NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

7 – Tăng thượng giới học

Luận nói: Như vậy là đã nói về tu nhân quả sai biệt. Vậy làm sao thấy được sự thù thắng của giới tăng thượng?

Có thể thấy như trong Bồ-tát Địa Chính Thụ Bồ-tát Luật Nghi có nói.

Lại nữa có thể biết đại lược 4 thứ thù thắng sau đây nên gọi là thù thắng: một là thù thắng về chỗ khác nhau, hai là thù thắng về chỗ học có chung và không chung, ba là thù thắng về tính rộng lớn, bốn là thù thắng về tính sâu xa.

Giải thích: Câu hỏi đáp trong đây là biện giải về cái học Thi-la của Bồ-tát. Đối với Thanh Văn v.v… có chỗ sai biệt lớn nên gọi là thù thắng. Lại nữa cái tăng thượng 3 học như giới v.v…tức như trước đã nói gồm thâu nơi tự tính của Ba-la-mật-đa, vì sao biệt lập? Như trước đã nói Ba-la-mật-đa, nay sẽ nói rõ việc lập nghĩa khác. Đế hiển thị lần lượt tướng nhân tính nên biệt lập 3 học. Nghĩa là Thi-la phát sinh tĩnh lự, rồi lại y vào tĩnh lự phát sinh Bát-nhã.

Luận nói: Thù thắng về chỗ khác nhau nghĩa là giới Bồ-tát có 3 phẩm khác nhau: 1.giới luật nghi, 2.giới gồm thâu thiện pháp, 3.giới làm lợi ích hữu tình.

Trong đây nên biết giới luật nghi có nghĩa là 2 giới, giới gồm thâu thiện pháp có nghĩa là tu tập tất cả Phật pháp, giới làm lợi ích hữu tình có nghĩa là làm thành thục tất cả hữu tình.

Giải thích: Thù thắng về chỗ khác nhau nghĩa là Thanh Văn v.v… chỉ có một thứ giới luật nghi, không có giới gồm thâu thiện pháp và giới làm lợi ích hữu tình. Bồ-tát đủ cả ba nên gọi là thù thắng.

Luận nói: Thù thắng về chỗ học có chung và không chung nghĩa là các Bồ-tát tất cả tính tội đều không hiện hành nên chung với Thanh Văn, còn tương tự giá tội thì có trường hợp hiện hành nên không chung với Thanh Văn. Vì vậy đối với học xứ giá tội này, có trường hợp là Thanh Văn thì phạm nhưng Bồ-tát thì không phạm, có trường hợp là Bồ-tát thì phạm mà Thanh Văn thì không phạm. Giới của Bồ-tát là gồm cả thân miệng ý, còn Thanh Văn chỉ có 2 giới thân và miệng. Vì vậy với Bồ-tát thì có ý nghĩ xấu cũng đã phạm rồi, đó là điểm khác với Thanh Văn. Nói tóm lại, vì tất cả lợi ích hữu tình thì nghiệp thân miệng ý đều vô tội, Bồ-tát đều phải học, tu và thực hành tất cả. Đó là thù thắng về chỗ học có chung và không chung.

Giải thích: Trong chung và không chung là tất cả tính tội như sát sinh v.v… gọi là chung. Còn giá tội như đào đất chặt cây cỏ v.v… gọi là không chung. Nói ở nơi học xứ này, nghĩa là nơi hậu học xứ. Có trường hợp Thanh Văn phạm Bồ-tát không phạm. Như cả hai cùng an cư, quán thấy có lợi ích hữu tình liền đi qua đó ở qua đêm. Có trường hợp Bồ-tát phạm Thanh Văn không phạm là như quán thấy hữu ích mà cố không đi. Cho nên Bồ-tát tâm cũng có phạm, Thanh Văn thì không, nghĩa là chỉ trong nội tâm khởi dục v.v…tầm tư, Bồ-tát đã thành phạm, Thanh Văn v.v… thì không. Vì tất cả lợi ích hữu tình thì nghiệp thân miệng ý đều vô tội, Bồ-tát đều phải học, tu và thực hành tất cả, nghĩa là có thể lợi ích mà không có tội. Ba nghiệp như vậy Bồ-tát phải tu. Tuy có lợi ích nhưng không phải vô tội, như lấy của cải phi pháp của người này đem cho người khác. Để ngăn chận việc này nên nói vô tội.

Luận nói: Thù thắng về tính rộng lớn do có 4 thứ gọi là rộng lớn: Một là rộng lớn do chỗ học có đủ loại và vô lượng. Hai là rộng lớn do tiếp thụ vô lượng phúc đức. Ba là rộng lớn do tiếp thụ ý lạc làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Bốn là rộng lớn do kiến lập vô thượng chính đẳng Bồ-đề.

Giải thích: Nói rộng lớn do chỗ học có đủ loại và vô lượng, nghĩa là chỗ học xứ của các Bồ-tát vừa đa dạng các thứ vừa nhiều vô lượng. Do đó đối với tất cả hữu tình là thâu nhiếp và làm cho thành thục. Nói rộng lớn do tiếp thụ vô lượng phúc đức, nghĩa là các Bồ-tát nhiếp thụ vô lượng phúc đức làm tư lương, không như Thanh Văn. Nói rộng lớn do tiếp thụ ý lạc làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, nghĩa là đối với các hữu tình khuyến khích tu thiện gọi là ý lạc lợi ích. Nếu ngay nơi Bổ-đặc-già-la này nguyên do thiện kia sẽ được thắng quả, gọi là ý lạc an lạc. . Nói rộng lớn do kiến lập vô thượng chính đẳng Bồ-đề, nghĩa là các Bồ-tát do Thi-la này kiến lập vô thượng chính đẳng Bồ-đề, không như các Thanh Văn.

Luận nói: Thù thắng về tính sâu xa nghĩa là các Bồ-tát do phương tiện khéo léo, làm việc sát sinh v.v… 10 thứ tác nghiệp mà không có tội lại sinh vô lượng phúc, mau chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Các Bồ-tát lại còn hiện hành biến hóa thân miệng 2 nghiệp, nên biết đó cũng là Thi-la sâu xa. Do nhân duyên này mà có khi Bồ-tát hoặc làm quốc vương hiện làm các việc bức hại hữu tình để đặt chúng vào trong pháp Tì-nại-da, hoặc hiện làm các việc bản sinh, hiện làm các việc bức bách các hữu tình mà thực sự là để hóa độ các hữu tình khác, trước hết khiến thâm tâm chúng được tín tâm thanh tịnh sau rồi thành thục. Đó gọi là thù thắng về tính sâu xa của Bồ-tát tu học Thi-la.

