NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 1

1- Cương yếu

Các phá sở tri chướng mờ tối,

Hết cả sở hữu như sở hữu.

Các pháp chân tục lý trong ảnh,

Đua nhau vọng chấp khởi dị kiến.

Đây do hằng lìa các phân biệt,

Vô cấu thanh tịnh trí sáng suốt.

Đạt được cao tột Tam-bồ-đề,

Hoặc chướng với tập đoạn thường trụ.

Được không công dụng ở 10 phương,

Tùy các hữu tình theo ý muốn.

Khai thị rộng lớn rất vượt trội,

Ba thứ giải thoát đều phương tiện.

Do vô phân biệt có Đại bi,

Sinh tử Niết-bàn đều không trụ.

Do gồm diệu tuệ phương tiện tốt,

Rốt ráo tự tha rất được lợi.

Như vậy Thế Tôn chỗ giác ngộ,

Như chỗ khai thị pháp nhiệm mầu.

Nếu được như vậy khéo tu hành,

Ắt được tịch tĩnh cam lồ vị.

Phỉ báng, quyết định đều không hết.

Rất lâu không thể biển khổ lớn.

Học vô học tăng cư đạo quả,

Khắp hơn tất cả các tăng khác.

Thiện thệ vô cấu sông công đức,

Chân thật trong đó mà tắm gội.

Làm ruộng tốt vô thượng cho đời,

Tuy có lâm vào vi tiểu thiện.

Mà lại rộng lớn như đất trống,

Người trí do đây được giải thoát.

Nên ta chí thành thân ngữ ý,

Thường tu không bỏ quy mạng lễ.

Quỹ phạm các sư nay giảm ít,

Chân pháp chính lý nhiều vẩn đục.

Đều do người tà mạn tinh ranh,

Theo suy nghĩ riêng mất chính giáo.

Thầy ta như thế không sau trước,

Gặp thờ Thánh giả Đại từ tôn.

Y chỉ bất động xuất thế gian,

Phóng quang Đại pháp Tam-ma-địa.

Xiển dương diệu pháp để tiếng khen,

Như mặt trời chiếu sáng mười phương.

Văn quang vô cấu rất sâu sắc,

Các kinh liễu nghĩa đều tùy thuận.

Câu nghĩa rộng sâu đều vi diệu,

Thảy đều đẹp đẽ tự trang nghiêm.

Khiến kẻ thông minh đều để dạ,

Không gièm không kiêu sinh ái kính.

Pháp khó thông tuệ không trở ngại,

Không mê lợi dưỡng đáng khen thay.

Trong an vui tâm không nhiễm đắm,

Nên gọi đức mình là quyết định.

Các bậc hiền thánh thường thân cận,

Tất cả thế gian ai chẳng biết.

Vô Trước danh xưng thảy đều nghe,

Công đức rõ ràng như ca tụng.

Biện luận không ngớt như mưa tuôn,

Văn nghĩa ngọt ngào vi diệu pháp.

Nhiều người theo học sức mình ít,

Khác chi chim nhỏ đến cầu mưa.

Từ rộng quyết chọn gom phần ít,

Dùng lời lược thích Nhiếp Đại Thừa.

Nguyện đem chỗ làm khắp lợi ích,

Chỉ sợ các bậc Đại văn giả.

Luận nói: Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma có nói các Bồ-tát khéo ngộ nhập Đại thừa, vì muốn làm rõ cái thể to lớn của Đại thừa, căn cứ vào Đại thừa, đối trước đức Phật nói chư Phật Thế Tôn có 10 tướng ngôn ngữ thù thắng.

Giải thích: Căn cứ vào nghĩa gì, từ nhân duyên gì mà mà nói như vậy? Hiểu biết rộng sâu tính của pháp Đại thừa, nếu lìa oai lực của chư Phật Bồ-tát, ai có thể tạo được thích luận này. Lại nữa vì nghĩa gì trước tiên nói duyên do như thế? Nếu không nêu lên câu nói Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma thì không hiểu rõ luận này là nghĩa của Thánh giáo. Lại để hiển thị tên kinh, như nói Kinh Thập Địa. Cho nên nói như vậy là trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma có nói. Lại có các nghĩa khác là để rõ kinh ấy là Thánh giáo cho nên trước tiên nói là Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma có nói. Nay tạo luận này có mục đích là muốn cho người không biết được rõ, để làm rõ tên riêng của pháp môn. Nói A-tì-đạt-ma, đó là tên chung. Dùng tiếng kinh mà nói là để loại ra ngoài A-tì-đạt-ma của Thanh Văn mà nêu Đại thừa. Bởi hiện tại cũng có A-tì-đạt-ma không phải Phật nói. Như hiện có người nghĩ rằng có A-tì-đạt-ma do Phật nói, cũng có A-tì-đạt-ma do Thanh Văn nói và do người có thế trí tạo ra cũng có. Lại nói Đại thừa Tố-đátlãm là muốn hiển thị khác biệt với Thanh Văn tạng v.v…, muốn hiển thị thuộc Bồ-tát tạng. Lại nữa nêu A-tì-đạt-ma kia nhiếp thuộc trong tạng, nghĩa là nhập vào tự tông Tố-đát-lãm tạng, hiện diệt tự hoặc. Tì-nại-da tạng tức trong Đại thừa là phiền não của Bồ-tát. Bởi chư Bồ-tát có các thứ phân biệt là phiền não, cho nên không mâu thuẫn với tối thắng A-tì-đạt-ma. Tướng của nó sâu xa rộng lớn.

Trong đây nói 3 tạng là: một Tố-đát-lãm tạng, hai Tì-nại-da tạng, ba A-tì-đạt-ma tạng. Như vậy 3 tạng có hạ thừa thượng thừa khác nhau mà thành ra 2 tạng là Thanh Văn tạng và Bồ-tát tạng. Ba và hai này vì sao gọi là tạng? Vì công năng gồm thâu, nghĩa là gồm thâu tất cả nghĩa cần phải biết.

