NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 5

3 – 2. Tướng sở tri

Luận nói: Lại nữa làm sao biết được, như tự tính y tha khởi, tự tính biến kế sở chấp hiển hiện nhưng không xứng thể?

Vì trước khi có cái tên thì cái biết không có, nói xứng thể là mâu thuẫn. Do tên có nhiều, nhiều mâu thuẫn với thể. Cho nên do tên không quyết định mà mâu thuẫn với tạp thể. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Trước tên , không trí giác,

Tên nhiều không nhất định.

Thành xứng thể, nhiều thể,

Tạp thể mâu thuẫn nhau.

Pháp không mà như có,

Không nhiễm mà có tịnh.

Nên biết như ảo thuật,

Cũng tựa như hư không.

Giải thích: Nếu phần biến kế sở chấp của tự tính y tha khởi tuy có thể hiển hiện, nhưng không gọi là thể của nó. Để hiển thị nghĩa này nên nói do tên trước mà biết, không gọi đó là cái thể, vì mâu thuẫn nhau. Nếu y tha khởi và biến kế sở chấp là đồng một tướng thì không phải đợi tên mới biết được nghĩa. Như chấp có cái bình, nếu tách rời tên cái bình thì trong nghĩa cái bình không có sự hiểu biết về cái bình. Còn nếu tên cái bình này và nghĩa cái bình kia là đồng một tướng thì phải chuyển thành sự hiểu biết về cái bình. Vì không phải một tướng nên không chuyển. Do đó tên và nghĩa mà nói như thể và tướng thì thành mâu thuẫn. Trong đây an lập tên tức là y tha khởi, nghĩa tức là biến kế sở chấp. Vì y tha khởi do tên, thế lực mà thành biến kế. Lại nữa trong một nghĩa có nhiều tên. Nếu tên và nghĩa đồng một tướng thì nghĩa cũng phải như tên phỉ có nhiều thứ. Nếu vậy nghĩa này phải thành nhiều thể. Một nghĩa nhiều thể là mâu thuẫn. Vì vậy hai tính nếu đồng một tướng thì thành lỗi mâu thuẫn thứ hai. Nếu tên không nhất định, như lấy một tiếng “cù” chuyển thành 9 nghĩa. Nếu chấp cho rằng tên và nghĩa đồng một tướng thì nhiều nghĩa mâu thuẫn nhau phải đồng một thể. Như vậy là thành lỗi mâu thuẫn thứ ba. Do chấp con bò v.v…không phải một tướng nghĩa đồng một tính, cho nên Già-tha thứ nhất làm rõ lại nghĩa này. Trong đây nói thành, là làm rõ y tha khởi và biển kế sở chấp không thành một nghĩa. Nói “Pháp không mà như có” một Già-tha này lấy các thí dụ như ảo hóa v.v… khai ngộ đệ tử. Đệ tử có 2 nghi vấn mâu thuẫn nhau: Vì sao pháp không mà hiển hiện có được? Vì sao không nhiễm mà có thanh tịnh? Trong đây 2 thí dụ giải thích nghi vấn này. Như ảo hóa v.v…là ví như ảnh tượng ảo hóa thật vô sở hữu mà có thể hiện ra được. Nghĩa ở đây cũng vậy. Tuy có thể hiện ra được nhưng chẳng phải thất có. Nói tựa như hư không là ví như hư không, tuy chẳng phải mây v.v… có thể làm nhiễm ô vì tính thanh tịnh, nhưng khi không có mây thì gọi là thanh tịnh. Các pháp cũng như vậy, tuy thật không nhiễm vì nó thanh tịnh, nhưng khi lìa hết các khách trần chướng cấu thì nói là thanh tịnh.

Luận nói: Lại nữa vì sao như chỗ hiển hiện là không thật có, mà tự tính y tha khởi không phải tất cả , tất cả đều không có. Nếu tự tính y tha khởi là không, thì tự tính viên thành thật cũng không. Nếu tự tính y tha khởi là không , thì tất cả đều không. Nếu tự tính y tha khởi và viên thành thật là không, thì sẽ thành cái lỗi là không có nhiễm tịnh. Nhưng tạp nhiễm và thanh tịnh đã là hiện có, cho nên không nên nói tất cả đều không. Ở đây có bài tụng như sau:

Nếu không y tha khởi,

Viên thành thật cũng không.

Nhất thiết chủng nếu không,

Mãi mãi không nhiễm tịnh.

Giải thích: Nếu y tha khởi có thể coi là không, đã vậy thì sao không gọi tất cả đều vô sở hữu? Nếu đây không có thì tính viên thành thật cũng phải không có. Bởi vì sao? Vì có tạp nhiễm thanh tịnh. Nếu hai đều không thì tất cả chủng đều vô sở hữu. Nay sẽ nói rõ điều này. Chẳng phải đều không có. Có sự kích bác về lỗi tạp nhiễm thanh tịnh. Tạp nhiễm thanh tịnh đã có thể hiện ra, cho nên 2 tính đều không phải không có. Nếu chấp là không tức bác bỏ sự hiện có. Tạp nhiễm thanh tịnh nói là vô sở hữu.

Luận nói: Chư Phật Thế Tôn nói giáo nghĩa Phương Quảng trong Đại thừa. Giáo nghĩa ấy nói như sau:

Nên biết tự tính của biến kế sở chấp như thế nào?

Nên biết vì tự tướng sai biệt nên nói là không thật có.

Nên biết tự tính của y tha khởi như thế nào?

Nên biết nó như ảo thuật, như sóng nắng, như chiêm bao, như ảnh tượng, như bóng sáng, như tiếng vang trong hang, như trăng dưới nước, như biến hóa.

Nên biết tự tính của viên thành thật như thế nào?

Nên biết nói rõ 4 pháp thanh tịnh. Những gì là 4 pháp thanh tịnh? Một là tự tính thanh tịnh, tức thắng nghĩa của pháp giới chân như, chân không, và thật tế không có tướng. Hai là lìa cấu uế thanh tịnh, tức lìa tất cả các chướng nhơ bẩn. Ba là được thanh tịnh đạo, tức các pháp Bồ-đề phần, Ba-la-mật-đa v.v…Bốn là sinh cảnh thanh tịnh, tức các giáo pháp Đại thừa vi diệu, duyên từ giáo pháp thanh tịnh này nên chẳng phải là tự tính biến kế sở chấp, là tính đẳng lưu của pháp giới rất thanh tịnh nên chẳng phải là tự tính y tha khởi. Như vậy 4 pháp này gồm thâu tất cả các pháp thanh tịnh. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Như huyễn, là nói sinh,

Nói không, là biến kế,

Nói 4 thứ thanh tịnh,

Là nói viên thành thật.

