NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 2
2 – 2. Sở tri y
Luận nói: Lại nữa trong Thanh Văn thừa cũng có cách khác hoặc mật ý, đã nói đến thức A-lại-da. Như trong Tăng Nhất A-cấpma nói: Chúng sinh trong thế gian yêu A-lại-da, ưa A-lại-da, vui A-lại-da, thích A-lại-da. Để đoạn trừ những A-lại-da như thế nên khi Như Lai thuyết chính pháp cung kính lắng nghe, trụ tâm cầu pháp, tùy thuận tu hành. Như Lai ra đời vô cùng kỳ diệu như vậy, và chính pháp hi hữu xuất hiện ở thế gian. Trong Kinh Tứ Đức, bằng một cách khác, bằng mật ý cũng đã hiển lộ thức A-lại-da. Trong Kinh A-cấpma của Đại chúng bộ cũng dùng cách khác và mật ý gọi thức này là căn bản thức, giống như gốc rễ của một cái cây. Trong Hóa địa bộ cũng dùng cách khác và mật ý gọi thức này là cùng sinh tử uẩn. Tuy có nơi có lúc thấy sắc mất đi, tâm mất đi, nhưng chủng tử của chúng trong thức A-lại-da chẳng mất.
Giải thích: Câu “Chúng sinh trong thế gian yêu A-lại-da” là câu nêu tổng quát. Sau đó lần lượt dùng các câu khác giải thích riêng biệt 3 thời hiện tại quá khứ vị lai. Lại có nghĩa khác, nghĩa là hiện tại thì yêu A-lại-da, quá khứ thì ưa A-lại-da, do đời trước ưa A-lại-da nên đời nay thích A-lại-da. Do ưa do thích A-lại-da nên đời sau vui với A-lại-da. Pháp tùy pháp hành, nghĩa là như giáo pháp tu hành. Trong Đại chúng bộ gọi là căn bản thức như cây cối dựa vào gốc rễ. Nghĩa là căn bản thức là nhân căn bản của tất cả thức. Ví như nhân chung của tất cả thân cây rễ chồi. Nếu lìa gốc rễ thì không có chồi v.v… Phải biết thức A-lê-da gọi là căn bản thức cũng như vậy. Một môn phái khác trong Hóa địa bộ nói là cùng sinh tử uẩn để giải thích nhân này nói hữu xứ v.v… Nói hữu xứ, tức có nơi, nghĩa là cõi Vô sắc không có các sắc. Nói hữu thời, tức có lúc, nghĩa là trong các định vị như Vô tưởng v.v… không có các tâm. Nói không phải các chủng tử kia có đoạn mất trong thức A-lại-da, nghĩa là các sắc tâm huân tập trong thức A-lại-da, do đó là nhân có sắc tâm.
Luận nói: A-lại-da là nơi y cứ của các pháp sở tri như vậy nên nói thức A-lại-da là tính, thức A-đà-na là tính, tâm là tính, A-lại-da là tính, căn bản thức là tính, cùng sinh tử uẩn là tính v.v…Do cách trình bày khác và mật ý mà thức A-lại-da thành một đường lối giải thích đặc biệt của Đại pháp vương.
Giải thích: Do đó môn phái khác gọi A-lại-da là con đường của vua đi. Đó là nghĩa cực rộng của A-lại-da.
Luận nói: Lại còn một loại giải thích nói rằng tâm, ý và thức tên gọi khác nhau nhưng nghĩa là một. Nói thế không đúng. Ý và thức đã có hai nghĩa khác nhau thì phải biết nghĩa của tâm cũng khác.
Lại có một loại nói rằng Đức Bạc-già-phạm có nói chúng sinh yêu A-lại-da … cho đến nói rộng hơn, đó chính là lấy 5 thủ uẩn gọi là A-lại-da.
Lại có người khác bảo tham cùng với lạc thụ là A-lại-da, những người khác thì bảo Tát-ca-da kiến là A-lại-da. Các sư này do giáo nghĩa và chỗ chứng biết của họ đối với tàng thức ngu muội nên có kiến chấp nay. Như vậy tên A-lại-da được lập theo Thanh Văn thừa là cũng không đúng đạo lý. Nếu không ngu muội, lấy tàng thức an lập, gọi tên là A-lại-da, an lập như vậy là hơn cả.