Giải thích: Nói thù thắng về tính sâu xa là các Bồ-tát do các phẩm loại phương tiện khéo léo, tức là trong đây hiển thị các công năng phương tiện khéo léo của Bồ-tát như vậy, là nếu Bồ-tát biết như vậy, các phẩm loại Bổ-đặc-già-la như vậy, đối với các việc bất thiện không ngừng này, sẽ khởi gia hành dùng trí tha tâm biết tâm của chúng, phương tiện vô dư có thể chuyển nghiệp chúng, như thật biết chúng do nghiệp này chắc sẽ thoái lui nẻo thiện, chắc chắn đến nẻo ác. Biết như vậy rồi sinh ý nghĩ như thế này: Ta tạo nghiệp này sẽ đọa nẻo ác. Ta thà tự đến đó ắt sẽ cứu thoát chúng. Đối với chúng hiện tuy chịu một ít khổ khiến chúng vị lai thụ nhiều an lạc. Cho nên Bồ-tát ví như vị lương y. Đem tâm lợi ích ,tuy sát mà sinh nhiều phúc không sinh tội. Do nhiều phúc nên mau chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Do đạo lý này hoặc làm quốc vương, hiện làm các việc tổn não hữu tình nhưng để an lập hữu tình trong Tì-nại-da. Biến hóa tự thể gọi là biến hóa. Trong đây nên nói các việc như vua Vô Yếm Túc hóa đạo đồng tử Thiện Tài v.v… Lại hiện các chuyện bản sinh, như các chuyện bản sinh của Tì-thấp-bà An-đát-la v.v… Trong đó Bồ-tát đem nam nữ thí cho Bà-la-môn, đều là biến hóa. Nói thị hiện bức bách các hữu tình mà kỳ thật là nhiếp thụ các hữu tình, nghĩa là các Bồ-tát hoàn toàn không bức não các hữu tình mà là nhiếp thụ các hữu tình, cho nên như vậy gọi là sự thù thắng rất sâu xa.

Luận nói: Do sơ lược nói 4 thứ thù thắng này nên biết Thi-la luật nghi của Bồ-tát là thù thắng bậc nhất.

Như vậy nên biết rằng học xứ Bồ-tát còn rất nhiều sai khác, như được nói trong Kinh Phương Quảng Tì-nại-da Cù-sa.

Giải thích: Như vậy là lược nói 4 thứ sai biệt. Trong Kinh Tìnại-da Cù-sa nói rộng có đến trăm ngàn sai biệt.

8 – Tăng thượng tâm học

Luận: Như vậy là đã nói về sự thù thắng của giới tăng thượng, vậy làm sao thấy sự thù thắng của tâm tăng thượng?

Đại khái có 6 thứ sai biệt cần phải biết: một là do sở duyên sai biệt, hai là do chủng l oại sai biệt, ba là do đối trị sai biệt, bốn là do năng lực sai biệt, năm là do dẫn phát sai biệt, sáu là do tác nghiệp sai biệt.

Giải thích: Để hiển thị cái thù thắng của tăng thượng tâm học nên tạo ra câu hỏi đáp này.

Luận nói: Sở duyên sai biệt là lấy pháp Đại thừa làm đối tượng sở duyên.

Giải thích: Nói pháp Đại thừa làm sở duyên tức là định của Bồtát duyên nơi Đại thừa, không phải định của Thanh Văn.

Luận nói: Chủng loại sai biệt là Đại thừa quang minh, Tập phúc định vương, Hiền thủ, Kiện hành v.v.. vô lượng các chủng loại Tamma-địa.

Giải thích: Đại thừa quang minh, Tập phúc định vương v.v…, là hiển thị các chủng loại Tam-ma-địa sai biệt là chỉ Đại thừa có, Thanh Văn thừa v.v… hoàn toàn không có.

Luận nói: Đối trị sai biệt là cái trí duyên cái tướng chung của các pháp như cách dùng cây nêm để tháo một cây nêm. Đó là đạo lý khiển trừ tất cả các chướng thô nặng trong thức A-lại-da.

Giải thích: Cái trí duyên tướng chung của các pháp đối trị tất cả chướng ngại mà trụ, như dùng cái cây nêm nhỏ tháo cái nêm lớn ở trong bản thức. Các pháp tạp nhiễm huân tập chủng tử gọi là thô. Các đối trị đạo có thể trừ được chúng, gọi là nghĩa vi tế.

Luận nói: Năng lực sai biệt, là an trụ trong cái vui tĩnh lự, tùy ý thụ sinh.

Giải thích: Do có năng lực có thể an trụ trong cái vui tĩnh lự, tùy theo chỗ có lợi ích hữu tình liền sinh qua đó mà không thoái tĩnh lự.

Các Thanh Văn v.v… không được như vậy.

Luận nói: Dẫn phát sai biệt là có thể dẫn phát thần thông vô ngại trong tất cả thế giới.

Giải thích: Do tĩnh lự này dẫn phát thần thông, tất cả thế giới đều không chướng ngại.

Luận nói: Tác nghiệp sai biệt là có thể làm chấn động khắp cả, hiển thị các chuyển biến đi lại co duỗi, tất cả sắc tượng đều nhập trong thân, ở trong đồng loại hoặc hiện hoặc ẩn, việc làm tự tại, chế ngự các thần thông của người khác, làm cho người được tài hùng biện, phóng ánh sáng lớn, dẫn phát các thần thông lớn như vậy.

