NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 3

2 – 3. Sở tri y

Luận nói: Vì sao sinh tạp nhiễm không thành?

Vì kết sinh liên tục không hợp lý.

Giải thích: Nếu không tin có thức A-lại-da thì việc sinh tạp nhiễm cũng không thành. Nay sẽ nói rõ khi kết sinh liên tục không tương ưng, nghĩa là được tự thể không tương ưng.

Luận nói: Như có người ở Phi Đẳng dẫn địa, khi chết rồi sinh ra, ở trong thân trung hữu, khởi ý thức nhiễm ô, kết sinh liên tục, cái ý thức nhiễm ô ấy ở thân trung hữu diệt thì thành cái thức hòa hợp với Yết-la-lam trong thai mẹ. Như vậy tức là ý thức hòa hợp với Yếtla-lam kia, sau khi hòa hợp rồi thì y chỉ vào thức này, trong thai mẹ có ý thức khác chuyển sinh. Nếu vậy tức phải có 2 ý thức đồng thời chuyển sinh trong thai mẹ. Lại nữa, cái thức cùng với Yết-la-lam hòa hợp kia là ý thức thì không hợp lý, vì y vào nhiễm ô, vì thời gian không gián đoạn, vì sở duyên của ý thức không có. Giả sử cái thức hòa hợp là ý thức thì cái ý thức hòa hợp ấy tức là y chỉ của Nhất thiết chủng tử thức, hay thức này sinh các ý thức khác nên gọi là Nhất thiết chủng tử thức? Nếu cái thức hòa hợp này là Nhất thiết chủng tử thức thì đó tức là thức A-lại-da mà ông dùng tên khác gọi là ý thức. Nếu năng y chỉ thức là Nhất thiết chủng tử thức, như vậy tức là sở y nhân thức, chứ không phải Nhất thiết chủng tử thức. Năng y quả thức là Nhất thiết chủng tử thức. Vậy là không hợp lý. Cho nên cái thức hòa hợp được thành lập này chẳng phải là ý thức, mà đó là Dị thục thức, là Nhất thiết chủng tử thức.

Giải thích: Phi Đẳng dẫn địa tức là cõi Dục. Nguyên văn dùng chữ “một” nghĩa là chết. Nhiễm ô ý thức tức phiền não câu hành ý thức. Kết sinh tương tục là tiếp nhận tự thể. Cái ý thức nhiễm ô này duyên sinh hữu vi cảnh thì diệt mất trong giai đoạn trung hữu. Nói hòa hợp là thức cùng với đỏ trắng đồng một an nguy. Nếu hòa hợp thức tức là ý thức thì dựa vào đây lại sinh các ý thức khác. Thế thì trong một lúc có 2 ý thức chuyển, nghĩa là ý thức hòa hợp sở y chỉ và các ý thức khác năng y chỉ. Lại nữa hòa hợp thức là tính của ý thức là không hợp lý. Bởi vì sao? Vì dựa vào nhiễm ô, vì thời gian không gián đoạn. Nghĩa là ý thức này bị tham v.v…các phiền não nhiễm ô ý làm chỗ y chỉ duyên sinh hữu cảnh. Nhiễm ô này y vào đây nên gọi là y nhiễm ô. Trong vị này sở y dị thục không dung chứa nhiễm ô vì là vô ký. Hòa hợp thức này thường không gián đoạn để mặc nghiệp chuyển. Ý thức sở duyên không thể được là ý thức sở duyên minh liễu có thể được. Nghĩa là các pháp hòa hợp thức này không có sở duyên minh liễu như vậy. Cho nên thức này là tính của ý thức là không hợp lý.

Luận nói: Lại nữa sau khi kết sinh liên tục rồi, nếu không có thức Dị thục thì sự chấp thụ sắc căn cũng không thể có được. Vì các thức khác đều có chỗ sở y riêng biệt và không kiên trụ. Các sắc căn không thể tách rời thức.

Giải thích: Kết sinh liên tục rồi, nghĩa là đã được tự thể. Nếu tách rời thức Dị thục, nghĩa là lìa thức A-lại-da. Các thức khác đều có chỗ sở y riêng biệt và không kiên trụ, nghĩa là 6 thức vị trí riêng, dễ động chuyển. Vả lại nhãn thức thì chỗ sở y riêng biệt là nhãn. Cũng như vậy nhĩ thức v.v…là nhĩ v.v… các sắc căn làm sở y riêng biệt. Do đạo lý này, các thức chỉ chấp thụ căn sở y của nó. Lại các thức này dễ động chuyển nên có khi không có. Nếu lìa thức A-lại-da, bấy giờ nhãn v.v…các căn không thể chấp thụ sẽ bị hư hoại.

Luận nói: Nếu lìa thức Dị thục thì thức và danh sắc nương tựa vào nhau mà chuyển như bó cây lau tựa vào nhau mà đứng cũng không thành.

Giải thích: Nếu lìa thức Dị thục, nghĩa là lìa thức A-lại-da, thì sẽ không thành. Nay sẽ nói rõ. Nghĩa là Thế Tôn nói thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức. Trong đó thức duyên danh, nghĩa là trong 6 thức 4 uẩn không phải sắc. Thức duyên sắc, nghĩa là Yết-lalam. Nếu không nói có thức A-lại-da thì những danh gì là danh sắc duyên thức? Do dựa vào danh sắc sát-na lần lượt tương tự liên tục lưu chuyển không dứt.

Luận nói: Nếu tách rời thức Dị thục thì loài hữu tình sinh ra rồi sẽ không tồn tại bằng thức thực. Bởi vì sao? Bởi vì trong 6 thức , tùy lấy một thức nào cũng không thể làm việc thức thực cho hữu tình đã sinh trong 3 cõi.

Giải thích: Đây là nói thức thực bất thành. Như Thế Tôn nói ăn có 4 thứ: một là đoàn thực, hai là xúc thực, ba là ý tư thực, bốn là thức thực. Đoàn thực là có thể chuyển biến, do chuyển biến nên lợi ích cho sở y. Xúc thực là có khả năng thủ cảnh, do tạm thời có thể thấy sắc v.v.. các cảnh giới khiến sở y được lợi ích. Ý tư thực là có thể hy vọng, do hy vọng nên lợi ích cho sở y. Như xa trông thấy nước, tuy khát nhưng không chết. Thức thực là có khả năng chấp thụ, do chấp thụ nên sở y trụ được lâu. Nếu không như vậy thì đồng như thây chết, không lâu sẽ hư rã. Cho nên phải chấp nhận thức cũng ăn vì có thể làm lợi ích cho sở y. Trong đây xúc thực thuộc 6 thức thân. Ý tư thực thuộc hy vọng ý. Có thức nào khác có thể nói là ăn? Lại nữa nếu vô tâm, ngủ, ngất xỉu, nhập diệt định v.v… 6 thức thân diệt thì còn có cái gì có khả năng chấp thụ thân khiến không hư rã? Nếu lìa bỏ thức A-lại-da thân ắt hư rã.

