LUẬN ĐẠI THỪA NGŨ UẨN
Bồ-tát Thế Thân tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Như Bạc-già-phạm lược nói 5 uẩn: 1. Sắc uẩn. 2. Thụ uẩn. 3. Tưởng uẩn. 4. Hành uẩn. 5. Thức uẩn.

Thế nào là sắc uẩn? Là 4 đại chủng và các sắc do 4 đại chủng tạo nên. Sao gọi là 4 đại chủng? Là địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Sao gọi là địa giới? Là tính cứng chắc. Sao gọi là thủy giới? Là tính ướt và chảy. Sao gọi là hỏa giới? Là tính ấm nóng. Sao gọi là phong giới? Là tính động, nhẹ v.v… Sao gọi là các sắc do 4 đại chủng tạo ra? Là nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn, sắc, thanh, hương, vị, một phần của xúc, vô biểu sắc. Sao gọi là nhãn căn? Nghĩa là sắc là cảnh thanh tịnh sắc. Sao gọi là nhĩ căn? Nghĩa là thanh là cảnh thanh tịnh sắc. Sao gọi là tỹ căn? Nghĩa là hương là cảnh thanh tịnh sắc. Sao gọi là thiệt căn? Nghĩa là vị là cảnh thanh tịnh sắc. Sao gọi là thân căn? Nghĩa là xúc là cảnh thanh tịnh sắc. Sao gọi là sắc? Nghĩa là cảnh giới của nhãn như hiển sắc, hình sắc và biểu sắc v.v… Sao gọi là thanh? Nghĩa là cảnh giới của nhĩ như chấp thụ đại chủng nhân thanh, phi chấp thụ đại chủng nhân thanh, và cả hai đại chủng nhân thanh. Sao gọi là hương? Nghĩa là cảnh giới của tỹ như mùi thơm, mùi hôi, và các mùi khác . Sao gọi là vị? Nghĩa là cảnh giới của thiệt như vị ngọt, vị chua, vị mặn, vị cay, vị đắng, vị nhạt. Sao gọi là một phần của xúc? Nghĩa là cảnh giới của thân. Trừ 4 đại chủng ngoài ra đều có thể tạo xúc như tính trơn láng, tính nhám, tính nặng, tính nhẹ, lạnh, đói, khát v.v… Sao gọi là vô biểu sắc v.v…? Nghĩa là có biểu nghiệp và Tam-ma-địa sinh các sắc vô kiến vô đối. Sao gọi là thụ uẩn? Là 3 sự lãnh nạp: 1. Khổ. 2. Lạc. 3. Không khổ không lạc. Lạc là khi diệt có cái dục hòa hợp. Khổ là khi sinh có cái dục trái lìa. Không khổ không lạc là không có 2 dục. Sao gọi là tưởng uẩn? Là trong cảnh giới thụ nhiều thứ tướng. Sao gọi là hành uẩn? Là trừ thụ và tưởng, các tâm pháp và tâm bất tương ưng hành. Đó là thế nào? Là xúc, tác ý, thụ, tưởng, tư, dục, thắng giải, niệm, Tam-ma-địa, tuệ, tín, tàm, quý, thiện căn không tham, thiện căn không sân, thiện căn không si, tinh tiến, nhẹ nhàng, không phóng túng, xả, không hại, tham, sân, mạn, vô minh, kiến, nghi, phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, kiêu, hại, vô tàm, vô quý, hôn trầm, trạo cử, không tin, lười nhác, phóng túng, mất niệm, tán loạn, biết không đúng, ác tác, thùy miên, tầm, tứ. Đó là các tâm pháp gồm 5 biến hành, 5 biệt cảnh, 11 thiện, 6 phiền não. Ngoài ra là các tùy phiền não, và 4 bất định.