Hơn cả như thế nào?
Là vì nếu 5 uẩn là A-lại-da thì sinh trong đường ác một bề chịu khổ rất đáng chán nghịch, chúng sinh tuyệt đối không khởi yêu thích, vậy mà nói chấp tàng, là không hợp lý. Nếu tham với lạc thụ là A-lạida thì Tứ tĩnh lự trở lên đã không có, chúng sinh cõi ấy thường có sự chán nghịch, vậy mà nói chấp tàng, là không hợp lý. Nếu Tát-ca-da kiến là A-lại-da thì những người tin hiểu vô ngã trong chính pháp thường có sự chán nghịch, vậy mà nói chấp tàng, là không hợp lý. Trong thức A-lại-da có mang tính ngã, nên tuy sinh nơi đường ác một bề chịu khổ muốn rời khổ uẩn, nhưng đối với tàng thức ngã ái thường theo trói buộc, chưa từng có ý cầu mong lìa bỏ. Dẫu sinh Tứ tĩnh lự trở lên thường chán nghịch tham và lạc thụ, nhưng đối với tàng thức vẫn bị ngã ái thường theo trói buộc. Dẫu ở trong chính pháp này, người tin hiểu vô ngã chán nghịch ngã kiến, nhưng đối với tàng thức vẫn bị ngã ái thường theo trói buộc. Cho nên lập ra thức A-lại-da đặt tên A-lại-da là đúng hơn cả.
Giải thích: Nguyên văn dùng chữ ngu, nghĩa là ngu muội, không sáng tỏ. Không ngu là chỉ cho các Bồ-tát mà nói, vì thành lập lý của thức A-lại-da. Trong ác thú là các loài ngạ quỷ, bàng sinh và Na-lạc-ca trong các ác thú. Nơi một bề thụ khổ, nghĩa là nơi chỉ toàn thụ nghiệp quả không được ưa thích. Ở nơi đó có lúc sinh lạc thụ, đó là quả đẳng lưu. Sinh nơi đó mà thụ quả dị thục chỉ có khổ. Nói từ đệ tứ tĩnh lự trở lên không có, nghĩa là đệ tứ tĩnh lự và các bậc trên. Đủ các hữu tình kia, nghĩa là sinh sở đắc. Tính ngã gồm trong thức A-lạida, nghĩa là các chúng sinh giữ lấy thức này làm tính ngã bên trong. Cầu lìa khổ uẩn tức là cầu lìa khổ thụ. Nhưng ở trong tàng thức, ngã ái theo trói buộc, nghĩa là trong thức A-lại-da chấp ngã khởi ái rồi theo ràng buộc không rời.
Luận nói: Như vậy là đã nói về sự thành lập thức A-lại-da. Vậy an lập tướng này như thế nào?
An lập tướng này, sơ lược có 3 thứ: một là an lập tự tướng, hai là an lập nhân tướng, ba là an lập quả tướng.
An lập tự tướng của thức A-lại-da nghĩa là căn cứ tất cả các pháp tạp nhiễm được huân tập làm nhân sinh ra các pháp, do khả năng thâu giữ chủng tử tương ưng.
An lập nhân tướng của thức A-lại-da nghĩa là tất cả chủng tử của thức A-lại-da lúc nào cũng cùng các phẩm loại tạp nhiễm hiện tiền kia làm nhân.
An lập quả tướng của thức A-lại-da nghĩa là căn cứ các pháp tạp nhiễm đã huân tập từ vô thủy đến nay mà thức A-lại-da liên tục sinh khởi.
Giải thích: Như vậy là đã nói về sự an lập thức A-lại-da kể cả sự an lập của môn pháp khác. Không phải nói sự an lập của môn phái khác là thấy rõ tướng của nó. Cho nên nay nói đến tự tính, nhân tính và quả tính của thức này.
An lập tự tướng, nghĩa là duyên tất cả những gì đã huân tập các pháp tạp nhiễm, có khả năng sinh các công năng sai biệt của thức làm tự tính. Vì muốn hiển thị công năng như vậy nên nói thâu giữ chủng tử tương ưng. Nghĩa là dựa vào tất cả các pháp tạp nhiễm đã được huân tập, tức cùng với pháp kia làm nhân năng sinh. Thâu giữ chủng tử là công năng sai biệt. Tương ưng là nghĩa của tu. Đó gọi là an lập tự tướng của thức này.