Luận nói: Nếu từ cõi này chết, chính khi thụ sinh ở các cõi trên, do không phải ý thức nhiễm ô cõi trên kết sinh tương tục, nó không phải tâm nhiễm ô của cõi trên. Đây không phải tâm nhiễm ô cõi trên nên lìa thức Dị thục thì không có được thể của một chủng tử nào khác.

Giải thích: Như vậy là đã nói chẳng phải Đẳng dẫn địa kết sinh tương tục, lìa thức Dị thục không thành, Đẳng dẫn địa cũng không thành. Nay sẽ nói rõ. Nghĩa là ở đây do nhiễm ô thức kết sinh tương tục. Ở Đẳng dẫn địa do Phi Đẳng dẫn địa nhiễm ô ý thức kết sinh tương tục. Nói nhiễm ô là bị nhiễm ô các phiền não ở địa kia. Phiền não địa kia, nghĩa là xan định vị v.v… Tâm nhiễm ô này ở Bất định địa. Ở Bất định địa chết, từ đây chết rồi, tâm ở địa kia làm sao hiện tiền? Đã không hiện tiền làm sao sẽ được kết sinh tương tục. Do đạo lý này chắc chắn phải chấp nhận có thức A-lại-da từ vô thủy đến nay hằng có ở địa kia huân tập tâm này, do huân tập này tâm này hiện hành, do tâm này nên kết sinh liên tục.

Luận nói: Lại nữa, sinh cõi Vô sắc nếu lìa thức Dị thục nhất thiết chủng, thì sẽ không có chủng tử thiện tâm hay ô nhiễm, thiện tâm hay ô nhiễm không có chỗ nương tựa và duy trì.

Giải thích: Sinh cõi Vô sắc, nghĩa là đã giải thoát. Nhiễm ô và thiện tâm cõi Sắc , nghĩa là hay yêu thích mùi vị và Tam-ma-địa. Phải không có chủng tử, nghĩa là phải không có nhân. Phải không có chỗ nương tựa duy trì, nghĩa là không có chỗ sở y. Lại có nghĩa khác, nghĩa là 2 tâm đây nếu không chủng tử thì từ đâu sinh ra, nếu không chỗ nương tựa và duy trì thì y vào đâu mà chuyển.? Vì được thức A-lại-da nhiếp thụ nên từ tự chủng sinh làm sở y, cho nên khiến năng y này liên tục chuyển.

Luận nói: Lại nữa, ở cõi Vô sắc kia, khi tâm xuất thế hiện tiền thì các tâm thế gian diệt hết. Bấy giờ đáng lẽ lại phải diệt và rời khỏi cõi Vô sắc kia.

Giải thích: Tức là ở cõi kia nếu khi tâm xuất thế hiện tiền, trừ đây ra còn bao nhiêu là tâm thế gian. Tâm thế gian bấy giờ đều diệt, như vậy nẻo thú kia phải vĩnh viễn đoạn dứt. Không do dụng công, tự nhiên chứng đắc vô dư Niết-bàn là không có lý, không nên bác bỏ là không có thức A-lại-da.

Luận nói: Nếu sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ, khi tâm xuất thế gian hiện tiền thì hai cõi ấy đều phải diệt và rời khỏi. Cái thức xuất thế gian này không lấy Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm cõi sở y, cũng không lấy Vô sở hữu xứ làm cõi sở y, cũng không phải Niết-bàn là cõi sở y.

Giải thích: Nếu sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc khi khởi Vô sở hữu xứ, tâm xuất thế gian khiến hiện tiền, do tâm nơi ấy cực kỳ sáng suốt nhạy bén. Lại nữa do tâm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ám độn nên trụ ở nơi kia cái tâm cực kỳ sáng suốt nhạy bén khởi tâm xuất thế khiến hiện tiền. Cái tâm xuất thế này không lấy cái thứ nhất thứ hai làm nẻo thú sở y, bởi vì hai địa kia đều là thế gian. Lại nữa sinh các địa khác khởi các tâm khác hiện tiền, nên hai nẻo thú sở y đều không hợp lý. Lại nữa, ngay tâm này không phải Niết-bàn là sở y, vì đó là hữu dư y. Vì vậy 3 thứ làm sở y đều đã không thành. Nếu không tin có thức A-lại-da thì tâm xuất thế này y chỉ vào đâu?

Luận nói: Lại nữa người khi sắp chết, do tạo thiện tạo ác, thân thể sẽ lạnh dần từ dưới lên hoặc từ trên xuống. Nếu không tin có thức A-lại-da thì sự thể như vậy không thể có được. Vì vậy nếu không có thức Dị thục tất cả chủng tử thì tạp nhiễm trong đời này cũng không thành.

Giải thích: Khi sắp xả thân mạng, tạo thiện tạo ác thân thể lạnh dần từ dưới lên hoặc từ trên xuống. Tạo thiện thì chắc chắn từ dưới lên. Tạo ác thì chắc chắn từ trên xuống. Nếu không chấp nhận có thức A-lại-da có khă năng chấp thụ, làm sao có sự lạnh dần như vậy.

Thức A-lại-da có thể gìn giữ . Lạnh dần tuần tự từ trên xuống hay từ dưới lên là tùy chỗ nơi thân mà nó rời bỏ.

Luận nói: Vì sao sự thanh tịnh của thế gian không thành?

Nghĩa là người chưa lìa bỏ cái tham dục ràng buộc với cõi Dục, chưa được cái tâm gắn bó với cõi Sắc thì lấy cái thiện tâm ràng buộc với cõi Dục làm cái ham muốn gắn bó với sự lìa dục mà siêng năng gia công tu hành. Vì cái tâm tu hành ràng buộc với cõi Dục và cái tâm gắn bó với cõi Sắc không cùng sinh cùng diệt, nên không phải được kia huân tập và nói là chủng tử của kia là không hợp lý. Lại nữa, cái tâm gắn bó với cõi Sắc nhiều đời trong quá khứ bị các tâm khác xen cách không thể làm chủng tử cho cái định tâm ngày nay, vì không còn nữa. Vì vậy nên làm thành định tâm gắn bó với cõi Sắc, quả thức Dị thục tất cả chủng tử lần lượt truyền lại làm nhân duyên cho hiện nay, còn cái thiện tâm gia hạnh tu hành thì làm duyên tăng thượng. Phải biết lìa dục trong tất cả các địa đều như vậy. Như vậy là thanh tịnh thế gian. Nếu lìa thức Dị thục thì tất cả chủng tử sẽ không thành.

