NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH LUẬN
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tùy Thiên Trúc Tam tạng Đạt-ma Cấp-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 1

Phải biết y chỉ thắng tướng thắng ngữ 1

Chương 1: Vô đẳng Thánh giáo

Luận nói: Trong Kinh Đại thừa A-tì-đạt-ma, các Bồ-tát đã khéo ngộ nhập Đại thừa đối trước đức Bà-già-bà nói chư Phật Thế Tôn có 10 thắng tướng thắng ngữ để hiển dương đại thể của Đại thừa.

Giải thích: Hỏi vì sao tạo luận? Đáp để phu diễn. Phải biết pháp tính sâu xa rộng lớn, nếu không phải vâng theo sức của Phật Bồ-tát, không ai có thể giải thích nghĩa lý này.

Lại nữa vì nghĩa gì luận này nói các tướng như vậy? Nếu không nói A-tì-đạt-ma thì không biết đó là Phật nói. Vì nghĩa ấy nên nêu tên kinh, như nói Kinh Thập Địa. Nay sẽ giải thích tên kinh ấy để người không biết được biết. Nói A-tì-đạt-ma Tu-đa-la là trong Tu-đa-la kia nói pháp môn A-tì-đạt-ma này, và cũng để hiển thị tên Tu-đa-la. Nói Đại thừa là để phân biệt khác với A-tì-đạt-ma của Thanh Văn, cũng không phải thứ A-tì-đạt-ma không phải Phật nói. Có người tự dùng

tuệ phân biệt gọi là Phật nói A-tì-đạt-ma, hoặc nói do Thanh Văn nói, hoặc nói do người trí ở đời làm ra. Vì vậy nên nói Đại thừa Tu-đa-la, tức cho thấy khác với Thanh Văn v.v…Lại nữa nói A-tì-đạt-ma được hiển thị trong Bồ-tát tạng. Lại nói thâu nhiếp trong tạng là hiển thị sự điều phục tự phiền não. Cho nên trong Đại thừa là Bồ-tát phiền não. Bồ-tát lấy phân biệt làm phiền não. A-tì-đạt-ma là tướng sâu xa rộng lớn. Tạng có 3 loại: Tu-đa-la, A-tì-đạt-ma, Tì-na-da. Tức 3 loại này có thượng hạ thừa riêng biệt nên thành 2 là Thanh Văn tạng và Bồ-tát tạng.

Lại nữa 3 và 2 này vì sao có tên là tạng? Đáp là do bao gồm thâu nhiếp. Nghĩa là thâu gồm tất cả các nghĩa cần phải biết. Vì sao thành 3? Vì có 9 nhân duyên. Đối trị những người nghi ngờ là Tu-đala. Nếu có người nghi về nghĩa thì làm cho họ giải quyết được nghi ngờ nên nói. Đối trị đắm trước nhị biên là Tì-na-da, ngăn ngừa sự thụ dụng tội lỗi, nghĩa là đắm trước bên dục lạc thụ dụng cho là không tội lỗi, ngăn ngừa bên tự hành khổ hạnh. Đối trị sự tự kiến chấp là A-tì-đạt-ma do làm rõ tướng không điên đảo.

Lại nữa nói tam học là Tu-đa-la. Đầy đủ tăng thượng giới, tăng thượng tâm là Tì-na-da, do trì giới được sự không hối hận v.v…lần lượt được Tam-ma-đề. Đầy đủ tăng thượng tuệ là A-tì-đạt-ma, phân biệt lựa chọn nghĩa không điên đảo.

Lại nữa thuyết pháp và nghĩa, là Tu-đa-la. Thành tựu pháp nghĩa, là Tì-na-da. Nếu người tu hành điều phục phiền não, được thông đạt, đối với pháp nghĩa quyết định khéo léo, là A-tì-đạt-ma. Do 9 nhân duyên này nên thành lập 3 tạng. Những thứ này đều vì giải thoát sinh tử.

Lại nữa làm sao được giải thoát? Huân tri tịch thông nên được giải thoát. Do nghe nên huân tập trong tâm, do suy nghĩ nên biết tu hành, do Xa-ma-tha nên tịch tĩnh. Tì-bát-xá-na nên thông đạt.

Tu-đa-la, Tì-na-da, A-tì-đạt-ma này, lược nói có 4 nghĩa. Bồ-tát hiểu đây tức được Nhất thiết trí. Thanh Văn tùy theo hiểu được nghĩa một kệ thì được lưu tận.

Mỗi thứ đều có 4 nghĩa là thế nào? Một y, hai tướng, ba pháp, bốn nghĩa. Xuyên suốt đây là Tu-đa-la. Trong đó y là y xứ, y nhân, y sở vi. Tướng là thế đế tướng, đệ nhất nghĩa đế tướng. Pháp là ấm, giới, nhập, duyên sinh, đế, niệm, định, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, nhất thiết xứ, Bồ-đề phần, biện tài, vô tránh v.v… Nghĩa, là tùy thuận tương tục. Một hướng, hai số, ba phục, bốn phổ gập. Nên biết rằng đây là A-tì-đạt-ma. Hướng là A-tì-đạt-ma, là pháp hướng đến vô trụ xứ Niết-bàn, vì nói các môn đế, Bồ-đề phần, giải thoát v.v…Số, là pháp số của A-tì-đạt-ma. Trong mỗi mỗi pháp quyết liễu sự sai biệt của tự tướng, thông tướng của nó vì có vô lượng thuyết. Phục, là A-tì-đạt-ma là pháp làm kẻ khác phải hàng phục, có thể đè bẹp các luận khác do lập tông đầy đủ. Phổ tập, là do A-tì-đạt-ma tập họp khắp các nghĩa của Tu-đa-la.