Lại nữa vì sao thành lập 3 tạng? Có 9 duyên do. Tức là lập Tốđát-lãm tạng để đối trị nghi hoặc, lập Tì-nại-da tạng để đối trị sự thụ dụng nhị biên, tức là ngăn ngừa hành vi có tội do đam mê thụ dụng dục lạc và khai mở sự vô tội không thụ dụng khổ, lập A-tì-đạt-ma tạng để đối trị chấp thủ kiến giải riêng, hiển thị tướng các pháp là không điên đảo. Lại để có thể nói 3 học nên lập Tố-đát-lãm tạng. Để có thể tăng thượng giới, tăng thượng tâm nên lập Tì-nại-da tạng. Nghĩa là đủ Thi-la tức không hối, dần dần sẽ được Tam-ma-địa. Để có thể tăng thượng tuệ nên lập A-tì-đạt-ma tạng, nghĩa là có thể lựa chọn nghĩa không điên đảo. Lại nữa để có thể nói pháp nghĩa nên lập Tố-đát-lãm tạng. Để có thể đầy đủ pháp nghĩa nên lập Tì-nại-da tạng. Nghĩa là để điều phục phiền não siêng năng tu hành mới thông đạt được 2 năng lực này. Để có thể quyết định chọn lựa tốt pháp nghĩa nên lập A-tì-đạt-ma tạng. Do 9 duyên do này nên thành lập 3 tạng. Lại nữa đây đều là để giải thoát sinh tử.

Làm sao có thể được giải thoát? Huân giác, tịch thông nên được giải thoát. Nghĩa là do nghe giáo pháp huân tập vào tâm, do tư duy mà giác ngộ, do tu Xa-ma-tha được tịch tĩnh, do chứng Tì-bát-xá-na nên thông đạt là có thể giải thoát.

Lại nữa nếu lược nói Tố-đát-lãm, Tì-nại-da, A-tì-đạt-ma mỗi tạng đều có 4 nghĩa. Bồ-tát nếu hiểu biết đầy đủ đây thì có thể chứng được tính của Nhất thiết trí. Thanh Văn đối với đây chỉ hiểu nghĩa một Già-tha cũng được lậu tận.

Vì sao 3 tạng này mỗi tạng đều có 4 nghĩa? Nghĩa là quán xuyến y, tướng, pháp, nghĩa nên gọi là Tố-đát-lãm. Trong đây y, nghĩa là ở nơi đó, do đó, vì đó nên có pháp được nói. Tướng, nghĩa là tướng của thế tục đế và tướng của thắng nghĩa đế. Pháp, nghĩa là như uẩn, giới, xứ, duyên khởi đế, thực, tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, Bồ-đề phần, vô ngại giải, vô tránh v.v… Nghĩa, nghĩa là tùy theo mật ý, như đối, số, phục, thông. Phải biết tên gọi A-tì-đạtma, nghĩa là A-tì-đạt-ma cũng gọi là đối pháp. Pháp này đối hướng vô trụ Niết-bàn, có thể nói chân lý Bồ-đề phần, giải thoát môn v.v… A-tì-đạt-ma cũng gọi là số pháp, nghĩa là đối với mỗi pháp mỗi pháp mỗi số mỗi số giải thích nói rõ tướng chung tướng riêng vô lượng sai biệt. A-tì-đạt-ma cũng gọi là phục pháp, nghĩa là do đây đầy đủ các phương pháp luận có thể thắng phục các luận khác. A-tì-đạt-ma cũng gọi là thông pháp, nghĩa là do đây có thể giải thích thông suốt nghĩa của Tố-đát-lãm. Phải biết phạm tội, đẳng khởi, hoàn tịnh, xuất ly gọi là Tì-nại-da. Trong này nói phạm tội tức ngũ chúng tội. Đẳng khởi nghĩa là do không biết, do phóng túng, do quá nhiều phiền não, do không tôn kính nên phạm các tội. Hoàn tịnh là do ưa thích chứ không phải do trị phạt, như thụ luật nghi. Xuất ly nghĩa là ra khỏi, có 7 thứ . Một là mỗi mỗi nói lên sự hối tội đã phạm. Hai là thề chịu sự trị phạt, gọi là thụ học v.v… Ba là những gì có phương hại thì trước chế học xứ, sau do lối khác khai mở cho trở lại. Bốn là thay đổi ngăn cấm, nghĩa là tăng hòa hợp trở lại xả bỏ chỗ cấm chế. Năm là chuyển y, nghĩa là Bí-sô, Bí-sô-ni chuyển đổi nam nữ nên xả bỏ tội bất cộng. Sáu là do chân thật quán, nghĩa là làm pháp quán các hành tướng thù thắng của Ôn-đà-nam. Bảy là được do pháp nhĩ, nghĩa là do kiến đế pháp nhĩ được không tiểu tùy tiểu tội. Phải biết Tì-nại-da còn có 4 nghĩa. Một là Bổ-đặc-già-la nên Thế Tôn y vào đó chế học xứ. Hai là chế lập, nghĩa là tuyên cáo rằng Bổ-đặc-già-la kia đã phạm tội nên Đại sư tập họp tăng chúng chế học xứ. Ba là phân biệt, nghĩa là chế học xứ rồi lại giải thích rộng. Trước có nói sơ lược 4 quyết đoán lựa chọn, nghĩa là trong trường hợp này phán đoán quyết định sự vi phạm này thế nào là có tội thế nào là vô tội.

Nay sẽ giải thích bản văn. Nói “Trước đức Bạc-già-phạm” nghĩa là hiển thị sự tôn kính nên không dám nói khác. Nói “khéo ngộ nhập Đại thừa” nghĩa là do đã được nghĩa công đức thù thắng của các Đà-la-ni, hiển thị đã được các công đức này nên đối với nghĩa, đối với văn có thể chấp trì đúng và khai thị đúng. Như thế gọi là Bồ-tát. Vì nghĩa gì mà nói? Vì để hiển thị cái thể vĩ đại của Đại thừa. Nói hiển thị, tức là khai phát cái đại thể thật có của Đại thừa. Nói “căn cứ vào Đại thừa”, nghĩa là y chỉ vào Đại thừa mà nói ra. Nói “có 10 tướng ngôn ngữ thù thắng”, nghĩa là do 10 thứ thù thắng kia mà có ngôn ngữ thù thắng, cho nên nói là 10 tướng thù thắng thù thắng ngữ. Đây nói thù thắng là nói nghĩa sai biệt, hai bên tương đối nhau, như nói nghĩa này thù thắng hơn kia. Lại nghĩa cao tột là nghĩa thù thắng. Hoặc là khác loại, nghĩa là nghĩa nhân thù thắng nên nói quả là thù thắng. Nay sẽ nói 10 tướng thù thắng này.