Tự tính và ly cấu,

Thanh tịnh đạo sở duyên,

Tất cả pháp thanh tịnh,

Đều gồm trong 4 tướng.

Giải thích: Tự tính thanh tịnh nghĩa là tự tính này xưa nay thanh tịnh, tức là tự tính chân như, thật có tướng chung bình đẳng của tất cả hữu tình. Do có tự tính thanh tịnh này nên nói tất cả pháp có Như lai tạng. Nói ly cấu thanh tịnh, tức chân như này xa lìa chướng cấu của phiền não sở tri, tức do đó chân như thanh tịnh hiển thành chư Phật. Nói được đạo thanh tịnh nghĩa là có thể được Thánh đạo chân như tức là thanh tịnh. Tức là niệm, trụ v.v… các pháp Bồ-đề phần cùng với tất cả Ba-la-mật-đa. Nói sinh cảnh thanh tịnh, tức là sinh cảnh giới sở duyên có thể chứng pháp Bồ-đề phần này. Sinh cảnh giới này tức là thanh tịnh nên gọi là sinh cảnh thanh tịnh. Tức 12 phần giáo trong khế kinh v.v… Bởi vì sao? Nếu Thánh giáo này là biến kế sở chấp thì phỉ thanh nhân tạp nhiễm. Nếu là y tha khởi thì phải thành hư vọng. Cái tính đẳng lưu từ pháp giới tột cùng thanh tịnh nên chẳng phải hư vọng. Đã lìa 2 tự tính nên thành viên thành thật. Lại nữa 4 thứ này trong Đại thừa tùy nói một thứ là nói tính viên thành thật. Trong đây 2 thứ đầu không có biến đổi khác, viên thành thật, nên gọi là viên thành thật. Hai thứ sau không có điên đảo, viên thành thật, nên gọi là viên thành thật. Trong Già-tha sau có nói đủ nghĩa này. Ảo hóa v.v… nói trong sinh, nghĩa là y tha khởi trong đó gọi là sinh. Nếu ở nơi đó nói tất cả pháp ví như việc ảo hóa cho đến biến hóa, nên biết rằng đây là nói tính y tha khởi, nói không kế chấp. Nếu ở nơi đó nói không có sắc, cho đến nói không có tất cả các pháp, nên biết rằng đó là nói tính biến kế sở chấp.

Luận nói: Lại nữa vì lý do gì kinh nói tự tính y tha khởi ví như ảo hóa v.v…?

Vì để trừ mối nghi ngờ hư vọng đối với tự tính y tha khởi.

Những mối nghi ngờ ấy như thế nào?

Là những nghi ngờ hư vọng đối với tự tính y tha khởi, do đó nghi ngờ như sau:

Vì sao không thật có, mà thành cảnh giới của hiện hành được?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảo hóa.

Vì sao không thật có, mà có tâm tâm sở pháp chuyển biến?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như sóng nắng.

Vì sao không thật có, mà có các thụ dụng sai biệt đáng ưa , không đáng ưa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như chiêm bao.

Vì sao không thật có, mà lại sinh các quả báo đáng ưa không đáng ưa của các nghiệp tịnh và bất tịnh khác nhau?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảnh tượng.

Vì sao không thật có, mà có các thức chuyển biến?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như bóng sáng.

Vì sao không thật có, mà có những phát ngôn vô nghĩa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như tiếng vang trong hang.

Vì sao không thật có, mà thật có các cảnh Tam-ma-địa chuyển hiện?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như trăng trong nước.

Vì sao không thật có, mà các Bồ-tát dùng tâm không điên đảo, thụ sinh để làm việc lợi lạc hữu tình?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như biến hóa.

Giải thích: Vì nghĩa này nên nơi y tha khởi nói các thí dụ ảo hóa v.v… Nay sẽ hiển thị. Trong đây hư vọng nghi ngờ nghĩa là đối với tính hư vọng y tha khởi có các nghi ngờ. Để trừ nghi này nên nói các thí dụ ảo hóa v.v… hiển thị y tha khởi.

Nếu không thật có, làm sao thành cảnh?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảo hóa làm rõ y tha khởi. Ví như ảnh tượng ảo hóa tuy không thật có mà thành cảnh giới. Nghĩa cũng như vậy. Lại có nghi khác:

Nếu không thật có, tức không sở duyên, thì tâm tâm sở pháp làm sao chuyển biến?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như sóng nắng hiển thị y tha khởi. Trong đó sóng nắng ví dụ tâm tâm pháp, nước ví dụ cho thật nghĩa. Ví như sóng nắng lay động, tuy không có thật mà thấy như có nước. Các tâm tâm pháp cũng như vậy, do dao động nên tuy không có thật mà sinh tưởng như có thật. Các ngu phu lại còn nghi:

Nếu không thật có, làm sao có các thụ dụng sai biệt đáng ưa , không đáng ưa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như chiêm bao hiển thị y tha khởi. Như trong chiêm bao, tuy không có thật mà thấy hiện ra bao nhiêu cảnh sai biệt đáng ưa không đáng ưa. Đây cũng như vậy. Lại có nghi rằng:

Các nghiệp tịnh và bất tịnh đã không thật có, làm sao sinh các quả báo đáng ưa không đáng ưa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảnh tượng hiển thị y tha khởi. Ví như ảnh tượng là không thật có, tức là từ nơi bản chất mà khởi cái thấy ảnh tượng, nhưng ảnh tượng không có thật. Đây cũng như vậy. Nên biết rằng tuy không có quả chân thật đáng ưa không đáng ưa, nhưng có hiện ra. Lại có nghi ngờ khác:

Nếu không thật có, làm sao có các thức chuyển biến?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như bóng sáng hiển thị y tha khởi. Như người chơi đùa với bóng, thấy có nhiều hình bóng, nhưng các hính bóng là không thật có. Thức cũng như vậy. Tuy có nhiều thức biến hiện nhưng không thật có. Lại có nghi ngờ khác:

Nếu không thật có, làm sao có vô lượng phẩm loại hý luận phát ngôn vô nghĩa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như tiếng vang trong hang hiển thị y tha khởi. Ví như tiếng vang, tuy không có thật nhưng có thể nghe. Ngôn thuyết hý luận cũng như vậy, tuy không có thật nhưng có thể nghe thấy. Lại có nghi ngờ khác:

Nếu không thật có, làm sao thế gian định tâm, thật có tâm pháp?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như trăng trong nước hiển thị y tha khởi. Ví như trăng trong nước là không thật có, do nước trong lặng nên thấy có mặt trăng hiện. Định tâm cũng vậy. Cảnh sở duyên là không thật có mà có thể hiện ra được. Nước dụ cho định, vì tính của định là trong lặng. Lại có nghi ngờ khác:

Nếu hữu tình là không thật có, sao các Bồ-tát chứng chân việc giác tuệ lợi lạc hữu tình làm trước tiên, nhiếp thụ tự thể trong các nẻo thú sinh tử?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như biến hóa hiển thị y tha khởi. Ví như biến hóa là không có thật, do sức của người biến hóa mà thành ra các việc, chứ các biến hóa đó không có thật. Phải biết trong đây cũng vậy. Tự thể sở thụ tuy không thật có mà có thể làm tất cả an lạc lợi ích hữu tình, sở thụ tự thể có thể biến hiện.

