NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 6
4 – Ngộ nhập tướng sở tri
Luận nói: Như vậy là đã nói về tướng sở tri, còn ngộ nhập tướng sở tri thì như thế nào?
Phải thấy rằng sở y của đa văn huân tập không thuộc về thức A-lại-da mà như là thức A-lại-da huân tập thành chủng tử. Cái đa văn huân tập đó thuộc về tác ý đúng lý, từ pháp tương tự, nghĩa tương tự mà sinh ra có sở thủ tương tự, hữu kiến ý thức.
Giải thích: Như có thể ngộ nhập các chủng loại tướng sở tri, nay sẽ nói rõ. Ngộ nhập tướng sở tri nghĩa là có thể ngộ nhập nghĩa của cảnh sở tri. Sở y của đa văn huân tập, nghĩa là pháp Đại thừa huân tự thể. Nói chẳng phải thức A-lại-da thâu nhiếp, là vì nó có khả năng đối trị thức A-lại-da. Nói như thức A-lại-da huân thành chủng tử, nghĩa là như thức A-lại-da là nhân của tất cả các pháp tạp nhiễm. Và đây cũng là nhân của tất cả các pháp thanh tịnh. Nói thuộc về tác ý đúng lý, nghĩa là tác ý đúng lý là tự tính. Nói pháp tương tự nghĩa tương tự sinh, nghĩa là khi sinh khởi cái tướng tương tự của pháp và nghĩa. Nói sở thủ tương tự, nghĩa là nghĩa tương tự của sắc v.v… Hữu kiến, nghĩa là tương tự kiến phần, đây thành lập ý thức có tướng phần kiến phần.
Luận nói: Ở đây ai là người có thể ngộ nhập tướng sở tri?
Là Bồ-tát có sự huân tập đa văn liên tục pháp nghĩa Đại thừa, đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện ở thế gian, đã được hoàn toàn quyết định thắng giải, đã khéo tích chứa các thiện căn, khéo cụ bị hành trang phúc đức và trí tuệ.
Giải thích: Như các phương tiện này có thể ngộ nhập các phẩm loại ấy, nay sẽ hiển thị. Nói huân tập đa văn liên tục pháp nghĩa Đại thừa là không nói đến các đa văn huân tập liên tục của Thanh Văn v.v… Nói đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện ở thế gian, nghĩa là đã được hiện tiền gặp và phụng sự chư Phật xuất hiện ở thế gian quá số vô lượng. Nói đã được hoàn toàn quyết định thắng giải, nghĩa là đối với Đại thừa đã được thắng giải, bạn xấu không thể tác động phá hoại. Tức do nói 3 nhân không gián đoạn. Nói đã khéo tích chứa các thiện căn, cho nên mới được gọi là khéo cụ bị hành trang phúc đức và trí tuệ của Bồ-tát. Lại nữa, hành trang phúc đức trí tuệ ấy làm sao dần dần được viên mãn? Nghĩa là do sức của nhân, sức của thiện hữu, sức của tác ý, do sức y trì. Trong đó 2 câu là nói 2 sức. Sức của tác ý, tức là hoàn toàn quyết định thắng giải. Đây là lấy sự huân tập Đại thừa làm nhân, Phật sự làm duyên. Do có sự hoàn toàn quyết định thắng giải có thể tu chính hạnh. Vì tu chính hạnh nên tích chứa thiện căn. Như vậy gọi là do sức tác ý. Khéo tu 2 thứ hành trang phúc đức trí tuệ, do đó dần dần khéo tu 2 thứ hành trang phúc trí cho nên có thể ngộ nhập đại địa. Như thế gọi là do sức y trì.
Luận nói: Từ đâu có thể ngộ nhập?
Tức là từ nơi cái hữu kiến tương tự pháp, tương tự nghĩa ya ngôn của pháp tướng Đại thừa sinh khởi thắng giải hành, trải qua trong các giai đoạn kiến đạo, tu đạo, cứu cánh đạo, tất cả các pháp chỉ có tính duy thức, tùy theo chỗ nghe mà hiểu rõ vượt trội, thông thấu đúng như lý, đối trị tất cả chướng và lìa tất cả chướng.
Giải thích: Ngộ nhập các loại và các hành tướng như vậy. Nay sẽ nói rõ. Ý thức tầm tư gọi là ý ngôn. Vậy ý ngôn là lấy pháp Đại thừa làm nhân sinh. Trong đây hiển thị cái ý ngôn sai biệt. Nói pháp tướng Đại thừa sinh ra, tức là giáo pháp này làm nghĩa của duyên duyên. Hoặc hữu, tức nơi thắng giải hành địa gọi là năng ngộ nhập. Do chỉ nghe tất cả các pháp duy chỉ có thức tính mà thâm sinh tín giải nên gọi là năng nhập. Trong kiến đạo như vậy là ngộ nhập. Nay sẽ hiển thị. Thông thấu đúng như lý, nghĩa là ý ngôn thông thấu đúng như lý. Làm sao ở đây thông thấu đúng như lý? Nghĩa là ý ngôn này là phi pháp, phi nghĩa, phi sở thủ, phi năng thủ. Thông thấu như vậy thì trong tu đạo ngộ nhập như vậy. Nay sẽ hiển thị. Tri tất cả chướng, nghĩa là khi quán ý ngôn này là phi pháp phi nghĩa phi sở thủ phi năng thủ thì liền có thể đối trị tất cả chướng, cho nên trong cứu cánh đạo ngộ nhập như vậy. Nay sẽ hiển thị. Nói lìa tất cả chướng, nghĩa là trong địa vị thiện thanh tịnh diệu trí, cái chướng cùng cực vi tế cũng không có.