Giải thích: Tác nghiệp sai biệt , là phát thần thông làm các việc. Trong đó có thể làm lay động tất cả thế giới nên gọi là chấn động. Tức như kia bốc cháy gọi là xí nhiên. Nói đầy khắp là nói ánh sáng ấy chiếu khắp. Nói hiển thị, là do uy lực này khiến bao nhiêu hữu tình không có năng lực mà có thể vui mừng thấy được vô lượng thế giới và thấy bao nhiêu Phật Bồ-tát v.v… Nói chuyển biến, tức chuyển biến tất cả đất v.v… khiến thành nước v.v… Nói đi lại, là trong một sát-na có thể đi lại vô lượng thế giới. Nói co duỗi, nghĩa là thu 10 phương vô lượng thế giới vào trong một cực vi mà cực vi không tăng, duỗi một cực vi ra bao trọn 10 phương vô lượng thế giới mà thế giới không giảm. Nói tất cả sắc tượng đều nhập trong thân, nghĩa là trong thân hiện vô lượng các thứ sự nghiệp. Nói qua nơi trong đồng loại, nghĩa là đi qua trời thứ 33, hình sắc, ngôn ngữ cùng một loại như nhau. Vì giáo hóa chúng nên đi đến các nơi như vậy. Hiển là hiển hiện. Ẩn là ẩn tàng. Nói việc làm tự tại, là như biến thân ma vương thành thân Phật. Nói chế ngự các thần thông của người khác, nghĩa là có thể che khuất tất cả thần thông. Đối với người xin hỏi thì cho họ biện tài nên gọi là cho tài hùng biện. Đối với người nghe thì cho họ chính niệm, cho họ an lạc khiến được định nên gọi là thí niệm lạc. Phóng ánh sáng lớn, là vì muốn triệu tập Bồ-tát ở các phương xa. Dẫn phát các thần thông lớn như vậy, là như trước đã nói thần thông lớn. Tất cả như vậy Thanh Văn đều không có nên gọi là thù thắng.

Luận nói: Lại có thể dẫn phát thực hiện các việc khó làm. Có 10 việc khó làm. Mười việc khó làm là: Một, tự thệ là khó làm, vì thệ nguyện thụ vô thượng Bồ-đề. Hai, không thoái lui là khó làm, vì các khổ sinh tử không thể làm thoái lui. Ba, không bỏ là khó làm, vì chúng sinh tuy làm tà hạnh cũng không bỏ. Bốn là những điều khó làm trước mắt, vì với những kẻ oán thù vẫn phải làm điều lợi ích cho họ. Năm, không nhiễm là khó làm, vì sống trong thế gian không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Sáu, thắng giải là khó làm, vì đối với Đại thừa tuy chưa thể liễu đạt nhưng phải sinh tin hiểu giáo pháp rộng lớn sâu xa. Bảy, thông suốt là khó làm, vì có thể thông suốt nhân vô ngã pháp vô ngã. Tám, tùy giác khó làm, vì đối với các ngôn từ bí mật rất sâu của chư Như Lai nói có thể tùy theo đó mà hiểu. Chín, không lìa không nhiễm là khó làm, vì không bỏ sinh tử mà không nhiễm. Mười, gia hành khó làm, vì có thể tu giải thoát tất cả chướng ngại như chư Phật, cho đến tận cùng sinh tử, không dụng công mà vẫn thường xuyên làm việc nghĩa lợi cho tất cả hữu tình.

Giải thích: Như nói Bồ-tát tu các việc khó làm, trong đây là những gì là khó làm? Có 10 thứ khó làm. Trong đây nói không lìa không nhiễm khó làm, có nghĩa là không từ bỏ gọi là không lìa. Nghĩa là ở trong sinh tử không hoàn toàn lìa bỏ, cũng không nhiễm ô. Đây là việc rất khó. Còn 9 việc khó kia dễ hiểu nghĩa.

Luận nói: Lại nữa, trong tùy giác khó làm là Phật có những ngôn từ bí mật, các Bồ-tát có thể tùy theo đó hiểu. Như kinh có nói.

Giải thích: Để hiển thị ý thú của ngôn từ bí mật nên đặt câu hỏi này. Như kinh nói, là đáp chung câu hỏi trước, sau sẽ giải thích riêng.

Luận nói: Thế nào là Bồ-tát có thể hành bố thí v.v…?

Là nếu Bồ-tát không có chút gì để bố thí, mà rộng làm việc bố thí trong 10 phương vô lượng thế giới.

Thế nào là Bồ-tát vui làm việc bố thí?

Là nếu các Bồ-tát đối với tất cả việc bố thí đều không ưa muốn.

Thế nào là Bồ-tát tin hiểu sâu xa trong việc bố thí?

Là nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí.

Thế nào là Bồ-tát khích lệ việc bố thí?

Là nếu các Bồ-tát không tự khích lệ trong việc bố thí.

Thế nào là Bồ-tát đam mê sự bố thí?

Là nếu Bồ-tát không tạm thời có chút bố thí.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí rộng lớn?

Là nếu Bồ-tát trong sự bố thí lìa tưởng Ta-lạc.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí thanh tịnh?

Là nếu Bồ-tát xan lẫn Ốt-ba-đà.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí cứu cánh?

Là nếu Bồ-tát không trụ cứu cánh.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí tự tại?

Là nếu Bồ-tát không tự tại trong sự bố thí.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí vô tận?

Là nếu Bồ-tát không trụ vô tận. Như trong bố thí, nên biết giới là đầu tiên cho đến sau cùng là tuệ tùy sự thích hợp phải như vậy.