Lại có nghĩa khác về ý Thế Tôn nói 8 thí dụ. Nay sẽ nói rõ. Trong đây thí dụ về ảo hóa là để trừ 6 thứ nội xứ của nhãn v.v… Phải biết hiển thị nhãn v.v… 6 xứ ví như các ảnh tượng ảo hóa, tuy không thật có nhưng có thể hiển hiện. Nói thí dụ sóng nắng để trừ khí thế gian, do đại chủng kia, trong sóng nắng thật không có nước, do sức dao động nên thấy như nước. Nói thí dụ chiêm bao để trừ cảnh sở thụ dụng như sắc v.v… hiển thị như chiêm bao. Sắc v.v…không thật có nhưng có thể làm nhân khởi các thụ dụng sai biệt đáng ưa không đáng ưa. Nói thí dụ ảnh tượng để trừ nghiệp quả của thân, hiển thị thân nghiệp thiện bất thiện làm duyên mà có bao nhiêu sắc ảnh tượng sinh khởi. Nói thí dụ tiếng vang trong hang để trừ quả của ngữ nghiệp, hiển thị nhân của ngữ nghiệp cảm quả của ngữ nghiệp như tiếng vang trong hang. Ý nghiệp có 3 thứ: một là phi đẳng dẫn địa, hai là đẳng dẫn địa, ba là văn chủng loại. Nói thí dụ bóng sáng để trừ các quả của ý nghiệp thuộc phi đẳng dẫn địa, hiển thị các quả sở đắc của ý nghiệp này như bóng sáng. Nói thí dụ mặt trăng trong nước để trừ các quả của ý nghiệp thuộc đẳng dẫn địa., hiển thị các quả của ý nghiệp thuộc đẳng dẫn địa như như mặt trăng dưới nước. Nói thí dụ biến hóa để trừ ý nghiệp của văn chủng loại. Văn chủng loại tức là các huân tập của nghe và tư duy. Đây tức hiển thị các sai biệt về văn chủng loại của ý biến chuyển như biến hóa.

Luận nói: Thế Tôn dựa vào mật ý gì, trong Kinh Phạm Vấn nói: Như Lai không bị sinh tử, không được Niết-bàn?

Mật ý của Như Lai là nói trong tự tính của y tha khởi, biến kế sở chấp và viên thành thật, sinh tử và Niết-bàn không sai biệt. Bởi vì sao? Vì chính nơi tự tính y tha khởi, do biến kế sở chấp phân thành sinh tử, do viên thành thật phân thành Niết-bàn.

Giải thích: Như vậy 3 thứ tự tính pháp tướng được nói trong khế kinh đều tùy thuận. Nay sẽ nói rõ. Thế Tôn dựa vào mật ý gì, trong Kinh Phạm Vấn nói: Như Lai không bị sinh tử, không được Niết-bàn? Hỏi mật ý Thế Tôn nói trong tự tính y tha khởi và tự tính viên thành thật, sinh tử Niết-bàn không sai biệt, tức là đáp thì phải giải thích rộng. Tự tính y tha khởi chẳng phải định sinh tử vì do phần viên thành thật thành Niết-bàn, cũng chẳng phải định Niết-bàn vì phần biến kế sở chấp thành sinh tử. Vì vậy cho nên không thể nói nhất định một tính. Do tự tính này nếu được một phần thì phần khác không khác. Y theo ý thú này, trong kinh kia nói Như Lai không bị sinh tử không đắc Niết-bàn.

Luận nói: Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, Bạc-già-phạm nói có 3 thứ pháp: một là phần tạp nhiễm, hai là phần thanh tịnh và ba là hai phần ấy.

Thế Tôn dựa vào mật ý gì đã nói như vậy?

Tức là trong tự tính của y tha khởi thì tự tính của biến kế sở chấp là phần tạp nhiễm, tự tính của viên thành thật là phần thanh tịnh. Tức y tha khởi là 2 phần ấy. Dựa vào mật ý ấy Thế Tôn đã nói như vậy.

Lấy thí dụ gì để làm rõ nghĩa này?

Làm rõ nghĩa này bằng thí dụ đất có chứa vàng. Ví như trong thế gian có 3 thứ có thể được trong đất có vàng: một là cõi địa giới, hai là đất, ba là vàng. Trong cõi địa giới, đất không phải thật có mà có thể có được, vàng là thật có mà không thể có được, khi dùng lửa nung luyện, tướng đất không hiện mà tướng vàng hiện ra. Vì vậy cõi địa giới là 2 phần kia. Thức cũng như vậy, khi lửa trí vô phân biệt chưa nung luyện thì trong thức này hiển hiện những hư vọng của tự tính biến kế sở chấp, còn cái chân thật của tự tính viên thành thật không hiện ra. Nếu thức này khi được lửa trí vô phân biệt nung luyện thì cái chân thật của tự tính viên thành trong thức này hiển hiện, còn những hư vọng của tự tính biến kế sở chấp không hiện ra. Vì vậy cái thức hư vọng phân biệt này, tự tính y tha khởi có 2 phần ấy, như vàng và đất ở trong cõi địa giới.

Giải thích: Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, do mật ý này nói có 3 pháp: Một là phần tạp nhiễm, nghĩa là tự tính biến kế sở chấp là tạp nhiễm. Hai là phần thanh tịnh, nghĩa là tự tính viên thành thật là thanh tịnh. Ba là hai phần kia, nghĩa là tính y tha khởi thông cả hai phần kia. Để hiển thị nghĩa này nên dùng thí dụ vàng chứa trong đất. Trong đây nói chứa tức là chứa chủng tử kia. Nói địa giới là nói cái tính cứng chắc. Đất và vàng là sở tạo sắc. Trong thí dụ này có được 3 pháp. Nghĩa là trong việc chứa này trước hết là hiển hiện có tướng đất, sau mới thấy tướng vàng. Để hiển thị tướng vàng sau mới có được, nên nói lửa nung luyện sau mới được nên vàng là thật có.

