LUẬN ĐẠI THỪA QUẢNG NGŨ UẨN
Bồ-tát An Huệ tạo luận
Trung Thiên Trúc Tam tạng Địa-bà-ha-la dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Phật nói 5 uẩn là sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Sao gọi là sắc uẩn? Là 4 đại chủng và các sắc do 4 đại chủng tạo nên. Sao gọi là 4 đại chủng? Là địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Đó là thế nào? Là địa tính cứng, thủy tính ướt, hỏa tính ấm, phong tính nhẹ. Giới, nghĩa là khả năng duy trì tính của sắc được tạo ra.

Sao gọi là các sắc do 4 đại chủng tạo ra? Là nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn, sắc, thanh, hương, vị, và một phần của xúc, vô biểu sắc. Tạo, là nghĩa của nhân. Căn, là nghĩa của tối thắng tự tại, nghĩa chủ, nghĩa tăng thượng. Đó là nghĩa của căn. Nói nghĩa chủ, là với ai là chủ? Nghĩa là nhãn căn thì với nhãn thức là chủ vì sinh ra nhãn thức. Như vậy cho đến thân căn, với thân thức là chủ vì sinh ra thân thức.

Sao gọi là nhãn căn? Là vì lấy sắc làm cảnh, tịnh sắc làm tính. Nghĩa là trong nhãn có một phần tịnh sắc như tịnh đề hồ. Vì có tính này nên nhãn thức được sinh, không thì không sinh.

Sao gọi là nhĩ căn? Là vì lấy thanh làm cảnh, tịnh sắc làm tính. Nghĩa là trong nhĩ có một phần tịnh sắc. Vì có tính này nên nhĩ thức được sinh, không thì không sinh.

Sao gọi là tỹ căn? Là vì lấy hương làm cảnh, tịnh sắc làm tính. Nghĩa là trong tỹ có một phần tịnh sắc. Vì có tính này nên tỹ thức được sinh, không thì không sinh.

Sao gọi là thiệt căn? Là vì lấy vị làm cảnh, tịnh sắc làm tính. Nghĩa là trên thiệt châu biến tịnh sắc. Có thuyết nói có một ít không châu biến, như đầu một sợi lông. Vì có tính này nên thiệt thức được sinh, không thì không sinh.

Sao gọi là thân căn? Là vì lấy xúc làm cảnh, tịnh sắc làm tính. Nghĩa là trong thân châu biến tịnh sắc. Vì có tính này nên thân thức được sinh, không thì không sinh.

Sao gọi là sắc? Nghĩa là cảnh của nhãn như hiển sắc, hình sắc và biểu sắc v.v… Hiển sắc có 4 thứ, là xanh vàng đỏ trắng. Hình sắc là dài ngắn v.v…

Sao gọi là thanh? Nghĩa là cảnh của nhĩ như chấp thụ đại chủng nhân thanh, phi chấp thụ đại chủng nhân thanh, và cả hai đại chủng nhân thanh.

Nghĩa là tâm tâm pháp là năng chấp thụ. Các loài xuẩn động là sở chấp thụ. Chấp thụ đại chủng nhân thanh, là như tiếng do tay đánh vào nhau, tiếng do nói. Phi chấp thụ đại chủng nhân thanh, là các thứ tiếng như tiếng gió rừng, nước chảy. Tiếng do đều cả 2 đại chủng như tiếng trống do tay đánh.

Sao gọi là hương? Nghĩa là cảnh của tỹ như mùi thơm, mùi hôi, mùi bình thường. Mùi thơm, là khi hợp với mũi liên tục trong uẩn có thuận ích. Mùi hôi, là khi hợp với mũi liên tục trong uẩn có nghịch tổn. Mùi bình thường, là khi hợp với mũi chẳng tổn cũng chẳng ích.

Sao gọi là vị? Nghĩa là cảnh của thiệt như vị ngọt, vị chua, vị mặn, vị cay, vị đắng, vị nhạt v.v…

Sao gọi là một phần của xúc? Nghĩa là cảnh của thân trừ đại chủng. Nghĩa là tính trơn láng, tính thô ráp, tính năng, tính nhẹ, lạnh, đói, khát v.v…

Trơn láng là mịn nhuyễn, ráp là thô cứng, nặng là có thể cân, nhẹ là ngược lại, muốn ấm là lạnh, xúc thì lạnh là nhân. Đây tức là nơi nhân mà lập quả mà nói. Như cách nói chư Phật xuất thế vui, diễn nói chính pháp vui, chúng tăng hòa họp vui, đồng tu tinh tiến vui. Tinh tiến cần khổ, tuy nhiên đó là nhân của vui, nên nói là vui. Đây cũng vậy. Muốn ăn là vì đói, muốn uống là vì khát. Cách nói ở đây cũng vậy. Đã nói 7 thứ tạo xúc, và 11 thứ của 4 đại trước.