Luận nói: Do cái gì có thể ngộ nhập?
Do sức thiện căn trụ vững duy trì, nghĩa là 3 thứ tướng mài luyện tâm, đoạn dứt 4 xứ, duyên cảnh của pháp và nghĩa, thường xuyên gia hành tu chỉ quán một cách cẩn trọng không buông lung phóng túng.
Giải thích: Do đây có thể ngộ nhập. Nay sẽ hiển thị. Do cái gì có thể ngộ nhập? Do sức thiện căn tự nhiên duy trì. Nghĩa là do 3 thứ tâm mài luyện. Nói cho đến hằng thường cẩn trọng tu gia hành không phóng túng, nghĩa là khéo thuận tương ưng 8 câu đã nói, gọi là sức thiện căn tự nhiên duy trì. Nói hằng thường, là nói tu không gián đoạn. Nói cẩn trọng, là tu một cách cung kính. Nếu tu các phẩm loại được như vậy tức có thể không phóng túng.
Luận nói: Trong vô lượng thế giới có vô lượng vô số nhân loại hữu tình mỗi sát-na mỗi sát-na chứng giác ngộ vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Đó là sự mài luyện tâm thứ nhất. Do niềm vui này mà có thể hành thí v.v…các Ba-la-mật-đa. Ta đã được niềm vui này ta sẽ dụng công tu tập bố thí v.v…thêm chút nữa sẽ được viên mãn các Ba-lamật-đa. Đó là sự mài luyện tâm thứ hai. Nếu có người thành tựu các thiện còn chướng ngại, khi mạng chung được viên mãn thụ sinh vào tất cả các tự thể nào yêu thích, vậy ta có cái thiện vi diệu, cái thiện không chướng ngại, bấy giờ sao lại không thể được viên mãn tất cả ! Đó là sự mài luyện tâm thứ ba.
Giải thích: Trong đây là đối trị 3 thứ tâm thoái lui, cho nên chỉ tu 3 thứ luyện mài cái tâm. Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ-tát nghe nói vô thượng Bồ-đề cực kỳ sâu rộng rất khó chứng đắc, tâm liền thoái lui. Đối trị tâm này nên tu cách mài luyện tâm thứ nhất. Lại nữa các Bồtát nghe nói tu hành Ba-la-mật-đa là cực kỳ sâu rộng rất khó chứng đắc, tâm liền thoái lui. Đối trị tâm này nên tu cách mài luyện tâm thứ hai. Do ý lạc này có thể hành thí v.v… các Ba-la-mật-đa, tức là trong đây ý lạc là tín và dục. Bồ-tát trong các Ba-la-mật-đa tính chân thật hữu, đầy đủ tính công đức, có tính kham năng, sinh tín giải sâu, gọi là tín. Tín giải sâu rồi vui thích tu hành, gọi là dục. Bồ-tát đã được tín dục như vậy, tự tính ý lạc, dùng một ĩt công lực tu tập 6 thứ Bala-mật-đa sẽ được viên mãn. Lại các Bồ-tát đối với ngôn giáo sâu rộng, khi suy nghĩ quyết đoán lựa chọn thiện xảo chuyển, suy nghĩ như vậy thì vô thượng chính đẳng Bồ-đề khó có thể chứng đắc. Cách một niệm tâm mới có thể chứng đắc, tâm liền thoái lui. Đối trị tâm này nên tu cách mài luyện tâm thứ ba. Nói ta có cái thiện vi diệu, tức là nói ta có tất cả hành trang phúc trí tích chứa các thiện vi diệu trong 10 thứ địa. Nói cái thiện không chướng ngại, tức là Kim cương dụ định có thể phá các chướng thô nặng và các chướng vi tế rất khó phá. Định này liên tục lìa sự trói buộc tất cả chướng mà chuyển y. Nói bấy giờ sao lại không thể được viên mãn tất cả, tức là trong này ý nói đối với các chướng lìa sự trói buộc, tựa như khi mạng chung nhất thiết chủng trí như một thể viên mãn. Lại trong đây nói 3 thứ luyện mài tâm, nghĩa là các Bồ-tát không thiếu thiện căn, sức thiện căn duy trì, do sức này có thể có 3 thứ luyện mài tâm. Tâm không thoái lui là ban đầu hiển thị sự luyện mài thứ nhất cái tâm. Nghĩa là trong cõi người có vô lượng thế giới vô lượng hữu tình, mỗi sát-na mỗi sát-na có thể chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Tại sao nay riêng ta không thể chứng? Tiếp đến hiển thị sự luyện mài thứ hai cái tâm. Nghĩa là các Bồ-tát tư duy như thế này: Cái ý lạc này của ta lìa các chướng ngại Ba-la-mật-đa, xan v.v… các chướng ngại đều không có, cho nên không do công dụng Ba-la-mật-đa sẽ được viên mãn. Do viên mãn này nên chứng Phật Bồ-đề. Sau là hiển thị sự luyện mài thứ ba cái tâm. Nói cái thiện có chướng ngại, nghĩa là do cái thiện thế gian mà thành cái thiện kia. Cái thiện có chướng ngại thì khi mạng chung liền có thể yêu tất cả tự thể đầy đủ mà sinh. Huống chi ta nay do cái thiện không chướng ngại mà thành cái thiện kia mà không thành Phật vô thượng Bồ-đề là không đúng.
Luận nói: Ở đây có bài tụng như sau:
Hữu tình trong loài người,
Xứ sở nhiều vô lượng.
Mỗi niệm chứng đẳng giác,
Vậy không nên thoái lui.
Ai tâm tịnh, ý lạc,
Có thể tu lục độ.
Thù thắng này đã được,
Cũng tu lục độ được.
Người thiện khi lâm chung,
Mãn nguyện theo ý mình.