Luận nói: Thế Tôn có chỗ nói các pháp là thường, có chỗ nói các pháp là vô thường, có chỗ nói tất cả pháp là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Dựa vào mật ý gì mà Thế Tôn nói như vậy?

Nghĩa là nơi tự tính y tha khởi, do tính viên thành thật phân ra thành thường, do tính biến kế sở chấp phân ra vô thường, và do 2 phần ấy mà thành phi thường phi vô thường. Dựa vào mật ý này, Thế Tôn đã nói như vậy. Như thường vô thường và không hai thì như vậy khổ, vui và không hai, tịnh bất tịnh và không hai, không bất không và không hai, ngã vô ngã và không hai, tịch tĩnh không tịch tĩnh và không hai, có tự tính không tự tính và không hai, sinh không sinh và không hai, diệt bất diệt và không hai, bản lai tịch tĩnh chẳng phải bản lại tịch tĩnh và không hai, tự tính Niết-bàn chẳng phải tự tính Niếtbàn và không hai, sinh tử Niết-bàn và không hai cũng vậy. Những sai biệt như vậy toàn là mật ngữ của chư Phật, phải do 3 tự tính mà quyết định mới hợp lý, như trên nói thường vô thường v.v…Ở đây có một số bài tụng như sau:

Các pháp không thật có,

Nhưng có nhiều biểu hiện.

Phi pháp phi phi pháp,

Nên nói nghĩa không hai.

Y một phần khai hiển,

Thì hữu hoặc phi hữu.

Y hai phần mà nói,

Phi hữu, phi phi hữu.

Như hiển hiện phi hữu,

Cho nên nói là không.

Do hiển hiện như vậy,

Cho nên nói là có.

Tự nhiên tự thể không,

Tự tính không kiên trụ.

Như chấp thủ không có,

Cho là không tự tính.

Do không tự tính nên

Là y chỉ sau đây.

Vốn lặng không sinh diệt,

Tự tính Bát-niết-bàn.

Giải thích: Trong nghĩa của Già-tha nói pháp không thật có nhưng biểu hiện của nó không phải một thứ, theo lần lượt giải thích nhân duyên phi pháp và phi phi pháp. Do thật không có nên phi pháp. Do biểu hiện không phải một thứ nên phi phi pháp. Bởi phi pháp phi phi pháp nên nói không hai nghĩa. Y một phần nghĩa là y một bên. Khai hiển là nói rõ. Hoặc hữu hoặc phi hữu là hoặc là hữu tính hoặc là vô tính. Y hai phần nói phi hữu phi phi hữu là lấy đủ hai phần của tính y tha khởi nói là phi hữu và phi phi hữu. Như hiển hiện phi hữu là như hiện sở đắc không như là có. Cho nên nói là không, là do nghĩa đó nên nói là không. Do hiển hiện như vậy, là do hiển hiện tướng mạo tương tự. Cho nên nói là có, là do nghĩa đó nên nói là có. Nói tất cả pháp không tự tính ý, nay sẽ hiển thị. Tự nhiên không, là do tất cả pháp không lìa các duyên tự nhiên hữu tính, gọi là một thứ không tự tính ý. Tự thể không, là do pháp diệt rồi không sinh trở lại, nên không tự tính. Đây lại là một thứ không tự tính ý. Tự tính không kiên trụ, là do pháp vừa mới sinh, sau một sát-na không có sức có thể trụ, nên không tự tính. Như vậy lý các pháp không tự tính đồng với Thanh Văn. Như chấp thủ không có, nên cho là không tự tính, cái không tự tính này không đồng với Thanh Văn. Bởi như ngu phu chấp thủ tự tính biến kế sở chấp không có như vậy. Do ý này nên y vào lý Đại thừa nói tất cả pháp đều không tự tính. Do không tự tính nên thành, là do tất cả pháp không tự tính cho nên không sinh diệt v.v… đều được thành tựu. Sở dĩ vì sao? Vì do không tự tính nên không có sinh, do không sinh nên không có diệt, vì không sinh diệt nên bản lai tịch tĩnh, bản lai tịch tĩnh nên tự tính Niết-bàn. Nói về sau chỗ y chỉ, tức là về sau nhân đó mà được nghĩa có.

Luận nói: Lại có 4 thứ ý thú và 4 thứ bí mật, tất cả lời Phật nói phải quyết định tùy trường hợp.

Bốn ý thú là: Một là ý thú bình đẳng. Nghĩa là như nói ta xưa kia khi ấy từng ở nơi ấy là bậc chính đẳng giác tên là Thắng Quán. Hai là ý thú khác thời. Nghĩa là như nói: Ai niệm danh hiệu đức Đa Bảo Như Lai tức đã được quyết định vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Lại như nói: Do chỉ cần phát nguyện, liền được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Ba là ý thú khác nghĩa. Nghĩa là như nói: Nếu đã được gặp và phụng sự chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thì mới có thể hiểu nghĩa pháp Đại thừa. Bốn là ý thú tùy ý lạc của chúng sinh. Nghĩa là vì một chúng sinh mà trước khen ngợi sự bố thí sau lại chê. Đối với bố thí như vậy thì đối với việc trì giới và một phần tu pháp cũng như vậy. Đó gọi là 4 thứ ý thú.

Bốn bí mật là: Một là bí mật về sự khiến dẫn nhập. Nghĩa là trong Thanh Văn thừa hoặc trong Đại thừa, dựa vào lý thế tục đế nói có tự tính sai biệt của chúng sinh và các pháp. Hai là bí mật về tướng. Nghĩa là ở nơi đó nói tướng của các pháp làm rõ 3 tự tính. Ba là bí mật đối trị. Nghĩa là ở nơi đó nói 8 vạn 4 ngàn hành tướng đối trị. Bốn là bí mật chuyển biến. Nghĩa là ở nơi đó dùng lời, dùng chữ có nghĩa đặc biệt để hiển thị ý nghĩa đặc biệt. Như có bài tụng như sau:

Biết không vững là vững,

Khéo trụ nơi điên đảo.

Phiến não quấy cùng cực,

Được Bồ-đề cao tột.