Sao gọi là vô biểu sắc v.v…? Nghĩa là có biểu nghiệp và Tamma-địa sinh các sắc vô kiến vô đối v.v… Hữu biểu nghiệp, nghĩa là thân ngữ biểu. Đây thông cả tính thiện bất thiện vô ký. Sắc được sinh ra, là các sác được sinh từ thiện biểu, bất thiện biểu kia. Đây không thể hiển thị, gọi là vô biểu. Sắc sinh từ Tam-ma-địa, là các sắc do 4 tĩnh lự sinh. Vô biểu sắc này là tính được tạo ra, gọi là thiện luật nghi, bất thiện luật nghi v.v… cũng gọi là nghiệp, cũng gọi chủng tử. Như vậy các sắc sơ lược là 3 thứ: 1. Có thể thấy, có đối. 2. Không thể thấy, có đối. 3. Không thể thấy, không đối. Trong đây có thể thấy, có đối, là hiển sắc v.v… Không thể thấy, có đối, là nhãn căn v.v… Không thể thấy, không đối, là vô biểu sắc v.v…

Sao gọi là thụ uẩn? Thụ có 3 thứ là lạc thụ, khổ thụ, bất khổ bất lạc thụ. Lạc thụ là khi cái này diệt có cái dục hòa hợp. Khổ thụ là khi cái này sinh có cái dục trái lìa. Bất khổ bất lạc thụ là không có 2 dục. Không có 2 dục, là không có hòa hợp và nghịch trái. Thụ là sự lãnh nạp của thức.

Sao gọi là tưởng uẩn? Là có khả năng tăng thắng thủ các cảnh tướng. Tăng thắng thủ, là sức mạnh có khả năng thủ, như đại lực nên gọi thắng lực.,

Sao gọi là hành uẩn? Là trừ thụ và tưởng, các tâm pháp và tâm bất tương ưng hành. Thế nào là các tâm pháp khác? Là các hành tương ưng với tâm: xúc, tác ý, tư, dục, thắng giải, niệm, Tam-ma-địa, tuệ, tín, tàm, quý, không tham, không sân, không si, tinh tiến, nhẹ nhàng, không phóng túng, xả, không hại, tham, sân, mạn, vô minh, kiến, nghi, vô tàm, vô quý, hôn trầm, trạo cử, không tin, lười nhác, mất niệm, tán loạn, không hiểu đúng, ác tác, thùy miên, tầm, tứ. Đó là các tâm pháp gồm 5 biến hành. Đây biến khắp tất cả tâm thiện, bất thiện, vô ký, nên gọi là biến hành. Năm là biệt cảnh, 5 cái này đều mỗi mỗi là cảnh sai biệt lần lượt quyết định, tính không lìa nhau, trong đây có một là có tất cả. Mứời một là thiện, 6 là phiền não, ngoài ra là tùy phiền não, 4 là bất định vì chẳng phải chính tùy phiền não bởi tính nó thông cả thiện và vô ký. Xúc v.v…thể tính và nghiệp cần phải giải thích.

Sao gọi là xúc? Là 3 hòa hợp phân biệt làm tính. Ba hòa, là nhãn, sắc, thức. Như vậy các hòa hợp này tâm tâm pháp sinh, nên gọi là xúc, cùng với thụ sở y làm nghiệp.

Sao gọi là tác ý? Là có thể khiến tâm phát ngộ làm tính, khiến tâm tâm pháp hiện tiền cảnh cáo báo động. Đó là nghĩa của ức niệm, tâm gìn giữ phân duyên làm nghiệp.

Sao gọi là tư? Là đối với công đức cũng như lỗi lầm, và trái với cả 2, khiến tâm tạo tác ý nghiệp làm tính. Tính này nếu có thức phan duyên thì dụng liền hiện tiền. Giống như đá nam châm dẫn sắt khiến động. Có khả năng suy thiện bất thiện vô ký tâm làm nghiệp.

Sao gọi là dục? Là đối với việc thích muốn thì mong mỏi làm tính. Việc thích muốn, nghĩa là những việc thấy nghe thì thích. Đó là nghĩa của mong cầu, có thể cùng với tinh tiến sở y làm nghiệp.

Sao gọi là thắng giải? Là đối với việc quyết định, chấp nhận như đã hiểu rõ làm tính. Cảnh quyết định, là 5 uẩn v.v… Như Thế Thân nói: Sắc như bọt nước tụ, thụ như bong bóng nước, tưởng như sóng nắng, hành như cây chuối, thức như cảnh ảo. Như vậy quyết định hoặc như các pháp sở trụ tự tướng, nghĩa là tức như vậy mà sinh quyết định. Nói quyết định tức là nghĩa ấn trì, ngoài ra không dẫn chuyển là nghiệp, vì đây tăng thắng, những gì khác không thể dẫn.