Luận nói: Một là sở tri y thù thắng. Hai là tướng sở tri thù thắng. Ba là nhập tướng sở tri thù thắng. Bốn là nhập nhân quả thù thắng. Năm là tu tập sai biệt các nhân quả thù thắng. Sáu là giới tăng thượng thù thắng trong sự tu tập sai biệt. Bảy là tâm tăng thượng thù thắng. Tám là tuệ tăng thượng thù thắng. Chín là quả đoạn thù thắng. Mười là quả trí thù thắng. Do các câu được chư Phật Thế Tôn nói trong các khế kinh, rõ ràng Đại thừa chính là do Phật nói.

Giải thích: Trong đây nói sở tri y thù thắng thù thắng ngữ, nghĩa là cần phải biết, nên biết cho nên gọi là sở tri. Như nói các pháp tạp nhiễm thanh tịnh tức 3 tự tính. Y là nghĩa của nhân, sở tri y này tức là thù thắng nên gọi là sở tri y thù thắng. Do thù thắng này nên ngôn ngữ thù thắng. Nói y này tức là thức A-lại-da. Như vậy trì nghiệp thích cho đến quả trí thù thắng cũng vậy. Nghĩa là quả trí thù thắng kia tức là thù thắng cho nên gọi quả trí thù thắng v.v… Tướng sở tri là nghĩa tự tính của sở tri. Sở tri tức là tướng cho nên gọi là tướng sở tri. Nói 3 tự tính nhập vào tướng sở tri nghĩa là trong tướng sở tri nếu năng nhập, nếu chính nhập tức là duy thức tính. Kia nhập nhân quả, nghĩa là năng nhập vào kia nên gọi là kia nhập, tức là ngộ nhập duy thức lý tính. Nhân là khi gia hành thế gian thí v.v… các Ba-la-mật-đa. Quả là khi thông đạt xuất thế gian thí v.v… các Bala-mật đa. Tu sai biệt các nhân quả kia, tức là các nhân quả kia nên gọi là các nhân quả kia, tức tu các sai biệt trong đó. Tu nghĩa là tập nhiều lần, tức là sự tu tập nhiều lần trong các địa dần dần được thù thắng cho nên nói sai biệt tức là 10 địa. Tức là tu trong sự sai biệt như vậy. Tăng thượng giới, nghĩa là trong 10 địa y theo giới mà học gọi là tăng thượng giới. Tức chư Bồ-tát có các luật nghi, đối với các điều bất thiện không có tâm tạo tác trở lại. Tăng thượng tâm, nghĩa là ở trong nội tâm hoặc tức y nơi tâm mà học nên gọi là tăng thượng tâm. Tức các Tam-ma-địa. Tăng thượng tuệ, nghĩa là hướng đến chứng tuệ nên gọi tăng thượng tuệ. Hoặc y vào tuệ mà học nên gọi tăng thượng tuệ. Tức là trí vô phân biệt. Đoạn thù thắng, nghĩa là tối thắng phẩm, riêng tự nội tâm xả bỏ phiền não và sở tri chướng. Tức là vô trụ Niết-bàn. Trí thù thắng thù thắng ngữ , nghĩa là vô chướng trí gọi là trí thù thắng. Trí vô phân biệt kia có chỗ đối trị. Nay Phật trí này đã lìa tất cả chướng và tùy miên nên gọi trí vô phân biệt kia là Phật trí thù thắng.

Luận nói: Lại nữa, thế nào là rõ ràng? Là vì 10 tướng thù thắng nói trên không hề thấy nói trong Thanh Văn thừa, chỉ trong Đại thừa mới có nhiều chỗ nói đến. Nghĩa là A-lại-da là nói cái thể của sở tri căn cứ. Ba thứ tự tính: một y tha khởi tự tính, hai biến kế sở chấp tự tính, ba viên thành thật tự tính là nói cái thể của tướng sở tri. Tính duy thức là nói về sự ngộ nhập cái thể của tướng sở tri. Sáu Ba-lamật-đa là nói cái thể của sự ngộ nhập nhân quả. Mười địa của Bồ-tát là nói cái thể của sự tu tập các nhân quả sai biệt. Luật nghi Bồ-tát là nói cái thể của giới tăng thượng. Thủ-lăng-già-ma, Hư không tạng v.v…các Tam-ma-địa là nói cái thể của tâm tăng thượng. Trí vô phân biệt là nói cái thể của tuệ tăng thượng. Vô trụ Niết-bàn là nói cái thể của quả đoạn. Ba thứ Phật thân: một tự tính thân, hai thụ dụng thân, ba biến hóa thân, là nói cái thể của quả trí. Do 10 sự thù thắng nói trên, rõ ràng Đại thừa khác với Thanh Văn thừa. Lại còn rõ ràng rằng Thế Tôn chỉ nói rõ cho Bồ-tát. Cho nên phải biết rằng chỉ y vào Đại thừa chư Phật Thế Tôn mới có 10 tướng thù thắng được nói đến.

Giải thích: Thế nào là rõ ràng? Câu hỏi này muốn biết duyên do. Sáu Ba-la-mật-đa là nói nhập vào thể của nhân quả. Nghĩa là do duy thức tính khi nhập vào 3 tự tính thì thế gian thí v.v… các Ba-la-mật-đa là thanh tịnh nhân, do có khả năng dẫn phát xuất thế gian nên từ nhập địa trở đi thí v.v… các Ba-la-mật-đa kia thành xuất thế gian, gọi là thanh tịnh quả. Bồ-tát 10 địa nói tu cái thể sai biệt của nhân quả kia là Bồ-tát 10 địa trước đã nói Ba-la-mật-đa nhân quả 2 vị tu sai biệt tính. Trí vô phân biệt trong đây là thể của tăng thượng tuệ, nghĩa là nếu các Thanh Văn lìa 4 phân biệt điên đảo gọi là vô phân biệt. Nếu các Bồtát lìa phân biệt tất cả pháp gọi là vô phân biệt. Hai cái vô phân biệt khác nhau như thế. Vô trụ Niết-bàn nói là thể của quả đoạn kia, nghĩa là quả của 3 học gọi là quả kia. Quả kia tức là đoạn, gọi là quả đoạn kia. Tính này là thể của quả đoạn kia, tức là nghĩa đoạn của phiền não sở tri 2 chướng. Ba thứ Phật thân nói là thể của quả trí kia, nghĩa là quả của 3 học kia, nên gọi là quả kia. Quả kia tức là trí, gọi là quả trí kia. Tính này là thể của quả trí kia. Trong đây nếu không có tự tính thân thì cũng phải không có pháp thân, ví như nhãn căn. Nếu không có pháp thân thì cũng phải không có thụ dụng thân, ví như nhãn thức. Phải biết trong đây sơ y năng y là đồng pháp dụ. Nếu không có thụ dụng thân thì đã nhập đại địa các Bồ-tát phải không thụ dụng pháp lạc. Nếu không thụ dụng pháp lạc thì Bồ-đề tư lương phải không viên mãn, ví như thấy sắc. Nếu không có hóa thân thì các Bồ-tát của thắng giải hành địa, các Thanh Văn v.v… thắng giải hạ liệt, tối sơ phát thú đều không nên có. Vì vậy chắc chắn phải có 3 thân. Rõ ràng Đại thừa khác với Thanh Văn thừa là trong Thanh Văn thừa không nói đến cho nên rõ ràng đây là tối thắng trong Đại thừa.