Giải thích: Thế nào là Bồ-tát có thể hành bố thí v.v…, nghĩa là các Bồ-tát lấy tất cả hữu tình làm tự thể của mình. Cho nên chúng sinh thí tức mình thí là do ý này. Thế nào là Bồ-tát vui làm việc bố thí v.v…, nghĩa là Bồ-tát không vui thích việc tu hành bố thí v.v..mà còn chấp trước, chỉ thích tu hành tịnh thí của Bồ-tát. Nói chấp trước là ý nói tham nhiễm, hoặc có nơi khác đến cầu xin mới thí. Thế nào là Bồ-tát tin hiểu sâu xa trong việc bố thí v.v…, nghĩa là Bồ-tát tự mình được tâm bố thí mà hành thí, không phải nhờ vào duyên gì khác. Thế nào là Bồ-tát khích lệ việc bố thí v.v…, nghĩa là tính của Bồ-tát tự đã đoạn trừ năng thí cũng như xan lẫn, cho nên không đợi người thúc giục, cũng không tự thôi thúc mà hành thí một cách tự nhiên. Ý là như vậy. Thế nào là Bồ-tát đam mê sự bố thí v.v…, nghĩa là Bồ-tát thường hành bố thí nên không có nghĩa thí trong chốc lát và thí tất cả không phải chỉ chút ít. Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí rộng lớn v.v…, nghĩa là Bồ-tát dựa vào định mà hành thí. Tức có nghĩa là lìa dục mà hành thí. Nói Ta-lạc, là hiển thị sự kiên thật. Mật thuyên lưu tán là nay lấy nghĩa mật, lìa tưởng lưu tán, dựa vào định mà hành thí nên thành rộng lớn. Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí thanh tịnh v.v…, nghĩa là các Bồ-tát trừ bỏ keo kiệt đủ làm huệ thí. Ốt-ba-đà là hiển thị sinh khởi. Mật thuyên bạt túc nghĩa là Ba-đà là túc, tức là đủ, Ốt tức là bạt, nghĩa là nhổ, trừ bỏ. Nay lấy mật nghĩa, là trừ bỏ keo kiệt đủ khiến làm huệ thí, nên gọi Ốt-ba-đà xan. Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí cứu cánh v.v…, nghĩa là Bồ-tát không trụ cứu cánh vô dư Niết-bàn như các Thanh Văn. Cho nên cứu cánh thường hay hành thí. Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí tự tại v.v…, nghĩa là các Bồ-tát khiến các việc làm chướng ngại bố thí v.v…không được tự do tự tại, để có thể hành thí, khiến các chướng sở trị không được tự tại nên thí được tự tại. Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí vô tận, nghĩa là các Bồ-tát không trụ Niếtbàn, thường hành huệ thí. Trong đây vô tận là lấy ý Niết-bàn, không như Thanh Văn trụ Niết-bàn nên huệ thí được vô tận.

Luận nói: Thế nào là có thể sát sinh?

Là nếu đoạn dứt sự sinh tử lưu chuyển của chúng sinh.

Thế nào là không cho mà lấy?

Là nếu các hữu tình không cho mà tự nhiên lấy.

Thế nào là dục tà hạnh?

Là nếu đối với các dục hiểu rõ là tà, mà tu chính hạnh.

Thế nào là có thể vọng ngữ?

Là nếu ở trong vọng có thể nói được là vọng.

Thế nào là Bối-thú-ni?

Là nếu có thể thường trụ không tịch tối thắng.

Thế nào là Ba-lỗ-sư?

Là nếu biết khéo an trụ bờ kia.

Thế nào là nói thêu dệt?

Là nếu nói pháp đúng phẩm loại sai biệt.

Thế nào là có thể tham dục?

Là nếu luôn luôn muốn mình chứng được vô thượng tĩnh lự.

Thế nào là có thể giận dữ?

Là nếu trong tâm ghét và làm hại tất cả phiền não, một cách đúng đắn.

Thế nào là có thể tà kiến?

Là nếu tà tính ở khắp tất cả mọi nơi đều thấy đúng như thật.

Giải thích: Như trong kinh nói: Bí-sô ! Ta là người có thể sát sinh v.v… Trong đây là hiển thị ý nghĩa câu nói ấy. Thế nào là dục tà hạnh, nghĩa là biết các dục đều là tà mà tu chính hạnh. Thế nào là Bối-thú-ni, Bối-thú-ni này hiển thị lời nói ly gián. Mật thuyên thường thắng không. Bối là biểu thị thắng. Thú là biểu thị không. Ni là biểu thị thường. Nay lấy mật nghĩa tương ưng với lời đáp. Cho nên đáp nói nếu có thể thường cư trú nơi tối thắng không. Thế nào là Ba-lỗ-sư, là Ba-lỗ-sư này hiển thị lời nói thô ác. Mật thuyên trụ bỉ ngạn. Ba biểu thị bỉ ngạn. Lỗ-sư biểu thị trụ. Nay lấy mật nghĩa cùng với đáp tương ưng. Cho nên đáp nói khéo an trụ sở tri bỉ ngạn. tức là đến nghĩa sở tri bỉ ngạn trụ. Thế nào là có thể tà kiến v.v…, nghĩa là như trong sắc v.v…tà tính biến khắp, đều thấy đúng như thật. Tức là trong y tha khởi kia, như thật quán thấy biến kế sở chấp, là nghĩa của tà tính. Văn trong 10 bất thiện nghiệp đạo, các nghĩa đều dễ hiểu. Luận nói: Pháp của Phật rất sâu. Thế nào là pháp của Phật rất sâu?

Ở đây nên giải thích như sau:

Pháp thường trụ là pháp của chư Phật, vì pháp thân là thường trụ. Pháp đoạn diệt là pháp của chư Phật, vì vĩnh viễn đoạn diệt các chướng. Pháp sinh khởi là pháp của chư Phật, vì biến hóa thân hiện các sinh khởi. Pháp có sở đắc là pháp của chư Phật, vì là pháp có thể đối trị được các hành nghiệp của 8 vạn 4 ngàn chúng sinh. Pháp có tham là pháp của chư Phật, vì tự thệ nguyện tiếp thụ chúng sinh có tham làm tự thể của mình. Pháp có giận dữ là pháp của chư Phật, pháp có si là pháp của chư Phật, pháp dị sinh là pháp của chư Phật, cũng nên biết như vậy. Pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật, vì viên mãn thành tựu chân như, tất cả chướng cáu bẩn không thể làm nhiễm ô. Pháp không ô uế là pháp của chư Phật, vì sinh tại thế gian mà các pháp thế gian không thể làm ô uế. Cho nên vì thế mà nói pháp Phật là rất sâu.

Giải thích: Lại có nhiều nơi kinh nói pháp thường trú là pháp của chư Phật. Nói rộng cho đến pháp không ô uế là pháp của chư Phật. Nay sẽ hiển thị ý trong này. Nghĩa là thể của pháp thân Phật là thường trú cho nên nói pháp này là thường trú. Pháp đoạn diệt, là có những chướng cấu gì đều đoạn diệt hết. Do nghĩa này mà nói pháp này là pháp đoạn diệt. Pháp có sở đắc là Phật pháp, là các hành của hữu tình có 8 vạn 4 ngàn, và đều có thể có pháp đối trị chúng, cho nên nói pháp này có sở đắc. Pháp không nhiễm, là chân như thanh tịnh, tất cả chướng cấu không thể nhiễm, cho nên gọi pháp này là pháp không nhiễm. các nghĩa khác dễ hiểu khỏi phiền giải thích.