An lập nhân tướng, nghĩa là trước có nói tất cả chủng tử phẩm loại, thức A-lại-da do phẩm loại tạp nhiễm các pháp huân tập thành công năng sai biệt làm sinh nhân cho nó. Đó gọi là an lập nhân tướng của thức này.
An lập quả tướng, nghĩa là dựa vào pháp tạp nhiễm huân tập từ vô thủy của nó, thức này liên tục sinh mà có thể giữ lấy cái huân tập từ vô thủy. Đó gọi là an lập quả tướng của thức này.
Trong đây tự tướng là dựa vào tất cả phẩm pháp tạp nhiễm huân tập từ vô thủy làm sinh nhân của nó, thâu giữ chủng tử thức làm tự tính, kiến lập quả tính nhân tính.
Trong đây nhân tướng là cái các phẩm loại tạp nhiễm của các pháp huân tập thành, công năng sai biệt làm sinh nhân của nó, chỉ là sở kiến lập của nhân tính.
Trong đây quả tướng là dựa vào phẩm loại tạp nhiễm của các pháp huân tập từ vô thủy, thức A-lại-da tương tục sinh, và chỉ là sở kiến lập của quả tính. Đó là 3 sự sai biệt.
Luận nói: Lại nữa những gì là huân tập? Huân tập là năng thuyên, vậy sở thuyên là gì?
Nghĩa là dựa vào pháp kia mà cùng sinh cùng diệt. Trong đó có tính năng sinh làm nhân cho cái khác, gọi là sở thuyên. Như trong mè có ướp hoa. Mè và hoa cùng sinh cùng diệt. Tức là mè có mùi hoa. Lại như nói người tu hành tham lam, đó là cái tham huân tập, dựa vào cái tham cùng sinh cùng diệt, cái tâm này mang cái nhân sinh mà sinh. Hoặc người đa văn thì đa văn huân tập, dựa vào cái nghe tác ý rồi cùng sinh cùng diệt, cái tâm này mang cái nhân kia mà sinh. Do đó tính chất huân tập này có công năng gìn giữ, nên gọi là người giữ gìn chính pháp. Nên biết ý nghĩa huân tập của thức A-lại-da cũng như vậy.
Giải thích: Nghĩa là dựa vào pháp kia cùng sinh cùng diệt. Trong đây có khả năng sinh nhân tính của nó. Đó gọi là sở thuyên, nghĩa là dựa vào các pháp tạp nhiễm cùng sinh cùng diệt của nó, thức A-lại-da có công năng sinh sinh các pháp kia. Nhân tính của các pháp gọi là huân tập.
Luận nói: Lại nữa, chủng tử các pháp tạp nhiễm trong thức A-lại-da là khác và biệt lập hay không khác biệt?
Các chủng tử kia không phải thật vật và biệt lập, nhưng ở trong A-lại da cũng không phải không khác biệt. Nhưng thức A-lạida có thể sinh các công năng sai biệt kia, nên có tên là Nhất thiết chủng tử thức
Giải thích: Chủng tử pháp tạp nhiễm trong thức A-lại-da là khác hay không khác? Nếu vậy có lỗi gì? Nếu có khác thì các chủng tử kia phải riêng rẽ nhau. Nghĩa sát-na diệt của thức A-lại-da cũng không thành. Có khác biệt cho nên do sức huân tập của thiện bất thiện, chủng tử phải thành tính thiện hoặc bất thiện. Thế nhưng có vô ký. Còn nếu không khác thì làm sao có nhiều. Đó là không hợp lý. Cho nên 2 thuyết đều có lỗi. Không phải chủng tử kia có thật vật riêng biệt, và trong đó chúng cũng không phải không khác. Cho đến gọi là Nhất thiết chủng tử thức, là tránh cách nói có lỗi như trước. Cho nên không nhất định lấy nghĩa khác và không khác. Như vậy mà sinh, nghĩa là do các phẩm loại như vậy mà sinh. Có khả năng sinh các công năng sai biệt, nghĩa là có khả năng sinh pháp tạp nhiễm phẩm. Đạo lý nói là công năng sai biệt tương ưng do cùng sinh các công năng tương ưng kia nên gọi là Nhất thiết chủng tử thức. Trong nghĩa này có thí dụ như hạt lúa mì có công năng tự nảy mầm nên có tính chất như hạt giống. Nếu để lâu hoặc bị lửa nóng làm tổn hoại công năng, bấy giờ tuy bề ngoài hạt lúa mì vẫn như cũ nhưng năng lực đã mất không còn tính chất của hạt giống nữa. Thức A-lại-da cũng vậy, có công năng sinh các pháp tạp nhiễm, do phù hợp với công năng này nên gọi là Nhất thiết chủng tử thức.