Giải thích: Ý thú bí mật có sai biệt, nghĩa là Phật Thế Tôn trước duyên việc ấy, sau vì người khác mà nói, gọi là ý thú. Do quyết định này khiến vào trong Thánh giáo, gọi là bí mật. Ý thú bình đẳng, nghĩa là như có người dùng pháp tương tự nói như thế này: Người ấy tức là ta. Thế Tôn cũng vậy, đặt pháp thân bình đẳng tại trong tâm nói: Ta xưa từng là người ấy v.v…Chẳng phải người ấy xưa là Phật Tì-bátthi tức là Thích-ca Mâu-ni ngày nay. Y theo nghĩa bình đẳng khởi ý thú mà nói như vậy. Ý thú lúc khác, nghĩa là ý thú này khiến biếng nhác là do các nhân kia, đối với các pháp siêng năng tu tập thì các thiện căn đều được tăng trưởng. Ý thú trong đây là hiển thị cái nhân xưng tụng danh hiệu Đa Bảo Như Lai là nhân thăng tiến chứ không phải chỉ có một việc xưng tụng danh hiệu thôi liền quyết định được vô thượng Bồ-đề. Như có thuyết nói do một đồng tiền mà được ngàn đồng tiền. Lẽ nào ở một lúc nào đó trong một ngày nào đó có ý là do một đồng tiền là nhân được ngàn đồng tiền nên nói như vậy, đây cũng như vậy. Do chỉ phát nguyện liền được vãng sinh thế giới Cực Lạc, phải biết đây cũng như vậy. Trong nghĩa khác của ý thú, đối với Đại thừa mới có thể giải nghĩa, nghĩa là đối với nghĩa lý của 3 thứ tự tính, tự chứng cái tướng của nó. Nếu chỉ hiểu rõ nghĩa tùy theo danh ngôn cho là Phật ý thì ngu phu cũng có thể hiểu được. Cho nên biết rằng trong đây nói giải nghĩa, tức là ý tại chứng mà hiểu. Phải do quá khứ gặp và phụng sự nhiều Phật mới hiểu nghĩa pháp Đại thừa. Nói ý thú tùy ý lạc của Bổ-đặc-già-la, nghĩa là vì một chúng sinh mà trước khen ngợi sự bố thí sau lại chê. Ý trong này là trước vì kẻ keo kiệt nên khen ngợi sự bố thí. Sau khi đã vui thích thực hành bố thí rồi thì lại chê là muốn khiến tu thắng hạnh. Nếu không có ý này mà đối với một việc bố thí trước khen sau chê tức thành mâu thuẫn. Do có ý này nên khen chê đều đúng lý. Đối với bố thí như vậy thì đối với

Thi-la v.v… cũng như vậy. Nói một phần tu, nghĩa là tu theo thế gian. Khiến nhập bí mật, nghĩa là nếu ở nơi đó y theo lý thế tục đế nói có Bổ-đặc-già-la và tất cả pháp tự tính sai biệt, thì vì khiến hữu tình vào trong Thánh giáo của Phật, nên nói là khiến nhập bí mật. Bí mật về tướng, nghĩa là nói tướng của các pháp làm rõ 3 tự tính. Bí mật đối trị, nghĩa là ở nơi đó nói các hành tướng đối trị hữu tình, vì để an lập hữu tình mà thực hành đối trị phiền não. Bí mật chuyển biến, nghĩa là ở nơi đó dùng lời, dùng chữ để hiển thị các ý nghĩa. Như trong Già-tha có câu: “Biết không vững là vững,” . Không vững nghĩa là do định không kiên cường, khó điều phục nên gọi là không vững. Tức như trong đây khởi tâm tôn trọng cái biết, gọi cái biết là vững. “Khéo trụ nơi điên đảo.” nghĩa là khéo an trụ trong điên đảo. Đối với vô thường v.v… gọi là thường v.v… là điên đảo. Đối với vô thường v.v… gọi là vô thường v.v… là năng điên đảo, là nghĩa khéo an trụ trong đó. “Phiền não quấy cùng cực,” nghĩa là siêng năng theo đuổi việc nhọc nhằn là phiền não. Vì chúng sinh nên thời gian lâu vất vả siêng năng theo đuổi các việc nhọc nhằn. Như có câu nói: “Ở lâu trong sinh tử nhọc nhằn, chỉ do nơi tâm Đại bi.” v.v… “Được Bồ-đề cao tột”, nghĩa câu này dễ hiểu.

Luận nói: Nếu có người muốn giải thích pháp Đại thừa thì đại khái nên giải thích theo 3 tướng: Một là theo thuyết duyên khởi. Hai là nói về tướng của các pháp do từ duyên sinh. Ba là nói theo ngữ nghĩa.

Giải thích: Do 3 tướng này, tùy theo sự thích ứng mà giải thích tất cả pháp Đại thừa.

Luận nói: Trong đây, nói duyên khởi là như nói:

Các pháp huân tập sinh,

Cái này từ cái kia.

Dị thục và chuyển thức,

Cùng nhau làm duyên sinh.

Giải thích: Nói “Các pháp do huân tập sinh”, nghĩa là do phân biệt bên ngoài huân tập vào trong thức A-lại-da. Huân tập này là nhân sinh tất cả pháp, tức là tự tính của chuyển thức. Nói “Cái này từ cái kia” nghĩa là sự huân tập phân biệt này lấy các pháp làm nhân. Đây tức là hiển thị thức A-lại-da cùng các chuyển thức kia làm nhân cho nhau.

Luận nói: Lại nữa pháp tướng của chuyển thức kia có tướng có kiến thức làm tự tính. Chuyển thức kia lấy chỗ sở y làm tướng, lấy biến kế sở chấp làm tướng, lấy pháp tính làm tướng. Do đó hiển thị tướng của 3 tự tính, như nói:

Từ có tướng có kiến,

Nên biết 3 tướng kia.

Lại nữa nên giải thích 3 tướng kia như thế nào?

Nghĩa là trong tướng y tha khởi, tướng biến kế sở chấp thì không, tướng viên thành thật thì có. Do 2 thứ không có với có này mà không được và được, chưa thấy và thấy, với chân như là đồng thời. Nghĩa là nơi y tha khởi, trong tự tính không có biến kế sở chấp mà có viên thành thật nên khi chuyển theo nhiễm tịnh thì nếu được kia thì không được đây, nếu được đây thì không được kia. Như nói:

Y tha: không biến kế,

Mà thành thật thì có.

Cho nên được, không được,

Trong đó hai bình đẳng.