Sao gọi là niệm? Là trong việc thường quen tập tâm không quên mất, ghi nhớ rõ ràng làm tính. Việc quen tập, là việc đã từng tập làm, với không tán loạn sở y làm nghiệp.

Sao gọi là Tam-ma-địa? Là đối với việc sở quán, tâm trụ vào một cảnh tính. Việc sở quán, là 5 uẩn v.v…và vô thường, khổ, không, vô ngã v.v… Tâm một cảnh, là nghĩa chuyên chú, với trí sở y làm nghiệp. Do tâm định nên hiểu biết như thật.

Sao gọi là tuệ? Là đối với nơi kia trạch pháp làm tính, hoặc dẫn như lý, hoặc dẫn không như lý, hoặc dẫn không phải cả 2. Đối với nơi kia, là việc sở quán. Trạch pháp, là đối các pháp tự tướng cộng tướng do tuệ lựa chọn nên được quyết định. Dẫn như lý, là các đệ tử Phật. Dẫn không như lý, là các ngoại đạo. Dẫn không phải cả 2, là các chúng sinh khác. Đoạn nghi là nghiệp, tuệ có khả năng lựa chọn, trong các pháp được quyết định.

Sao gọi là tin? Là trong nghiệp, trong quả, trong các đế lý, hết sức phù hợp, tâm tịnh làm tính. Đối với nghiệp, là phúc nghiệp, phi phúc nghiệp, bất động nghiệp. Đối với quả, là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đối với đế, là khổ, tâp, diệt, đạo. Đối với bảo, là Phật pháp tăng bảo. Như vậy trong nghiệp, quả v.v… hết sức thuận hợp, cũng gọi là thanh tịnh và nghĩa mong cầu, với dục sở y làm nghiệp.

Sao gọi là tàm? Là tự tăng thượng và pháp tăng thượng, đối với chỗ tạo tội, hổ thẹn làm tính. Tội, là tội lỗi. Người trí chán ghét quá hoạn. Hổ thẹn, là không làm các tội, phòng dứt ác hành sở y làm nghiệp.

Sao gọi là quý? Là tha tăng thượng, đối với chỗ tạo tội hổ thẹn làm tính. Tha tăng thượng là sợ trách phạt và chê bai v.v… Có tội lỗi xấu hổ với người khác, nghiệp giống như nói ở tàm.

Sao gọi là không tham? Là đối trị lại tham, khiến rất chán không đắm trước làm tính. Nghĩa là đối với các hữu, và hữu tư cụ đắm trước là tham, đối trị lại đó là không tham. Đây tức là nói không nhiễm trước đối với các hữu và hữu tư cụ. Biết tất cả các tội lỗi sinh tử nên nói là chán sợ, sở y không khởi các ác hành làm nghiệp.

Sao gọi là không sân? Là đối trị lại sân, lấy tâm từ làm tính. Nghĩa là đối với chúng sinh không làm tổn hại, nghiệp như nói ở không tham.

Sao gọi là không si? Là đối trị lại si, lấy chính hạnh như thật làm tính. Như thật, nghĩa là nói lược là 4 thánh đế, rộng là 12 duyên khởi. Gia hành chúng là nghĩa của chính tri, nghiệp như nói ở không tham.

Sao gọi là tinh tiến? Là đối trị giải đãi.Thiện phẩm hiện tiền, siêng năng dũng cảm làm tính. Nghĩa là như mặc áo giáp, như gia hành, như không khiếp nhược, như không thoái chuyển, như không mừng đủ, viên mãn thành tựu các nghĩa như vậy. Thiện tính làm nghiệp.

Sao gọi là nhẹ nhàng? Là đối trị thô nặng, thân tâm điều hòa thoải mái làm tính. Nghĩa là có thể xả bỏ 10 hạnh bất thiện. Trừ chướng làm nghiệp. Do sức đây nên trừ tất cả chướng, chuyển bỏ thô nặng.

Sao gọi là không phóng túng? Là đối trị phóng túng, y chỉ không tham cho đến tinh tiến, bỏ các bất thiện, tu các thiện pháp đối trị đó. Nghĩa là tham, sân, si với biếng nhác là phóng túng, đối trị đó là không phóng túng. Nghĩa là y vào không tham, không sân, không si, tinh tiến 4 pháp, đối trị bất thiện, tu tạp thiện pháp. Thế xuất thế gian chính hành sở y làm nghiệp.

Sao gọi là xả? Là y như vậy không tham không sân cho đến tinh tiến, được các tâm bình đẳng tính, tâm không công dụng tính. Lại nữa do đây lìa các pháp tạp nhiễm, an trụ pháp thanh tịnh. Nghĩa là y vào không tham, không sân, không si tinh tiến tính, nên hoặc khi xa lìa các tội lỗi hôn trầm trạo cử mới được tâm bình đẳng, hoặc khi tự nhiên không phải cố gắng mà tiếp được tâm chính đạo, hoặc khi xa lìa các tạp nhiễm nên cuối cùng được tâm không công dụng. Nghiệp như nói nơi không phóng túng.