Vĩnh đoạn, được thắng thiện
Viên mãn, sao lại không?
Giải thích: Lại dùng Già-tha hiển thị nghĩa ấy. “Vậy không nên thoái lui.” Nghĩa là do nhân duyên trên khiến tâm không khiếp nhược. Đó là ý nghĩ rằng ta không thể chứng vô thượng Bồ-đề. Nói “tịnh tâm” nghĩa là không phải tâm bất thiện, tâm vô ký. Nghĩa là hoặc có người đem tâm tán loạn hoặc vô ký mà ra làm việc bố thí v.v… Như ngoại đạo dùng tâm bất thiện mà hành thí v.v… Nếu cầu vô thượng chính đẳng Bồ-đề, đó là cái thiện tối thắng, nên gọi là tịnh tâm. “Thù thắng này đã được, cũng có thể tu thí v.v…” , tức là Bồ-tát tối thắng gọi là thắng giả. Ý lạc này Bồ-tát đã được nên có thể tu lục độ như thí v.v…, tức đã đoạn được xan v.v… nghĩa của các tâm được đối trị, lấy bắt đầu từ Thi-la cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nói “Người thiện khi lâm chung, mãn nguyện theo ý mình.”, tức là nói cho đến được Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nói “Vĩnh đoạn, được thắng thiện viên mãn, sao lại không?”, nghĩa là do vĩnh viễn đoạn chướng mà thành thắng thiện viên mãn quả Phật, sao lại không được?
Luận nói: Do dứt trừ tác ý, lìa các tác ý của Thanh Văn Độc Giác, do lìa bỏ cái nghi của các nghi ngờ đối với Đại thừa, do vĩnh viễn đoạn trừ cái nghi của tà trí, do được nghe và tư duy trong chính pháp lìa chấp ngã và ngã sở mà đoạn trừ pháp chấp, do hiện tiền trụ trong sự an lập tất cả tướng nên đoạn trừ phân biệt, không còn tác ý không còn phân biệt. Ở đây có bài tụng như sau:
Hiện tiền trụ tự nhiên,
An lập tất cả tướng.
Người trí không phân biệt,
Được tối thượng Bồ-đề.
Giải thích: Nay sẽ hiển thị 4 chỗ đoạn trừ. Đoạn tác ý, là đoạn các tác ý của Thanh Văn v…. Để có thể vĩnh viễn đoạn các tà trí nghi ngờ, nghĩa là đối với Đại thừa sâu rộng có thể đoạn trừ được các nghi hoặc tà trí. Trong đây nói tà trí tuệ hay trí tuệ khác lạ, là các trí tuệ xấu ác tác động chính lý. Nghi nghĩa là do dự. Nói do Đại thừa mà lìa các nghi, nghĩa là đối với Đại thừa, an lập giáo lý 3 tự tính của pháp tướng. Nghĩa là nếu nói các pháp đều không, tự tính không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tính Niết-bàn, như vậy tức vĩnh viễn không có dị môn, tức không có một môn phái đối lập nào khác. Dựa vào tự tính biến kế sở chấp mà nói, là nói các pháp như ảo hóa, sóng nắng, chiêm bao, bóng ảnh, tiếng vang trong hang, mặt trăng dưới nước, biến hóa, các dị môn hư vọng như vậy. Dựa vào tự tính y tha khởi mà nói, là nói các pháp chân như thật tế không tướng, pháp giới thắng nghĩa không tính, các dị môn chân thật như vậy. Dựa vào tự tính viên thành thật mà nói, là nói đối với tất cả trí tuệ khác lạ và các nghi ngờ, vĩnh viễn không chuyển trở lại do lìa cái chấp ngã ngã sở trong các pháp được nghe và tư duy. Trong đây ý nói đoạn trừ chấp pháp. Đoạn pháp chấp cho nên cái chấp ngã ngã sở trong các pháp được nghe và tư duy, cuối cùng không ở nơi chúng mà ngộ nhập như thật. Do hiện tiền trụ trong sự an lập tất cả tướng nên đoạn trừ phân biệt. Không còn tác ý không còn phân biệt, nghĩa là khi trí gia hành vô phân biệt chuyển, thì như lý tác ý trụ trong tất cả định tâm, các tướng tác ý phân biệt đều đoạn. Nói vì đoạn phân biệt, nghĩa là ở nơi sắc v.v… hiện trụ, và cốt tỏa v.v… các định được an lập, các tướng cảnh giới của tất cả sở duyên đều không tác ý, không phân biệt, do có thể ngộ nhập phương tiện vô phân biệt. Nếu khác đi, phân biệt thì kết cuộc không thể ngộ nhập. “Hiện tiền tự nhiên trụ,” v.v… các câu tụng chỉ hiển thị cái nghĩa “đoạn” sau cùng.
Luận nói: Do cái gì và làm thế nào được ngộ nhập?
Giải thích: Để là rõ nghĩa ngộ nhập như vậy nên lập ra câu hỏi này.
Luận nói: Do chủng loại được đa văn huân tập, nhiếp thuộc trong tác ý như lý mà hiển hiện tương tự pháp, tương tự nghĩa.
Giải thích: Nay sẽ hiển thị ý nghĩa do sự ngộ nhập này. Trong đây nói do đa văn huân tập các chủng loại, nghĩa là do đa văn huân tập làm nhân, tức như trước nói sự ngộ nhập đó là do sự huân tập Đại thừa tự nhiên sinh ra, cho nên phải biết rằng nó thuộc tự tính viên thành thật.