Giải thích: Pháp tướng của chuyển thức kia có tướng có kiến thức làm tự tính. Nghĩa là thức kia có tướng có kiến làm tự thể. Lại tướng kia có 3 thứ y chỉ làm tướng. Nghĩa là tướng y tha khởi. Do đây nói 3 thứ tự tính hiển thị tướng kia. Tức trong Già-tha hiển thị nghĩa này. “Từ có tướng có kiến, nên biết 3 tướng kia.”, nghĩa là như giải thích nói rõ. Do 2 thứ không có với có này mà không được và được, chưa thấy và thấy chân như là đồng thời. Nghĩa là biến kế sở chấp và viên thành thật gọi là 2 thứ. Hai thứ này thứ nhất là phi hữu, thứ nhì là hữu. Chưa thấy chân như, tức là được biến kế sở chấp, không được viên thành thật. Đã thấy chân như tức sát-na ấy được viên thành thật, không được biến kế sở chấp. Tức trong Già-tha hiển thị nghĩa này. Nói y tha sở chấp vô đẳng bình đẳng nghĩa là một sát-na. Nói trong đó, nghĩa là trong y tha khởi. Nói hai, nghĩa là chưa thấy chân như và đã thấy chân như. Nói cho nên, tức là do nghĩa nhân này. Nghĩa là ở trong y tha khởi, do biến kế sở chấp không, và do viên thành thật có. Lại nữa các ngu phu do chấp điên đảo nên thấy chuyển như vậy. Nếu chư Thánh giả do chính kiến thì thấy chuyển như vậy.

Luận nói: Nói về ngữ nghĩa, tức là trước nói câu đầu, sau dùng những câu khác phân biệt làm rõ. Hoặc do ở đức, hoặc do ở nghĩa.

Giải thích: Do nói ngữ nghĩa như làm giải thích. Nay sẽ hiển thị hoặc nói về đức hoặc nói về nghĩa.

Luận nói: Do đức, tức là nói công đức của Phật là tuệ giác cực kỳ thanh tịnh, hiện hành bất nhị, hướng đến pháp vô tướng, trụ vào địa vị Phật, đạt tới tính bình đẳng của tất cả chư Phật, đến chỗ không còn chướng ngại, giáo pháp thi hành không trở ngại, không thể lay chuyển, chỗ an lập không thể nghĩ bàn, dạo khắp 3 đời pháp tính bình đẳng, thân lưu bố khắp tất cả thế giới, trí thông suốt tất cả pháp, thành tựu đại giác trong tất cả hạnh, trí không nghi hoặc đối với các pháp, không thể phân biệt các hiện thân, trí tuệ mà tất cả Bồ-tát mong cầu, được trụ bờ kia tối thắng của chư Phật không hai, được giải thoát của Như Lai không xen tạp, diệu trí cứu cánh chứng địa vị không trung tâm không ngoại biên, Phật địa bình đẳng pháp giới cao tột, tính như hư không cùng tột đời vị lai. Phải biết câu tuệ giác cực kỳ thanh tịnh này được các câu khác tiếp theo phân biệt làm rõ. Nói như vậy mới gọi là khéo nói pháp.

Tuệ giác cực kỳ thanh tịnh là tuệ giác cực kỳ thanh tịnh của Phật Thế Tôn. Phải biết đó là gồm thâu 21 công đức của Phật. Tức là công đức hoàn toàn không chướng ngại đối với các pháp sở tri. Công đức nhập vào chân như có không không hai tối thắng thanh tịnh. Công đức trụ nơi Phật sự vô công dụng không ngừng nghỉ. Công đức trụ trong pháp thân, ý lạc tác nghiệp không sai biệt. Công đức đối trị, tu tất cả chướng. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Công đức an lập chính pháp. Công đức thụ ký. Công đức thị hiện thụ dụng thân và biến hóa thân trong tất cả thế giới. Công đức dứt trừ nghi. Công đức khiến nhập vào các hạnh. Công đức sinh diệu trí đối với các pháp đương lai. Công đức thị hiện đúng như sự thắng giải. Công đức gia hành làm sở y cho sự điều phục vô số chúng sinh. Công đức trọn vẹn đầy đủ pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa. Công đức tùy theo sự thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt. Công đức về phương xứ không phân chia giới hạn của 3 thứ Phật thân. Công đức thường hiện an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng biên giới của sinh tử. Công đức vô tận.

Giải thích: Trong đây nói hiện hành không hai, nghĩa là hai hiện hành trong đây đều không có, nên nói là bất nhị hiện hành. Tức là đối với sở tri hoàn toàn không chướng chuyển công đức, không phải như trí Thanh Văn Độc Giác cũng có chướng cũng không chướng. Hướng đến pháp vô tướng, nghĩa là chân như thanh tịnh gọi là pháp vô tướng. Nói hướng là hướng vào, tức là không có 2 tướng đối với có không, có thể nhập vào công đức thanh tịnh tối thắng của chân như. Nghĩa là chân như này chẳng phải là hữu tướng, ví lấy các pháp vô tính làm tướng. Cũng chẳng phải vô tướng, vì có tự tướng. Ở nơi vô tướng này có thể nhập vào thanh tịnh tối thắng của chân như. Có thể nhập vào tối thắng, có thể nhập vào thanh tịnh, cho nên trụ ở Phật trụ, nghĩa là trụ ở nơi Phật trụ là nơi không có chỗ trụ. Tức là trụ nơi công đức vô công dụng không ngừng nghỉ Phật sự. Nghĩa là trụ trong đây thường làm mọi Phật sự không ngừng nghỉ cho đến khi được tính bình đẳng tất cả Phật. Tức là công đức trụ trong pháp thân, dựa vào ý lạc tác nghiệp không sai biệt. Đến chỗ không chướng ngại, tức là công đức đối trị, tu tất cả chướng. Nghĩa là tất cả mọi thời thường tu giác tuệ đối trị tất cả chướng. Không thể chuyển pháp, tức là công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Chỗ ra làm không trở ngại tức là công đức sinh tại thế gian không bị pháp thế gian trở ngại. Nghĩa là tuy sinh ở thế gian, làm các việc thế gian làm mà không bị lợi nhuận v.v… 8 pháp thế gian nhiễm ô. Việc an lập không thể nghĩ bàn, tức là công đức an lập chính pháp. Do giáo pháp trong các khế kinh là vô lượng không thể nghĩ bàn, không như những gì hạng ngu phu hiểu được. Do đó nên nói là sự giác ngộ thanh tịnh nhất. Câu giác ngộ thanh tịnh nhất này trong mỗi câu đều tương ưng khắp. Dạo trong 3 đời pháp tính bình đẳng, tức là công đức thụ ký. Thân ấy lưu bố tất cả thế giới, tức là công đức thị hiện thụ dụng thân và biến hóa thân trong tất cả thế giới. Trong tất cả pháp, trí không nghi trệ, tức công đức dứt trừ nghi. Trong tất cả hạnh, thành tựu đại giác, tức công đức khiến nhập vào các hạnh. Trong các pháp, trí không nghi hoặc, tức công đức sinh diệu trí đối với các pháp đương lai. Nghĩa là đương lai pháp ấy sinh diệu trí Như Lai. Tất cả chỗ hiện thân không thể phân biệt, tức công đức thị hiện đúng như sự thắng giải. Trí sở cầu của tất cả Bồ-tát, tức công đức gia hành làm sở y cho sự điều phục vô số chúng sinh. Nghĩa là sở y của vô lượng Bồ-tát có thể điều phục các việc của hữu tình. Đây chẳng phải chư Phật đã được tự tha bình đẳng mà lại cầu trí này. Chỉ có chư Phật đã làm những việc điều phục thù thắng như vậy. Được Phật trụ thắng bỉ ngạn không hai, tức công đức trọn vẹn đầy đủ pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa. Nghĩa là pháp thân không hai, gọi là pháp thân bình đẳng. tức là ở nơi pháp thân không hai như vậy được thiện thanh tịnh Ba-la-mật-đa. Không xen tạp với diệu trí cứu cánh giải thoát của Như Lai, nghĩa là thắng giải rốt ráo, không có xen tạp trong trí Như Lai. Thắng giải này gọi là giải thoát, tức công đức tùy theo sự thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt. Chứng Phật địa bình đẳng không có chính giữa không có ngoại biên, tức công đức về phương xứ không phân chia giới hạn của 3 thứ Phật thân. Nghĩa là pháp thân Phật không phân chia giới hạn. Biến hóa thụ dụng ở phương nào xứ nào, cũng không thể nó là thế giới đó. Rất mực ở nơi pháp giới, nghĩa là pháp giới rất mực thanh tịnh. Pháp giới rất mực thanh tịnh này tức công đức thường hiện an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng biên giới của sinh tử. Tính cùng tột hư không, tức công đức vô tận. Nghĩa là trí Phật vô tận như hư không, cho nên tận cùng biên giới vị lai, tức công đức rốt ráo v.v… Nói v.v… là trí Phật rốt ráo cùng tột vị lai không gián đoạn. Cho nên gọi là giác ngộ thanh tịnh cùng tột.