Luận nói: Lại nữa làm sao biết được thức A-lại-da với các pháp tạp nhiễm kia đồng thời làm nhân cho nhau?
Ví như đèn sáng do ngọn lửa đèn đốt cháy tim đèn, đó là đồng thời. Cũng như bó cây lau đồng thời dựa vào nhau mà đứng. Hãy quán sát đạo lý làm nhân cho nhau ở đây cũng vậy. Như thức A-lạida là nhân của các pháp tạp nhiễm, các pháp tạp nhiễm cũng là nhân của thức A-lại-da. Chỉ như vậy mới thành lập nghĩa nhân duyên, ngoài ra không có nghĩa nhân duyên nào khác.
Giải thích: Lại nữa làm sao biết được thức A-lại-da với các pháp tạp nhiễm kia đồng thời làm nhân cho nhau? Muốn dùng thí dụ làm rõ, nên nêu câu hỏi này. Ví như đèn sáng do ngọn lửa đèn đốt cháy tim đèn, đó là đồng thời. Nghĩa là trong một sát-na tim đèn là chỗ dựa để phát sinh ngọn lửa đèn. Vậy tim đèn là nhân của ngọn lửa đèn. Cũng ngay sát-na ấy ngọn lửa đèn lại đốt tim đèn mà nó làm chỗ dựa. Vậy ngọn lửa đèn là nhân của sự đốt cháy. Các thí dụ khác cũng vậy. Như vậy rõ ràng là có nhân câu hữu. Do nhân hiện tại trụ tức thấy quả sinh. Từ thức A-lại-da là nhân tạp nhiễm của các pháp, cho đến các nhân duyên khác không thể được, nghĩa là đây hiển thị thức A-lại-da cùng pháp tạp nhiễm làm nhân cho nhau tức là nhân duyên.
Luận nói: Vì sao huân tập thì không khác không xen tạp, mà có thể làm nhân cho các pháp có khác biệt có xen tạp?
Như tấm vải áo được nhuộm. Lúc mới nhuộm tuy chưa có gì khác biệt đa dạng, nhưng khi nhuộm xong thì màu sắc, đường nét, hoa văn hiển hiện. Thức A-lại-da cũng vậy. Các pháp được huân tập là đa dạng, trong khi huân tập tuy chưa thấy được các dạng tướng, nhưng khi sinh quả thì hiện thành vô số phẩm loại dị tạp.
Giải thích: Vì sao huân tập thì không khác không xen tạp, mà có thể làm nhân cho các pháp có khác biệt có xen tạp? Muốn dùng thí dụ để làm rõ đạo lý ấy nên đặt câu hỏi này. Như tấm vải áo được nhuộm. Lúc mới nhuộm tuy chưa có gì khác biệt đa dạng, nhưng khi nhuộm xong thì màu sắc, đường nét, hoa văn hiển hiện. Thức A-lạida như tấm áo được nhuộm. Quả sinh tức đồ nhuộm. Cho vào đồ nhuộm tức nghĩa là duyên. Khi huân tập tuy không thấy xen tạp khác nhau, nhưng khi quả chín mới thấy không phải một phẩm loại. Tính nhân của các pháp hiển hiện như tấm áo đã nhuộm.
Luận nói: Các pháp duyên khởi hiển hiện như thế trong Đại thừa là rất sâu xa vi tế. Nếu nói sơ lược có 2 thứ duyên khởi: một là phân biệt tự tính duyên khởi, hai là phân biệt ái phi ái duyên khởi.
Trong đây các pháp y chỉ thức A-lại-da mà sinh khởi là phân biệt tự tính duyên khởi, vì có thể phân biệt các tự tính làm tính của duyên.