Luận nói: Do 4 tầm tư, tức là do danh, nghĩa, tự tính, sai biệt mà giả lập ra tầm tư. Và do 4 như thật biến trí, tức là do danh, nghĩa, tự tính, sai biệt mà giả lập ra như thật biến trí. Như vậy cả 4 tầm tư và 4 như thật biến trí đều không thể được. Bởi chư Bồ-tát vì muốn ngộ nhập duy thức nên siêng tu gia hành như thật như vậy, tức với cái ý thức tương tự văn tương tự nghĩa mà suy tìm văn, cái tên chỉ là ý thức, dựa vào đó mà suy tìm cái nghĩa của văn, danh cũng chỉ là ý thức, suy tìm danh, nghĩa, tự tính, sai biệt chỉ là sự giả lập. Khi nào sự chứng đắc chỉ có ý thức thì khi ấy sự chứng biết như danh, nghĩa, tự tính, sai biệt đều là giả lập. Vì thật tướng không có tự tính sai biệt, nên đều không thể được. Do 4 tầm tư và do 4 thứ như thật biến trí, đối với ý thức tương tự văn, tương tự nghĩa này mới có thể ngộ nhập lý duy thức.
Giải thích: Nay sẽ giải thích ý nghĩa ngộ nhập như vậy. Nói do 4 tầm tư, nghĩa là do văn tự sở hiển mà nói danh, nghĩa, tự tính v.v… Nói và do 4 thứ biến trí như thật, nghĩa là do các thứ văn tự sở hiển mà giả lập danh, sự, tự tính, sai biệt. Biết khắp như thật thì danh, sự, tự tính, sai biệt đều là giả lập, trong đó không thể có được thật nghĩa. Cho nên nói như vậy đều đồng với bất khả đắc. Lại nữa trước truy tìm cái danh, nghĩa, tự tính, sai biệt chỉ là cái giả lập, sau biết như thật cái chân thật đó đều là bất khả đắc. Trong khi truy tìm, gọi là tầm tư. Khi biết như thật là bất khả đắc tức gọi là 4 thứ như thật biến trí.
Luận nói: Trong sự ngộ nhập lý duy thức này là ngộ nhập cái gì, ngộ nhập như thế nào?
Ngộ nhập duy thức là ngộ nhập 2 tính tướng và kiến và nhiều thứ tính như danh, nghĩa, tự tính của danh, sai biệt của danh, tự tính của nghĩa, sai biệt của nghĩa, 6 thứ nghĩa như vậy đều không, cho nên cái tính của sở thủ năng thủ chỉ có hiện tiền. Một khi hiện lên thì như các nghĩa tướng tương tự mà sinh khởi. Như trong tối sợi dây hiển hiện tựa con rắn. Ví như trên sợi dây, con rắn là chẳng thật có. Vì nó là không, cho nên nếu đã biết rõ nó là không rồi, thì tuy cái biết nó là con rắn diệt mất, nhưng cái biết là sợi dây vẫn còn. Nếu phân tích một cách vi tế cái hư vọng này, thì cái tướng của sợi dây kia cũng chỉ là giả hợp của sắc hương vị xúc, do đó cái biết là sợi dây cũng diệt mất. Như vậy cái ý thức về 6 nghĩa tướng như tương tự văn, tương tự nghĩa, khi dẹp trừ 6 nghĩa tướng phi thật, thì cái tính biết duy thức cũng sẽ loại bỏ như cái biết về con rắn. Cái biết này do từ tính biết của tự tính viên thành thật.
Giải thích: Nay trong đây hỏi về sự ngộ nhập và thí dụ cho sự ngộ nhập. Nói duy thức tính là cái tính chỉ có thức. Hai tính tướng kiến, là hiển thị thức có tướng và kiến. Hiển hiện tựa như nhân được kiến lập, nên gọi là tướng. Các thứ tính, là chỉ có một thức hiển hiện ra tương tự có nhiều tướng sinh. Vì không nhanh chóng nên hiển hiện riêng biệt. Ở đây ngộ nhập trong tính duy thức có 3 thứ là chỗ ngộ nhập. Nhất thời hiện ra tương tự nghĩa của các tướng mà sinh khởi, nghĩa là tương tự tướng của các thứ danh cú văn mà sinh khởi, và tương tự các thứ y chỉ vào nghĩa này mà sinh khởi. Cho nên trong đây cái thí dụ sợi dây là hiển thị sự ngộ nhập 3 thứ tự tính. Nói khi dẹp trừ 6 nghĩa tướng phi thật, nghĩa là khi dẹp bỏ 6 nghĩa tướng. Trong đây dùng chữ khiển diệt nghĩa là dẹp bỏ có nghĩa là phục trừ. Phục là hàng phục, đè bẹp, trừ là loại bỏ.
Luận nói: Như vậy Bồ-tát ngộ nhập cái ý thức nghĩa tướng tương tự nên ngộ nhập tính biến kế sở chấp, ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tính y tha khởi. Còn tính viên thành thật thì ngộ nhập như thế nào?
Nếu đã diệt trừ cái ý thức chỉ còn cái ý tưởng duy thức do các chủng loại nghe pháp huân tập, bấy giờ Bồ-tát đã loại trừ nghĩa tướng, các nghĩa tương tự không sinh được, cho nên cái tương tự duy thức cũng không sinh được. Do nhân duyên này Bồ-tát trụ nơi vô phân biệt danh của tất cả nghĩa, được trụ nơi hiện thấy tương ưng trong pháp giới. Bấy giờ Bồ-tát được bình đẳng, bình đẳng sở duyên với năng duyên, trí vô phân biệt đã sinh khởi, do đó gọi là Bồ-tát đã ngộ nhập tính viên thành thật.