Luận nói: Lại nữa vì sao từ 10 tướng thù thắng này Như Lai nói ngôn ngữ thù thắng, lại rõ ràng Đại thừa chính thật là lời Phật nói?

Là vì để ngăn chận ý tưởng cho rằng Thanh Văn thừa là tính của Đại thừa. Do 10 tướng này chưa hề thấy trong Thanh Văn thừa nói đến, mà chỉ thấy nói nhiều trong Đại thừa. Có nghĩa là 10 thứ ngôn ngữ thù thắng này rất có năng lực dẫn khởi tính Đại Bồ-đề, thành lập sự tùy thuận rất tốt, không mâu thuẫn và có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Ở đây có hai bài tụng như sau:

Sở tri y và sở tri tướng,

Nhập nhân quả và tu nhân quả,

Tam học quả đoạn và quả trí,

Là tối thượng thừa nên thù thắng.

Thuyết này các nơi không thấy nói,

Đây là tối thắng nhân Bồ-đề,

Cho nên Đại thừa là Phật nói,

Tức nói về mười nghĩa thù thắng.

Giải thích: Đây lại nói vì sao lại hiển thị 10 chỗ? Đây là năng lực cao tột dẫn đến tính Đại Bồ-đề, là khéo thành lập sự tùy thuận không mâu thuẫn. Nói là năng lực cao tột dẫn đến tính Đại Bồ-đề là Đại Bồ-đề có thể dẫn nghĩa của nhân. Nói là khéo thành lập nghĩa là do chính lý đẳng lượng tư trạch, như thấy đạo sư nói đạo tướng. Nói tùy thuận , nghĩa là để chứng đắc, khi siêng năng tu hành thì tùy thuận trụ. Như theo chính đạo do đạo sư nói tùy thuận mà trụ. Nói không mâu thuẫn , nghĩa là ở trong các địa không có nhân chướng ngại. Như theo đạo sư nói giữa đường không có chướng nạn như giặc cướp v.v…Hoặc sinh tử Niết-bàn 2 thứ không trái nhau. Lại có dị môn là rất có năng lực dẫn đến tính Đại Bồ-đề, nghĩa là cái năng dẫn này là không hý luận, là trí vô phân biệt. Nói khéo thành lập, nghĩa là không mâu thuẫn với 4 lý. Nói tùy thuận , nghĩa là không mâu thuẫn với 3 lượng. Nói không mâu thuẫn, nghĩa là không phải trước thì tùy thuân, sau lại trái chống. Như có bài tụng nói:

Trước giữ gìn ái, bi,

Sau lại theo bất thiện.

Phi trắng đen ngã kiến,

Có ích cũng có tổn.

Nói để có thể chứng được trí Nhất thiết trí, nghĩa là trong tất cả các pháp phát sinh trí cao tột, không gián đoạn tất cả hành tướng. Nói khéo thành lập v.v… cũng có nghĩa khác, nghĩa là khéo thành lập sự tùy thuận không trái, lần lượt giải thích. Thế nào là khéo thành lập? Nghĩa là hay tùy thuận. Thế nào là hay tùy thuận? Nghĩa là không trái không chuyển đổi.

Luận nói: Lại nữa vì sao 10 nghĩa được nói theo thứ tự như vậy?

Nghĩa là các Bồ-tát trước phải rõ nhân duyên của các pháp mới rõ được lý duyên sinh. Tiếp đến đối với các pháp do duyên sinh phải nhận rõ tướng trạng của chúng, phải khéo xa lìa hai cực đoan của sự thêm bớt. Tiếp đến, Bồ-tát khéo tu tập như vậy, phải thông suốt đúng đắn các tướng sở thủ, khiến tâm được giải thoát các chướng. Tiếp đến, thông suốt các tướng sở tri rồi, trước do chứng đắc 6 Ba-la-mật-đa ở gia hành vị, phải thành tựu đầy đủ tăng thượng ý lạc cho được thanh tịnh. Tiếp đến sau khi thanh tịnh ý lạc trong 6 Ba-la-mật-đa, cần phải từng phần từng phần tu tập sai biệt trong 10 địa. Nghĩa là phải trải qua ba vô số đại kiếp. Tiếp đến phải viên mãn ba sở học của Bồ-tát. Đã viên mãn rồi phải hiện chứng quả Niết-bàn và vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Mười nghĩa đã được nói theo thứ tự như vậy.

Giải thích: Vì sao lần lượt nói theo thứ tự như vậy? Chư Bồ-tát đối với nhân các pháp, trước phải nói rõ rồi cho đến chứng quả Niếtbàn cùng với sự ứng hiện của vô thượng chính đẳng Bồ-đề v.v… Tức là trước phải hiểu rõ nhân của các pháp rồi sau đối với duyên khởi mới được tốt đẹp. Ắt có nhân nên quả mới được sinh khởi. Do đó có thể được 2 trí nhân quả. Sau đó phải rõ cái tướng của nhân sinh các pháp. Tướng đó là những gì? Nghĩa là thật sự là không có mà chấp khắp cả, cố chấp cho là có gọi là tăng ích, nghĩa là thêm ra. Tăng ích cái không, nên tổn giảm cái thật có của tính viên thành thật. Xa lìa cái lỗi của nhị biên tức của 2 cực đoan có và không gọi là thiện xảo tức tốt đẹp khéo léo. Tiếp đến các tướng sở thủ như vậy, do duy thức tính phải thông đạt đúng đắn, được không chướng ngại. Tiếp đến là tùy thuận ngộ nhập duy thức tính. Người thế tục chứng thế gian 6 thứ Ba-la-mật-đa. Do thắng nghĩa nên phải chứng đắc trở lại. Tức là phải tu tập thanh tịnh tăng thượng ý lạc. Tiếp đến trong 10 địa phải siêng tu từng phần từng phần riêng biệt. Nghĩa là phải trải qua 3 vô số đại kiếp. Chẳng phải như Thanh Văn chỉ nhanh chóng trong 3 đời siêng tu đối trị liền chứng giải thoát. Tiếp đến như vậy tu tăng thượng giới v.v… phải viên mãn 3 học của Bồ-tát. Sau cùng là đối với học quả Niết-bàn vĩnh viễn đoạn phiền não và chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề, 3 thứ Phật thân ứng hiện v.v… Cho nên nói 10 chỗ theo thứ tự như vậy.