Lại nữa, phải biết 4 của Tì-na-da là: một tội lỗi, hai duyên khởi, ba hoàn tịnh, bốn xuất ly. Trong đó tội lỗi là tội Ngũ thiên. Duyên khởi là nguyên do gây tội lỗi, có 4: một không biết, hai phóng túng, ba phiền não nung náu, bốn không tôn trọng. Hoàn tịnh là pháp tịnh tâm chứ không phải trị phạt, như nhiếp trì cấm giới. Xuất ly có 7 thứ: Một là tự phát lồ. Hai là trị phạt với đồng học. Ba là hoàn toàn cấm không cho học mà dùng đạo lý khác. Bốn là đã giải quyết xong, nghĩa là chúng tăng đồng ý cùng giải quyết. Năm là chuyển thân, nghĩa là Tì-khưu, Tì-khưu-ni chuyển đổi giới tính nếu không có tội chung. Sáu là chân thật quán do tác pháp Uất-đà-na thắng quán. Bảy là được pháp nhĩ, nghĩa là được kiến đế rồi thì tiểu tội và tùy tiểu tội, theo pháp nhĩ là không có. Lại nữa phải biết Tì-na-da có 4 nghĩa: Một là người, tức y vào đó lập học xứ. Hai là lập chế, tức như chỗ thưa bạch về tội lỗi người ấy, Đại sư họp chúng chế học xứ. Ba là phân biệt, tức lập câu học xứ rồi theo đó giải thích cho tách bạch từng phần. Bốn là phán quyết, nghĩa là quyết định trong các phần ấy thế nào là có tội thế nào là vô tội. Nay giải thích câu “trước đức Bà-già-bà “ là bày tỏ sự cung kính, không nói gì khác. Nói “khéo ngộ nhập Đại thừa” là được công đức Đà-la-ni v.v…, cho thấy rằng được các công đức ấy rồi thì đối với văn, với nghĩa có thể thụ trì đúng, giảng nói đúng. Các Bồ-tát như thế gọi là khéo nhập Đại thừa. Nói vậy để làm gì? Là để hiển phát cái thể to lớn của Đại thừa. Hiển phát là nói rõ ràng rộng rãi cái đại thể ấy. Đó là Đại thừa, y nơi Đại thừa nên có 10 thứ thắng tướng thắng ngữ. Dùng thắng ngữ nói 10 thắng tướng do đó có 10 thứ thắng tướng thắng ngữ. Lại nói thắng ngôn là hai tướng hình nên có vật này hơn vật kia. Tối thượng nghĩa là thắng nghĩa. Lại nữa do nhân thể thắng nên quả ngữ thắng. Nay sẽ nói về 10 thứ ấy.

Luận nói: Chư Phật Thế Tôn có y chỉ thắng tướng thắng ngữ cần phải biết: Ưng tri thắng tướng thắng ngữ. Nhập ưng tri thắng tướng thắng ngữ. Nhập nhân quả thắng tướng thắng ngữ. Nhân quả tu thắng tướng thắng ngữ. Trong đó có: Tu sai biệt tăng thượng giới thắng tướng thắng ngữ, Tu tăng thượng tâm thắng tướng thắng ngữ, Tu tăng thượng tuệ thắng tướng thắng ngữ, Tu diệt thắng tướng thắng ngữ, Tu trí thắng tướng thắng ngữ. Như vậy những câu Tu-đa-la đã nói hiển thị Đại thừa là Phật nói.

Giải thích: Nói “Ưng tri y chỉ thắng tướng thắng ngữ” là pháp sở tri cần phải biết, gọi là ưng tri. Nghĩa là các pháp nhiễm tịnh v.v… tức là 3 tính. Y chỉ là nghĩa của nhân. Nên biết y chỉ tức là thắng tướng này. Cho nên nói “ưng tri y chỉ thắng tướng”. Do thắng tướng ấy nên nói là thắng, tức là thức A-lê-da. Như vậy là những giải thích nghĩa sơ lược. Cho đến trí thắng tướng cũng vậy. Trí tức thắng tướng, nên nói trí thắng tướng. Ưng tri tướng nghĩa là ưng tri tự tính. Ưng tri tức là tướng, cho nên nói ưng tri tướng, tức là 3 tính. Nhập ưng tri thắng tướng là trong cái ưng tri tướng này, nếu sở nhập và năng nhập đều gọi là nhập, tức là duy thức, tức đây nhập là kia nhập. Nói kia nhập nhân quả là duy thức gọi là nhập. Nhân là thế gian thí v.v… các Ba-la-mật., tức là khi gia hành. Quả thể, tức khi đây thông đạt là xuất thế gian thể. Kia nhân quả tu sai biệt, tức nhân quả trước ở trong nhân quả này tu sai biệt. Tu, tức là tập nhiều lần. Sự tu tập nhiều lần này trong các địa trở nên tiến triển hơn, nên gọi là sai biệt., tức 10 địa tu sai biệt trong đó. Tăng thượng giới học là giới tu học gọi là tăng thượng giới, tức là trong 10 địa có các giới cấm Bồ-tát. Đối với các bất thiện không mống tâm, nên tăng thượng tâm học là nội quán tâm. Tâm này tức là tăng thượng học, gọi là Tam-ma-đề. Tăng thượng tuệ học là thắng hơn được tuệ gọi là tăng thượng tuệ. Tuệ này tức là tăng thượng học. Tăng thượng tuệ học tức là vô phân biệt trí. Diệt thắng tướng là tự thể của tối thắng chủng loại diệt phiền não chướng trí chướng, tức là vô trụ xứ Niết-bàn. Trí thắng tướng thắng ngữ là trí không chướng ngại gọi là trí thắng tướng. Trí vô phân biệt kia có đối trị. Phật trí là lìa tất cả chướng tùy miên, tức sự thù thắng của trí vô phân biệt.