Giải thích: Nói ngộ nhập cái ý thức nghĩa tướng tương tự nên ngộ nhập tính biến kế sở chấp, nghĩa là biết các nghĩa chỉ là do biến kế phân biệt tạo ra, cho nên nói là ngộ nhập tự tính biến kế sở chấp. Nói ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tính y tha khởi, tức là nêu duy thức lên là lấy ý mà nói. Hiểu rõ tất cả chỉ là tính tư duy của ý, do đó mà ngộ nhập tính y tha khởi. Không cho tất cả nghĩa tương tự được sinh, nghĩa là không có thật nghĩa của phẩm loại như vậy có thể có cái tương tự được sinh ra. Cho nên nói tương tự duy thức cũng không được sinh, nghĩa là tướng của duy thức cũng không được khởi. Bởi vì sao? Khi chấp có thức, tức có nghĩa. Từ đó về sau hiện chứng chân như. Cái địa vị hiện chứng này không thể nói rõ ra được vì là nội tự chứng. Bấy giờ Bồ-tát được bình đẳng, bình đẳng sở duyên với năng duyên, trí vô phân biệt đã được sinh khởi, tức là sở duyên là chân như, năng duyên là chân trí. Hai cái bình đẳng này ví như hư không, tức không trụ nghĩa sở thủ năng thủ 2 thứ tính. Do không phân biệt sở thủ năng thủ nên nói là trí vô phân biệt. Như vậy là ngộ nhập tính viên thành thật.
Luận nói: Ở đây có bài tụng như sau:
Pháp Bổ-đặc-già-la,
Pháp, nghĩa,lược, rộng, tính,
Bất tịnh, tịnh, cứu cánh,
Tên, hành tướng, sai khác.
Giải thích: Như trước đã nói trụ tất cả nghĩa không phân biệt tên. Những gì là tên? Bao nhiêu nghĩa phẩm loại để đáp câu hỏi này? Dùng tụng hiển thị các loại tên khác nhau. Trong đây tên pháp, là sắc, thụ, nhãn, nhĩ v.v… Tên Bổ-đặc-già-la, là Phật và tùy tín hành
v.v… Lại tên pháp, là khế kinh v.v… Tên nghĩa, là dựa vào nghĩa của pháp này. Tên lược, là hữu tình v.v… Tên rộng, là mỗi mỗi có năng thuyên riêng biệt. Tên tộc họ, là bản mẫu các chữ. Tên bất tịnh, là các dị sinh, phàm phu. Tên tịnh, là hữu học v.v… Tên cứu cánh, là tổng tướng sở duyên tất cả pháp. Đó là sơ lược có 10 thứ tên sở duyên của Bồ-tát. Một là tên pháp, như nhãn v.v…Hai, tên Bổ-đặc-già-la, như ngã v.v… Ba, tên pháp, tức 12 phần giáo. Bốn, tên nghĩa, tức các nghĩa sở thuyên của 12 phần giáo. Năm, tên lược, như tất cả pháp là vô vi v.v… Sáu, tên rộng, như sắc, thụ,v.v… và hư không v…. Bảy, tên tộc họ, như chữ đầu tiên là A, chữ sau là HA. Tám, tên bất tịnh, là các dị sịnh. Chín, tên tịnh, là các kiến đế. Mười, tên cứu cánh, là tổng tướng sở duyên tất cả pháp, tức là cảnh giới sở duyên của 2 trí, nghĩa là xuất thế trí và hậu đắc trí. Vì tất cả pháp chân như thật tế là sở duyên, vì tất cả pháp mỗi thứ riêng biệt là sở duyên, như 10 địa v.v… Trong đây ý lấy cảnh giới sở duyên của trí duyên nơi tướng chung tất cả nghĩa. Các phẩm loại như vậy là tên chỗ sở hành riêng biệt của các Bồ-tát.
Luận nói: Như vậy là Bồ-tát ngộ nhập duy thức, tức ngộ nhập tướng sở tri, ngộ nhập tướng sở tri là nhập vào Cực hỷ địa, thông đạt pháp giới, sinh vào nhà Như Lai, được tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng với tất cả Bồ-tát, được tâm bình đẳng với tất cả chư Phật. Đó gọi là Bồ-tát kiến đạo.
Giải thích: Sinh nhà Như Lai, là điều này có thể khiến chủng tính của Phật không tuyệt dứt. Được tâm bình đẳng với tất cả hữu tình, là do suy nghĩ như thế này: Nếu như tự thân ta muốn Bát-niếtbàn, tất cả chúng sinh cũng như vậy. Được tâm bình đẳng với tất cả Bồ-tát, là do được ý lạc như các Bồ-tát. Được tâm bình đẳng với tất cả chư Phật, là do ở địa vị này được pháp thân của Phật. Chứng đắc địa vị này nên được tâm tính bình đẳng tất cả chư Phật. Tự thân như muốn hết các khổ, nơi người khác cũng vậy. Được tâm tính bình đẳng với tất cả chư Bồ-tát, nghĩa là ý lạc gia hành đều bình đẳng với tất cả Bồ-tát. Được tâm bình đẳng với tất cả chư Phật, là thấy pháp giới chư Phật và pháp giới của mình là không sai khác.
Luận nói: Lại nữa vì nghĩa gì mà ngộ nhập duy thức?
Do cái trí chỉ quán xuất thế duyên tổng pháp, do đó sau được cái trí của các tướng thức để đoạn trừ và đem chủng tử các tướng của thức A-lại-da làm tăng trưởng các chủng tử có khả năng chạm đến pháp thân, để chuyển đổi sở y, vì muốn chứng đắc tất cả Phật pháp, vì muốn chứng đắc trí nhất thiết trí, nhập vào duy thức tính. Lại nữa, cái trí hậu đắc đối với tất cả các tướng hiểu biết phân biệt phát sinh trong thức A-lại-da đều thấy như ảo hóa mà không bị chuyển đảo. Cho nên Bồ-tát ví như nhà ảo thuật, không bao giờ điên đảo đối với các tướng ảo hóa cũng như khi nói về nhân quả.