Luận nói: Lại nữa còn có thể dẫn phát sự tu hành đến bờ kia, thành thục chúng sinh, thanh tịnh cõi Phật. Vì vậy nên biết các pháp của Phật là các tác nghiệp sai biệt đẳng trì của Bồ-tát.

Giải thích: Trước chưa nói đến các sai biệt của tác nghiệp. Nay ở đây lại hiển thị tác nghiệp đẳng trì của Bồ-tát. Nghĩa là các Bồ-tát y vào Tam-ma-địa có thể tu tất cả Ba-la-mật-đa. Lại y vào định này có thể khéo thành thục tất cả hữu tình, phát thần thông v.v… các thứ phương tiện dẫn hữu tình vào chính pháp . Lại do năng lực này có thể làm thanh tịnh tất cả cõi Phật, tâm được tự tại, tùy ý muốn đều có thể làm thành các cõi Phật vàng bạc các báu v.v… Lại do năng lực này có thể tu tập đúng đắn tất cả Phật pháp. Đó là tác nghiệp sai biệt của Tam-ma-địa.

9 – Tăng thượng tuệ học

Luận nói: Như vậy là đã nói về sự thù thắng của tăng thượng tâm học. Vậy làm thế nào thấy được sự thù thắng của tăng thượng tuệ học?

Đó là trí vô phân biệt như tự tính, sở y, nhân duyên, sở duyên, hành tướng, nhiệm trì, trợ bạn, dị thục, đẳng lưu, xuất ly, đến cứu cánh, được thắng lợi sau khi gia hành vô phân biệt, sai biệt, thí dụ, tác sự vô công dụng, , thậm thâm. Nên biết rằng trí vô phân biệt được gọi là sự thù thắng của tuệ tăng thượng.

Giải thích: Đến đây nói về tuệ tăng thượng. Trong đây ý nói trí vô phân biệt gọi là tuệ tăng thượng. Đây có 3 thứ. Một là trí gia hành vô phân biệt, tức là tuệ tầm tư. Hai là trí căn bản vô phân biệt, tức là tuệ chính chứng. Ba là trí hậu đắc vô phân biệt, tức là tuệ khởi dụng. Trong đây cái tuệ hi vọng tìm cầu là tuệ tăng thượng thứ nhất. Tuệ nội chứng là tuệ tăng thượng thứ hai. Tuệ nhiếp trì là tuệ tăng thượng thứ ba. Nay lại thành lập trí vô phân biệt là vì duy chỉ trí này gồm thông nhân quả. Trí tầm tư là nhân của trí này. Trí hậu đắc là quả của trí này. Vì vậy thành tựu trí này là thành thành tựu cả hai trí kia.

Luận nói: Trong đây tự tính của trí vô phân biệt lìa 5 tướng: một là lìa sự không tác ý, hai là lìa lỗi có tầm có tứ, ba là lìa tưởng thụ diệt, tịch tĩnh, bốn là lìa sắc tự tính, năm là lìa các phân biệt đối với nghĩa của chân như. Phải biết rằng lìa 5 tướng này gọi là trí vô phân biệt.

Giải thích: Điều phải nói trước là trí vô phân biệt có tự tính. Trong đây thể tướng gọi là tự tính. Nghĩa là trí vô phân biệt của các Bồ-tát lìa 5 thứ tướng làm tự tính. Lìa 5 tướng là nếu không tác ý là trí vô phân biệt. Ngủ say, ngất xỉu là thành trí vô phân biệt. Quá trạng thái có tầm có tứ là trí vô phân biệt. Các địa từ đệ nhị tĩnh lự trở lên thành trí vô phân biệt. Nếu là như vậy thì thế gian cũng có trí vô phân biệt. Nếu trong địa vị tưởng thụ diệt, tâm tâm pháp không chuyển là trí vô phân biệt. Các địa vị diệt định, không có tâm cho nên trí cũng không thành. Nếu như tự tính của sắc là trí vô phân biệt, như các sắc kia là ngoan độn vô tư thì trí này phỉ thành ngoan độn vô tư. Lại còn nghĩa khác là nếu như tính của sắc thì không thành trí. Nếu nơi chân nghĩa chuyển khác thành kế đạc thì trí vô phân biệt phải thành có phân biệt. Nghĩa là phân biệt nói đây là chân nghĩa. Nếu trí lìa 5 tướng như vậy, ở trong chân nghĩa chuyển trong chân nghĩa không khác kế đạc, đó là chân nghĩa vô phân biệt trí. Khi có tướng duyên chân nghĩa như vậy, ví như nhãn thức không khác kế đạc, thì chính là nghĩa đó.

Luận nói:

Trong sự thành lập các tướng của trí vô phân biệt như đã nói. Ở đây còn có nhiều tụng như sau:

Giải thích: Trên đây lược nói sự thành lập trí vô phân biệt.

Ngoài ra còn có nhiều tụng nói rộng.

Luận nói:

Tự tính các Bồ-tát,

Xa lìa 5 thứ tướng,

Là trí vô phân biệt,

Không chấp trước chân nghĩa.

Giải thích: Do bài tụng đầu hiển thị trí vô phân biệt. Nghĩa tự tính ban đầu đã nói như vậy. Tự tính trí này dựa theo kia mà chuyển. Tụng tiếp theo sẽ nói đến.

Luận nói:

Sở y các Bồ-tát,

Chẳng tâm mà là tâm,

Là trí vô phân biệt,

Chủng loại bất tư nghị.

Giải thích: Đã nói trí vô phân biệt như vậy. Phải nói y vào tâm là y vào phi tâm. Nếu y vào tâm có thể tư lường, cho nên nói tâm y vào tâm mà chuyển là vô phân biệt không đúng đạo lý. Nếu y vào phi tâm thì không thành trí. Để tránh 2 lỗi ấy nên nói tụng này. Sở y của trí này không gọi là tâm, vì bất tư nghị. Cũng chẳng phải phi tâm, vì tâm dẫn dắt. Đây sinh sở y là các chủng loại của tâm, cũng gọi là tâm nhân đấy mà sinh. Tụng tiếp sẽ hiển thị.

Luận nói:

Nhân duyên các Bồ-tát,

Do đa văn huân tập,

Là trí vô phân biệt,

Và tác ý đúng lý.