Luận nói: Lại nữa, trong đây tất cả Đại thừa đều được trình bày rốt ráo.

Giải thích: Tất cả Đại thừa rốt ráo đều như đây. Bởi vì sao? Nếu muốn nói duyên khởi tức phải vào trong thức A-lại-da. Nếu muốn nói các tướng tức phải vào trong 3 tự tính. Nếu muốn nó chứng đắc tức phải vào trong duy thức tính. Nếu muốn nói Ba-lamật-đa tức phải vào trong Ba-la-mật-đa. Nếu muốn nói các địa tức phải vào trong các địa. Nếu muốn nói các học tức phải vào trong các học. Nếu muốn nói đoạn và trí tức phải nhập vô trụ Niết-bàn và 3 thứ Phật thân. Đều như vậy gọi là tất cả Phật nói. Cho nên chỉ nói thứ tự như vậy.

2 – 1. Sở tri y

Luận nói: Trong 10 nghĩa thù thắng , trước tiên nói đến sở tri y, hay là nơi y cứ của các pháp sở tri, tức thức A-lại-da.

Ở đâu Thế Tôn đã nói thức A-lại-da tên là thức A-lại-da?

Trong một bài Già-tha trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, đức Bạc-già-phạm đã nói:

Nơi từ vô thủy nay,

Các pháp đồng y cứ.

Do đây có các nẻo

Và Niết-bàn chứng đắc.

Giải thích: Trong đây năng chứng A-lại-da thức, thể của nó là thức A-lại-da. A-cấp ma, nghĩa là đức Bạc-già-phạm đầu tiên nói Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma có nói bài tụng như vậy. Chữ “giới “ dịch là “nơi” trong câu đầu tiên có nghĩa là nhân, tức là nơi y chỉ của tất cả pháp. Hiện thấy thế gian đối với các khoáng kim loại gọi là “giới” tức giới loại vì do đó là nhân cho nên là nhân tất cả pháp y chỉ. Thể tức là nghĩa của sở y chỉ. Nói “do đây có”, nghĩa là do là sở y của tất cả pháp nên có. Nói “các nẻo” nguyên văn tụng là “chư thú”, tức các nẻo đường trong sinh tử. Chữ “thú” có nghĩa là quả dị thục. Do quả này cho nên có nhiểu thứ chủng loại hoặc ngoan ngu ám á, hoặc có năng lực có thể hiểu pháp nghĩa hoặc thiện hoặc ác, hoặc có thể chứng đắc thượng thắng. Lại vì có tính làm nơi phiền não y chỉ, do đó nên có thứ phiền não mãnh liệt bén nhạy, có thứ phiền não lưu cửu thời gian dài, là nơi y chỉ 4 thứ dị thục sai biệt. Vô hữu kham năng, ngược lại là hữu kham năng, nghĩa là không phải chỉ các nẻo sinh tử do đây mà có, nhưng cũng do đây mà chứng đắc Niết-bàn. Phải do có tạp nhiễm mới được Niết-bàn.

Luận nói: Và cũng có bài kệ rằng:

Do gồm chứa các pháp,

Làm thức của chủng tử,

Nên gọi A-lại-da,

Ta dạy kẻ hơn người.

Giải thích: Đã dẫn A-cấp-ma chứng minh thức A-lại-da là thể của sở tri y, rồi lại dẫn A-cấp-ma chứng minh thức A-lại-da tên là thức A-lại-da. Trong bài kệ này do câu thứ hai giải thích câu thứ nhất. “Kẻ hơn người” nguyên văn câu tụng là thắng nhân, kẻ hơn người đây là chỉ cho chúng Bồ-tát.

Luận nói: Như vậy là đã dẫn chứng trong A-cấp-ma. Nhưng vì lý do gì thức này gọi tên là A-lại-da?

Vì các pháp tạp nhiễm của tất cả loài hữu sinh đều gồm chứa ở đây làm tính của quả, rồi cũng thức này gồm chứa các pháp làm nhân, cho nên gọi là A-lại-da. Hoặc các hữu tình thâu giữ thức này làm bản ngã của mình nên gọi là A-lại-da.

Giải thích: Nay gọi tên thức này là A-lại-da. Nói tất cả hữu sinh, nghĩa là tất cả loài có sinh mạng đều gọi là hữu sinh. Pháp tạp nhiễm là ngăn che nghĩa thanh tịnh chuyển vào trong đó nên gọi là nhiếp tàng. Nói hoặc các hữu tình thâu giữ thức này làm tự ngã , đó là nghĩa chấp thủ.

Luận nói: Lại nữa thức này cũng gọi là thức A-đà-na. Như trong A-cấp-ma, Kinh Giải Thâm Mật nói:

Thức A-đà-na rất vi tế,

Chủng tử như dòng nước chảy xiết.

Ta chẳng giảng nói cho phàm phu,

Sợ chúng chấp đó làm tự ngã.