Giải thích: Nói do cái trí chỉ quán xuất thế duyên tổng pháp, nghĩa là do chỉ quán làm hiển lộ cái trí. Nói để đoạn trừ và đem chủng tử các tướng của thức A-lại-da, tức là trong đây đề cập tướng tức đề cập nghĩa của nhân. Chủng tử các pháp tạp nhiễm trong thức A-lại-da, gọi là chủng tử các tướng của thức A-lại-da. Lại nêu lên tướng, là muốn hiển thị chủng tử kia là tướng sở duyên. Nói như vậy rồi cho thấy rõ nhân quả của chủng tử kia đều đoạn dứt. Nếu không có trí vô phân biệt đoạn dứt tất cả chướng, chứng đắc Phật pháp thì cái hậu đắc trí dùng làm gì? Vô phân biệt trí không thể tuyên thuyết các pháp nhân quả, vì vô phân biệt. Vì do nhân duyên đó phải có hậu đắc trí tuyên thuyết các pháp nhân quả thường không điên đảo. Ví như nhà ảo thuật làm các trò ảo thuật. Nói nơi tất cả những gì thức A-lại-da sinh, nghĩa là thức A-lại-da là nhân. Nói trong tất cả các tướng phân biệt hiểu biết, nghĩa là thức là nhân trong kiến tướng phần. Do hậu đắc trí thấy như ảo hóa v.v… và khi tuyên thuyết đều không điên đảo.
Luận nói: Khi ngộ nhập tính duy thức thì có 4 thứ Tam-ma-địa làm chỗ dựa cho 4 thứ thuận quyết trạch phần.
Làm sao biết?
Do 4 tầm tư trong hạ phẩm vô nghĩa nhẫn có minh đắc Tamma-địa là chỗ dựa của noãn thuận quyết trạch phần. Trong thượng phẩm vô nghĩa nhẫn có minh tăng Tam-ma-địa là chỗ dựa của đỉnh thuận quyết trạch phần. Lại do 4 thứ như thật biến trí đã ngộ nhập duy thức, trong vô nghĩa đã được quyết định, có nhập một phần chân nghĩa Tam-ma-địa là chỗ dựa của đế thuận nhẫn. Từ đó không gián đoạn dẹp bỏ ý tưởng duy thức, được Tam-ma-địa không gián đoạn là chỗ dựa của pháp Thế đệ nhất. Phải biết các Tam-ma-địa này đang ở bên cạnh hiện quán.
Giải thích: Trong tất cả mọi nơi, khi nhập chân quán thì đều có 4 thứ thuận quyết trạch phần. Cho nên trong đây cũng phải hiển thị. Nói là chỗ dựa của thuận quyết trạch phần, nghĩa là nghĩa của nhân quyết trạch phần làm chỗ dựa. Nói trong hạ phẩm vô nghĩa nhẫn có minh đắc Tam-ma-địa, nghĩa là trong vô nghĩa khởi hạ phẩm ái lạc. Bởi tên “minh” là hiển thị tên của hạ phẩm vô nghĩa trí Tam-ma-địa, hiển thị cái định làm chỗ dựa cho vô nghĩa trí ở trong thượng phẩm vô nghĩa nhẫn, nghĩa là ở trong vô nghĩa khởi thượng phẩm ái lạc. Nói có minh tăng Tam-ma-địa, nghĩa là lấy tên là “minh” là hiển thị tên của thượng phẩm vô nghĩa trí Tam-ma-địa, hiển thị cái định làm chõ dựa cho vô nghĩa trí này. Nói chỗ dựa của đế thuận nhẫn, tức là lý của pháp vô ngã gọi là đế. Nhẫn này thuận với nó nên gọi là đế thuận nhẫn. Đây làm sao thành? Nghĩa là ở ngoài không, trong đã quyết định, tức ở nơi không có năng thủ cũng ái lạc rất sâu. Phải biết khi trong lợi thuận nhẫn chuyển mà nói có hiện quán ở bên, tức có nghĩa là lúc hiện quán.
Luận nói: Như vậy là Bồ-tát đã bước vào các địa, đã được kiến đạo, đã ngộ nhập duy thức. Vậy đối với tu đạo phải tu hành như thế nào?
Như giáo pháp 10 địa đã được Phật nói, an lập hiện diện trong tất cả các kinh, do duyên tổng pháp xuất thế, sau được cái trí chỉ quán, nên trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp số tu tập nên được chuyển y. Vì muốn chứng đắc 3 thứ Phật thân nên siêng năng tu hành.
Giải thích: Như nói an lập 10 địa, nghĩa là tùy nói an lập 10 thứ bậc của Bồ-tát. Do duyên tổng pháp, nghĩa là duyên tướng chung, không phải duyên phân biệt. Nói xuất thế, tức là vô phân biệt trí. Hậu đắc, tức là năng thành lập trí. Đây không nên nói chỉ là thế gian. Bởi ở thế gian chưa tích tập. Cũng không nên nói chỉ là xuất thế gian. Bởi tùy thế gian mà hiện tiền. Do nhân duyên này không thể nói nhất định mà được chuyển y. Do duyên tổng trí nên được chuyển y. Nói siêng năng tu hành vì muốn chứng đắc 3 thứ Phật thân, nghĩa là ta sẽ chứng 3 thứ Phật thân nên siêng năng tu hành.
Luận nói: Hiện quán của Thanh Văn với hiện quán của Bồ-tát có gì sai khác?