Luận nói: Lại nữa, hiển phát như thế nào? Có 10 chỗ nói về điều này. Trong Thanh Văn thừa không nói đến. Chỉ có Đại thừa nói. Đó là thức A-lê-da, nói là cái thể y chỉ cần phải biết. Ba thứ tự tính: phân biệt, y tha, thành tựu nói là cái thể tướng cần phải biết. Duy thức nói là ngộ nhập cái thể tướng cần phải biết. Sáu Ba-la-mật nói là nhập nhân quả thể tướng. Mười địa Bồ-tát nói là nhập nhân quả tu sai biệt thể. Nói giới cấm Bồ-tát là thể của giới tăng thượng. Nói kiện hành và hư không khí v.v…Tam-ma-đề là thể của tâm tăng thượng. Nói vô phân biệt trí là thể của tuệ tăng thượng. Nói vô trụ Niết-bàn là thể của quả diệt kia. Nói 3 thân của chư Phật: tự tính thân, cộng dụng thân, hóa thân là thể của quả trí kia. Do 10 chỗ này nên đặc biệt khác với Thanh Văn thừa. Chỗ đặc biệt khác đó là cao tột cho nên Thế Tôn chỉ nói cho Bồ-tát. Vì vậy cho nên nói chư Phật Thế Tôn vì Đại thừa mới có 10 thứ thắng tướng thắng ngữ cần phải biết.

Giải thích: Thế nào là hiển phát? Nghĩa là có tướng mạo như thế nào. Sáu Ba-la-mật là thể của ngộ nhập nhân quả kia, nghĩa là duy thức quán được nhập 3 tính, tức là nhân của thanh tịnh Ba-la-mật. Tuy là thế gian có thể dẫn đến xuất thế gian cho nên đã nhập địa trở đi tức là thanh tịnh, là thể của quả xuất thế. Bồ-tát 10 địa là thể của tu sai biệt nhân quả kia, tức là tu tập 3 học trong các địa. Quả, tức là quả của quả tam học. Trong quả này, diệt là thể của quả diệt, nghĩa là diệt phiền não trí chướng. Vô phân biệt trí là thể của tăng thượng tuệ học, nghĩa là Thanh Văn không phân biệt 4 điên đảo nên gọi vô phân biệt. Chư Bồ-tát thì vô phân biệt đối với tất cả pháp. Đây là chỗ khác nhau của 2 thứ vô phân biệt. Ba thứ Phật thân là thể của quả trí, là quả tam học kia gọi là quả kia. Quả kia tức là trí, nên nói quả trí kia. Thể này tức là thể của quả trí kia. Trong đây nếu lìa tự tính thân tức không có pháp thân. Như nhãn nếu tách rời đây tức không có báo thân. Như nhãn thức, nên biết rằng đây 2 pháp năng y sở y bình đẳng, nếu tách rời báo thân, thì các Bồ-tát đã nhập đại địa thụ dụng pháp cũng bất thành. Nếu không thụ dụng pháp thì Bồ-đề tư lương đầy đủ cũng bất thành. Như kiến sắc hóa thân cũng vậy. Nếu tách rời đây thì các Bồ-tát trong giải hạnh, các Thanh Văn thô thiển giải, và sơ phát tâm tu hành cũng bất thành. Vì vậy cho nên nhất định phải có 3 thân. Cho nên Đại thừa với Thanh Văn thừa đặc biệt khác đó là trong Thanh Văn thừa không nói. Tối thượng là hiển thị trong Đại thừa cũng thù thắng.

Luận nói: Lại nữa vì sao lấy 10 thứ thắng tướng thắng ngữ của Như Lai này có thể rõ Đại thừa là Phật nói? Cũng ngăn chận được

Thanh Văn thừa khác với Đại thừa? Bởi vì 10 chỗ này không thấy nói trong Thanh Văn thừa, chỉ nói trong Đại thừa dẫn sinh Đại Bồ-đề. Mười chỗ này tùy thuận thành tựu không mâu thuẫn, được trí Nhất thiết trí. Ở đây có kệ như sau:

Phải biết y tướng nhập,

Nhân quả tu sai biệt,

Tam học quả diệt trí,

Trong thượng thừa thù thắng.

Đây nói nơi khác không,

Thấy nhân thắng giác này,

Nên Đại thừa Phật nói,

Do nói 10 thắng xứ.

Giải thích: Nghĩa này là thế nào? Có thể dẫn đến Đại Bồ-đề nên hiển thị nghĩa này. Mười chỗ này thành tựu tùy thuận không mâu thuẫn, nên có thể dẫn sinh Đại Bồ-đề. Dẫn sinh Đại Bồ-đề là vì nhân. Thành tựu là trong tam học tư lường quan sát như đạo sư hiển thị đạo tướng. Tùy thuận là trong thắng được, khi khởi tu hành tùy thuận tương ưng trụ, trong đó tùy thuận mà trụ như đạo sư đã nói. Không mâu thuẫn là trong các địa không có sự chướng ngại, như nói trên đường đi không có giặc v.v… cản trở. Nghĩa là sinh tử Niết-bàn không chướng ngại nhau.