Giải thích: Nhân duyên các Bồ-tát, nghĩa là nhân của trí này. Do đa văn huân tập, nghĩa là do nghe âm thanh người khác huân tập. Và tác ý đúng lý, nghĩa là huân tập này là nhân ý ngôn tác ý đúng lý, trí vô phân biệt nhân đây sinh. Còn có sở duyên gì, tụng tiếp sẽ hiển thị.

Luận nói:

Sở duyên các Bồ-tát,

Là pháp tính ly ngôn,

Là trí vô phân biệt,

Tức chân như vô ngã.

Giải thích: Pháp tính không thể nói, nghĩa là do tính biến kế sở chấp, tất cả pháp đều không thể nói. Những gì gọi là tính không thể nói được? Là tính vô ngã hiển thị chân như, biến kế sở chấp Bổ-đặcgià-la và tất cả pháp đều không tự tính gọi là tính vô ngã. Tức cái vô tính này hiển thị cái hữu tính, gọi là chân như. Vì chớ nên nói đoạn diệt nên nói như thế. Hành tướng của sở duyên và sở tác được hiển thị ở tụng tiếp theo.

Luận nói:

Hành tướng các Bồ-tát,

Lại ở trong sở duyên,

Là trí vô phân biệt,

Sở tri kia vô tướng.

Giải thích: Hành tướng của Bồ-tát ở trong sở duyên hiện vô tướng. Nghĩa là trí này bình đẳng trong chân như, bình đẳng sinh khởi cái tướng không khác vô tướng làm hành tướng. Như nhãn lấy sắc thấy tướng xanh v.v…, chẳng phải cái xanh này v.v… có khác với sắc. Đây cũng như vậy. Trí với chân như hành tướng không khác. Trong đây lại nói 2 tụng để giải thích nghi ngờ.

Luận nói:

Tự tính nghĩa tương ưng,

Chỉ là sở phân biệt,

Các chữ tương ưng nhau,

Là nghĩa của tương ưng.

Chẳng lìa năng thuyên kia,

Mà sở duyên trí chuyển,

Chẳng phải thuyên không đồng,

Tất cả không thể nói.

Giải thích: Nếu tất cả pháp đều không thể nói thì lấy gì làm sở phân biệt? Vì để giải thích nghi vấn này nên nói như vậy. Nói nghĩa tương ưng tự tính chỉ là sở phân biệt không gì khác, nghĩa là ngay tương ưng là nghĩa của tự tính. Là sở phân biệt chẳng phải lìa nơi đây nên nói không gì khác. Đây làm sao thành? Để thành lập hai lần nên lại nói như vậy. Các chữ lần lượt tương ưng gọi là nghĩa tương ưng. Nghĩa là mỗi chữ mỗi chữ riêng biệt liên tục tuyên truyền để thành nghĩa đó, là nghĩa tương ưng. Như nói Chước-sô, 2 chữ không đứt rời thành nghĩa con mắt. Nghĩa tương ưng đó là sở phân biệt. Lại nữa, tất cả pháp đều không thể nói, nhân cái gì thành lập cho nên nói là phi ly. Cái trí năng thuyên kia chuyển ở nơi sở thuyên. Bởi nếu không rõ cái tên năng thuyên, thì không sinh hiểu biết nghĩa sở thuyên. Cho nên tất cả pháp đều không thể nói. Nếu nói thì phải đợi cái tên của năng thuyên mới khởi sự hiểu biết của nghĩa sở thuyên. Để ngăn chận điều này nên lại nói như vậy, không phải thuyên không đồng. Bởi tên năng thuyên với nghĩa sở thuyên không tương xứng nhau vì tướng khác nhau, nên năng thuyên sở thuyên đều không thể nói. Do nguyên nhân này nên nói tất cả pháp đều không thể nói. Tri vô phân biệt nhiệm trì cái gì?

Luận nói:

Nhiệm trì các Bồ-tát,

Là trí vô phân biệt,

Các hạnh hậu sở đắc,

Là tiến thú tăng trưởng.

Giải thích: Do trí vô phân biệt và hậu sở đắc, được Bồ-tát hạnh. Hạnh này tức dựa vào trí vô phân biệt. Là tiến thú tăng trưởng, tức là khiến các hạnh Bồ-tát như vậy được tăng trưởng. Trí vô phân biệt là nhiệm trì. Trí này lấy gì làm trợ bạn?

Luận nói:

Trợ bạn các Bồ-tát,

Nói có 2 thứ đạo,

Là trí vô phân biệt,

Năm tính đến bờ kia.

Giải thích: Hai thứ đạo là tư lương đạo và y chỉ đạo. Tư lương đạo, nghĩa là thí, giới, nhẫn cùng với tinh tiến Ba-la-mật-đa. Y chỉ đạo là tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Do trước nói Ba-la-mật-đa sinh nhiều các thiện và dựa vào tĩnh lự Ba-la-mật-đa trí vô phân biệt liền được sinh trưởng. Trí này gọi là tuệ Ba-la-mật-đa. Cho đến chưa được Phật quả, trí vô phân biệt cảm quả dị thục ở đâu?

Luận nói:

Dị thục các Bồ-tát,

Ở trong 2 Phật hội,

Là trí vô phân biệt,

Do gia hành chứng đắc.

Giải thích: Ở trong 2 Phật hội, là trong hội của thụ dụng thân và trong hội của biến hóa thân. Nếu khi phân biệt gia hành chuyển, thụ sinh trong hội của biến hóa thân thụ quả dị thục. Nếu đã chứng đắc trí vô phân biệt thì thụ sinh trong hội của thụ dụng thân thụ quả dị thục. Để hiển thị nghĩa này, nên lại nói do gia hành chứng đắc. Trí vô phân biệt ai là đẳng lưu?

Luận nói:

Đẳng lưu các Bồ-tát,

Trong các đời về sau,

Là trí vô phân biệt,

Tự thể thắng hơn lên.

Giải thích: Các Bồ-tát đẳng lưu trong các đời về sau, là như trước nói là các đời về sau trong đại hội của 2 thân. Là trí vô phân biệt tự thể chuyển thắng hơn, nghĩa là tu trí vô phân biệt lần lần chuyển thắng hơn, nên biết đó là quả đẳng lưu. Trí vô phân biệt thoát ly như thế nào?

Luận nói:

Xuất ly các Bồ-tát,

Được thành tựu tương ưng,

Là trí vô phân biệt,

Nên biết trong 10 địa.