Giải thích: Như lý thế gian thanh tịnh không thành, nay sẽ nói rõ. Nghĩa là để lìa bỏ cái tham dục ràng buộc với cõi Dục, thì lấy cái thiện tâm ràng buộc với cõi Dục mà siêng năng gia công tu hành. Tức cái thiện tâm gia hành ràng buộc với cõi Dục này chưa từng được huân tập bởi thiện tâm ràng buộc với cõi Sắc kia vì không cùng sinh diệt. Nay phải không có chủng tử tự nhiên sinh cái tâm ràng buộc với cõi Sắc. Lại nữa, cái tâm gắn bó với cõi Sắc nhiều đời trong quá khứ bị các tâm khác xen cách, vì không còn nữa, vì đã qua rồi không thể làm chủng tử cho cái định tâm ngày nay. Nói lần lượt truyền lại làm nhân duyên cho hiện nay, vì thức A-lại-da gìn giữ các chủng tử kia. Nay cái tâm ràng buộc với cõi Sắc là từ tự chủng sinh ra, thiện tâm gia hành không phải không có công lực. Nói công lực là chỉ tăng thượng duyên, không phải nhân duyên. Do sức tăng thượng kia sinh cái tâm ràng buộc với cõi Sắc này. Như vậy xa lìa cái tham muốn ràng buộc với cõi Sắc nên biết như thế.

Luận nói: Vì sao thanh tịnh xuất thế gian không thành?

Nghĩa là như Thế Tôn nói, y theo lời nói từ người khác và trong tâm tác ý đúng như lý, do đó làm nhân sinh ra chính kiến.

Cái tác ý đúng như lý do lời nói từ người khác là huân tập vào nhĩ thức hay huân tập vào ý thức hay huân tập cả hai?

Nếu tư duy pháp ấy đúng như lý thì bấy giờ nhĩ thức không khởi, ý thức cũng bị các thứ tán động của các thức khác xen vào, nếu khi tương ưng sinh khởi cùng với cái tác ý đúng như lý thì cái ý thức được sự nghe huân tập và sự huân tập kia đã diệt thành quá khứ chắc chắn không còn thật thể, làm sao còn làm chủng tử để sinh ra cái tâm tương ưng với tác ý đúng lý sau này?

Lại nữa cái tương ưng với tác ý đúng lý này là tâm thế gian, còn cái tương ưng với chính kiến là tâm xuất thế, hai cái chưa từng có lần cùng sinh cùng diệt. Vì vậy cái tâm này không phải do cái tâm kia huân tập. Đã không bị huân tập mà nói là chủng tử của tâm kia là không hợp lý. Cho nên thanh tịnh xuất thế, nếu lìa quả thức Dị thục tất cả chủng tử , cũng không thành. Vì trong đây cái nghe, huân tập, nhiếp thụ không tương ưng với chủng tử kia.

Giải thích: Nay sẽ nói rõ về xuất thế gian thanh tịnh không thành. Nói “y theo lời nói từ người khác mà tác ý đúng như lý”, nghĩa là tác ý tương ưng với lời nói. Nói “ý thức cũng bị các thứ tán động của các thức khác xen vào”, nghĩa là tương ưng với chính kiến, tâm xuất thế gian bị gián cách. Nói “ nếu khi tương ưng sinh khởi cùng với cái tác ý đúng như lý”, nghĩa là sau đó. Nói “cái ý thức được sự nghe huân tập và sự huân tập kia đã diệt thành quá khứ chắc chắn không còn thật thể”, nghĩa là trái qua thời gian đã tàn tạ và gián cách, chắc chắn không còn thật thể. Nói “làm sao còn làm chủng tử để sinh ra cái tâm tương ưng với tác ý đúng lý sau này? “, nghĩa là kia diệt đã lâu hiện không có thật thể có thể làm nhân. Trong đây vì văn huân tập nhiếp thụ chủng tử kia không tương ưng, là vì ở trong ý thức thế gian. Nói cái văn huân tập trong đây là dựa vào cái nghe huân tập từ người khác. Nhiếp thụ chủng tử kia, là trong ý thức nhiếp thụ xuất thế thanh tịnh. Nói “vì chủng tử không tương ưng”, nghĩa là chỗ chấp kia không hợp lý, cho nên làm sao có thể nói đây từ kia sinh.

Luận nói: Lại nữa, vì sao quả thức Dị thục tất cả chủng tử là nhân tạp nhiễm, lại có khả năng đối trị xuất thế, còn chủng tử tịnh tâm kia lại là tâm xuất thế, vì từ xưa chưa từng huân tập nên chắc chắn kia không huân tập. Đã không huân tập thì từ chủng tử nào sinh ra?

Vì vậy nên trả lời rằng do chủng tử huân tập bởi chính văn, từ pháp giới rất thanh tịnh đẳng lưu sinh ra.

Giải thích: Hỏi vì sao v.v…, nghĩa là thức Dị thục là nhân sở trị, nói là nhân năng trị thì không đúng. Lại tâm xuất thế từ xưa chưa từng huân tập, nghĩa là trước chưa sinh. Huân tập kia chắc chắn là không có vì do nhân này.nên tâm xuất thế không có huân tập chắc chắn là điểu không còn nghi ngờ gì nữa. Nói “từ pháp giới rất thanh tịnh đẳng lưu sinh ra chủngvtử chính văn huân tập, là hiển thị pháp giới khác với Thanh Văn v.v… Nói “rất thanh tịnh” là bởi pháp giới do Phật Thế Tôn chứng vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, sở tri chướng. Từ pháp giới rất thanh tịnh lưu xuất kinh giáo, nên gọi là pháp giới rất thanh tịnh đẳng lưu. Nghe các kinh giáo như vậy không điên đảo nên gọi là chính văn. Do chính văn này khởi huân tập gọi là huân tập. Hoặc lại nữa chính văn tức là huân tập cho nên nói là chính văn uân tập. Đây tức là cái huân tập tương tục trụ trong thức A-lại-da làm nhân có khả năng khởi tâm xuất thế gian. Cho nên nói là từ pháp giới rất thanh tịnh lưu xuất sinh ra chủng tử chính văn huân tập.

Luận nói: Cái văn huân tập này là tự tính của thức A-lại-da hay chẳng phải tự tính của thức A-lại-da? Nếu là tự tính của thức A-lạida thì vì sao là chủng tử đối trị A-lại-da? Nếu không phải tự tính của A-lại-da thì làm sao thấy được chỗ sở y của chủng tử văn huân tập, cho đến chứng được Bồ-đề của chư Phật?