Sao gọi là không hại? Là đối trị hại, lấy tâm bi làm tính. Nghĩa là do bi nên không hại quần sinh. Đó là phần không sân. Không tổn não làm nghiệp.

Sao gọi là tham? Là trong 5 thủ uẩn, nhiễm ái đắm trước làm tính. Nghĩa là cái này trói buộc luân hồi 3 cõi. Sinh khổ làm nghiệp. Do ái lực nên sinh 5 uẩn.

Sao gọi là sân? Là đối với quần sinh gây tổn hại làm tính, trụ không an ổn và ác hành sở y làm nghiệp. Không an ổn, là tổn hại người khác vì tự trụ trong khổ.

Sao gọi là mạn? Là có 7 thứ mạn: Mạn, quá mạn, quá quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ti mạn, tà mạn. Sao gọi là mạn? Là đối với kẻ kém cho mình là hơn, hoặc đối với người bằng thì chấp mình là bằng, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là quá mạn? Là đối với người bằng mình thì cho mình hơn, hoặc đối với người hơn thì cho mình bằng, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là quá quá mạn? Là đối với người hơn mình thì cho mình hơn, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là ngã mạn? Là trong 5 thủ uẩn chấp là ngã hoặc là ngã sở, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là tăng thượng mạn? Là đối pháp sở chứng, chưa được tăng thượng thù thắng, cho là ta đã được, tâm cao cử làm tính. Pháp sở chứng tăng thượng thù thắng, là các thánh quả, Tam-ma-địa, Tamma-bát-để v.v… Đối với các pháp kia chưa được, nói là ta đã được mà tự kiêu căng. Sao gọi là ti mạn? Là phần nhiều được thù thắng mà chấp cho mình chỉ được một phần ít thấp kém, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là tà mạn? Là thật không có đức mà chấp cho mình có đức, tâm cao cử làm tính. Không sinh kính trọng sở y làm nghiệp. Nghĩa là đối với bậc tôn trưởng và người có đức mà khởi kiêu ngạo không sinh tôn trọng.

Sao gọi là vô minh? Là đối với nghiệp quả và đế lý, vô trí làm tính. Đây có 2 thứ: 1. Câu sinh. 2. Phân biệt. Lại nữa, Dục giới tham, sân, và vô minh là 3 bất thiện căn, tức tham bất thiện căn, sân bất thiện căn và si bất thiện căn. Đây lại có câu sinh, không câu sinh và phân biệt khởi. Câu sinh, là cầm thú v.v…Không câu sinh, là tham tương ưng v.v… Phân biệt, là các kiến tương ưng với hư vọng quyết định. Nghi phiền não sở y làm nghiệp.

Sao gọi là kiến? Kiến có 5 thứ là: Tát-ca-da kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ. Sao gọi là Tát-ca-da kiến? Là trong 5 thủ uẩn tùy chấp là ngã hoặc là ngã sở, nhiễm tuệ làm tính. Tát, nghĩa là bại hoại. Ca-da, nghĩa là hòa hợp tích tụ. Tức ở trong đây kiến nhất, kiến thường, dị uẩn, hữu ngã uẩn là ngã sở v.v… Vì sao lại nói như vậy? Nghĩa là, Tát là phá thường tưởng, Ca-da là phá nhất tưởng. Vô thường tích tụ nên trong đó không ngã và ngã sở. Nhiễm tuệ, nghĩa là cùng với phiền não. Tất cả kiến phẩm sở y làm nghiệp.

Sao gọi là biên chấp kiến? Là sức tăng thượng của Tá-ca-da kiến kia, tức nơi sở thủ hoặc chấp là thường hoặc chấp là đoạn, nhiễm tuệ làm tính. Bên thường, là chấp ngã tự tại, là thướng khắp cả. Bên đoạn, là chấp có tác giả, trượng phu v.v…, kia chết rồi không sinh lại, như cái bình vỡ không còn dùng để đựng nữa. Chướng trung đạo xuất ly làm nghiệp.