Luận nói: Lại nữa do nghĩa xứ, như nói: Nếu các Bồ-tát thành tựu 32 pháp mới gọi là Bồ-tát. Tức là đối với tất cả hữu tình khởi ý lạc tăng thượng làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh như: Khiến nhập trí nhất thiết trí. Tự biết mình nay không cần cái giả trí. Xô dẹp tâm ngã mạn. Ý lạc vững vàng. Không phải giả thương xót. Bình đẳng không thân sơ. Hằng làm người bạn tốt cho đến cuối cùng được Niết-bàn. Nói cân nhắc đúng mức. Tươi cười trước khi nói. Đại bi vô hạn. Việc phải chịu, không khiếp nhược thoái lui. Không có ý chán nản mỏi mệt. Nghe nghĩa lý không chán. Cảm thấy sâu sắc tội mình đã làm. Người khác tạo tội thì dạy bảo mà không giận. Hằng tu trị tâm Bồ-đề trong tất cả mọi oai nghi. Làm việc bố thí không mong cầu quả báo. Thụ trì giới luật không hướng về các nẻo sinh tử. Thực hành nhẫn nhục đối với chúng sinh không giận không ngại. Siêng năng tinh tiến vì muốn gồm thâu tất cả thiện pháp. Tu tĩnh lự xả bỏ cõi Vô sắc. Phương tiện tương ưng tu tập Bát-nhã. Lấy 4 nhiếp pháp gồm thâu các phương tiện. Đối với người giữ giới phá giới đều là bạn lành không đem tâm phân biệt. Đem tâm ân cần quý trọng mà nghe chính pháp. Với tâm trân trọng, ở nơi tịch tĩnh. Không thích các việc tạp nhạp ở đời. Không bao giờ ưa chuộng các thừa giáo thấp kém. Thấy công đức sâu xa trong Đại thừa. Xa lìa bạn ác. Gần gũi bạn lành. Hằng tu tập 4 phạm trụ. Thường vận dụng tự tại 5 thần thông. Hướng đến nương tựa trí tuệ. Không bỏ các chúng sinh dù ở trong chính hạnh hay không ở trong chính hạnh. Nói lời quyết định. Trọng chân lý sự thật. Thường lấy tâm Đại Bồ-đề làm đầu. Như vậy phải biết các câu này đều là các chi tiết của câu đầu tiên. Tức là câu ý lạc tăng thượng làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, câu này có 16 nghiệp khác nhau. Đó là: 1.nghiệp tuần tự gia hành, 2.nghiệp không điên đảo, 3.nghiệp gia hành tự nhiên, không đợi người mời thỉnh, 4.nghiệp không động, không hư hoại, 5. nghiệp không cầu không nhiễm, nên biết nghiệp này có 3 câu khác nhau, tức là vì không bị nhiễm ràng buộc nên đối với có ơn không có ơn không ưa không ghét, vì đời đời thường tùy chuyển, 6.tương xứng nghiệp thân nghiệp miệng, nên biết câu này có 2 câu khác nhau, 7.nghiệp bình đẳng đối với vui và khổ, 8.nghiệp không thấp kém, 9.nghiệp không thoái chuyển, 10.nghiệp thâu giữ phương tiện, 11.nghiệp chán ghét bị đối trị, nên biết đây có 2 câu khác nhau, 12.nghiệp tác ý không gián đoạn, 13.nghiệp tu hành thắng tiến, nên biết đây có 7 câu khác nhau, tức chính gia hành của 6 Ba-la-mật-đa và chính gia hành của 4 nhiếp sự, 14.nghiệp gia hành trọn vẹn đầy đủ, nên biết đây có 6 câu khác nhau, tức gần gũi thiện sĩ, nghe chính pháp, ở nơi thanh vắng, xa lìa các suy nghĩ xấu ác, công đức tác ý, nên biết câu này lại có 2 câu khác nhau, tức công đức trợ bạn, nên biết đây lại có 2 câu khác nhau, 15.nghiệp đầy đủ trọn vẹn, nên biết đây có 3 câu khác nhau, tức là thanh tịnh vô lượng, được uy lực lớn, công đức chứng đắc, 16.nghiệp an lập cho người, nên biết đây có 4 câu khác nhau, tức công đức điều khiển chúng, dạy dỗ răn dạy quyết định không nghi ngờ, hợp nhất tài và pháp, không tâm tạp nhiễm. Phải biết các câu ấy đều là chi tiết của câu đầu tiên.