Cái văn huân tập này tùy chuyển ở một chỗ sở y, trú ngụ trong thức Dị thục và hòa hợp cùng chuyển như nước với sữa. Nhưng nó không phải là thức A-lại-da vì nó là chủng tử có tính đối trị với A-lại-da.

Giải thích: Cái văn huân tập này là tự tính của thức A-lại-da hay chẳng phải tự tính của thức A-lại-da? Nếu vậy có lỗi gì?

Nếu là tự tính của thức A-lại-da thì vì sao là chủng tử đối trị A-lại-da? Nếu không phải tự tính của A-lại-da thì chủng tử văn huân tập này phải có chỗ sở y riêng. Cho đến chứng được Bồ-đề của chư Phật, nghĩa là cho đến được vô thượng Bồ-đề của chư Phật chứng đắc. Cái văn huân tập này tức là cái chính văn huân tập từ pháp giới rất rhanh tịnh đẳng lưu. Nói “tùy chuyển ở một chỗ sở y”, nghĩa là tùy ở một nơi nào đó mà liên tục chuyển. Nói “trú ngụ trong thức Dị thục và hòa hợp cùng chuyển như nước với sữa”, nghĩa là cái văn huân tập này với thức Dị thục tuy không đồng tính nhưng trú ngụ trong thức như nước và sữa hòa hợp cùng chuyển. “Nhưng nó không phải là thức A-lại-da” là tuy hòa hợp cùng chuyển như một tính nhưng không phải là thức A-lại-da vì nó là chủng tử có tính đối trị với thức A-lại-da.

Luận nói: Trong đây do huân tập bậc thấp thành huân tập bậc trung, do huân tập bậc trung thành huân tập bậc cao vì do nghe, suy nghĩ và tu tập mà đa phần thành tựu do tu tập.

Giải thích: Trong đây nói hạ, trung, thượng phẩm là nói trí tuệ thành tựu do y vàp văn tư tu. Vì kia mỗi mỗi đều có 3 thứ cho nên lại có nghĩa riêng. Tuệ do nghe mà được là bậc thấp, tuệ do tư duy mà được là bậc trung, tuệ do tu mà được là bậc cao. Dựa vào nghe, tư duy, tu tập, đa phần được tương ưng, nghĩa là dựa vào nghe v.v… nhiều lần mà dũng mãnh tu tập. Lại nữa trong đây bậc hạ là nhân được thành bậc trung, bậc trung là nhân được thành bậc thượng

Luận nói: Lại nữa phải biết chủng tử của chính văn huân tập bậc thấp, bậc trung, bậc cao đều là chủng tử của pháp thân, trái nghịch với thức A-lại-da, và không bao gồm trong thức A-lại-da. Bởi vì nó là tính đẳng lưu của pháp giới rất thanh tịnh xuất thế gian. Tuy là thế gian mà có tính của chủng tử tâm xuất thế. Lại nữa cái tâm xuất thế này tuy khi chưa sinh, đã có công năng đối trị các phiền não trói buộc, có công năng đối trị các nẻo hiểm ác, có khả năng đối trị làm hủ mục các ác nghiệp, lại có thể tùy thuận phụng sự tất cả chư Phật Bồ-tát. Phải biết tuy ở thế gian nhưng cũng là pháp thân đạt được của sơ nghiệp Bồ-tát, và đối với Thanh Văn Độc Giác chỉ mới là giải thoát thân.

Lại nữa cái huân tập này không phải là thức A-lại-da, mà thuộc về pháp thân và giải thoát thân. Nếu như sự huân tập này cứ tuần tự tăng dần từ bậc thấp đến bậc trung, bậc cao thì cũng như vậy quả thức Dị thục tuần từ giảm dần tức chuyển cái sở y. Sở y của chủng tử đã chuyển hết rồi, tức quả thức Dị thục và tất cả chủng tử chuyển đến không còn chủng tử nữa, tức tất cả chủng tử vĩnh viễn đã hết.

Giải thích: Đã có công năng đối trị các phiền não trói buộc, nghĩa là có công năng đoạn trừ tăng thượng tham v.v… hiện khởi chuyển nhân. Đã có công năng đối trị các nẻo hiểm ác, nghĩa là nếu có khả năng đoạn các phiền não trói buộc tức có khả năng đối trị các nẽo hiểm ác. Đã có khả năng đối trị làm hủ mục tất cả các ác nghiệp, nghĩa là nếu tuy có thuận thụ nghiệp sau phải đọa nẻo ác mà có thể vì nó làm nhân hủ hoại. Nói một cách đại khái là cái văn huân tập có thể đối trị tất cả ác nghiệp quá khứ vị lai hiện tại. Lại có thể tùy thuận phụng sự tất cả chư Phật Bồ-tát, nghĩa là đời sau gặp được thiện hữu phụng sự, tự thân được nhân. Tuy ở thế gian nhưng cũng thâu nhiếp trong pháp thân của sơ tu nghiệp Bồ-tát đạt được, nghĩa là các dị sinh Bồ-tát gọi là sơ tu nghiệp Bồ-tát. Vì cũng là chủng tử của pháp thân nên nói cũng thâu nhiếp trong pháp thân. Thanh Văn Độc Giác đạt được chỉ mới được thâu nhiếp trong giải thoát thân, nghĩa là Thanh Văn v.v… chính văn huân tập chỉ là nhân giải thoát, chỉ được giải thoát thân không được pháp thân.

Luận nói: Lại nữa, thế nào gọi là như sữa với nước?

Nghĩa là không phải thức A-lại-da nhưng đồng một chỗ cùng chuyển với thức A-lại-da. Tất cả chủng tử thức A-lại-da hết thì tất cả chủng tử không phải thức A-lại-da tăng. Ví như con ngỗng uống sữa trong nước. Lại như thế gian khi lìa dục thì những huân tập Phi đẳng dẫn địa giảm dần và các huân tập thuộc Đẳng dẫn địa tăng dần mà được chuyển y.

Giải thích: Không phải thức A-lại-da nhưng đồng một chỗ cùng chuyển với thức A-lại-da, mà thức A-lại-da hết nhưng không phải thức A-lại-da thì còn. Trở lại như trước nói nước và sữa hòa hợp, khi con ngỗng uống, sữa hết nhưng nước còn, như thí dụ đã hiển thị. Lại như thế gian khi lìa dục, trong một thức A-lại-da những huân tập phiền não Phi đẳng dẫn địa giảm dần và các huân tập thiện pháp thuộc Đẳng dẫn địa tăng dần mà được chuyển y. Nghĩa chuyển y ở đây phải hiểu như vậy.