Phải biết do 11 thứ sai biệt mà hiện quán của Bồ-tát khác với hiện quán của Thanh Văn. Một là do sở duyên khác nhau, vì lấy pháp Đại thừa làm sở duyên. Hai là do nuôi dưỡng bảo trì khác nhau, vì lấy 2 thứ tư lương là đại phúc đức và đại trí tuệ mà nuôi dưỡng bảo trì. Ba là do sự thông suốt khác nhau, vì có thể thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã. Bốn là do Niết-bàn khác nhau, vì nhiếp thụ vô trụ Đại Niết-bàn. Năm là do địa vị khác nhau, vì thoát ly bằng 10 địa. Sáu và bảy là do thanh tịnh khác nhau, vì đoạn phiền não tập khí làm cõi Phật thanh tịnh. Tám là do tâm tự tha bình đẳng khác nhau, vì không ngừng nghỉ gia hành để thành thục chúng sinh. Chín là do nơi sinh khác nhau, vì sinh vào nhà Như Lai. Mười là do thụ sinh khác nhau, vì thường sinh ở những nơi có đại tập hội của chư Phật. Mười một là do quả khác nhau, vì 10 lực, 4 không sợ hãi, 18 pháp không chung, vô lượng công đức đều được kết quả viên mãn.
Giải thích: Do Niết-bàn khác nhau, là bởi Bồ-tát hiện quán nhiếp thụ vô trụ Đại Bát-niết-bàn, Thanh Văn không như vậy. Do thanh tịnh khác nhau, là bởi Bồ-tát hiện quán hằng đoạn dứt phiền não và các tập khí, có thể làm thanh tịnh cõi Phật, Thanh Văn thì không như vậy.
Luận nói: Ở đây có 2 bài tụng như sau:
Danh, sự, khách của nhau,
Phải tầm tư tính ấy.
Phải suy xét cả hai,
Duy lượng và duy giả.
Thật trí quán vô nghĩa,
Chỉ có 3 phân biệt.
Kia không, nên đây không,
Tức ngộ nhập 3 tính.
Giải thích: Sắp nhập chân quán nên nói 2 bài tụng. Nói “Danh, sự, khách của nhau, phải tầm tư tính ấy.”, nghĩa là danh là khách đối với sự, sự là khách đối với danh, không gọi kia là thể. Do định mà quán nên gọi là tầm tư. “Phải suy xét cả hai, duy lượng và duy giả.”, nghĩa là phải suy tìm cái nghĩa của tự tính và sai biệt đều không, chỉ có thức lượng, chỉ có giả lập tự tính và sai biệt. Nói “thật trí” tức là phải biết đó là như thật biến trí. Nghĩa là do 4 thứ tầm tư làm nhân, phát sinh 4 thứ như thật biến trí. Nói “quán vô nghĩa, chỉ có 3 phân biệt.”, nghĩa là quán nơi nghĩa thì vốn là vô sở hữu. Chỉ có 3 thứ hư vọng phân biệt, gọi là phân biệt. Tự tính phân biệt và sai biệt phân biệt, “kia không nên đây không.”, nghĩa là nghĩa không, cho nên phân biệt cũng không. Bởi vì sao? Nếu có nghĩa sở phân biệt, thì có thể có năng duyên phân biệt. Do nghĩa, là vô sở hữu, nên phải biết phân biệt cũng không. “Tức ngộ nhập 3 tính.”, nghĩa là trong đây ngộ nhập 3 vô tính. Quán thấy danh và sự đều là khách của nhau tức ngộ nhập tính biến kế sở chấp. Quán thấy 2 thứ vốn không có nghĩa, chỉ có phân biệt lượng, chỉ có danh, vì tự tính và sai biệt là giả lập, tức ngộ nhập tính y tha khởi. Cũng không quán thấy cái phân biệt này, tức ngộ nhập tính viên thành thật. Như vậy gọi là ngộ nhập 3 tính.
Luận nói: Lại có 2 bài tụng như được nói trong Phân Biệt Dugià Luận như sau:
Bồ-tát ở trong định,
Quán ảnh chỉ là tâm.
Nghĩa tướng đã diệt trừ,
Quán sát chỉ tự tưởng.
Như vậy trụ nội tâm,
Biết sở thủ phi hữu,
Tiếp năng thủ cũng không,
Sau xúc không thể được.
Giải thích: Để trao cho chính giáo nhập chân quán, trong nghĩa này nói 2 bài tụng. “Bồ-tát ở trong định, quán ảnh chỉ là tâm.”, nghĩa là quán ảnh tượng tương tự pháp, tương tự nghĩa. Chỉ là cái tâm đó , ai có thể quán? Nghĩa là Bồ-tát ở trong địa vị nào, trong định nào. “Nghĩa tưởng đã diệt trừ, quán sát chỉ tự tưởng.”, nghĩa là trong địa vị này đã khiển trừ tưởng về nghĩa, quán sát tương tự pháp tương tự nghĩa chỉ là tự tâm. “Như vậy trụ nội tâm,” là như nhiếp tâm mình trụ nơi vô nghĩa, tức là khiến tâm trụ nơi nội tâm. “Biết sở thủ phi hữu,” nghĩa là hiểu nghĩa sở thủ là vô sở hữu. “Tiếp năng thủ cũng không,” là do nghĩa sở thủ đã là phi hữu, cho nên tâm năng thủ, tính của năng thủ cũng không thành. “Sau xúc không thể được.” nghĩa là từ đó sau xúc chứng chân như, do chân như này là vô sở đắc cho nên gọi là không thể được.
Luận nói: Lại nữa có 5 bài tụng về hiện quán như được nói trong Đại Thừa Kinh Trang Nghiêm Luận như sau:
Phúc đức trí tuệ hai tư lương,
Bồ-tát chuẩn bị vô biên tế.