Sao gọi là xúc? Là 3 hòa hợp phân biệt làm tính. Sao gọi là tác ý? Là có thể khiến tâm phát ngộ làm tính. Sao gọi là tư? Là đối với công đức cũng như lỗi lầm, và trái với cả 2, khiến tâm tạo tác ý nghiệp làm tính. Sao gọi là dục? Là đối với việc thích muốn thì mong mỏi làm tính. Sao gọi là thắng giải? Là đối với việc quyết định, chấp nhận như đã hiểu rõ làm tính. Sao gọi là niệm? Là đối với việc thường quen tập khiến tâm không quên, ghi nhớ rõ ràng làm tính. Sao gọi là Tam-ma-địa? Là đối với việc sở quán, khiến tâm trụ vào một cảnh, không tán loạn làm tính. Sao gọi là tuệ? Là đối với nơi kia trạch pháp làm tính, hoặc đã dẫn như lý, hoặc đã dẫn không như lý, hoặc đã dẫn không phải cả 2.

Sao gọi là tin? Là trong nghiệp, trong quả, trong các đế lý, hết sức phù hợp, tâm tịnh làm tính. Sao gọi là tàm? Là tự tăng thượng và pháp tăng thượng, đối với chỗ tạo tội, hổ thẹn làm tính. Sao gọi là quý? Là tha tăng thượng, đối với chỗ tạo tội hổ thẹn làm tính. Sao gọi là không tham? Là đối trị lại tham, khiến rất chán không đắm trước làm tính. Sao gọi là không sân? Là đối trị lại sân, lấy tâm từ làm tính. Sao gọi là không si? Là đối trị lại si, lấy chính hạnh như thật làm tính. Sao gọi là tinh tiến? Là đối trị giải đãi, tâm dũng cảm đối với thiện phẩm làm tính. Sao gọi là nhẹ nhàng? Là đối trị thô nặng, thân tâm điều hòa thoải mái làm tính. Sao gọi là không phóng túng? Là đối trị phóng túng, tức không tham cho đến tinh tiến y chỉ đây nên không bỏ thiện pháp, và tu các thiện pháp đối trị đó. Sao gọi là xả? Là không tham cho đến tinh tiến y chỉ đây nên được các tâm bình đẳng tính, tâm chính trực tính, tâm không phát ngộ tính. Lại nữa do đây nên các pháp nhiễm ô đã khiển trừ, an trụ trong không ô nhiễm. Sao gọi là không hại? Là đối trị hại, lấy tâm bi làm tính. Sao gọi là tham? Là trong 5 thủ uẩn, nhiễm ái đắm trước làm tính. Sao gọi là sân? Là đối với sự an lạc của hữu tình gây tổn hại làm tính. Sao gọi là mạn? Là có 7 thứ mạn: 1. Mạn. 2. Quá mạn. 3. Mạn quá mạn. 4. Ngã mạn. 5. Tăng thượng mạn. 6. Ti mạn. 7. Tà mạn. Sao gọi là mạn? Là đối với kẻ kém cho mình là hơn, hoặc đối với người bằng thì chấp mình là bằng, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là quá mạn? Là đối với người bằng mình thì cho mình hơn, hoặc đối với người hơn thì cho mình bằng, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là mạn quá mạn? Là đối với người hơn mình thì cho mình hơn, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là ngã mạn? Là trong 5 thủ uẩn tùy quán là ngã hoặc là ngã sở, tâm cao cử làm tính. Sao gọi là tăng thượng mạn? Là đối pháp sở chứng, chưa được tăng thượng thù thắng, cho là ta đã được, tâm cao cử làm tính.

Sao gọi là vô minh? Là đối với nghiệp quả và đế lý, vô trí làm tính. Đây có 2 thứ câu sinh khởi và phân biệt khởi. Lại nữa, dục triền tham, dục triền sân, và dục triền vô minh, gọi là 3 bất thiện căn, tức tham bất thiện căn, sân bất thiện căn và si bất thiện căn.