Duyên khởi lại được phân tích làm 12 chi, gọi là phân biệt ái phi ái duyên khởi, vì đối với nẻo thiện nẻo ác có thể phân biệt các tự thể là ái hay phi ái làm tính của duyên.
Giải thích: Như vậy duyên khởi trong Đại thừa rất sâu xa vi tế, nghĩa là đối với tuệ giác của dị sinh khó có thể hiểu rõ được nên nói rất vi tế. A-la-hán v.v…khó có thể hiểu thấu đáo nên gọi là rất sâu. Lại nữa nếu lược nói, có 2 duyên khởi, là nói về số thì một là phân biệt tự tính duyên khởi và hai là phân biệt ái phi ái duyên khởi. Trong đây nói y chỉ thức A-lại-da, nghĩa là thức A-lại-da là nhân sinh khới các pháp. Đó gọi là phân biệt tự tính duyên khởi. Do có khả năng phân biệt tự tính của khác loại là tính của nhân. Nếu vô minh v.v… thì gọi là phân biệt ái phi ái duyên khởi. Do có khả năng phân biệt tự thể của các thứ ái phi ái là tính của nhân.
Luận nói: Trong thức A-lại-da, nếu ngu mê duyên khởi thứ nhất, thì hoặc phân biệt tự tính cho là nhân, hoặc chấp túc tác là nhân, hoặc chấp tự tại biến hóa là nhân, hoặc chấp thật ngã là nhân, hoặc chấp cho là không có nhân không có duyên. Nếu ngu mê duyên khởi thứ hai, thì chấp cái ngã là kẻ tạo tác, cái ngã là kẻ nhận chịu. Ví như có nhiều người mù bẩm sinh chưa từng thấy con voi. Có người đem voi đến nói cho chúng biết. Những người mù kia người sờ được cái vòi, người sờ được ngà, người sờ tai, người sờ chân, người sờ đuôi, người sờ lưng. Có người hỏi con voi hình dáng như thế nào, người thì đáp con voi như cái chuôi cày, người nói như cái chày, , người nói như cái rổ, người nói như cái cối, người nói như cây chổi, người nói như đá núi. Nếu không hiểu rõ hai duyên khởi này thì cũng như người mù vô minh vậy. Hoặc chấp tự tính là nhân, hoặc chấp do đời trước làm là nhân, hoặc chấp tự tại là nhân, hoặc chấp thật ngã là nhân, hoặc chấp không nhân không duyên, hoặc chấp cái ngã là kẻ tạo tác, cái ngã là kẻ lãnh chịu. Nhân tính và quả tính của tự tính thức A-lại-da như tự tính con voi mà những người mù không biết.
Giải thích: Hoặc có người phân biệt cho rằng do đời trước tạo tác là nhân, nghĩa là người kia do không chấp nhận có nhân sĩ dụng nên thành tà chấp. Đế làm rõ các chấp này nên nói thí dụ người mù bẩm sinh. Nói người mù bẩm sinh, nghĩa là do vô minh nên thành mù bẩm sinh. Nhân tính và quả tính v.v… của tự tính thức A-lại-da như tự tính của người không biết voi, nghĩa là như trước đã lập tự tướng của thức này gọi là tự tính, lập nhân tướng của thức này gọi là nhân tính, lập quả tướng gọi là quả tính. Do sức của vô minh không hiểu các điều này nên đối với thức A-lại-da phân biệt tự tính duyên khởi không hiểu rõ, chấp tự tính v.v… là nhân các pháp. Đối với đệ nhị phân biệt ái phi ái duyên khởi không hiểu rõ, chấp có ngã là người làm người chịu. Trong đây nhân là thức A-lại-da, ở trong đó các pháp huân tập được gìn giữ, quả tức là thức A-lại-da, tức các pháp được huân tập.
Luận nói: Nếu nói sơ lược thì thức A-lại-da là thức dị thục. Tất cả chủng tử là tự tính của nó và có thể bao gồm tất cả tự thể, tất cả các nẻo trong 3 cõi.
Giải thích: Nói thức A-lại-da lấy sự dị thục tất cả chủng tử làm tự tính, nghĩa là được tự thể làm thuần thục khác loại nên chủng tử các pháp huân tập bên trong. Nói tất cả các nẻo thú, tức là ngũ thú v.v… Nói tất cả tự thể, nghĩa là các sai biệt, phần giống phần khác trong các nẻo thú.