Giải thích: Các Bồ-tát thoát ly, nghĩa là tiến đến cứu cánh gọi là xuất ly, tức là tiến đến nghĩa Đại Niết-bàn. Được thành tựu tương ưng là trí vô phân biệt, nghĩa là trước tiên thủ hộ trí này, gọi là được tương ưng, tiếp đến sau vô lượng trăm ngàn Đại kiếp thành tựu tương ưng. Nên biết trong 10 địa, nghĩa là từ sơ địa đến địa thứ 10 tuần tự như vậy. Trí này ở sơ địa chỉ gọi là đắc, nghĩa là đạt được.Về sau thời gian dài mới gọi là thành tựu. Cho nên Bồ-tát trải qua vô số kiếp mới chứng Niết-bàn. Do thời gian đó mới đi đến cứu cánh. Ai là cứu cánh trí vô phân biệt? Như trước nói lần lượt đạt được.

Luận nói:

Cứu cánh các Bồ-tát,

Được thanh tịnh 3 thân,

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại cao tột.

Giải thích: Được thanh tịnh 3 thân, là nghĩa được 3 thân thanh tịnh của Như Lai. Nói thanh tịnh, nghĩa là trong sơ địa chỉ được 3 thân, đến địa thứ 10 mới hoàn toàn thanh tịnh. Được tự tại cao tột, nghĩa là trí vô phân biệt không phải chỉ được chứng đắc 3 thân thanh tịnh làm cứu cánh mà còn được 10 thứ tự tại. Sau sẽ nói các tướng ấy. Trí vô phân biệt có những lợi ích thù thắng gì? Trong đây có 3 thứ trí vô phân biệt. Một là trí gia hành vô phân biệt. Hai là trí căn bản vô phân biệt. Ba là trí hậu đắc vô phân biệt. Trong đây trí gia hành vô phân biệt, nghĩa là Bồ-tát ban đầu nghe lý vô phân biệt từ người khác, sau đó tuy chưa thể tự thấy lý này mà sinh thắng giải. Rồi thắng giải này làm chỗ dựa phương tiện suy tìm lý vô phân biệt. Đó gọi là trí gia hành vô phân biệt. Do đó có thể sinh trí vô phân biệt. Cho nên cũng được gọi tên là vô phân biệt. Như vậy là thắng lợi vô nhiễm của trí gia hành vô phân biệt. Thí dụ như thế nào?

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Các ác nghiệp cực nặng,

Chỉ nhờ tin và hiểu.

Giải thích: Vì muốn hiển thị trí vô phân biệt kia không gì có thể nhiễm nên nói các thứ ác nghiệp cực nặng. Để hiển thị nguyên nhân không thể nhiễm nên nói chỉ tin và hiểu. Do chie có tín lạc lý vô phân biệt mà phát khởi thắng giải, cho nên có thể đối trị các thứ ác thú. Đây là hiển thị không nhiễm các ác. Còn thắng lợi không nhiễm của trí căn bản vô phân biệt, thí dụ như gì?

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Giải thoát tất cả chướng,

Được thành tựu tương ưng.

Giải thích: Từ cái gì giải thoát? Là giải thoát tất cả các chướng. Do cái gì giải thoát? Thành tựu tương ưng như vậy là giải thoát. Do ở các địa chỉ được tương ưng. Lấy thành tựu tương ưng làm nhân cho nên đây là hiển thị trí vô phân biệt có thể trị các chướng. Còn thắng lợi không nhiễm của trí hậu đắc vô phân biệt thí dụ như gì?

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Thường ở trong thế gian,

Không bị thế gian nhiễm.

Giải thích: Do sức của trí này quán sát các việc lợi lạc các hữu tình, nên nghĩ đi đến thế gian thụ sinh, đã thụ sinh rồi không bị nhiễm tất cả pháp thế gian. Tám pháp thế gian là lợi, suy, danh dự, hủy báng, khen ngợi, chê bai, khổ, vui. Vì từ vô phân biệt trí sinh nên trí này cũng được gọi là vô phân biệt. nay sẽ hiển thị sự khác nhau của 3 trí.

Luận nói:

Như người câm muốn biết,

Đúng như người câm biết,

Như người không câm biết,

Ba trí ví như vây.

Như người ngu muốn biết,

Đúng như người ngu biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí ví như vậy.

Như 5 thức muốn biết,

Đúng như 5 thức biết,

Và như Mạt-na biết,

Ba trí ví như vậy.

Như người chưa hiểu luận,

Muốn hiểu được nghĩa luận,

Lần lượt ví 3 trí,

Như Gia hành vân vân.

Giải thích: Trong đây 3 trí phải biết khác nhau như thí dụ trên. Ví như người câm muốn biết nghĩa của cảnh mà không nói được. Phải biết trí gia hành vô phân biệt cũng như vậy. Ví như người câm biết nghĩa của cảnh mà hoàn toàn không nói được. Phải biết trí căn bản vô phân biệt cũng như vậy. Như người không câm biết nghĩa của cảnh rồi có thể nói ra. Phải biết trí hậu đắc vô phân biệt cũng như vậy. Trong đây ý nhận lấy, tạo ra văn tự, gọi là ngôn thuyết. Như trong bài tụng nói về người ngu, không hiểu rõ gọi là ngu. Như thí dụ về người câm ở trước, chính là thiết lập sự khác nhau của 3 trí. Như bài tụng nói 5. Năm, là nhãn v.v… 5 cái vô phân biệt. Phải biết rằng trong đây nói muốn biết, biết, đều là vô phân biệt. Gia hành, căn bản, sự khác nhau đối với nghĩa chân như cũng vậy. Như ý thụ lấy nghĩa cũng có thể phân biệt. Như vậy hậu đắc cũng có thể thụ lấy nghĩa, cũng có thể phân biệt. Như vậy 3 trí đã được thiết lập nghĩa khác nhau trong tí dụ về người câm ở trước. Trong tụng của luận này, như chưa hiểu luận muốn tìm hiểu luận, phải biết trí gia hành vô phân biệt cũng như vậy. Như ôn tập luận chỉ thụ nơi pháp, phải biết trí căn bản vô phân biệt cũng như vậy. Trong đây pháp là ý thủ lấy văn tự như hiểu luận, đối với pháp đối với nghĩa đều có thể lãnh thụ, phải biết trí hậu đắc vô phân biệt cũng như vậy. Các câu nói tuần tự hiển thị 3 trí tựa như sự lãnh thụ khác nhau nghĩa của pháp. Tiếp đến sẽ hiển thị thí dụ khác nhau giữa căn bản và hậu đắc.