Chương 2: Thứ tự của 10 nghĩa

Luận nói: Lại nữa 10 chỗ này vì sao được nói theo thư tự như vậy? Chư Bồ-tát tối sơ do các pháp như vậy, trong nhân được khéo léo, tức trong duyên sinh sẽ được khéo léo. Chúng sau đó các pháp sở sinh trong duyên được biết rõ tướng của chúng, biết rõ lỗi hai bên tăng ích tổn giảm. Bồ-tát khéo tương ưng đối với các tướng ấy rồi, tiếp đến đối với chúng khéo nhiếp trì, trong tướng phải thông đạt, thì trong chướng ngại tâm được giải thoát. Thông đạt các tướng cần phải biết kia rồi, cái thắng nhân xưa gia hành trong 6 Ba-la-mật phải được thành tựu. Y nội tâm thanh tịnh nên 6 Ba-la-mật được thâu nhiếp trong nội tâm thanh tịnh phải tu 3 a-tăng-kì kiếp làm thanh tịnh từng phần từng phần. Tiếp đến Bồ-tát phải viên mãn tam học. Đã viên mãn rồi, cần phải tu A-nậuđa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề và quả Niết-bàn kia. Mười chỗ nói theo thứ tự như vậy. Trong đây, tất cả Đại thừa đều được cứu cánh.

Giải thích: Vì lý do gì nói theo thứ tự như vậy? Nghĩa là ban đầu từ các Bồ-tát do trong các nhân như vậy cho đến quả Niết-bàn kia chính giác A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề v.v…là do biết nhân các pháp nên được thiện xảo trong duyên sinh. Do có nhân nên sinh quả. Chẳng phải Tự tại thiên v.v… Cho nên được nhân quả 2 trí. Tiếp đến phải biết cái tướng của pháp do nhân sinh ra. Tướng ấy như thế nào? Tính phân biệt là không, chấp cho là có, gọi là tăng ích. Tăng ích nơi không, tức là tổn giảm. Tính thật hữu thành tựu lìa lỗi nhị biên này, nên nói là thiện xảo. Tiếp đến về sở thủ phải dùng duy thức quán biết tướng của chúng. Do quán này nên được không chướng ngại. Tiếp đến trong tùy thuận nhập duy thức 6 Ba-la-mật thế gian, y thế tục được rồi phải tu đắc đệ nhất nghĩa. Nghĩa là phải tu tịnh tâm nhiếp thủ Ba-la-mật. Tiếp đến trong 10 địa trải qua 3 a-tăng-kì kiếp phải tu từng phần, không phải như Thanh Văn thắng đắc trong 3 đời khởi đối trị là được giải thoát. Tiếp đến trong lúc tu phải viên mãn giới v.v. tam học. Tiếp đến phải được học quả Niết-bàn, diệt phiền não chướng, được 3 thân A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nếu thứ tự Đại thừa thì đều phải biết như vậy. Bởi vì sao? Nếu muốn nói duyên sinh tức nhập trong thức A-lê-da. Nếu nói tướng tức vào trong 3 tính. Nếu nói thắng đắc tức là duy thức. Nếu nói Ba-la-mật tức vào trong các Ba-la-mật. Nếu nói địa tức vào trong địa. Nếu nói học tức vào trong học xứ. Nếu nói diệt và trí tức gồm trong vô trụ xứ Niếtbàn và 3 thân. Phật nói như vậy, cho nên nói theo thứ tự như thế. Lại có nghĩa khác, dẫn sinh Đại Bồ-đề nghĩa là có thể sinh trí không phân biệt không hý luận. Thành tựu là tương ưng. Tùy thuận là không mâu thuẫn với 3 lượng. Không mâu thuẫn là không phải trước thuận theo sau trái chống. Như kệ nói:

Nhiếp trì cầu và bi,

Cũng tùy thuận các thiện,

Chẳng hắc bạch, ngã kiến,

Có ích cũng có tổn.

Được trí Nhất thiết trí nghĩa là trong tất cả pháp, nhất thiết chủng trí sinh không gián đoạn. Những thành tựu này cũng có nghĩa riêng. Thành tựu tùy thuận không mâu thuẫn v.v… Câu trước là gốc, câu sau là giải thích. Thế nào là thành tựu? Nghĩa là tùy thuận. Thế nào là tùy thuận? Nghĩa là không mâu thuẫn. Cứ lần lữa như vậy.

Chương 3: Các tên

Luận nói: Trong đây trước tiên phải biết y chỉ là thức A-lê-da. Thế Tôn ở đâu nói thức A-lê-da này? Thế Tôn nói trong bài kệ Kinh A-tì-đạt-ma.

Giới thể thời vô thủy,

Các pháp cùng y chỉ.

Do đây có các thú,

Và Niết-bàn thắng đắc.

Giải thích: Thế Tôn trong A-tì-đạt-ma A-hàm nói tên thức A-lêda. Thức A-lê-da tức luận này trước tiên nói A-tì-đạt-ma Tu-đa-la. Trong đây “giới” tức là nghĩa của nhân. “Các pháp cùng y chỉ” là do nhân này nên tất cả pháp đều dựa vào đó. Nghĩa là y chỉ vào đây làm thể của nhân. Có chỗ cho các pháp y chỉ này nên quả báo các thú do đây được sinh, có lực trong vô lượng sinh, có thể hiểu nghĩa các pháp thiện thuyết ác thuyết. Nếu vượt thứ tự được thắng đắc, lại làm thể y chỉ cho phiền não, do đó có phiền não rất nặng và phiền não bền chắc. Trong 4 thứ quả báo này, người thắng có thể kham chịu được, ngược lại thì không. Nên biết tất cả ở trong sinh tử tùy thuộc thú nào? Chẳng phải chỉ các thú mà cũng có thắng đắc Niết-bàn, bởi vì có phiền não tức có Niết-bàn. A-hàm này cho thấy cái y chỉ cần phải biết, đó là thức A-lê-da. A-hàm lại nói:

Luận nói: Tức kinh ấy lại nói kệ rằng:

Chỗ các pháp y trú:

Nhất thiết chủng tử thức.