Luận nói: Ở đây có 5 bài tụng như sau:
Trong ngoài không hiểu rõ,
Cả hai là thế tục.
Thắng nghĩa các chủng tử
Phải biết có 6 thứ,
Sát-na diệt, câu hữu,
Hằng tùy chuyển nên biết.
Quyết định, đợi các duyên,
Chỉ năng dẫn tự quả.
Kiên, vô ký, khả huân,
Tương ưng với năng huân.
Sở huân chẳng phải khác,
Đó là tướng huân tập.
Sáu thức không tương ưng,
Ba sai biệt khác nhau.
Hai niệm không câu hữu,
Đồng loại thành sai lầm.
Các chủng tử ngoài trong,
Có năng sinh , năng dẫn.
Như cây khô, người chết,
Thời gian sau mới diệt.
Để làm rõ chủng tử trong, chẳng phải như chủng tử ngoài, ở đây có 2 bài tụng như sau:
Ngoại, hoặc không huân tập,
Chẳng phải như nội chủng.
Đa văn huân tập không,
Sinh quả, là phi lý.
Làm: mất, không làm: được,
Do lỗi thành trái nhau.
Chủng tử ngoài, duyên trong,
Là do kia huân tập.
Giải thích: Như vậy là đã nói thức A-lại-da là chủng tử chân thật của tất cả pháp. Lại muốn hiển thị cái thể của chủng tử ấy nên nói 5 bài tụng này. Trong đây nói “ngoài” là hạt lúa, “trong” là thức A-lại-da. Nói “không hiểu rõ”, nghĩa là ngoại chủng tử là nghĩa vô ký. Nói “hai” nghĩa là thức A-lại-da đối với hai tính thiện và bất thiện, ghi nhận rất rõ ràng. Lại có nghĩa khác, nghĩa là rõ ràng đối với tạp nhiễm và thanh tịnh. Nói “là thế tục”, nghĩa là chủng tử ngoài là chỉ nói chủng tử theo thế tục. Sở dĩ vì sao, chúng cũng đều là thức A-lại-da biến hiện. Thắng nghĩa tức là thức A-lại-da. Sở dĩ vì sao, vì là chủng tử chân thật của tất cả pháp. Phải biết như vậy tất cả chủng tử lại có 6 nghĩa. Sát-na diệt, nghĩa là 2 chủng tử đều sinh không gián đoạn và diệt hoại. Sở dĩ vì sao, vì không nên lấy thường pháp làm thể của chủng tử. Thường thể thì tất cả mọi thời tính của nó vẫn như cũ không có gì khác biệt. Nói “câu hữu”, nghĩa là không phải quá khứ cũng không phải vị lai, cũng không phải tách rời mà là chủng tử được. Bởi vì sao? Nếu ở lúc này có chủng tử, thì khi ấy quả sinh. Nói “hằng tùy chuyển”, nghĩa là thức A-lại-da hằng tùy chuyển cho đến trị sinh ngoại pháp chủng tử, cho đến căn trụ hoặc đến thành thục. Nói “quyết định”, nghĩa là chủng tử này đều có quyết định riêng biệt, không theo tất cả tất cả được sinh, theo chủng tử vật ấy lại sinh vật ấy. Đợi các duyên, nghĩa là chủng tử này đợi các duyên của nó mới có thể sinh quả, không phải bất cứ lúc nào cũng có thể sinh tất cả. Nếu ở nơi này, lúc này, gặp duyên của chính nó, tức thì nơi này, lúc này quả của chính nó được sinh. Nói “Chỉ năng dẫn tự quả”, nghĩa là chủng tử của chính nó chỉ dẫn đến quả của chính nó. Như chủng tử của thức A-lại-da chỉ có thể dẫn sinh thức A-lại-da. Như hạt lúa chỉ có thể dẫn sinh quả của cây lúa v.v… Như vậy là đã rõ nghĩa chủng tử sinh quả. Nay lại nói rõ tướng khác nhau của sự huân tập. Kiên là bền chắc, có trụ vững mới huân tập được, không phải như gió động. Sở dĩ vì sao, tính của gió là động không thể giữ được. Như có một du-thiện-na huân khí. Các huân khí kia cũng không tùy chuyển. Còn dầu chiêmbác-ca có thể giữ mùi thơm đến trăm du-thiện-na. Các mùi thơm cũng có thể tùy chuyển. Nói “vô ký”, tức là không thể ghi