Đối pháp tư duy khéo quyết định,
Thì rõ nghĩa thú chỉ ý ngôn.
Nếu biết các nghĩa là ý ngôn,
Tức trụ tựa nghĩa duy thức.
Mới hay hiện chứng chân pháp giới,
Cho nên hai tướng đều trừ diệt.
Biết thể lìa tâm là không có,
Do đây liền biết tâm phi hữu.
Người trí biết rõ hai đều không,
Trụ ở hai không: chân pháp giới.
Ngừoi tuệ không phân biệt trí lực,
Bình đẳng biến khắp thường thuận hành.
Diệt khối tội lỗi rất um tùm,
Như phương thuốc hay tiêu bệnh độc.
Phật nói diệu pháp khéo thành lập,
An lập tuệ, căn trong pháp giới.
Hiểu rõ ý thú là phân biệt,
Dũng mãnh mau về bờ biển đức.
Giải thích: Lại có hiện quán Già-tha như Kinh Trang Nghiêm Luận nói. Trong đó khó hiểu được hiển thị ở đây. “Phúc đức trí tuệ hai tư lương, Bồ-tát chuẩn bị vô biên tế.”. Nói tư lương có 2 thứ: một là phúc đức tư lương, hai là trí tuệ tư lương. Nghĩa là thí v.v… 3 Bala-mật-đa là phúc đức tư lương. Thứ 6, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là trí tuệ tư lương. Tinh tiến Ba-la-mật-đa bao gồm 2 tư lương. Bởi vì sao? Nếu vì trí tuệ mà thực hành tinh tiến thì đó là trí tuệ tư lương. Nếu vì phúc đức mà hành tinh tiến là phúc đức tư lương. Như vậy tĩnh lự Ba-la-mật-đa cũng thông cả 2 thứ. Nếu duyên vô lượng mà tu tĩnh lự, là phúc đức tư lương. Ngoài ra là trí tuệ tư lương.
Ai có tư lương như thế? Là các Bồ-tát. Lâu xa khó vượt qua, gọi là vô biên tế.. Như vô biên, nói chẳng phải vô hữu biên, chỉ dùng số nhiều nên được gọi là vô biên, đây cũng như vậy. “Đối với pháp tư duy khéo quyết định,”, tức do sau khi định, tư duy các pháp, mới khéo quyết định chứ không phải cái gì khác có thể được. “Thì rõ nghĩa thú chỉ ý ngôn.”, nghĩa là hiểu rõ các nghĩa chỉ do ý ngôn làm nhân. “Nếu biết các nghĩa là ý ngôn, tức trụ tựa nghĩa trong duy thức.”, nghĩa là nếu hiểu rõ nghĩa tương tự hiển hiện chỉ là ý ngôn, tức trụ vào chính lý của nghỉa tương tự duy tâm. “Mới hay hiện chứng chân pháp giới, cho nên hai tướng đều trừ diệt.”, nghĩa là từ sau đây hiện chứng chân như hằng xa lìa 2 tướng sở thủ năng thủ. Như nhập hiện chứng, sau đây sẽ hiển thị. “Biết thể lìa tâm là không có vật gì khác. Do đây liền biết tâm phi hữu.”, tức là biết thể lìa tâm là không có nghĩa sở duyên vì kia không có, thì biết được tâm năng duyên cũng không có. “Người trí biết rõ hai đều không,”, nghĩa là Bồ-tát hiểu rõ cả hai đều không. “Trụ ở hai không: chân pháp giới.”, nghĩa là trụ bình đẳng pháp giới chân thật lìa nghĩa lìa tâm. “Người tuệ không phân biệt trí lực”, nghĩa là các Bồ-tát trí vô phân biệt có các thế lực. “Bình đẳng biến khắp thường thuận hành.” là tùy thuận mà làm trong bình đẳng. Quán sát trong các khế kinh nói tất cả các pháp tính bình đẳng như hư không, cho nên quán sát khắp các pháp trong ngoài đều như vậy. Thường, là lúc nào cũng vậy. “Diệt khối tội lỗi rất um tùm, như phương thuốc hay tiêu bệnh độc.”, nghĩa là diệt là diệt trừ, y là sở y. Tức là cái nhân của các pháp tạp nhiễm trong sở y rất khó hiểu rõ cho nên giống như khối gai góc um tùm trong rừng rất khó vào. Nói “khối tội lỗi” là pháp tạp nhiễm huân tập tự tính. “Phật nói diệu pháp khéo thành lập, an lập tuệ, căn trong pháp giới.”, nghĩa là do Phật dạy khéo an lập cái tuệ trong chân như và duyên trong căn bản tâm. Căn bản tâm, nghĩa là duyên tất cả chính giáo của Như Lai làm một tướng, phải biết tức là tâm vô phân biệt . “Hiểu rõ ý thú là phân biệt,” nghĩa là kia đã an trụ trong căn bản tâm rồi, để thuyết chính giáo do hậu đắc trí nghĩ các nghĩa thú, biết các suy nghĩ nghĩa thú chỉ là phân biệt. “Dũng mãnh mau về bờ biển đức.” nghĩa là các Bồ-tát do trí vô phân biệt và phương tiện khéo léo của trí hậu đắc nên mau chóng đến bờ biển công đức của Phật quả. Như vậy sơ lược nghĩa của 5 bài tụng là: Bài tụng thứ nhất hiển thị tư lương đạo. Nửa đầu bài tụng thứ hai hiển thị gia hành đạo. Nửa sau bài tụng thứ ba hiển thị kiến đạo. Bài tụng thứ tư hiển thị tu đạo. Bài tụng thứ năm hiển thị cứu cánh đạo.