Nên gọi thức Lê-da.

Ta vì thắng nhân nói.

Giải thích: Bài kệ này, câu thứ hai giải thích câu thứ nhất. Thắng nhân là chỉ các Bồ-tát.

Luận nói: Có các chứng minh trong A-hàm này, nhưng thức này vì nhân duyên gì gọi là A-lê-da? Tất cả các nhiễm pháp của loài hữu sinh y trụ làm quả, thức này cũng dựa vào các pháp kia làm nhân, nên gọi là thức A-lê-da. Lại nữa chúng sinh y trụ lấy làm tự ngã cho nên gọi là thức A-lê-da.

Giải thích: Thức này gọi là A-lê-da là vì các pháp y trụ. Y trụ là cùng chuyển. Hữu sinh là những loài có sinh khởi đều gọi là hữu sinh. Nhiễm pháp là khác với tịnh pháp. Chúng sinh y trụ làm tự ngã là chấp thủ.

Luận nói: Thức A-lê-da này còn tên là thức A-đà-na. Như Thế Tôn có nói trong Kinh Giải Tiết:

A-đà-na sâu xa vi tế,

Chủng tử hằng chuyển như dòng chảy.

Trẻ con, phàm phu ta không nói,

Không cho phân biệt gọi là ngã.

Giải thích: Lại trong Giải Tiết A-hàm, Phật bảo Quảng Tuệ: Các chúng sinh trong 6 đường sinh tử tùy loại chúng sinh, nào sinh trứng, sinh thai,sinh nơi ẩm ướt, hóa sinh, trong khi sinh tự thân chuyển sinh, khi ấy tất cả chủng tử tâm lúc mới đầu thành thục liền được hòa hợp, rồi tăng trưởng lớn lên đầy đủ. Có hai loại thủ đắc là có loại y sắc căn mà thủ đắc nên tướng gọi là phân biệt thế tục hý luận v.v…huân tập thủ. Trong sắc giới có 2 loại thủ. Trong vô sắc giới không có 2 loại thủ. Quảng Tuệ ! Thức này hoặc gọi là A-đà-na vì nó biến khắp gìn giữ trong thân, hoặc gọi là A-lê-da vì nó ẩn tàng khắp cả trong thân cùng thịnh suy lợi hại, nên hoặc gọi là tâm vì nó tích tụ và tăng trưởng sắc thanh hương vị xúc pháp. Quảng Tuệ ! Y A-đà-na thức làm trụ xứ chuyển sinh 6 thức thân tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức trong đó có thức. Nhãn căn và sắc là duyên sinh nhãn thức, tức nhãn thức kia cộng hành đồng thời cùng với cảnh giới có ý thức phân biệt sinh. Nếu mỗi một nhãn thức sinh, tùy theo mỗi một nhãn phân biệt ý thức, với nhãn thức cùng hành, đồng thời cùng cảnh giới sinh. Tùy mỗi lúc, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm thức thân chuyển sinh, tức mỗi lúc một phân biệt ý thức với 5 thức thân cùng hành, đồng thời cùng cảnh giới sinh. Như dòng sông lớn chảy, nếu một duyên khởi sóng xảy đến thì một đợt sóng sinh, nếu hai hoặc nhiều duyên khởi sóng xảy đến thì nhiều đợt sóng sinh trong khi con sông kia vẫn chảy bình thường không gián đoạn không chấm dứt. Lại ví như mặt gương sạch, nếu có một vật tượng đến thì có một ảnh tượng sinh, nếu hai hay nhiều vật tượng đến thì có nhiều ảnh tượng sinh, nhưng mặt gương kia không chuyển thành ảnh tượng, cũng không tổn giảm, nên biết như vậy. Như vậy thức A-đà-na như con sông lớn, y nơi đó mà trụ. Nếu có tùy một duyên khởi đến với nhãn thức thì tùy theo đó có một nhãn thức sinh. Nếu cho đến tùy theo đó có duyên 5 thức thân khởi đến, thì tùy theo đó có 5 thức thân sinh. Như vậy Quảng Tuệ ! Bồ-tát trụ pháp trụ trí được bí mật thiện xảo của tâm ý thức. Như Lai nhất thiết chủng nhất thiết trí không nói Bồ-tát đều như nhau cái gọi là bí mật thiện xảo của tâm ý thức này. Quảng Tuệ ! Nếu Bồ-tát ở bên trong, ở bên ngoài, như thật không thấy A-đà-na A-đà-na thức, không thấy A-lê-da A-lê-da thức, không thấy tăng trưởng, không thấy các thứ ( hai này gọi là tâm ), không thấy nhãn sắc nhãn thức, không thấy nhĩ thanh nhĩ thức, không thấy tỹ hương tỹ thức, không thấy thiệt vị thiệt thức, không thấy thân xúc thân thức. Quảng Tuệ ! Nếu Bồ-tát y pháp trụ trí, trụ pháp trụ trí được tâm ý thức thiện xảo. Lại nữa như nghĩa này hiển thị trong kệ: “Thức A-đà-na sâu xa vi tế” là vì khó biết. “Tất cả chủng tử chuyển biến như dòng nước chảy” nghĩa là tất cả chủng tử lần lượt chuyển sinh như nước chảy, mỗi niệm mỗi niệm tiếp nối. Cho nên A-đà-na hiển thị một tên đặc biệt. “Không cho phân biệt gọi là ngã” là vì một tướng chuyển nên phân biệt gọi là ngã.

Luận nói: Vì nhân duyên gì gọi thức này tên là A-đà-na? Vì nó nhiếp trì tất cả các căn hữu sắc và tất cả tự thân lấy làm nơi nương tựa. Nơi nó, sắc căn được giữ gìn không mất cho đến khi nào mạng còn sống. Và nó tương tục khi thụ sinh khiến được tự thân. Cho nên gọi là A-đà-na.