Giải thích: Lại dẫn Kinh Giải Thâm Mật. Đây tức là trong A-cấpma. Phật bảo Quảng Tuệ Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: Quảng Tuệ phải biết, trong 6 nẻo sinh tử, các loài hữu tình kia đọa trong các chúng hữu tình, hoặc trong loài sinh trứng, sinh thai, sinh nơi ẩm thấp, hóa sinh, sinh khởi thân phần, trong đó trước tiên tất cả chủng tử của tâm thức thành thục, dần dần hòa hợp tăng trưởng rộng lớn dựa vào 2 chấp thụ. Một là các căn có sắc và sở y chấp thụ. Hai là tướng gọi là phân biệt ngôn thuyết hý luận tập khí chấp thụ. Trong giới hữu sắc có đủ 2 chấp thụ. Trong giới vô sắc không có đủ 2 thứ. Quảng Tuệ ! Thức này còn có tên là thức A-đà-na. Bởi vì sao? Bởi thức này luôn luôn theo giữ gìn thân. Cũng gọi là thức A-lại-da. Bởi vì sao? Bởi thức này đối với thân nhiếp thụ tàng ẩn, đồng nghĩa an nguy. Cũng gọi là tâm. Bởi vì sao? Bởi thức này do sắc thanh hương vị xúc v.v…tích tụ nuôi dưỡng. Quảng Tuệ ! Thức A-đà-na vì y chỉ, vì kiến lập nên 6 thức thân chuyển gọi là nhãn thức, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý thức. Trong đây có thức do mắt và sắc làm duyên sinh nhãn thức, cùng đi theo với nhãn thức, đồng thời, đồng cảnh có ý thức phân biệt chuyển. Có thức do tai, mũi, lưỡi, thân với tiếng, mùi, vị, sự chạm xúc làm duyên sinh nhĩ, tỹ, thiệt, thân thức cùng đi theo với nhĩ, tỹ, thiệt, thân thức, đồng thời đồng cảnh có phân biệt ý thức chuyển. Quảng Tuệ ! Nếu như lúc bấy giờ một nhãn thức chuyển tức lúc ấy chỉ có một phân biệt ý thức cùng với nhãn thức đồng hành chuyển. Nếu lúc ấy 2,3,4,5 các thức thân chuyển, tức lúc ấy chỉ có một phân biệt ý thức cùng với 5 thức thân đồng hành chuyển. Quảng Tuệ ! Ví như một dòng nước lớn chảy xiết, nếu có một con sóng sinh duyên hiện tiền chỉ một con sóng chuyển. Nếu hai hoặc nhiều con sóng sinh duyên hiện tiền có nhiều con sóng chuyển. Nhưng dòng sông chảy xiết này tự nó hằng liên tục chảy không đứt đoạn không chấm dứt. Lại như mặt gương trong, nếu có một ảnh sinh duyên hiện tiền, chỉ một ảnh hiện. Nếu hai hoặc nhiều ảnh sinh duyên hiện tiền, có nhiều ảnh hiện, chẳng phải mặt gương này biển chuyển làm ảnh, cũng không có sự thụ dụng giảm hết được. Như vậy, Quảng Tuệ ! Bởi tương tự dòng nước chảy xiết, thức A-đà-na vì y chỉ, vì kiến lập nên lúc bấy giờ có một nhãn thức sinh duyên hiện tiền tức lúc ấy một nhãn thức chuyển. Nếu lúc bấy giờ có đến 5 thức thân sinh duyên hiện tiền, thì lúc ấy 5 thức thân chuyển. Quảng Tuệ ! Như vậy Bồ-tát tuy do pháp trụ trí làm y chỉ, làm kiến lập nên nơi tâm, ý, thức bí mật khéo léo. Nhưng chư Như Lai không đồng loạt thiết lập tâm, ý, thức kia tất cả Bồ-tát bí mật thiện xảo. Quảng Tuệ ! Nếu các Bồ-tát bên trong đều như thật không thấy A-đà-na, không thấy thức A-đà-na, không thấy A-lại-da, không thấy thức A-lại-da, không thấy tích tụ, không thấy tâm, không thấy nhãn, sắc và nhãn thức, không thấy nhĩ, thanh và nhĩ thức, không thấy tỹ, hương và tỹ thức, không thấy thiệt, vị và thiệt thức, không thấy thân, xúc và thân thức, không thấy ý, pháp và ý thức, thì gọi là thắng nghĩa thiện xảo Bồ-tát. Như Lai gọi họ là thắng nghĩa thiện xảo Bồ-tát. Quảng Tuệ ! Đồng loạt đây là nói tâm, ý, thức tất cả bí mật thiện xảo Bồ-tát. Như Lai gọi đây đều là tâm ý thức tất cả bí mmật thiện xảo Bồ-tát. Trong Già-tha này nghĩa ấy được hiển thị trở lại. Thức A-đà-na là một tên khác được giải thích. Nói rất vi tế nghĩa là khó hiểu biết được. Tất cả chủng tử như dòng nước chảy xiết, nghĩa là cứ lần lượt chuyển nên tất cả chủng tử chuyển từng sát-na như dòng nước xiết chảy liên tục. Nói sợ chúng chấp kia làm ngã, nghĩa là một hành tướng chuyển nên có thể chấp phân biệt.

Luận nói: Vì lý do gì lại gọi tên là thức A-đà-na?

Vì nó nắm giữ tất cả sắc căn, lấy tất cả tự thể làm sở y. Bởi vì sao? Bởi vì các sắc căn do nó nắm giữ sẽ tùy chuyển suốt đời mà không hỏng mất. Và nó duy trì liên tục cho đến khi kết sinh, sinh rồi thì chấp nhận làm tự thể. Vì vậy thức này còn gọi là thức A-đà-na.

Giải thích: Chấp giữ tất cả các căn hữu sắc là vì các căn có sắc do đây được gìn giữ. Tùy chuyển suốt đời là câu giải thích. Nghĩa là các căn có sắc như mắt v.v… được thức A-lại-da chấp giữ, không phải như xác chết ứ bầm. Nếu khi chết thức A-lại-da rời bỏ thân thì thân thể ứ bầm. Vì vậy cho nên chắc chắn biết là thức A-lại-da chấp thụ nên cho đến hết tuổi thọ không hư mất. Tất cả tự thể lấy làm sở y, là tương tục cho đến chính khi kết sinh thì lấy A-lại-da kia mà sinh và nhận làm tự thể. Lấy đây để giải thích, nghĩa là do thức này là tương tục thức nên nó duy trì liên tục cho đến khi kết sinh thì nhận lấy sự thụ sinh mới làm một thời kỳ của tự thể, cũng là do thức này tiếp nhận. Bởi một thời kỳ của tự thể huân tập và trụ trong thức A-lại-da cho nên cái thể kia khởi gọi là kia sinh. Chấp thụ kia sinh nên gọi là lấy sự sinh kia. Do có thể nhận lấy nên mới chấp thụ tự thể. Vì nghĩa đó nên thức A-lại-da cũng gọi là thức A-đà-na.