Sao gọi là tà kiến? Là hủy báng nhân, quả, hoặc chê bai tác dụng, hoặc phá hoại thiện sự. Nhiễm tuệ làm tính. Hủy báng nhân, là nhân là tính của nghiệp phiền não. Hợp có 5 chi. Phiền não có 3 thứ là vô minh, ái, thủ. Nghiệp có 2 thứ là hành và hữu. Hữu, nghĩa là y vào chủng tử các nghiệp của thức A-lại-da. Đây cũng gọi là nghiệp. Như Thế Tôn nói: “ A-nan ! Nếu nghiệp có thể cho quả vị lai thì nghiệp đó cũng gọi là hữu. “ Như vậy v.v… hủy báng đó gọi là báng nhân. Hủy báng quả, là quả có 7 chi, tức là thức, danh sắc, 6 xứ, xúc, thụ, sinh, lão tử. Hủy báng này là hủy báng quả. Hoặc hủy báng không có thiện hành ác hành, là hủy báng nhân, hủy báng không có quả báo của thiện hành ác hành, là hủy báng quả. Hủy báng không có đời này đời khác, không cha không mẹ, không có chúng sinh hóa sinh. Đó là hủy báng tác dụng. Nghĩa là tác dụng từ đời này sang đời khác, chủng tử tác dụng tự nhiên, kết sinh tác dụng liên tục v.v… Hủy báng không có thế gian A-la-hán v.v… là hoại thiện sự. Đoạn thiện căn làm nghiệp. Bất thiện căn kiên cố sở y làm nghiệp. Lại sinh bất thiện, không sinh thiện làm nghiệp.

Sao gọi là kiến thủ? Là trong 3 kiến và các uẩn sở y, tùy chấp cho là tối, là thượng, là thắng, là cực. Nhiễm tuệ làm tính. Ba kiến là Tát-ca-da, biên chấp, tà kiến. Uẩn sở y, là uẩn các kiến kia y chỉ. Nghiệp giống như nói ở tà kiến.

Sao gọi là giới cấm thủ? Là trong các giới cấm và các uẩn sở y, tùy chấp cho là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất ly. Nhiễm tuệ làm tính. Giới, là do ác kiến làm trước, lìa 7 thứ ác. Cấm, là cấm bò, chó v.v… và tự nhổ tóc. Chấp 3 chi, Tăng-khư, định tuệ v.v…đây không phải nhân giải thoát. Lại chấp Đại Tự Tại, hoặc chấp Thế chủ, và đi vào trong nước trong lửa v.v… đây không phải nhân sinh cõi trời. Như vậy v.v… kia chấp làm nhân. Uẩn sở y, là uẩn của giới cấm sở y. Thanh tịnh, là nói phương tiện vô gián này cho là thanh tịnh. Giải thoát, là lấy đây làm giải thoát. Phiền não xuất ly, là lấy đây cho là xuất ly sinh tử. Nghĩa như vậy có thể cho vô quả đường lao. Khổ nhọc sở y làm nghiệp. Vô quả đường lao, nghĩa là đây cực nhọc vô ích không thể thoát xuất khỏi khổ được.

Sao gọi là nghi? Là đối với các đế lý, là hữu, là vô? Do dự làm tính. Không sinh thiện pháp sở y làm nghiệp. Trong các phiền não, 3 kiến sau và nghi, chỉ là phân biệt khởi. Ngoài ra thì chung cả câu sinh khởi và phân biệt khởi.

Sao gọi là phẫn? Là trước mắt gặp việc không lợi ích thì tâm công phẫn làm tính, có thể gây bạo ác bằng roi gậy làm nghiệp.

Sao gọi là hận? Là phẫn làm trước, oán kết không xả làm tính, có thể gây bất nhẫn sở y làm nghiệp.

Sao gọi là phú? Là đối với tội lỗi, che giấu làm tính. Nghĩa là vì che giấu tội nên có người dùg chính giáo khuyên răn, không thể phát lồ. Đó là một phần của si, có thể gấy hối hận, không an ổn trụ sở y làm nghiệp.

Sao gọi là não? Là phát lời bạo ác, lăng nhục xúc phạm làm tính. Phẫn hận làm trước, tâm khởi tổn hại. Lời bạo ác, nghĩa là khắc nghiệt dữ dằn có thể gây lo âu khổ sở, không an ổn trụ sở y làm nghiệp. Lại có thể phát sinh phi phúc làm nghiệp, khởi ác danh xưng làm nghiệp.

Sao gọi là tật? Là thấy người khá thì tâm tật đố làm tính. Vì danh lợi nên thấy người khá thì không chịu được sinh tâm đố kỵ, tự trụ ưu khổ sở y làm nghiệp.

Sao gọi là xan? Là trái ngược với thí, tâm lẫn tiếc làm tính. Nghĩa là đối với của cải v.v…sinh lẫn tiếc không thể huệ thí. Như vậy là xan. Tâm chấp trước khắp các thứ lợi dưỡng là phần của tham gây nên sự không chán đủ sở y làm nghiệp. Không chán đủ là do xan lẫn nên chẳng phải vật cần dùng cũng thường gom góp.

Sao gọi là cuống? Là lừa dối người, trá hiện điều không thật công đức làm tính. Đó là phần của tham có thể gây tà mạng sở y làm nghiệp.

Sao gọi là siểm? Là dùng phương tiện che giấu lỗi mình, tâm tà vạy làm tính. Nghĩa là đối với danh lợi có chõ chấp đắm. Đó là phần của tham si, chướng chính giáo hối làm nghiệp. Lại do có tội không tự như thật phát lồ sám hối, không chịu giáo thụ.