Luận nói: Lại nữa nhập Diệt tận định, thức không rời thân như Phật đã nói. Ở đây thức Dị thục thành ra phải không rời thân, chứ không phải vì đối trị Diệt tận định này mà sinh.

Giải thích: Dẫn nhập Diệt định thức bất ly ngôn, là thành định có thức A-lại-da. Thế Tôn nói thức không rời thân là trừ thức Dị thục không rời thân, các thức khác không như vậy. Bởi Diệt định sinh đối trị chuyển thức.Cho nên thấy định này là cực kỳ vắng lặng.

Luận nói: Cũng không phải xuất định thì thức này sinh trở lại. Do thức Dị thục đã gián đoạn, đã lìa kết sinh tương tục nên không sinh lại.

Giải thích: Nếu chấp cho rằng xuất định thì thức này sinh trở lại, do ý này nên thức không rời thân là không đúng lý. Bởi từ định xuất, thức không sinh trở lại, quả thức dị thục đã giàn đoạn, lìa kết sinh tưtơng tục thì thác sinh nơi khác, không sinh trở lại.

Luận nói: Nếu có người chấp cho rằng vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm này không thành định vì không thể thành, vì không có hành tướng sở duyên, vì sẽ có lỗi tương ưng với thiện căn, vì bất thiện và vô ký thì không hợp lý, vì sẽ có lỗi hiện hành của tưởng và thụ, vì có xúc, vì có công năng đối với Tam-ma-địa, vì sẽ có cái lỗi chỉ diệt tưởng mà thôi, vì sẽ có cái lỗi hiện hành của các thiện căn như tư, tín v.v…, vì đánh bật năng y khiến lìa sở y là không hợp lý, vì có thí dụ, vì như đây không có phi biến hành.

Giải thích: Nếu có người chấp cho rằng vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm này không thành, tức là nếu muốn lìa bỏ cái trước nói tự tướng thức A-lại-da, vì các chuyển thức diệt định có tâm, đó là điều không hợp lý. Bởi vì sao? Vì không thành định. Chưa từng thấy tâm lìa tâm pháp, như các tâm pháp tưởng thụ cũng vậy đều phải không diệt. Nhưng Diệt định đây cho thấy đều diệt, cho nên đến định cũng không thành. Nếu lập chỉ có thức A-lạida thì không có lỗi này. Người cầu tĩnh trụ là đối trị oán kia nên sinh các tâm tam pháp. Định này không vì đối trị tính không sáng suốt của thức A-lại-da. Lại nữa định này trong không có các tâm khác. Bởi vì sao? Hành tướng sở duyên đều không thể được. Các tâm tâm pháp liên tục không dứt, ắt không xa lìa hành tướng sở duyên. Trong Diệt định này nếu có tâm, cũng phỉ không lìa hành tướng sở duyên. Nhưng cả hai cái này đều không thể được. Cho nên định này chắc chắn không có các tâm khác. Nếu chỉ lập có thức A-lại-da thì không phương hại, vì hiển thị sở y của chấp thụ. Lại nữa trong định này nếu có chuyển thức, thức này ắt có thiện v.v.. sai biệt, nghĩa là hoặc là thiện hoặc là bất thiện hoặc là vô ký. Nhưng trong đây thức lại chẳng phải là thiện, mà có thiện căn tương ưng là có lỗi cho nên đây là mâu thuẫn. Cũng chẳng phải thức này tự tính là thiện. Do đây không lìa thiện căn tương ưng nên thành thiện tính. Do lập định tâm là thiện tính , nên tương ưng với các thiện căn không dục không tham v.v…Đây không nên chấp nhận không khác với các thiện tâm khác nên khắp mọi nơi thành lỗi này. Lại nữa trong đây cũng không được có bất thiện, vô ký vì bất thiện và vô ký là không hợp lý. Trong khi lìa dục các căn bất thiện đều vĩnh đoạn. Không thành bất thiện, cũng chăng phải vô ký, nên định này là thiện. Lại không thể lập tâm này là thiện phải có lỗi hiện hành thụ tưởng. Nếu lìa thiện căn, thiện tâm không có. Cho nên phải đến thiện căn hiện hành. Trong đây như có thiện căn hiện hành thì tưởng thụ cũng vậy phải đến hiện hành nhân vô phân biệt. Nhưng không hợp lý, vì sở trị hiện hành thì không có năng trị. Ví như chính khi tham v.v… hiện hành thì bất tịnh quán chắc chắn không có. Lại nữa trong định này lìa thức A-lại-da thì các tâm khác không được có. Chắc chắn bị lỗi có xúc như trụ các định khác quyết không nghi ngờ. Nghĩa là như các định thiện căn tương ưng. Khi các thức khác chuyển quyết định có xúc. Vì định sinh khinh an là tướng, hoặc thuận lạc thụ, hoặc có tùy thuận phi khổ phi lạc thụ. Xúc này là duyên hoặc sinh lạc thụ, hoặc lại sinh phi khổ lạc thụ. Bởi vì sao? Vì ở các Tam-ma-địa khác có công năng này. Ở trong các định khác thấy hai xúc này sinh hai thụ thì ắt có công năng, đây cũng phải vậy vì không có chướng nhân. Xúc làm duyên thụ trong đây phải xảy đến nhưng không hợp lý. Bởi vì sao? Vì chỉ có lỗi diệt tưởng. Nếu chấp nhận xúc này làm duyên sinh thụ thì trong định này nên chỉ tưởng diệt, không nên chấp nhận tưởng thụ đều diệt vì Phật đã nói. Lại nữa trong định này nếu có các thức khác thì ắt cùng xúc câu hữu tương ưng. Đây là không hợp lý.