Giải thích: Do trong nghĩa xứ, đối với tất cả hữu tình khởi ý lạc tăng thượng làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Nghĩa câu này do các câu khác hiển thị 16 nghiệp. Do các nghiệp gì hiển thị ý lạc tăng thượng làm lợi ích chúng sinh? Nghĩa là triển chuyển nghiệp gia hạnh, tức là khiến nhập trí nhất thiết trí. Nghĩa là khiến các hữu tình nhập trí nhất thiết trí, triển chuyển hóa đạo. Ví như một ngọn đèn truyền thắp một ngàn ngọn đèn. Đó là hiển thị ý lạc tăng thượng làm lợi ích an vui. Như vậy trong tất cả các câu còn lại đều phải phối hợp thuộc ý lạc tăng thượng làm lợi ích an vui. Nghiệp không điên đảo, tức tự biết mình cái giả trí của mình nay là gì. Nghĩa là hoặc tuy có ý lạc tăng thượng làm lợi ích an vui nhưng là điên đảo. Như có ý lạc tăng thượng làm lợi ích an lạc mà mời uống rượu v.v… Nếu có chính trí tự biết như thật mới có thể đúng lượng giáo hóa dắt dẫn hữu tình, chẳng phải tăng thượng mạn. Không biết như thật mà khởi tâm lợi ích là khuyên người khác làm chuyện không lợi ích. Nghiệp không đợi người mời, tự nhiên gia hạnh, tức là xô dẹp đè bẹp kiêu mạn. Nghĩa là do xô dẹp đè bẹp tâm kiêu mạn nên không đợi mời thỉnh mà tự vì nói pháp. Nghiệp không động, không hư hoại, tức ý lạc kiên cố thù thắng nên không lấy hữu tình làm các tà hạnh, động hoại cái tâm kiên cố ý lạc tăng thượng làm lợi ích an vui của Bồ-tát. Nghiệp không cầu không nhiễm, tức là không phải giả làm thương xót, tâm bình đẳng đối với thân hay không thân, hằng làm người bạn lành cho đến Niết-bàn là biên giới sau cùng. Nghĩa là 3 câu sau giải thích 3 câu này. Chẳng phải vì nhân lợi dưỡng cung kính v.v… mà làm các lợi ích an lạc hữu tình. Cho nên nói là nghiệp không cấu nhiễm. Làm sao có thể biết là ý lạc tăng thượng làm lợi ích an lạc? Nghĩa là do tương xứng nghiệp thân nghiệp miệng, tức là ứng lượng mà nói, tươi cười nói trước. Trong 2 câu này, ứng lượng mà nói và nói trước là nghiệp miệng, tươi cười là nghiệp thân. Ứng lượng nói là chỉ nói pháp ngữ. Tươi cười là dáng vẻ thư thái làm việc lợi ích. Nghiệp bình đẳng đối với vui khổ và không hai, tức là vì Đại bi vô hạn. Đại bi vô hạn là thương xót 3 cái khổ. Đối với hữu tình hữu khổ thương xót nỗi khổ trên cái khổ. Đối với hữu tình hữu lạc thì thương xót cái hoại khổ. Đối với hữu tình bất khổ bất lạc thì thương xót cái hành khổ. Không khổ không vui nên nói là không hai. Nghiệp không thấp kém, tức là khi thụ nhận việc gì thì không khiếp nhược thoái lui, nghĩa là không tự khinh mình rằng ta không thể thành Phật được v.v…các loại tương tự như vậy. Nghiệp không thoái chuyển, nghĩa là không có ý mỏi mệt chán nản, là nhân siêng năng tiến tu thành Phật, tâm không mỏi mệt. Nghiệp thâu giữ phương tiện, tức nghe nghĩa lý không chán, nghĩa là do nghe nhiều thành trí khéo léo làm lợi ích hữu tình. Nghiệp chán ghét bị đối trị, tức mình tạo tội tự thấy tội lỗi một cách sâu sắc, với người tạo tội thì không giận mà dạy dỗ khuyên răn. Nhờ phương tiện này mới có thể như thật điều phục hữu tình. Nghiệp tác ý không gián đoạn, tức là trong tất cả oai nghi hằng tu trị tâm Bồ-đề. Nghĩa câu này trong khế kinh nói rộng về sở hành thanh tịnh. Nghiệp tu hành thắng tiến, tức là hành thí mà không chờ mong quả báo. Cho đến do Tứ nhiếp sự làm phương tiện, dựa vào ý lạc tăng thượng làm lợi ích an vui như trước nói mà tu gia hành này để làm nhân tăng trưởng hướng đến quả. Nghiệp gia hành trọn vẹn đầy đủ, tức là đối với người giữ giới phá giới đều coi như bạn lành không hai. Cho đến gần gũi bạn lành. Tức là 6 câu sau giải thích 8 câu này. Nếu tu tập các gia hành như vậy thì mau được trọn vẹn đầy đủ. Đem tâm ân trọng ở nơi A-luyện-nhã tức do ở nơi đây xa lìa các suy nghĩ xấu những việc tạp nhạp ở đời như ca múa v.v… Nghiệp đầy đủ trọn vẹn, tức hằng tu trị 4 Phạm trụ, thường tự tại 5 thần thông. Y vào thú trí nên nói là 3 câu sau giải thích 3 câu này. Nghiệp đầy đủ này có các tướng trạng, sức oai lực lớn. Nghĩa là 6 thần thông y thú trí. Y thú trí, không y thú thức mà nội trí sinh cho nên do nội trí này hiện thấy tương ưng an trụ nơi pháp. Nghiệp an lập cho người, tức trụ nơi chính hạnh v.v… Nghĩa là 4 câu sau giải thích 4 câu này. Do ý lạc tăng thượng lợi ích an vui, do ngự các đức an lập lợi ích an vui hữu tình, do đối với người phá giới cũng cũng không ruồng bỏ mà an lập không xua đuổi, khiến ra khỏi bất thiện khiến trụ nơi thiện. Quyết định không nghi, răn dạy do có thể răn dạy họ được hoàn toàn, không phải chỉ tự nói suông rồi lại nói lời ta nói không tốt. Do nhân duyên ấy lời nói nghiêm túc và có uy lực. Pháp tài hợp nhất do lời nói như pháp đúng chân lý, lại còn thí cho y phục của cải. Vì không có tâm tạp nhiễm, do khéo nhiếp thụ tâm Đại Bồ-đề làm lợi ích hữu tình, không phải muốn tự cầu cấp cho sử dụng. Vì sao hữu tình nhờ thiện pháp đó mau chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề? Vì như thế nhiếp thụ tất cả hữu tình.

Luận nói: Như nói:

Do câu nói đầu tiên,

Có các câu về đức.

Do câu nói đầu tiên,

Có các câu về nghĩa.

Giải thích: Trong Già-tha này là hiển thị nghĩa đã nói ở trước.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10