Sao gọi là kiêu? Là đối với việc tốt của mình thì đắm nhiễm kiêu ngạo, năng tận làm tính. Việc tốt, là việc tốt hữu lậu. Đắm nhiễm kiêu ngạo, là đối với nhiễm ái thì vui mừng kiêu căng ỷ thị. Đó là phần của tham. Năng tận, nghĩa là đây có thể làm mất hết các thiện căn.

Sao gọi là hại? Là đối với chúng sinh, tổn não làm tính. Là phần của sân. Tổn não, nghĩa là roi vọt đánh đập v.v… tức đây sở y làm nghiệp.

Sao gọi là vô tàm? Là đối với tội đã làm không tự hổ thẹn làm tính. Tất cả phiền não và tùy phiền não trợ bạn làm nghiệp.

Sao gọi là vô quý? Là đối với tội đã làm không hổ thẹn với người khác làm tính. Nghiệp như đã nói ở vô tàm.

Sao gọi là hôn trầm? Là tâm không điều hòa sảng khoái, không làm được việc gì, hôn muội làm tính, là phần của si, gây ra tất cả phiền não và tùy phiền não sở y làm nghiệp.

Sao gọi là trạo cử? Là tùy các việc hỷ lạc nhớ lại, tâm không yên tĩnh làm tính. Nghĩa là nhớ lại những việc du hý hoan lạc trước đã làm, tâm không yên tĩnh. Đó là phần của tham. Chướng Xa-matha làm nghiệp.

Sao gọi là không tin? Là đối trị của tin, đối với nghiệp quả v.v…không tin thuận đúng, tâm không thanh tịnh làm tính. Có thể gây biếng nhác sở y làm nghiệp.

Sao gọi là biếng nhác? Là đối trị của tinh tiến, đối với các thiện phẩm tâm không dũng mãnh làm tính. Có thể chướng siêng tu các thiện làm nghiệp.

Sao gọi là phóng túng? Là do tham sân si biếng nhác nên đối với các phiền não tâm không phòng hộ, đối với các thiện phẩm không thể tu tập làm tính. Bất thiện tăng trưởng, thiện pháp thoái mất sở y làm nghiệp.

Sao gọi là mất niệm? Là ý niệm nhiễm ô, đối với các thiện pháp không thể ghi nhớ rõ ràng làm tính. Niệm nhiễm ô, là cùng với phiền não. Đối với thiện pháp không ghi nhớ rõ ràng, nghĩa là đối với chính giáo thụ không thể ghi nhớ nghĩa có thể cho tán loạn sở y làm nghiệp.

Sao gọi là tán loạn? Là trong phần tham sân si, khiến tâm tâm pháp lưu tán làm tính. Có thể chướng ly dục làm nghiệp.

Sao gọi là biết không đúng? Là tuệ tương ưng phiền não, có thể khởi hành vi thân ngữ ý bất chính làm tính. Vi phạm luật hành sở y làm nghiệp. Nghĩa là trong việc đi lại, không quán sát đúng đắn mà không thể biết nên làm hay không nên làm, khiến phạm luật nghi.

Sao gọi là ác tác? Là tâm thay đổi hối hận làm tính. Nghĩa là những điều ác đã làm nên gọi ác tác. Ác tác này thể phi tức thay đổi hối hận, do trước làm ác sau hối hận lại. Đây tức lấy quả theo nhân mà gọi, nên gọi ác tác. Ví như 6 xúc xứ nói là nghiệp trước. Đây có 2 vị, là thiện và bất thiện. Trong mỗi vị lại có 2, nếu trong thiện vị trước làm bất thiện sau khởi hối tâm, nhân đó là thiện, hối cũng là thiện. Nếu trước làm ác sau khởi hối tâm, nhân đó là bất thiện, hối tức là thiện. Nếu trong bất thiện vị trước không làm ác sau khởi hối tâm, nhân đó bất thiện, hối cũng bất thiện. Nếu trước làm thiện sau khởi hối tâm, nhân đó là thiện, hối là bất thiện.

Sao gọi là thùy miên? Là không tự tại chuyển, mơ hồ không rõ ràng làm tính. Không tự tại, là khiến tâm v.v… không tự tại chuyển. Đó là phần của si. Lại cái tự tính này không tự tại nên khiến tâm tâm pháp thành hết sức mơ hồ. Tính thiện, bất thiện và vô ký này có thể gây lỗi lầm sở y làm nghiệp.

Sao gọi là tầm? Là tư tuệ sai biệt tìm cầu ý ngôn, khiến tâm thô tướng phân biệt làm tính. Ý ngôn, nghĩa là ý thức, trong đó hoặc y vào tư, hoặc y vào tuệ mà khởi. Phân biệt thô tướng, là tìm kiếm thô tướng của cái bình, cái áo, cái xe v.v… lạc xúc sở y làm nghiệp.