Giải thích: Nói nhiếp trì các căn của tất cả hữu sắc, nghĩa là các sắc căn này bị thức kia nhiếp trì. Cho đến khi nào mạng còn sống, là lấy câu này giải thích. Bởi vì sao? Vì thức A-lê-da nhiếp trì nhãn v.v…các sắc căn. Cho nên không bị tím bầm như thân đã chết. Nếu khi chết thức kia rời bỏ thân thì sẽ có tướng bị tím bầm, cho nên biết do thức kia nhiếp trì thọ mạng khi còn sống nên không hư hoại. Đó là nơi tất cả thân mạng lấy làm nơi nương tựa, cho nên có sự sống tiếp tục, sự sống tiếp tục khiến có tự thân. Điều này giải thích thức là nơi duy trì sự sống tiếp tục. Bởi vì sao? Vì có thể duy trì tự thân đầy đủ bởi trong thức A-lê-da đầy đủ tự thân huân tập ở trong đó. Cho nên khi sinh gọi là chuyển sinh, tức là khi nó sinh thì lấy tên là chuyển sinh thủ. Do thủ này nên giữ đưọc tự thân. Vì nghĩa này thức A-lê-da gọi là thức A-đà-na.

Luận nói: Cũng gọi tên là tâm, như Thế Tôn nói tâm, ý, thức. Trong đó y có 2 thứ: Một là lần lượt duyên với tác y xứ, do thức lần lượt diệt, ý thức y vào đó sinh. Hai là ý ô nhiễm thường tương ưng cùng 4 phiền não là thân kiến, ngã mạn, ngã ái, vô minh. Ý này tức là nơi y chỉ của các nhiễm ô của các thức khác. Các thức khác do đệ nhất y chỉ sinh, do đệ nhị nhiễm ô. Do nghĩa liễu cảnh, do nghĩa lần lượt, do niệm nghĩa, nên ý có 2 loại.

Giải thích: Lại nói tên là tâm có nghĩa là đây nói thức A-lêda tức là tâm.Ý và thức 2 thứ có nghĩa riêng có thể thấy. Nên biết rằng tâm này cũng có nghĩa riêng. Để làm rõ nghĩa này, trong sự lần lượt duyên và làm nơi nương tựa, nghĩa là thức nếu lần lượt diệt rồi được làm nhân cho ý thức. Đây là đệ nhất ý. Lại có đệ nhị nhiễm ô ý, vì 4 thứ phiền não. Trong đó thân kiến tức là ngã chấp. Do chấp này nên có ngã mạn bởi thủ ngã tự cao. Do đây trong vô ngã khởi ngã ái. Ba thứ này đều bởi vô minh làm nhân. Vô minh là vì vô trí. Các thức khác do đệ nhất y chỉ sinh, do đệ nhị nhiễm ô là nếu thức lần lượt diệt rồi gọi là ý, với nơi sắp sinh thức làm y chỉ cho sự sinh kia nên đệ nhị nhiễm ô ý là y chỉ của nhiễm ô. Bởi vì sao? Trong thiện tâm cũng có ngã cho nên liễu cảnh nghĩa, thứ đệ nghĩa, niệm nghĩa nên ý có 2 thứ nghĩa là ở trong thủ cảnh nghĩa nên gọi là thức, với xứ sở nghĩa nên gọi là đệ nhất ý, ngã tướng v.v… nhiễm ô nghĩa nên gọi là đệ nhị ý.

Luận nói: Lại nữa làm sao biết có ý nhiễm ô? Đây nếu không có xúc hành vô minh, cũng không có đây là lỗi lầm. Năm thức tương tự cũng không có đây là lỗi lầm. Như 5 thức thân có y chỉ đồng thời nên được các tên là nhãn v.v… không có đây là lỗi lầm. Vô tưởng định, Diệt tận định không có sai biệt, đây là lỗi lầm. Vô tưởng định được tên nhiễm ô ý, Diệt tận định thì không, nên có sai biệt. Lại tức vô tưởng này một khi sinh thì không có pjhiền não, đây là sai lầm. Nếu trong cõi trời kia không có ngã và mạn v.v…Lại tất cả thời ngã chấp đều được hành, nghĩa là tâm thiện ác vô ký nếu không như vậy, chỉ tâm bất thiện được tương ưng, ngã chấp là phiền não cho nên không cho tâm thiện và vô ký cùng hành. Vì vậy cho nên nếu câu hữu và cộng hành thì không có lỗi này. Nếu tương ưng hiện hành thì không có lỗi này. Ở đây có kệ như sau:

Nếu độc hành vô minh,

Và 5 pháp tương tự.

Hai thứ định sai khác,

Được tên không lỗi này.

Sinh vào trời Vô tưởng,

Vô ngã thì có lỗi.

Ngã chấp tùy thuận chuyển,

Mọi nơi đều không có.

Lìa nhiễm ý không có,

Hai ba tức trái nhau.

Không đây tức cũng không,

Ngã chấp khắp mọi nơi.

Khi tâm hành thật nghĩa,

Thường làm thành chướng ngại.

Cộng hành trong mọi lúc,

Là độc hành vô minh.

Giải thích: Đệ nhị nhiễm ô ý này lấy đạo lý nào thành lập? Ý này nếu không thì độc hành vô minh không thành. Độc hành vô minh là gì? Khi chưa khởi đối trị nó chướng ngại trí chân như, si này không tương ưng với 5 thức vì ở đây không bị chướng ngại. Nếu nơi nào khởi đối trị thì nơi đó bị chướng. Cũng không ở trong nhiễm ô ý thức. Nếu tức là nhiễm ô ý thức thì có lỗi. Chẳng phải nhiễm ô ý thức thì vì cộng hành cùng với các phiền não khác nên không gọi là độc hành. Lại nữa nếu muốn khiến tức là phiền não nhiễm ô ý thức thì có thường tội lỗi nhiễm ô.