Bởi vì sao? Nếu có xúc phải có lỗi hiện hành các thiện căn như tư, tín v.v… Nếu có xúc của thức ấy tương ưng chuyển thì ắt có cùng với đây câu sinh tư v.v… vì Phật đã nói. Trong đây phải đến có tư hiện hành. Nếu trong định này có tư hiện hành tạo tác thiện tâm, ắt có tín v.v…các thiện căn hiện hành. Nhưng không nên chấp nhận nếu muốn tránh các lỗi đã nói ở trước và lỗi mâu thuẫn với A-cấpma, vì do chỉ chán lìa các tâm pháp, chỉ nhổ bỏ tâm pháp. Ơ trong định này chỉ lập có tâm không có tâm pháp. Đây cũng không phải vậy. Bởi vì sao? Nhổ bỏ năng y kia khiến lìa sở y là không hợp lý. Sở y là tâm, năng y là tâm pháp. Sở y năng y tâm và tâm pháp từ vô thủy sinh tử đến nay không lìa nhau. Do sự tương dẫn này nên định phải cùng tương ưng với các thiện căn không tham v.v… Nếu nói định này và định phương tiện mâu thuẫn với các thiện căn không tham v.v…nên trong định thiện căn không chuyển chỉ chuyển thiện tâm, điều này chưa từng thấy ở đâu. Nếu trong lúc nhân, pháp kia tương ưng đẳng lưu quả, cũng có tương ưng nên không hợp lý. Lại không đúng. Có thí dụ. Thế Tôn nói các hành của thân diệt, các hành của ngữ diệt, các hành của ý diệt. Trong đây thân hành là hơi thở ra vào, ngữ hành là tầm và tứ, ý hành là tư tởng v.v…. Nếu tầm tứ diệt thì ngữ không khởi, ý cũng vậy nếu ý hành diệt cũng phải không khởi. Nếu ý ông bảo như thân hành diệt thì an trụ trong định. Thân tại bất diệt, ý cũng như vậy. Tuy ý hành diệt phải tai bất diệt. Đây cũng như vậy. Bởi vì sao? Như chẳng phải biến hành vì đây không có. Như Thế Tôn nói tách rời ra ngoài thân hành có nhân của thân trụ, như là ăn, mạng căn, thức v.v… Do đó tuy không có hơi thở ra vào mà thân an trụ. Ý thì không như vậy. Tách rời ý hành ra ngoài không có một nhân nào khác duy trì tâm khiến trụ. Do đó phải đến vô ý thức nên gọi vô tâm định. Trong đó có thức của quả Dị thục, cho nên Thế Tôn nói thức không lìa thân. Tức từ thức này, tất cả chủng tử sau khi xuất định, chuyển thức hoàn sinh, cho nên biết chắc có thức A-lại-da.

Luận nói: Lại nữa do nói trong định này có ý thức nên chấp có tâm, thì tâm này là thiện, bất thiện hay vô ký đều không thành nên không hợp lý.

Giải thích: Đã bỏ việc lập Diệt định có tâm. Nay sơ lược hiển thị nghĩa của bài tụng thứ hai. Nếu muốn trừ bỏ thức A-lại-da mà dùng ý thức cho nên nói Diệt định có tâm. Tâm này là thiện, bất thiện hay vô ký đều không thành nên không hợp lý. Bởi vì sao? Vì do tính của Diệt định này là thiện. Vả lại phi bất thiện hay vô ký cũng vậy. Oai nghi, công xảo, biến hóa vô ký, định không được có. Nếu nói đây là Dị thục vô ký thì lý phải nói đến thức A-lại-da. Trừ đây ra không có cái vô ký thứ năm. Lại nữa trong định này nếu tâm là tthiện thì phải tương ưng với các thiện căn như không tham v.v… , nhiễm ô ý diệt chỉ còn thiện tâm. Bấy giờ thiện tâm sở y sở duyên đều có 3 sự hòa hợp. Vì sao trong đây không sinh xúc? Đã có xúc thì các tâm pháp như thụ v.v… sao không được sinh? Như vậy Diệt định phải không thành Diệt định vì các tâm tâm pháp không diệt. Lại nữa nếu chấp định này là thiện do tâm sở dẫn phương tiện trước định năng dẫn thiện tâm lực sở dẫn, nên trong định chẳng tương ưng các thiện căn như không tham v.v… Lại nữa 3 hòa hợp nếu có kham năng, cũng có thể sinh thụ. Nếu 3 hòa hợp không có kham năng, chỉ sinh xúc, cho nên trong định tuy có thiện tâm chẳng phải tương ưng với các thiện căn như không tham v.v… cũng không có thụ v.v… Nghĩa này không phải vậy. Phương tiện thiện tâm đã tương ưng các thiện căn như không tham v.v… từ đó dẫn đến tâm của quả đẳng lưu, vì sao không phải? Lại nữa từ sở y nhổ bỏ năng y là không hợp lý nên tâm và tâm pháp từ vô thủy đến nay luôn luôn không rời nhau, nay nhổ bỏ năng y khiến lìa sở y ắt không thể được. Bởi vì sao? Vì có thí dụ. Nghĩa là ở thế gian từ sinh đến hoại, luôn luôn không tách rời nhau là không có lý. Nhổ bỏ năng y khiến lìa sở y, ví như đại chủng với sở tạo sắc là không có đạo lý nào khiến sở tạo lìa năng tạo. Tâm pháp cũng vậy không thể khiến nó lìa tâm sở y. Cho nên trong định vô tâm này không có tâm pháp, chỉ có thiện tâm là không hợp đạo lý. Nếu lại nói nay nhổ bỏ năng y khiến lìa sở y tuy không hợp lý nhưng tưởng và thụ có thể chướng ngại định này, nên trong phương tiện chán ghét chúng nên chỉ có 2 là không hiện hành còn các pháp khác không như vậy cũng được hiện hành là không hợp đạo lý. Bởi vì sao? Nếu không phải biến hành thì đây không có. Không phải biến hành thì trong đây có thể diệt. Cả hai đều là biến hành nên không thể diệt. Biến hành nếu diệt tâm cũng diệt theo vì không có nhân nào khác. Cho nên trong đây nói có tâm, đó là thức Dị thục, chắc chắn không phải ý thức.

Luận nói: Nếu lại chấp sắc với tâm phát sinh không gián đoạn là chủng tử của các pháp thì không thành, như trước đã nói.

Lại nữa từ các cõi trời Vô sắc, Vô tưởng chết, từ Diệt tận định, Vô tưởng định xuất định thì sẽ không hợp lý. Lại nữa tâm sau cùng của A-la-hán không thành mà chỉ có thể chấp nhận là đẳng vô gián duyên.

Giải thích: Nếu lại chấp sắc với tâm phát sinh không gián đoạn là chủng tử của các pháp, nghĩa là nếu chấp có sắc của sát-na trước là chủng tử và sắc của sát-na sau nhân đó mà sinh thì thức trước và sau trông vào nhau cũng vậy. Chấp này trước đã phá rồi. Lại nữa khi chết ở cõi Vô sắc sinh lại cõi Sắc thì sắc đoạn diệt đã lâu rồi còn gì làm chủng tử? Khi chết ở cõi Vô tưởng, hoặc từ Diệt định xuất định, tâm đoạn diệt đã lâu, còn có tâm nào làm nhân? Nếu như vậy thì các A-la-hán rốt cuộc không có vô dư Niết-bàn. Vì sắc, tâm hai nhân vĩnh viễn không hết, cho nên sắc của sát-na trước trông vào sắc sau, thức sát-na trước trông vào thức sau, điều này chỉ được chấp nhận là có đẳng vô gián duyên chứ không thể nói là có nhân duyên.