nhận vì quá thơm hay hôi. Do đạo lý này mà tỏi không chịu sự xông ướp vì nó quá hôi. Như vậy những vật có mùi thơm cũng không chịu sự xông ướp vì nó quá thơm. Nếu vật gì không phải quá thơm hay quá hôi để có thể ghi nhận được thì vật ấy có thể chịu sự xông ướp. Nói “khả huân”, nghĩa là có chịu huân tập mới huân tập được, tức có chịu xông ướp mới xông ướp được, không phải là thứ không chịu xông ướp như vàng, đá v.v… Không chịu xông ướp gọi là không thể xông ướp. Nếu ở lúc này có thể chịu huân tập, tức lúc ấy gọi là có thể huân. Như vật có thể huân tương ưng với năng huân. Tương ưng với năng huân mới gọi là “khả huân”, không phải không tương ưng. Phải biết đó là nghĩa sinh liên tục không gián đoạn. Nói “sở huân” là thức A-lại-da đủ 4 đức trên, chịu huân tập nên gọi sở huân, chẳng phải chuyển thức v.v… Chẳng phải khác đây, nghĩa là nếu lìa thức A-lại-da này, các thức khác chẳng phải sở huân. Cho nên sở huân là thức này chẳng phải khác. “Đó là tướng huân tập.”, nghĩa là thức A-lại-da có sát-na diệt v.v…là tướng huân tập sát-na diệt nên cùng các chuyển thức đồng thời câu hữu, cho đến đối trị hằng tùy chuyển, hoặc tận cùng sinh tử hằng tùy chuyển. Định với thiện v.v… là nhân tính nên đợi phúc, phi phúc, bất động làm duyên, thuần thục trong thiện ác thú và dị loại, các nghĩa như vậy trong chuyển thức tất cả dị pháp đều được thành lập. Vì vậy chỉ thức A-lại-da này cùng với các thắng đức như vậy tương ưng có thể chịu huân tập. “Sáu thức không tương ưng”, nghĩa là vì các thức ấy có động chuyển. “Ba sai biệt khác nhau.”, nghĩa là các thức ấy có chỗ sở y khác nhau, chỗ sở duyên khác nhau, tác ý khác nhau. Lại có nghĩa khác vì mỗi hành tướng đều chuyển riêng khác. Thí dụ luận sư muốn khiến niệm trước huân tập niệm sau. Để ngăn chúng nên nói hai niệm không được câu hữu, không có 2 sát-na đồng thời câu hữu, vì trong huân tập là câu sinh câu diệt. Nếu bảo chủng loại thức này như vậy, tuy không tương ưng, nhưng đồng một loại thức cũng huân lẫn nhau được. Như vậy các thí dụ khác sẽ thành lỗi. Nghĩa là các chủng lại khác cũng phải như vậy. Vì nhãn căn v.v… đồng loại tịnh sắc cũng phải lần lượt huân lẫn nhau. Ý này nói nhãn nhĩ hai căn đồng có tịnh pháp. Hai tịnh lần lượt huân lẫn nhau, những cái khác cũng như vậy. Nhưng ông không chấp nhận tuy đồng tịnh pháp, khác tương tục nên không được huân lẫn nhau. Như vậy đã nói có 2 thứ chủng tử ngoại và nội. Phải biết cả hai đều có năng sinh năng dẫn. Trong đó ngoại chủng tử cho đến quả chín là nhân năng sinh. Nội chủng tử cho đến hết kỳ thọ mạng là nhân năng sinh. Ngoại chủng tử năng dẫn tương tục sau khi cây khô. Nội chủng tử năng dẫn thi hài sau khi chết. Do có dẫn nhân nên tiếp tục trụ trong nhiều thời gian. Nếu hai chủng tử chỉ có sinh nhân thì khi nhân này đã hoại quả cũng phải diệt, không tiếp tục trụ một thời gian ngắn. Nếu bảo sát-na lần lượt tương tục, niệm trước là nhân tùy chuyển của niệm sau, như vậy thì biên giới sau cùng sẽ không bao giờ dứt. Do đó quyết định phải có dẫn nhân. Hai chủng tử này ví như buông dây cung là nhân mũi tên bay xa không rớt.