Luận nói: Thức này cũng gọi là tâm. Như Thế Tôn nói tâm, ý, thức. Trong đây, ý có 2 thứ. Thứ nhất là cùng làm đẳng vô gián duyên, tính sở y chỉ, tức cái thức vô gián diệt có thể cùng với ý thức tạo ra sự y chỉ. Thứ hai là ý ô nhiễm, thường tương ưng cùng bốn phiền não. Đó là Tát-ca-da kiến, ngã mạn, ngã ái và vô minh. Chính đây là thức làm sở y cho các tạp nhiễm. Thức cũng do kia y chỉ mà sinh khởi, theo nghĩa thứ nhất, và nhận thức các cảnh tạp nhiễm, theo nghĩa thứ hai. Cho nên có nghĩa là đẳng vô gián và nghĩa tư lường mà thành ra ý có 2 thứ là như vậy.

Giải thích: Đây cũng gọi là tâm, nghĩa là thức A-lại-da tức là thể của tâm. Có thể có 2 nghĩa sai biệt của ý và thức. Phải biết nghĩa của tâm cũng có sai biệt. Để hiển thị điều này nên trong đây cùng làm tính của nhân đẳng vô gián duyên. Nghĩa là vô gián diệt, thức với ý thức làm nhân, đó là ý thứ nhất. Do 4 phiền não thường nhiễm ô, đó là ý thứ hai. Trong đây Tát-ca-da kiến, nghĩa là tính chấp ngã. Do sức chấp ngã này lại khởi ngã mạn, ỷ mình và những gì của mình mà sinh tự cao. Nơi thật sự không có cái ta khởi lên tham lam cái ta, gọi là ngã ái. Ba thứ vô minh như vậy làm nhân. Nói vô minh tức là cái thức không trí tuệ. Nói lại do cái đệ nhất kia y sinh, đệ nhị tạp nhiễm, nghĩa là cái thức vô gián diệt gọi là ý. Cùng với nơi cái thức sắp sinh chấp nhận nên làm nơiy chỉ của sự sinh. Ý nhiễm ô thứ hai là chỗ sở y của tạp nhiễm. Bởi trong thiện tâm cũng chấp có ngã chi nên có nghĩa là liễu biệt cảnh, có nghĩa là đẳng vô gián, có nghĩa là tư lường. Ý thành ra có 2 thứ, nghĩa là trong đây do nghĩa thủ cảnh nên gọi là thức, do nghĩa cùng với xứ nên gọi là ý thứ nhất, do chấp ngã v.v… thành nghĩa tạp nhiễm nên gọi là ý thứ hai.

Luận nói: Lại nữa làm sao biết có cái ý nhiễm ô?

Nghĩa là nếu ý nhiễm ô này không có thì không có cái bất cộng vô minh, thế là có lỗi. Và 5 đồng pháp cũng không có, thế là có lỗi. Sở dĩ vì sao? Vì 5 thức thân, tất phải có nhãn v.v… làm câu hữu y. Lại các huấn thích từ cũng không có, thế là có lỗi. Lại nữa sự khác nhau giữa Vô tưởng định với Diệt tận định cũng không có, thế là có lỗi. Nghĩa là Vô tưởng định thì nhiễm ý rõ ràng còn Diệt tận định thì chẳng phải như vậy. Nếu không thế, 2 thứ định sẽ không có gì khác nhau. Và như vậy thì trong suốt thời gian sinh ở trời Vô tưởng phải không có nhiễm ô, thế là có lỗi. Trong khi đó nếu không có ngã chấp ngã mạn, hoặc trong tất cả mọi lúc, ngã chấp có thể hiện hành được, nghĩa là ở trong các tâm thiện, bất thiện, vô ký. Nếu không như vậy thì chỉ tâm bất thiện tương ưng mà thôi, vì có ngã, ngã sở và phiền não hiện hành thì chẳng phải thiện chẳng phải vô ký. Cho nên nếu lập câu hữu hiện hành, không phải tương ưng hiện hành thì không có lỗi này. Ở đây có bài tụng như sau:

Nếu vô minh bất cộng,

Cùng với 5 đồng pháp,

Huấn từ, hai định khác,

Không, thì đều có lỗi.

Sinh Vô tưởng nói không

Ngã chấp, là có lỗi.

Ngã chấp thường theo đuổi

Tất cả chủng, nếu không,

Ý lìa nhiễm không có,

Hai, ba thành trái nhau.

Không đây, tất cả chỗ,

Ngã chấp cũng sẽ không.

Chân nghĩa tâm thường sinh,

Thường hay làm chướng ngại.

Có trong tất cả thức,

Là bất cộng vô minh.

Ý là nhiễm ô nên tính của nó thuộc hữu phú vô ký và thường cùng tương ưng với 4 phiền não. Như phiền não ở cõi Sắc và Vô sắc thuộc tính hữu phú vô ký. Phiền não của Sắc và Vô sắc bị Xa-ma-tha thâu tàng, nên ý này luôn luôn hiện hữu một cách vi tế.