Sao gọi là tứ? Là tư tuệ sai biệt ý ngôn dò xét, khiến tâm tế làm tính. Tế tướng, nghĩa là đối với cái bình cái áo v.v… phân biệt tế tướng thành không thành v.v…

Sao gọi là tâm bất tương ưng hành? Là y sắc tâm v.v… phần vị giả lập. Nghĩa là đây và kia những gì không thi thiết được, tính khác và tính không khác. Đó là thế nào? Nghĩa là đắc, vô tưởng định, diệt tận định, vô tưởng thiên, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính v.v…

Sao gọi là đắc? Là hoặc được hoặc thành tựu. Đây lại có 3 thứ là chủng tử thành tựu, tự tại thành tựu, hiện khởi thành tựu, tùy thích ứng.

Sao gọi là vô tưởng định? Là đã lìa biến tịnh nhiễm, chưa lìa thượng nhiễm, do xuất ly tưởng tác ý làm trước, không hằng hiện hành tâm tâm pháp diệt làm tính.

Sao gọi là diệt tận định? Là đã lìa vô sở hữu xứ nhiễm, từ đệ nhất hữu lại khởi thắng tiến, do ngưng dứt tưởng tác ý làm trước, không hằng hiện hành, và hằng hành một phần tâm tâm pháp diệt làm tính. Không hằng hành, là 6 chuyển thức. Hằng hành, là gồm tạng thức và nhiễm ô ý. Trong đó 6 phẩm chuyển thức và nhiễm ô ý thức đều diệt tận định.

Sao gọi là vô tưởng thiên? Là quả đạt được của vô tưởng định, sinh lên cõi trời kia rồi, không hằng hiện hành tâm tâm pháp diệt làm tính.

Sao gọi là mạng căn? Là trong chúng đồng phần, khi nghiệp trước dẫn trụ, phần hạn làm tính.

Sao gọi là chúng đồng phần? Là các quần sinh, tự loại tương tự làm tính.

Sao gọi là sinh? Là trong chúng đồng phần, các hành vốn không nay có làm tính.

Sao gọi là lão? Là các hành liên tục biến đổi khác làm tính.

Sao gọi là trụ? Là các hành liên tục tùy chuyển làm tính.

Sao gọi là vô thường? Là các hành liên tục tàn tạ diệt mất làm tính.

Sao gọi là danh thân? Là trong tự tính các pháp, tăng ngữ làm tính. Như nói nhãn v.v…

Sao gọi là cú thân? Là trong sai biệt của các pháp, tăng ngữ làm tính. Như nói các hành vô thường v.v…

Sao gọi là văn thân? Là các chữ. Đây dùng để biểu thị rõ 2 tính trước, nên cũng gọi là hiển. Do cùng danh cú làm chỗ y chỉ mà làm rõ nghĩa, nên cũng gọi là chữ, nghĩa là không đổi khác. Hai tính trước là làm rõ tự tính và sai biệt. Hiển , nghĩa là rõ ràng.

Sao gọi là dị sinh tính? Là các thánh pháp, bất đắc là tính.

Sao gọi là thức uẩn? Là đối với cảnh sở duyên, liễu biệt làm tính. Cũng gọi là tâm, vì có khả năng thâu thập tích tụ nên cũng gọi là ý và gồm trong ý. Nếu tâm tối thắng tức là thức A-lại-da. Do thức này có khả năng thâu thập tích tụ chủng tử các hành. Lại nữa hành tướng này không thể phân biệt, vì trước sau một loại liên tục tùy chuyển. Lại nữa do thức này nên từ diệt tận định, vô tưởng định, vô tưởng thiên khởi thì cảnh giới liễu biệt của chuyển thức hoàn sinh, đợi sở duyên duyên sai biệt chuyển, nên thường gián đoạn rồi sinh khởi trở lại, lại khiến sinh tử lưu chuyển xoay vần. Thức A-lại-da có khả năng thâu chứa tất cả chủng tử, lại có khả năng thâu chứa tướng ngã mạn, lại duyên thân làm cảnh giới, cho nên đó cũng gọi là thức A-đà-na vì có khả năng gìn giữ thân mạng. Ý tối thắng, là cái thức duyên tạng thức làm cảnh, hằng tương ưng cùng ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái, trước sau một loại liên tục tùy chuyển, trừ A-la-hán thánh đạo và địa vị diệt định hiện tiền. Như vậy 6 chuyển thức và nhiễm ô ý, thức A-lại-da đây gọi là thức uẩn

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là uẩn?

Đáp: Vì nghĩa tích tụ gọi là uẩn. Nghĩa là các phẩm loại thế gian liên tục, nơi đến khác nhau, sắc v.v…tổng quát đại lược đều gồm hết. Như Thế Tôn nói: “ Tì-khưu ! Có sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc hơn hoặc kém, hoặc gần hoặc xa đều gồm trong một sắc uẩn.