Làm sao các tâm thí v.v…được thành thiện? Bởi thường cùng kia tương ưng. Nếu nói có ý cùng thiện tương ưng sinh, tức kiến lập đây là dẫn sinh đối trị có thể trị nhiễm ô ý thức đây bất thành. Nếu nói có thiện tâm cùng nhiễm ô ý cộng sinh, thiện tâm này có thể dẫn sinh đối trị, trị diệt các thức khác. Cái diệt này thì không có lỗi.

Lại nữa cùng 5 thức tương tự nên như nhãn thức v.v… 5 thức thì có nhãn v.v.. 5 căn đồng thời làm y chỉ. Ý thức này cũng phải đồng thời y chỉ.

Hai định không sai biệt tức là nếu nói có nhiễm ô ý, trong Vô tưởng định kia thì có, trong Diệt tâm định thì không, có sai biệt đó. Trong 2 định này, ý thức không hành vì không sai biệt. Nói “được tên”, tức là do niệm tự thân nên tên là ý. Nếu không có thể, tên này dựa vào đâu? Nếu 6 thức lần lượt qua rồi, thức này gọi là ý thì không hợp lý vì nó đã diệt. Lại nữa sinh vào trời Vô tưởng, một thời kỳ phải không có ngã cho nên nếu nói nơi ấy không nhiễm ô ý là sinh ở nơi ấy tức phải không có ngã. Các thánh nhân không nên chán ghét. Đã chán ghét nên biết rằng sinh nơi ấy chắc chắn có ngã.

Nói “ngã chấp tùy thuận chuyển” là vì thí v.v…các thiện tương ưng với ngã cho nên nếu lìa ngã chấp này thì vô minh không thành. Vô minh không lìa y chỉ, vì y chỉ này lìa nhiễm ô ý là không thể được.

Luận nói: Vì ý này nhiễm ô nên chướng ngại vô ký. Hằng cùng 4 phiền não tương ưng. Như phiền não cõi Sắc cõi Vô sắc là chướng ngại vô ký. Sắc, Vô sắc giới là Xa-ma-tha sở tàng. Ý này nhất thời nhiễm trước cho nên tâm thể đệ tam lìa thức A-lê-da là không thể được. Cho nên thành tựu thức A-lê-da là tâm. Do đây là chủng tử cho nên ý và ý thức v.v… chuyển sinh.

Vì duyên gì gọi là tâm? Vì tụ họp các thứ chủng tử huân tập của các pháp.

Giải thích: Lấy kiến ý và chuyển thức, lấy thức A-lê-da làm nhân sinh, cho nên tâm thể không thể được các nơi khác. Phật nói thức tức là gồm trong thứ đệ diệt ý. Do thức ấy diệt rồi, nói là ý. Lại nữa do tập hợp chủng tử huân tập của các pháp nên được tên gọi là tâm. Trong đó các thứ là các tướng của các pháp, cho nên chủng tử huân tập tức là có công năng làm nhân sai biệt kia. Nói tập họp tức là tích hợp lại dày đặc thành một khối.

Luận nói: Lại nữa vì sao trong Thanh Văn thừa không nói tâm này tên là thức A-lê-da, thức A-đà-na? Vì thâu nhiếp trong cảnh giới vi tế. Người Thanh Văn không biết tất cả cảnh giới cho nên đối với họ tuy lìa thuyết này nhưng được thành tựu trí kia khiến được giải thoát. Do đó nên không nói. Chư Bồ-tát vì muốn biết tất cả cảnh giới, cho nên nói. Do lìa trí này nên không thể được trí Nhất thiết trí.

Giải thích: Nói “Vì thâu nhiếp trong cảnh giới vi tế” nghĩa là đây cũng vừa là vi tế, cũng vừa là cảnh giới nên gọi là cảnh giới vi tế. Lại nữa nhập vào trong cảnh giới vi tế vì khó biết được, lại các Thanh Văn không muốn biết tát cả cảnh giới nên tu hành chỉ nhằm tự lợi cho nên họ đối với các thô phiền não chỉ dùng khổ v.v…các trí để diệt trừ. Còn Bồ-tát thì tu hành là để trừ tự tha phiền não chướng và trí chướng cho nên nói.

Luận nói: Nhưng trong Thanh Văn thừa cũng có dùng đạo lý khác để nói về thức A-lê-da. Như trong Tăng Nhất A-hàm nói chúng sinh ưa A-lê-da, thích A-lê-da, nương tựa A-lê-da, tìm cầu A-lê-da. Để diệt A-lê-da này nên khi Như Lai thuyết pháp thì chuyên chú lắng nghe, khởi tâm tìm hiểu, tùy thuận thụ pháp nguyện diệt A-lê-da. Vì Như Lai xuất thế nên có pháp hy hữu khó được mới hiển hiện nơi thế gian. Như Lai xuất thế có 4 thứ đáng tán thán. Trong kinh đã dùng biệt danh như vậy để hiển hiện thức A-lê-da trong Thanh Văn thừa.

Giải thích: “Chúng sinh ưa A-lê-da” câu này là gốc. Sau dùng hiện tại, quá khứ, vị lai 3 thời để giải thích. Ba câu khác như các câu lần lượt. Lại có nghĩa khác hỷ A-lê-da tức là nói hiện thế, lạc A-lê-da là nói quá khứ thế. Do lạc A-lê-da của đời trước cho nên lại có tập A-lê-da. Do hỷ A-lê-da, tập A-lê-da nên lại có tìm cầu A-lê-da đời sau. Thuận theo pháp nghĩa là thực hành đúng như giáo pháp đã nói.