Luận nói: Như vậy nếu lìa quả thức Dị thục tất cả chủng tử thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều không thành. Vì vậy như trước đã nói về tướng, thức A-lại-da quyết định là thật hữu.

Giải thích: Do trước đã nói nhiều đạo lý, cho nên chắc chắn là có sự thành tựu thức A-lại-da.

Luận nói: Ở đây có 3 bài tụng như sau:

Bồ-tát trong tịnh tâm,

Xa lìa nơi năm thức.

Vô dư tâm chuyển y,

Làm sao ông làm được?

Nếu đối trị chuyển y,

Nếu chẳng đoạn, không thành.

Nhân quả không sai biệt,

Vĩnh đoạn thành sai lầm.

Không chủng tử, không thể,

Nếu cho là chuyển y,

Không kia, hai cũng không,

Chuyển y thành phi lý.

Giải thích: Như trụ nơi chuyển thức mà chuyển y là không thành. Ba bài tụng nói rõ. “Bồ-tát trong tịnh tâm,” tức là xuất thế đối trị, tương ưng nghĩa của ý thức thiện. “Xa lìa khỏi năm thức.” nghĩa là đây xa lìa 5 thức như nhãn v.v…Nói “không các tâm” là không có ý thức tạp nhiễm hữu lậu thiện. Đã nêu tịnh tâm, nay lại nêu không các tâm khác là muốn ngăn trừ cái thức thiện hữu lậu. Nói làm sao làm tâm chuyển y, tức là nếu ông tin có thức A-lại-da có thể làm chủng tử tất cả tạp nhiễm thì nghĩa không chủng tử gọi là tâm chuyển y. Nếu không như vậy thì làm sao làm được? Nếu đối trị sinh, là chuyển y thì không hợp lý. Bởi vì sao? Nếu đối trị chuyển y là phi đoạn nên không thành tạp nhiễm. Vĩnh đoạn nên gọi chuyển y. Phi năng đối trị tức là vĩnh đoạn. Do đó chỉ là nhân vĩnh đoạn nên nếu quyết như vậy sẽ đưa đến lỗi quả và nhân không sai khác. Quả là vĩnh đoạn, gọi là Niết-bàn. Nhân là đối trị, gọi là Thánh đạo. Nếu năng đối trị tức là vĩnh đoạn thì sẽ đưa đến cái lỗi quả và nhân một thể, là vừa sinh đối trị tức phải là Niết-bàn. Không chủng tử, hoặc không thể, nếu chấp nhận là chuyển y thì nếu ở chuyển thức làm thì không chủng tử. Hoặc ngay trong vô thể cho là chuyển y. Không có hai kia thì không, nên chuyển y là không hợp lý. Chuyển thức tạp nhiễm trong định vị này không thể có được, cho nên cũng không chủng tử có thể khiến làm không không hai có thể không mà gọi là chuyển y là không hợp lý. Nếu quyết định có thức A-lại-da, chuyển thức tạp nhiễm tuy không được có trong định này mà tất cả chủng tử kia đều trụ trong thức A-lại-da có thể làm vô chủng vô thể kia. Do ông chuyển y không hợp lý, cho nên phải tin có thức A-lại-da..

Luận nói: Lại nữa, sai biệt của thức A-lại-da là như thế nào?

Nói tổng quát có 3 thứ hoặc 4 thứ. Trong đây 3 thứ tức 3 thứ huân tập sai biệt: một là danh ngôn huân tập sai biệt, hai là ngã kiến huân tập sai biệt, ba là hữu chi huân tập sai biệt; 4 thứ là: một là dẫn phát sai biệt, hai là dị thục sai biệt, ba là duyên tướng sai biệt, bốn là tướng mạo sai biệt.

Giải thích: Như vậy là đã thành lập thức A-lại-da. Nay sẽ nói rõ các phẩm loại sai biệt này. Trong 3 thứ huân tập sai biệt, danh ngôn huân tập sai biệt nghĩa là nhãn danh ngôn huân tập. Trong thức Dị thục là nhãn sinh nhân. Dị thục sinh nhãn từ khi nó sinh dùng nó làm nhân trở lại gọi tên là nhãn. Như vậy nhĩ v.v… tất cả danh ngôn sai biệt cũng thế. Ngã kiến huân tập sai biệt, là do nhiễm ô ý, sức của Tát-ca-da kiến nên trong thức A-lại-da ngã chấp huân tập sinh. Do đây làm nhân gọi mình là ngã, khác ngã là người khác đều có sai biệt. Hữu chi huân tập sai biệt, là do sức của thiện, bất thiện, bất động hành nên có lưu chuyển khác nhau trong các nẻo thú. Ba cái này sau trong sở tri tướng sẽ nói rộng.

Luận nói: Trong đây dẫn phát sai biệt là sự huân tập mới khởi. Nếu cái này không, thì hành duyên thức, thủ duyên hữu sẽ không thành.

Giải thích: Dẫn phát sai biệt, nghĩa là có khả năng dẫn phát các phẩm loại khác nhau. Nói huân tập mới khởi là sự huân tập mới khởi lần đầu tiên. Nếu cái khả năng dẫn phát thức A-lại-da sai biệt mà không có, thì các hành sinh diệt huân tập thành thức, do thủ nhiếp thụ sinh hữu hiện tiền, các sở tác này sẽ không thành. Có khả năng sinh đời sau gọi là hữu. Đây nói thủ là gồm hoặc thiện hoặc bất thiện của quả tập.

Luận nói: Dị thục sai biệt là do hành và hữu làm duyên nên có thức Dị thục sai biệt trong các nẻo đường sinh tử. Nếu không có cái này thì không có chủng tử, sẽ không có các pháp phát sinh về sau.

Giải thích: Dị thục sai biệt, nghĩa là hành và hữu làm duyên, nó dẫn đến dị thục trong các nẻo thú. Nếu không có cái dẫn thức A-lạida sai biệt thì không có nhân. Các pháp hậu hữu như nhãn v.v… các sắc căn không sinh dị thục. Phải biết đây tức là quả dị thục.

Luận nói: Duyên tướng sai biệt là cái tướng ngã chấp nơi ý. Nếu không có cái này thì trong ý ô nhiễm sẽ không có ngã chấp sở duyên.

Giải thích: Duyên tướng sai biệt, nghĩa là thức A-lại-da này ở trong ý ô nhiễm có thể dựa vào ngã kiến ngã chấp mà duyên tướng. Nếu không có cái duyên tướng sai biệt của thức A-lại-da này thì trong ý nhiễm ô, tát-ca-da-kiến là nhân ngã chấp sẽ duyên csnhr không thành. Phải biết đây là quả đẳng lưu.