Sao gọi là kiến? Là 5 kiến: 1. Tát-ca-da kiến. 2. Biên chấp kiến. 3. Tà kiến. 4. Kiến thủ. 5. Giới cấm thủ. Sao gọi là Tát-ca-da kiến? Là trong 5 thủ uẩn tùy quán là ngã hoặc là ngã sở, nhiễm ô tuệ làm tính. Sao gọi là biên kiến? Là do sức tăng thượng kia, nên tùy quán là thường hoặc là đoạn, nhiễm ô tuệ làm tính. Sao gọi là tà kiến? Là hoặc hủy báng nhân, hoặc hủy báng quả, hoặc chê bai tác dụng, hoặc phá hoại thiện sự, nhiễm ô tuệ làm tính. Sao gọi là kiến thủ? Là trong 3 kiến và các uẩn kia làm sở y, tùy quán cho là tối, là thượng, là thắng, là cực, nhiễm ô tuệ làm tính. Sao gọi là giới cấm thủ? Là trong các giới cấm và các uẩn nó làm y chỉ, tùy quán cho là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất ly, nhiễm ô tuệ làm tính. Sao gọi là nghi? Là đối với các đế lý, do dự làm tính. Trong các phiền não, 3 kiến sau và nghi, chỉ là phân biệt khởi. Ngoài ra thì chung cả câu sinh khởi và phân biệt khởi.

Sao gọi là phẫn? Là trước mắt gặp việc không lợi ích thì tâm tổn não làm tính. Sao gọi là hận? Là oán kết không xả làm tính. Sao gọi là phú? Là tự mình có tội, che giấu làm tính. Sao gọi là não? Là phát lời thô bạo ác liệt làm tính. Sao gọi là tật? Là thấy người khá thì tâm tật đố làm tính. Sao gọi là xan? Là trái ngược với thí, tâm lẫn tiếc làm tính. Sao gọi là cuống? Là lừa dối người, trá hiện điều không thật làm tính. Sao gọi là siểm? Là dùng phương tiện che giấu lỗi mình, tâm tà vạy làm tính. Sao gọi là kiêu? Là đối với chỗ tốt của mình thì đắm nhiễm kiêu ngạo, tâm ỷ thị làm tính. Sao gọi là hại? Là đối với các hữu tình, tổn não làm tính.

Sao gọi là vô tàm? Là đối với tội đã làm không tự hổ thẹn làm tính. Sao gọi là vô quý? Là đối với tội đã làm không hổ thẹn với người khác làm tính. Sao gọi là hôn trầm? Là tâm không điều hòa sảng khoái, không làm được việc gì, hôn muội làm tính. Sao gọi là trạo cử? Là tâm không yên tĩnh làm tính. Sao gọi là không tin? Là đối trị của tin, đối với nghiệp quả v.v…không tin thuận đúng, tâm không thanh tịnh làm tính. Sao gọi là biếng nhác? Là đối trị của tinh tiến, đối với các thiện phẩm tâm không dũng mãnh làm tính. Sao gọi là phóng túng? Là do tham sân si biếng nhác nên đối với các phiền não tâm không phòng hộ, đối với các thiện phẩm không thể tu tập làm tính. Sao gọi là mất niệm? Là ý niệm nhiễm ô, đối với các thiện pháp không thể ghi nhớ rõ ràng làm tính. Sao gọi là tán loạn? Là trong phần tham sân si, tâm lưu đãng làm tính. Sao gọi là biết không đúng? Là trong các việc làm hiện tiền của thân ngữ ý, y trụ bất chính làm tính.

Sao gọi là ác tác? Là tâm biến hối làm tính. Sao gọi là thùy miên? Là chuyển tâm không tự tại, mơ hồ không rõ ràng làm tính. Sao gọi là tầm? Là tìm cầu ý ngôn phân biệt, tư tuệ sai biệt, khiến tâm thô làm tính. Sao gọi là tứ? Là hay quan sát dò xét ý ngôn phân biệt, tư tuệ sai biệt, khiến tâm tế làm tính. Sao gọi là tâm bất tương ưng hành? Là y sắc tâm tâm pháp phần vị, chỉ giả lập những gì không thi thiết được, quyết định tính khác và tính không khác. Đó là thế nào? Nghĩa là đắc, vô tưởng đẳng chí, diệt tận đẳng chí, vô tưởng sở hữu, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính các loại v.v…

Sao gọi là đắc? Là hoặc được hoặc thành tựu. Đây lại có 3 là hoặc chủng tử, hoặc tự tại, hoặc hiện tiền tùy thích ứng.

Sao gọi là vô tưởng đẳng chí? Là đã lìa biến tịnh tham, chưa lìa thượng tham, do xuất ly tưởng tác ý làm trước, không hằng hiện hành tâm tâm pháp diệt làm tính.

