức tịnh của thủy giác và bản giác bạch tịnh, nói về thức A-lê-da của thủy giác nhiễm tịnh và bản giác không giữ tự tánh duyên khởi cũng lại như vậy”. Thức A-lê-da này nên thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bản luận nói như vầy: “Nghĩa thủy giác là dựa nơi bản giác mà có bất giác. Dựa nơi bất giác nên nói là có thủy giác. Lại do giác ngộ về gốc của tâm nên gọi là Cứu cánh giác. Không giác ngộ về gốc của tâm nên chẳng phải là Cứu cánh giác”. Cho đến nói rộng.

Những nghĩa như vậy đến phần Tự quyết trạch sẽ quảng diễn đầy đủ. Đồng thời, mười loại Mạt-na và sáu loại ý thức, ở trong phần văn sau theo thứ lớp sẽ giải thích. Nay chỉ lược nêu.

Đã nói về môn Tạng thức phân tích theo tên chữ. Tiếp đến là nói về môn Thức gồm thâu chung phát sinh. Thức này có hai loại nghĩa, có thể gồm thâu tất cả pháp, có thể phát sinh tất cả pháp. Những gì là hai nghĩa? Một là nghĩa giác. Hai là nghĩa bất giác. Nhưng là hiển bày chỉ rõ chung về tướng viên mãn thù thắng của bản thức. Nghĩa này là thế nào? Đó là gồm đủ hai thứ viên mãn. Những gì là hai thứ? Một là công đức viên mãn. Hai là lỗi lầm gồm đủ.

Công đức viên mãn: Là câu chữ của nghĩa giác, có thể gồm thâu tất cả các công đức là vô lượng vô biên, vượt quá Hằng sa số không lìa, không đoạn. Có thể phát sinh tất cả các công đức là vô lượng vô biên, vượt quá Hằng sa số, không lìa, không đoạn.

Lỗi lầm gồm đủ: Là câu chữ của nghĩa bất giác, có thể thâu tóm tất cả các lỗi lầm là vô lượng vô biên, vượt quá Hằng sa số hoặc lìa hoặc thoát. Có thể phát sinh tất cả các lỗi lầm là vô lượng vô biên vượt quá Hằng sa số, hoặc lìa hoặc thoát. Như vậy là vô số các loại tướng đã gồm thâu phát sinh huân tập có sai biệt, đến trong phần Biệt tướng quyết trạch sẽ hiển thị phân minh.

HẾT – QUYỂN 2

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10