Lại có 12 xứ. Tức nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh xứ, tỹ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ. Nhãn v.v…5 xứ và sắc thanh hương vị xứ, như trước đã giải thích. Nói xúc xứ, là các đại chủng, vả trước có nói một phần của xúc. Nói ý xứ, tức là thức uẩn. Nói pháp xứ, là thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, vô biểu sắc v.v… và các vô vi.

Sao gọi là vô vi? Là hư không vô vi, phi trạch diệt vô vi, trạch diệt vô vi, và chân như v.v…Hư không là dung nhận các sắc. Phi trạch diệt là nếu diệt thì chẳng phải ly hệ.

Sao gọi là phi ly hệ? Là lìa sự đối trị phiền não mà các uẩn hoàn toàn không sinh.

Sao gọi là trạch diệt? Là nếu diệt tức là ly hệ.

Sao gọi là ly hệ? Nghĩa là do đối trị phiền não nên các uẩn rốt ráo không sinh.

Sao gọi là chân như? Là pháp tính, pháp vô ngã tính của các pháp.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là xứ?

Đáp: Nghĩa sinh trưởng môn của các thức là nghĩa của xứ.

Lại có 18 giới, là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỹ giới, hương giới, tỹ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Nhãn v.v… các giới và sắc v.v… các giới như đã nói trong xứ. Sáu thức giới, là y nhãn v.v… các căn duyên sắc v.v… các cảnh, liễu biệt làm tính. Nói ý giới, là thức kia vô gián diệt v.v… để hiển thị y chỉ của ý thức thứ 6 và để kiến lập rộng rãi 18 giới. Như vậy sắc uẩn tức 10 xứ 10 giới và pháp xứ một phần pháp giới. Thức uẩn tức ý xứ và 7 tâm giới. Ngoài ra 3 uẩn và một phần sắc uẩn, cùng các vô vi tức pháp xứ pháp giới.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là giới?

Đáp: Vì có khả năng nhiệm trì tính vô tác dụng. Tự tướng là nghĩa của giới.

Hỏi: Vì nghĩa gì giảng nói về uẩn giới xứ?

Đáp: Vì muốn đối trị 3 thứ ngã chấp. Theo thứ tự 3 thứ ngã chấp là nhất tính ngã chấp, thụ giả ngã chấp và tác giả ngã chấp.

Lại nữa 18 giới này có bao nhiêu hữu sắc? Là một phần ít của 10 giới, tức tự tính của sắc uẩn.

Bao nhiêu vô sắc? Là các giới còn lại.

Bao nhiêu hữu kiến? Là một sắc giới.

Bao nhiêu vô kiến? Là các giới còn lại.

Bao nhiêu hữu đối? Là 10 hữu sắc giới. Như ở nơi có chướng ngại là nghĩa của hữu đối.

Bao nhiêu vô đối? Là các giới còn lại.

Bao nhiêu hữu lậu? Là 15 giới và một phần ít của 3 giới sau.

Nghĩa là ở nơi đó phiền não khởi nên là nơi có hiện hành.

Bao nhiêu vô lậu? Là một phần ít của 3 giới sau.

Bao nhiêu Dục giới hệ? Là tất cả.

Bao nhiêu Sắc giới hệ? Là 14, trừ hương, vị, tỹ, thiệt thức.

Bao nhiêu Vô sắc giới hệ? Là 3 giới sau.

Bao nhiêu bất hệ? Là vô lậu giới.

Bao nhiêu uẩn gồm thâu? Trừ vô vi.

Bao nhiêu thủ uẩn gồm thâu? Là hữu lậu

Bao nhiêu thiện, bao nhiêu bất thiện, bao nhiêu vô ký? Là 10 thông 3 tính, 7 tâm giới, và sắc, thanh, và một phần của pháp giới, 8 vô ký tính.

Bao nhiêu là nội? Là 12, trừ sắc thanh hương vị xúc và pháp giới.

Bao nhiêu là ngoại? Là 6, tức đã trừ.

Bao nhiêu là hữu duyên? Là 7 tâm giới và một phần ít của pháp giới, tâm sở hữu pháp.

Bao nhiêu là vô duyên? Là còn lại 10 và một phần ít của pháp giới.

Bao nhiêu là có phân biệt? Là ý giới, ý thức giới và một phần ít của pháp giới.

Bao nhiêu chấp thụ? Là 5 nội giới và một phần ít của 4 giới là sắc hương vị xúc.

Bao nhiêu phi chấp thụ? Là 9 còn lại và một phần ít của 4.

Bao nhiêu đồng phần? Là 5 nội hữu sắc giới, do cùng với cảnh giới của tự thức v.v…

Bao nhiêu đồng phần kia? Là khi tự thức kia không, và tự loại v.v…/.

TRỌN BỘ 1 QUYỂN HẾT