Giải thích: Đoạn văn này lại dùng các đạo lý khác để thành lập ý nhiễm ô. Những gì là đạo lý thành lập? Nghĩa là nếu đây không có thì bất cộng vô minh cũng không có được. Tướng của bất cộng vô minh như thế nào? Nghĩa là chưa sinh đối trị cái ngu có thể chướng ngại chân trí, đây đối với 5 thức lý không tương ưng, là nơi không dung chứa vì có thể chướng ngại. Nếu là nơi có năng đối trị thì cũng là nơi có sở đối trị. Cũng không được ở trong nhiễm ô ý thức, đây là phi hữu, các hoặc hiện hành là bất thành. Nếu lập phiền não này nơi nhiễm ô ý thức tức nó hoàn toàn thành tính nhiễm ô, làm sao các tâm thí v.v…thành thiện được, vì hằng tương ưng với phiền não này. Nếu nói có ý thức với thiện pháp cùng chuyển thì đây tương ưng với phiền não kia, như vậy là ý thức nhiễm mà dẫn sinh năng trị là không hợp lý. Nếu nói nhiễm ô ý cùng chuyển có thiện tâm, tức là thiện tâm này dẫn sinh năng trị, đây sinh thì kia diệt mới là không lỗi. Lại nữa là 5 đồng pháp vì sao, ví như nhãn v.v… 5 thức tất phải có nhãn v.v… 5 căn làm câu hữu y. Như vậy ý thức cũng phải chắc chắn có câu hữu y. Lại nữa là huấn thích từ vì sao, vì có khă năng tư duy nên nói là ý. Huấn thích từ này lấy gì làm chỗ y chỉ? Không phải 6 thức kia với vô gián thức làm chỗ y chỉ, vì đúng lý là đã tàn tạ diệt mất rồi. Lại nữa 2 định khác nhau là vì sao? Nếu định mà nói có nhiễm ô ý thì trong Vô tưởng định phỉ có ý này. Trong các định khác thì không, cho nên có khác nhau. Còn nếu khác đây thì trong 2 định đệ lục ý thức đều không hoạt động, cho nên phải không khác nhau. Lại nữa sinh trong Vô tưởng phải không có ngã chấp vì sao? Nếu trong địa vị ấy không có nhiễm ô ý thì trong một thời kỳ sinh phải không có ngã chấp. Nếu vậy không nên bị Thánh quở trách. Đã bị quở trách nên biết chắc kia có ngã chấp. Lại nữa ngã chấp tùy là vì sao? Thí v.v… trong các vị cũng chắc chắn có ngã chấp tùy. Cho nên cho nên ngã chấp tùy này mà rời vô minh thì không hợp lý. Không phải vô minh này lìa chỗ y chỉ, vì chỗ y chỉ này nếu tách rời nhiễm ô ý thì không có cái thể riêng biệt. Cho nên chắc chắn phải chấp nhận có nhiễm ô ý. Nếu không chấp nhận thì có lỗi như trên. Để hiển thị một lần nữa nên nói 4 Giàtha như bất cộng vô minh v.v… cho đến nói rộng. Trong đây bất cộng vô minh, nghĩa là trong tất cả các vị thiện, bất thiện, vô ký, phiền não, tùy phiền não, nhiễm ô ý tương ưng câu sinh vô minh. Kia nếu không thì thành lỗi lớn. Thường sinh trí chướng ngại khổ v.v…, đó là nghiệp dụng. Đây là hiển thị cái lỗi của không có nghiệp dụng. Năm đồng pháp là đệ lục ý thức có pháp tương tự với 5 thức thân. Kia có 5 căn, thức A-lại-da làm câu hữu y. Đây cũng như vậy, có nhiễm ô ý, thức A-lại-da làm câu hữu y. Năm đồng pháp này nếu tách rời nhiễm ô ý chắc chắn là không có. Đây là hiển thị cái lỗi không tự tính. Huấn từ nếu không, thì thành lỗi, nghĩa là vì lấy tướng sở duyên mà tư duy. Khi vô gián diệt mà có thể thủ cảnh nên gọi là ý. Quá khứ đã diệt không có cái để tư duy, làm sao có tính có khả năng tư duy? Vì không huấn từ nên thành lỗi lớn. Nói 2 định khác nhau là trong Diệt tận định không có nhiễm ô ý. Trong Vô tưởng định có nhiễm ô ý. Nếu không có cái này thì không có sự khác nhau của 2 định mà thành lỗi lớn. Lại nữa nếu không có nhiễm ô ý thì trong thân Vô tưởng phải không có ngã chấp. Chẳng phải dị sinh, nghĩa là trong tương tục tạm lìa ngã chấp, hợp đúng đạo lý. Như vậy các lỗi lìa nhiễm ô ý đều phải có trong định. Cho nên chắc chắn có nhiễm ô ý. Để hiển thị nghĩa này nên lại nói 2 cái không và có. Hai cái tức là bất cộng vô minh và 5 pháp tương tự. Ba cái trái nhau là huấn thích từ, 2 định khác nhau và sinh trong Vô tưởng, ngã chấp hằng theo, lìa, nhiễm ô ý. Ba việc như vậy đều thành mâu thuẫn nhau. Không có đây thì tất cả mọi nơi phải không có ngã chấp. Lìa nhiễm ô ý trong tất cả các loại thiện thì phải không có ngã chấp hằng đi theo. Cho nên chắc chắn phải có nhiễm ô ý. Các đoạn văn khác dễ hiểu không phải giải thích.

Luận nói: Cái thứ ba là tâm. Nếu lìa thức A-lại-da thì không thể có được. Vì vậy thành lập thức A-lại-da làm tâm thể và do tâm này làm chủng tử ý và thức chuyển sinh.

Giải thích: Cái thứ ba là tâm thể. Nếu tách rời thức A-lại-da nó không có tính riêng biệt. Do nó làm nhân, ý và chuyển thức đều được sinh khởi. Phải biết kiến thủ chuyển thức cũng lấy ý thứ hai. Bởi vì sao? Vì khi nó sắp diệt thì lấy tên là ý.

Luận nói: Vì nhân duyên gì thức A-lại-da cũng gọi là tâm?

Vì là nơi tích chứa các chủng tử huân tập.

Giải thích: Lại muốn giải thích tên nên đặt câu hỏi này. Nói do các thứ pháp, nghĩa là do các phẩm loại khác nhau của pháp. Chủng tử huân tập, nghĩa là các công năng sai biệt của nhân. Tích chứa, nghĩa là tụ họp làm một.

Luận nói: Lại nữa vì sao trong Thanh Văn thừa không nói tâm này là thức A-lại-da, thức A-đà-na?

Vì đây thuộc lĩnh vực cực kỳ vi tế. Bởi vì sao? Vì trí giác của các Thanh Văn không chuyển đổi trong tất cả đối cảnh. Cho nên đối với họ tuy tách rời thức A-lại-da không nói, mà vẫn được trí giác, thành tựu giải thoát, nên Phật không nói. Còn trí giác của các Bồ-tát thì quyết định chuyển đổi trong tất cả đối cảnh , vì vậy Phật nói cho Bồ-tát. Nếu lìa trí giác này không dễ gì chứng được trí Nhất thiết trí.

Giải thích: Nói vì đây thuộc lĩnh vực cực kỳ vi tế, nghĩa là cảnh giới này sâu xa vi tế nên gọi là thâm tế cảnh. Vì cảnh sâu xa vi tế này khó hiểu không phải là các Thanh văn vì cầu nhất thiết cảnh giới trí mà siêng năng tu hành. Các Thanh Văn chỉ mong cầu tự lợi nên chính trí của họ thô thiển, đối với khổ v.v…làm sao có thể vĩnh viễn đoạn diệt phiền não chướng. Các Bồ-tát vì tự lợi lợi tha mà siêng năng tu hành mong đoạn trừ phiền não chướng và sở tri chướng, nên Phật vì các Bồ-tát mà nói.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10