Luận nói: Tướng mạo sai biệt là thức này có tướng chung, có tướng không chung, có tướng chủng tử không thụ sinh và có tướng chủng tử thụ sinh.

Giải thích: Tướng mạo sai biệt có nhiều phẩm loại, nghĩa là trong đó có tướng chung, có tướng không chung, có tướng chủng tử không thụ sinh, có tướng chủng tử thụ sinh v.v…Đó là sơ lược nêu lên, sau sẽ nói rộng.

Luận nói: Tướng chung là chủng tử thế gian như cái đồ đựng. Tướng không chung là các chủng tử riêng biệt chứa đựng bên trong. Tướng chung tức chủng tử không thụ sinh. Tướng không chung tức chủng tử có thụ sinh. Khi có sự đối trị sinh khởi thì chỉ tướng không chung bị diệt, còn tướng chung thì được người khác duy trì nên chỉ thấy thanh tịnh. Như các sư Du-già, trong một vật có nhiều chỗ thấy và biết khác nhau được thành lập. Ở đây có hai bài tụng như sau:

Khó diệt khó biết hết,

Nên gọi là cộng kết.

Sư Du-già bất đồng,

Do tướng ngoài rộng lớn.

Người thanh tịnh chưa diệt,

Mà vẫn thấy thanh tịnh.

Và cõi Phật thanh tịnh,

Do Phật thấy thanh tịnh.

Lại có bài tụng khác nói về các thấy biết khác nhau nói trên:

Các sư Du-già nơi một vật,

Có nhiều kiến giải không đồng nhau.

Các thứ kiến giải đều thành tựu,

Nên biết sở thủ chỉ có thức.

Nếu không có cái này thì sự sinh khởi sai biệt của khí thế gian và hữu tình thế gian sẽ không thành.

Giải thích: Trong đây nếu nói thức A-lại-da là cái thể của nhân của thế gian như cái đồ dựng chung cùng của tất cả hữu tình, đó tức là chủng tử không thụ sinh. Nếu thức A-lại-da là cái thể của nhân của các chỗ không chung, đều riêng biệt như sắc v.v…, đó tức là chủng tử có thụ sinh. Nếu lìa thức A-lại-da tướng chung của các phẩm loại như thế, thì khí thế gian là nhân thụ dụng chung của tất cả hữu tình sẽ không thành. Như vậy nếu lìa cái thứ hai là cái không chung của thức A-lại-da thì hữu tình thế gian cũng không thành, do đó phải sinh như cây đá v.v…

Luận nói: Lại có tướng thô nặng và tướng nhẹ nhàng. Tướng thô nặng là chủng tử của phiền não và tùy phiền não. Tướng nhẹ nhàng là chủng tử của thiện pháp hữu lậu. Nếu không có cái này thì sở cảm dị thục là không kham năng, còn cái kham năng sở y sai biệt thì không thành.

Lại có hữu thụ tận tướng và vô thụ tận tướng. Hữu thụ tận tướng là chủng tử thiện bất thiện đã thành quả báo dị thục. Vô thụ tận tướng là chủng tử danh ngôn huân tập, các thứ chủng tử hý luận trôi nổi từ vô thủy đến nay. Nếu không có cái này thì 2 nghiệp thiện ác đã tạo với quả báo thụ hết là không thành. Lại nữa sự sinh khởi các danh ngôn mới huân tập sẽ không thành.

Lại có các tướng thí dụ. Nghĩa là thức A-lại-da có những thí dụ như ảo hóa, sóng nắng, chiêm bao, đau mắt. Nếu không có cái này thì những chủng tử biến kế không thật điên đảo duyên tương ưng không thành.

Lại nữa có tướng đầy đủ, có tướng không đầy đủ. Nghĩa là đầy đủ các trói buộc gọi là tướng đầy đủ. Lìa dục thế gian gọi là tướng tổn giảm. Hàng Thanh Văn hữu học và các Bồ-tát đã đánh bật vĩnh viễn một phần các tướng. A-la-hán, Độc Giác là hoàn toàn vĩnh viễn đánh bạt các tướng phiền não chướng, và chư Như Lai là hoàn toàn vĩnh viễn đánh bạt các tướng phiền não sở tri. Thích ứng đúng như vậy. Nếu không cái này thì sự tạp nhiễm và hoàn diệt tuần tự như trên sẽ không thành.

Giải thích: Tướng thô nặng là tính không kham năng trong sở y. Tướng nhẹ nhàng là tính kham năng trong sở y. Nếu không có hữu thụ tận tướng thì thức A-lại-da thường thường đã làm 2 nghiệp thiện ác với quả thụ tận sẽ không thành. Vô thụ tận tướng là danh ngôn huân tập chủng tử, như đã nói trong danh ngôn huân tập sai biệt. Nói từ vô thủy đến nay các chủng tử hý luận lưu chuyển, nghĩa là nói chung là nhân cho nên nếu không có thì thức A-lại-da không thể sinh khởi các danh ngion huân tập mới khởi lần đầu tiên. Bởi vì sao? Nếu không có huân tập cũ thì danh ngôn hiện nay cũng không có. Như ở thế gian cái gì xưa nay không có là vốn không nay có là không hợp lý. Tướng thí dụ là như do các nhân ảo hóa v.v…nên có các duyên tướng điên đảo như con voi v.v…Thức A-lại-da cũng như vậy. Do nói tướng thí dụ chủng tử biến kế không thật nên có duyên tướng điên đảo. Nếu không có đây, duyên tướng điên đảo cũng không thành.

Luận nói: Vì nhân duyên gì các pháp thiện bất thiện có thể cảm dị thục trong khi quả dị thục là vô phú vô ký?

Vì do quả dị thục là vô phú vô ký, không mâu thuẫn với thiện hoặc bất thiện, nên không trái chống với thiện hay bất thiện. Nếu tính của quả dị thục là thiện hay bất thiện thì tác dụng tạp nhiễm hay hoàn diệt sẽ không thành. Vì vậy nên thức Dị thục chỉ là vô phú vô ký.

Giải thích: Vô phú vô ký, là trong đây nói vô nhiễm là vô phú, tức vô nhiễm vô ký gọi là vô phú vô ký. Không phải như cõi Sắc sinh phiền não bất thiện gọi là vô ký. Nếu quả dị thục có tính thiện hay bất thiện thì tạp nhiễm và hoàn diệt sẽ không thành, bởi vì từ thiện sẽ sinh thiện, từ bất thiện sẽ sinh bất thiện, thì sự sinh tử lưu chuyển sẽ không có biên tế, vì lưu chuyển tạp nhiễm thông cả hữu lậu thiện.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10