Luận nói:

Như lúc người nhắm mắt,

Là trí vô phân biệt,

Lúc người ấy mở mắt,

Là trí của hậu đắc.

Phải biết như hư không,

Là trí vô phân biệt,

Trong đó hiện sắc tượng,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Giải thích: Bài tụng đầu hiển thị 2 trí khác nhau. Tướng của chúng có thể thấy rõ. Nói như hư không, là ví như hư không biến khắp cả không nhiễm. Chẳng phải năng phân biệt, chẳng phải sở phân biệt. Phải biết trí căn bản vô phân biệt cũng như vậy. Biến khắp tất cả pháp mà chỉ có một mùi vị tính không, nên gọi là chu biến. Tất cả các pháp không thể làm cho bị nhiễm nên gọi là không nhiễm. Tự nó không phân biệt, nên gọi là chẳng phải năng phân biệt. Cũng không bị cái khác phân biệt hành tướng, nên gọi là chẳng phải sở phân biệt. Như vậy phải biết trí vô phân biệt ví như hư không. Nói hiện sắc tượng, là ví như trong hư không các sắc màu hình tượng hiện lên có thể trông thấy phân biệt được. Phải biết trí hậu đắc vô phân biệt cũng như vậy. Cái sở phân biệt đó cũng là năng phân biệt. Nếu lấy trí vô phân biệt như vậy tu thành Phật quả. Đã lìa công dụng tác ý phân biệt, làm sao có thể thành lợi ích an lạc hữu tình?

Luận nói:

Như Mạt-ni, nhạc trời,

Vô tư mà thành sự,

Rất nhiều Phật sự thành,

Cũng thường từ vô tư.

Giải thích: Lìa phân biệt mà việc làm thành tựu, trong luận này thí dụ như ngọc Mạt-ni và nhạc trời, hiển thị như ngọc như ý tuy không phân biệt mà có thể làm thành các việc theo ý thích của hữu tình. Lại như nhạc trời không ai đánh mà hòa tấu theo ý thích của hữu tình ở đó phát ra các thứ âm thanh. Như vậy phải biết trí vô phân biệt của chư Phật Bồ-tát, tuy lìa phân biệt mà có thể làm thành các sự nghiệp. Tiếp đến sẽ hiển thị tính rất sâu của trí vô phân biệt này. Trí này là duyên tính y tha khởi, phân biệt tự chuyển thành duyên các cảnh. Nếu vậy có lỗi gì? Nếu duyên phân biệt thì phải không thành tính vô phân biệt. Nếu duyên các cảnh, các cảnh chắc chắn là không, làm sao duyên được?

Luận nói:

Chẳng đây cũng chẳng đâu,

Chẳng phải trí mà trí,

Với cảnh nào có khác,

Trí thành vô phân biệt.

Giải thích: Chẳng phải ở đây cũng chẳng phải ở đâu , nghĩa là trí này không duyên phân biệt làm cảnh, vì vô phân biệt. Chẳng duyên các cảnh khác, tức duyên y tha. Các pháp phân biệt và tính của pháp chân như là cảnh giới cho nên không thể nói pháp và tính của pháp là một hay là khác. Đây nói trí căn bản vô phân biệt không duyên phân biệt cũng không duyên những cái khác. Lại nữa, trí căn bản vô phân biệt này là trí hay là chẳng phải? Nếu vậy có lỗi gì? Nếu là trí thì trí sao không phân biệt? Nếu chẳng phải trí thì sao gọi là trí vô phân biệt? Đáp câu hỏi này, chẳng phải trí mà là trí, là như thế này. Đây hiển thị trí căn bản vô phân biệt chẳng phải nhất định là trí. Bởi trong trí gia hành phân biệt, trí này không sinh cho nên cũng chẳng phải là phi trí. Bởi từ nhân của trí gia hành phân biệt mà được sinh nên lại có nghĩa khác. Nói chẳng phải ở đây, chẳng phải nơi khác, chẳng phải trí mà là trí, nghĩa là bởi chẳng phải ở nơi đây, vì phân biệt chuyển nên nói là phi trí. Bởi chẳng phải ở nơi khác, tức ở nơi phân biệt pháp tính chuyển nên cũng là trí. Hai câu trước sau giải thích cho nhau. Với cảnh không có khác, trí thành vô phân biệt, nghĩa là chẳng phải như trí gia hành vô phân biệt, có tính năng thủ sở thủ chuyển gọi là vô phân biệt. Với cảnh sở thủ không sai biệt chuyển bình đẳng bình đẳng gọi là vô phân biệt. Trí này không trụ trong 2 tính sở thủ năng thủ, như Bạc-già-phạm có nói trong các kinh: Tất cả pháp đều không phân biệt. Lại nói tụng để hiển thị nghĩa vô phân biệt.

Luận nói:

Phải biết tất cả pháp,

Bản tính vô phân biệt,

Vì sở phân biệt không,

Trí vô phân biệt không.

Giải thích: Phải biết bản tính tất cả pháp là vô phân biệt, nghĩa là nghĩa của tất cả pháp bản tính từ xưa nay là vô phân biệt. Bởi vì sao? Vì không có sở phân biệt. Đây tức hiển thị cái sở phân biệt là không, cho nên bản tính các pháp là không có phân biệt. Nếu sở phân biệt là không có nên bản tính các pháp là vô phân biệt thì tại sao xưa nay tất cả hữu tình không được giải thoát? Đáp câu hỏi này như thế này. Trí vô phân biệt không có cái này hiển thị cái kia. Không có trí vô phân biệt, tuy tất cả pháp xưa nay tự tính không có phân biệt mà không giải thoát. Nếu trong các pháp, lý vô phân biệt sinh trí chân chứng, hiện thấy các pháp là tính vô phân biệt liền được giải thoát. Đây vì chưa sinh nên chưa được giải thoát. Tria chứng chân, phải biết tức là trí vô phân biệt. Nay sẽ nói rõ sai biệt của 3 trí này.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10