Luận nói: Trong Ma-ha Tăng-kì A-hàm cũng dùng đạo lý khác nói thức này, gọi là căn bản thức, ví như gốc rễ của cây.

Giải thích: Nói căn bản thức như gốc rễ của cây nghĩa là căn bản thức kia là cái thể, làm nhân cho tất cả thức . Ví như gốc rễ củ cây là nhân phát sinh các thứ nhánh nhóc. Nếu không có gốc rễ không thể có được cành nhánh. Thức A-lê-da làm căn bản cho các thức cũng vậy.

Luận nói: Trong Di-sa-tắc cũng dùng đạo lý khác nói về thức này, gọi là cùng sinh tử tụ. Có nơi, có lúc thấy sắc tâm đoạn dứt, nhưng chủng tử trong thức A-lê-da thì không đoạn dứt.

Giải thích: Cũng dùng đạo lý khác nói là cùng tận sinh tử tụ, nghĩa là cái thể tụ họp của cái thức này là cho đến tận cùng sinh tử. Bởi vì sao? Vì có nhân duyên. Nói có nơi, tức là cõi. Tức là nói trong cõi Vô sắc thì không còn có sắc. Nói có lúc, tức có lúc ở trong định, như Vô tưởng định v.v… Nói chủng tử trong thức A-lê-da không đoạn dứt, nghĩa là sắc tâm huân tập là nhân, thời gian sau sắc tâm trở lại theo đây sinh.

Luận nói: Do đó nên biết rằng các tên Y chỉ A-đà-na thức, Tâm A-lê-da thức, Căn bản thức, Cùng sinh tử tụ v.v… thức A-lê-da này đã thành con đường lớn của đại vương đi.

Giải thích: Thành con đường của đại vương đi là nói con đường rộng lớn.

Luận nói: Lại có các sư chấp cho rằng tâm ý và thức tên khác nhưng nghĩa là một. Không đúng như vậy. Do kiến ý và thức nghĩa, cho nên nghĩa của tâm kia cũng phải khác. Lại có các sư chấp rằng các câu Thế Tôn nói Hỷ A-lê-da của chúng sinh v.v.. trong đó 5 thủ tụ là A-lê-da. Lại có các sư chấp cho rằng các thụ đi đôi với dục là A-lêda. Lại có các sư chấp cho rằng thân kiến là A-lê-da. Các sư này do mê không rõ A-hàm và sự tu đắc cho nên đối với thức A-lê-da khới các chấp như vậy. Đạo lý được thành lập trong Thanh Văn thừa này, đạo lý do họ thành lập không tương ưng. Nếu người không mê thể tướng của A-lê-da, lấy đạo lý của họ thành lập gọi là thức A-lê-da thì tuyệt vời. Vì sao tuyệt vời nếu nói 5 thủ tụ là A-lê-da? Tuyệt vời là như thế này. Thụ sinh vào ác thú, một bề chịu khổ, tức sẽ sinh chán ghét, các chúng sinh trong đó sẽ một bề không yêu thích. Vậy mà nói đắm trước là không đúng đạo lý, vì thường cầu lìa bỏ. Nếu bảo các lạc thụ cùng đi đôi với dục là A-lê-da thì Đệ tứ thiền trở lên không có thụ này. Đã chán ghét mà nói các chúng sinh lấy đó làm nơi đắm trước là không đúng lý. Nếu nói thân kiến là A-lê-da thì người trong Phật pháp tin hiểu vô ngã sẽ chán ghét nó mà lấy nó làm nơi đắm trước là không đúng lý. Nhưng trong thức A-lê-da cái ngã vẫn còn tồn tại. Nếu thụ sinh vào cái nơi một bề chịu khổ, chỉ cầu lìa thoát khổ, trong thức A-lê-da, ngã ái trói buộc nên chưa hề cầu lìa thoát. Lại nữa người sinh từ Tứ thiền trở lên, tuy chán ghét nhưng thụ dục và lạc cùng đi đôi, trong thức A-lê-da, sự ràng buộc với ngã ái còn tồn tại. Lại nữa người trong Phật pháp tin hiểu vô ngã, chán ghét ngã kiến, nhưng trong thức A-lê-da cái ràng buộc vào ngã ái cũng còn tồn tại. Cho nên lấy đó thành lập A-lê-da, thành tựu cái thể của thức A-lêda thì tuyệt vời hơn cả. Đó là đường lối đặc biệt an lập thức A-lê-da.

Giải thích: Trong đây nói người không mê tức nói các Bồ-tát. Ác thú là các nẻo đường dữ như ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục v.v… Một bề chịu khổ là cái báo thể của các nẻo kia chỉ là phi ái cho nên nơi kia nếu có sinh thụ lạc tức là quả tân dịch. Người sinh nơi kia thụ báo chỉ có khổ. Các lạc thụ cùng với dục đi đôi là A-lê-da nghĩa là từ Tứ thiền trở lên không có thụ này vì đã chán ghét. Chúng sinh nơi ấy, tức chúng sinh từ Tứ thiền trở lên và đang ở trong Tứ thiền. Nơi ấy, tức là được sinh nơi ấy. Nội ngã còn tồn tại, tức là quyết định lấy thức này làm nội ngã. Cầu lìa khổ tụ , tức là nguyện xả bỏ khổ thụ. Nói ngã ái trói buộc trong thức A-lê-da, tức là vì thức A-lê-da là tự ngã, do sự khát ái này nên thành trói buộc.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10