Sao gọi là diệt tận đẳng chí? Là đã lìa vô sở hữu xứ tham, từ đệ nhất hữu lại cầu thắng tiến, do ngưng dứt tưởng tác ý làm trước, không hằng hiện hành, và hằng hành một phần tâm tâm pháp diệt làm tính.

Sao gọi là vô tưởng sở hữu? Là quả vô tưởng đẳng chí, sinh trong cõi trời vô tưởng hữu tình rồi, không hằng hiện hành tâm tâm pháp diệt làm tính. Sao gọi là mạng căn? Là trong chúng đồng phần, nghiệp trước dẫn khi trụ quyết định làm tính. Sao gọi là chúng đồng phần? Là các hữu tình, tự loại tương tự làm tính. Sao gọi là sinh? Là trong chúng đồng phần, các hành vốn không nay có làm tính. Sao gọi là lão? Là như các hành liên tục biến đổi khác làm tính. Sao gọi là trụ? Là như các hành liên tục tùy chuyển làm tính. Sao gọi là vô thường? Là như các hành liên tục tàn tạ diệt mất làm tính. Sao gọi là danh thân? Là các pháp tự tính tăng ngữ làm tính. Sao gọi là cú thân? Là các pháp sai biệt tăng ngữ làm tính. Sao gọi là văn thân? Là các chữ làm tính, dùng để biểu thị rõ 2 thứ trước, nên cũng gọi là hiển. Do cùng danh cú làm chỗ y chỉ mà làm rõ nghĩa, nên cũng gọi là chữ, chứ không phải sai biệt môn làm biến đổi. Sao gọi là dị sinh tính? Là các thánh pháp, bất đắc là tính. Các loại như vậy đã nói, đó là hành uẩn.

Sao gọi là thức uẩn? Là đối với cảnh sở duyên, liễu biệt làm tính. Cũng gọi là tâm ý, vì do thâu thập tích tụ, vì gồm trong ý. Tâm tối thắng là thức A-lại-da. Bởi vì sao? Do chủng tử các hành đều thâu thập tích tụ trong thức này. Lại nữa hành duyên này không thể phân biệt, trước sau một loại liên tục tùy chuyển. Lại nữa do đây nên từ diệt tận đẳng chí, vô tưởng đẳng chí, vô tưởng sở hữu khởi thì liễu biệt cảnh chuyển thức hoàn sinh, đợi sở duyên duyên sai biệt chuyển, nên thường gián đoạn rồi chuyển trở lại, lại khiến sinh tử lưu chuyển xoay vần. Thức A-lại-da có khả năng thâu chứa tất cả chủng tử, lại có khả năng thâu chứa tướng ngã mạn, lại duyên thân làm cảnh giới, cho nên đó cũng gọi là thức A-đà-na vì có khả năng gìn giữ thân mạng. Ý tối thắng, là cái thức duyên thức A-lại-da làm cảnh, hằng tương ưng cùng ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái, trước sau một loại liên tục tùy chuyển, trừ quả A-la-hán và địa vị thánh đạo diệt tận đẳng chí hiện tiền.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là uẩn?

Đáp: Vì nghĩa tích tụ gọi là uẩn. Nghĩa là các phẩm loại thế gian liên tục, nơi đến khác nhau, sắc v.v…tổng quát đại lược đều gồm hết.

Lại có các nơi đến là 12 xứ. Tức nhãn xứ sắc xứ, nhĩ xứ thanh xứ, tỹ xứ hương xứ, thiệt xứ vị xứ, thân xứ xúc xứ, ý xứ pháp xứ. Nhãn v.v…5 xứ và sắc thanh hương vị xứ, như trước đã giải thích. Nói xúc xứ, là 4 đại chủng, vả trước có nói xúc một phần. Nói ý xứ, tức là thức uẩn. Nói pháp xứ, là thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, vô biểu sắc v.v… và vô vi. Sao gọi là vô vi? Là hư không vô vi, phi trạch diệt vô vi, trạch diệt vô vi, và chân như v.v…Sao gọi là hư không? Là nếu dung nhận các sắc. Sao gọi là phi trạch diệt? Là nếu diệt thì chẳng phải ly hệ. Đây là thế nào? Là lìa sự đối trị phiền não mà các uẩn hoàn toàn không sinh. Sao gọi là trạch diệt? Là nếu diệt tức là ly hệ. Đây là thế nào? Nghĩa là do đối trị phiền não nên các uẩn rốt ráo không sinh. Sao gọi là chân như? Là pháp tính, pháp vô ngã tính của các pháp.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là xứ?

Đáp: Nghĩa sinh trưởng môn của các thức là nghĩa của xứ.

Lại có 18 giới, là nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, nhĩ giới thanh giới nhĩ thức giới, tỹ giới hương giới tỹ thức giới, thiệt giới vị giới thiệt thức giới, thân giới xúc giới thân thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới.

Nhãn v.v… các giới và sắc v.v… các giới như đã nói trong xứ. Sáu thức giới, là y nhãn v.v… các căn duyên sắc v.v… các cảnh, liễu biệt làm tính. Nói ý giới, là thức kia vô gián diệt v.v… đó là muốn hiển thị ý thức thứ 6 và để kiến lập rộng rãi 18 giới. Như vậy sắc uẩn tức 10 xứ 10 giới và pháp xứ một phần pháp giới. Thức uẩn tức ý xứ và 17 giới. Ngoài ra 3 uẩn và một phần sắc uẩn, cùng các vô vi tức pháp xứ pháp giới.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là giới?

Đáp: Vì có khả năng nhiệm trì tính vô tác dụng. Tự tướng là nghĩa của giới.

Hỏi: Vì nghĩa gì giảng nói về uẩn?

Đáp: Vì muốn đối trị 3 thứ ngã chấp. Theo thứ tự 3 thứ ngã chấp là nhất tính ngã chấp, thụ giả ngã chấp và tác giả ngã chấp.

Lại nữa 18 giới này có bao nhiêu hữu sắc? Là một phần ít của 10 giới, tức tự tính của sắc uẩn.

Bao nhiêu vô sắc? Là các giới còn lại.

Bao nhiêu hữu kiến? Là một sắc giới.

Bao nhiêu vô kiến? Là các giới còn lại.

Bao nhiêu hữu đối? Là 10 hữu sắc giới. Như ở nơi có chướng ngại là nghĩa của hữu đối.

Bao nhiêu vô đối? Là các giới còn lại.

Bao nhiêu hữu lậu? Là 15 giới và một phần ít của 3 giới sau, do ở nơi đó phiền não khởi nên là nơi có hiện hành.

Bao nhiêu vô lậu? Là một phần ít của 3 giới sau.

Bao nhiêu Dục giới hệ? Là tất cả.

Bao nhiêu Sắc giới hệ? Là 14, trừ hương, vị, tỹ, thiệt thức.

Bao nhiêu Vô sắc giới hệ? Là 3 giới sau.

Bao nhiêu bất hệ? Là vô lậu giới.

Bao nhiêu uẩn gồm thâu? Trừ vô vi.

Bao nhiêu thủ uẩn gồm thâu? Là hữu lậu

Bao nhiêu thiện, bao nhiêu bất thiện, bao nhiêu vô ký? Là 10 thông, 3 thứ, 7 tâm giới, và sắc, thanh, pháp giới, 8 vô ký.

Bao nhiêu là nội? Là 12, trừ sắc thanh hương vị xúc và pháp giới.

Bao nhiêu là ngoại? Là 6, tức đã trừ.

Bao nhiêu là hữu duyên? Là 7 tâm giới và một phần ít của pháp giới, tâm sở hữu pháp.

Bao nhiêu là vô duyên? Là còn lại 10 và một phần ít của pháp giới.

Bao nhiêu là có phân biệt? Là ý giới, ý thức giới và một phần ít của pháp giới.

Bao nhiêu chấp thụ? Là 5 nội giới và một phần ít của 4 giới là sắc hương vị xúc.

Bao nhiêu phi chấp thụ? Là còn lại một phần ít của 94.

Bao nhiêu đồng phần? Là 5 nội hữu sắc giới, do cùng với cảnh giới của tự thức v.v…

Bao nhiêu đồng phần kia? Là khi tự thức kia không và tự loại v.v…/.

TRỌN BỘ 1 QUYỂN HẾT