Luận nói: Lại nữa những chuyển thức khác, phổ biến khắp tất cả tự thể trong các nẻo thú gọi là thức thụ dụng. Như trong Luận Trung Biên Phân Biệt, có bài tụng nói như sau:
Một là nhân duyên thức,
Hai là thụ dụng thức.
Trong đây năng thụ dụng,
Phân biệt với tâm hành.
Giải thích: Trong đây thụ dụng là nghĩa sinh khởi. Trong thụ dụng có tên thụ dụng giả. Để hiển thị nghĩa này nên dẫn Luận Trung Biên Phân Biệt là A-cấp-ma.
Luận nói: Như vậy hai thức lại làm duyên cho nhau, như trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, có bài tụng như sau:
Các pháp với tàng thức,
Như tàng thức với pháp.
Thường làm quả cho nhau,
Cũng làm nhân cho nhau.
Giải thích: Thức A-lại-da với tất cả pháp, trong mọi thời làm nhân quả cho nhau, lần lượt tương sinh. Nếu trong lúc này thức A-lại-da là nhân của các pháp , thì khi ấy các pháp là quả. Nếu trong lúc này thức A-lại-da là quả các pháp, thì khi ấy các pháp là nhân.
Luận nói: Nếu trong duyên khởi thứ nhất, 2 thức làm nhân duyên cho nhau, thì trong duyên khởi thứ hai, duyên gì là tăng thượng duyên? Như vậy thì 6 thức được bao nhiêu duyên sinh ra?
Do tăng thượng duyên, sở duyên duyên và đẳng vô gián duyên. Như vậy 3 thứ duyên khởi là tận cùng sinh tử, ái phi ái thú và năng thụ dụng có đủ cả 4 duyên.
Giải thích: Trong đây đệ nhất duyên khởi, nghĩa là trong thức A-lại-da có các tập khí cùng các pháp của nó làm nhân duyên cho nhau. Đệ nhị duyên khởi, nghĩa là vô minh v.v… làm tăng thượng duyên. Do vô minh v.v…tăng thượng thế lực nên hành v.v…sinh. Lại 6 chuyển thức là thụ dụng duyên khởi. Ba duyên sinh ra, nghĩa là nhãn thức lấy nhãn làm tăng thượng duyên, lấy sắc làm sở duyên duyên. Đẳng vô gián duyên, nghĩa là nó không gián đoạn thức này sinh khởi. Sở dĩ vì sao, nếu kia không có chỗ dung nạp thì đây không sinh. Các thức khác cũng vậy.
Luận nói: Như vậy là đã an lập các tướng và tự tướng sai biệt của thức A-lại-da. Nhưng làm sao biết là tự tướng sai biệt và tướng ấy quyết định chỉ ở thức A-lại-da mà không ở các chuyển thức?
Bởi vì nếu xa lìa cái thức A-lại-da đã được an lập thì tạp nhiễm và thanh tịnh không thành. Nghĩa là phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm, sinh tạp nhiễm đều không thành thì thế gian thanh tịnh, xuất thế gian thanh tịnh cũng không thành.
Giải thích: Như vậy là đã nói về thức A-lại-da an lập dị môn và an lập tướng. Nay sẽ nói rõ hai cái này chỉ ở trong thức A-lại-da mới đúng đạo lý, không phải ở chỗ khác. Lấy lý mà phán đoán quyết định.
Luận nói: Vì sao phiền não tạp nhiễm không thành?
Vì các phiền não và tùy phiền não do huân tập thành chủng tử, nếu nói ở trong 6 thức thân thì không hợp lý. Bởi vì sao? Nếu nói nhãn thức với tham v.v…phiền não và các tùy phiền não cùng sinh cùng diệt, thì chủng tử là do nhãn thức này và các phiền não tùy phiền não kia huân tập chứ không do gì khác. Vậy nếu nhãn thức này đã diệt rồi, các thức khác xen vào huân tập, thì chỗ sở y của huân tập không thể có được. Như vậy khi các thức khác xen vào thì thức trước hiện không có thật thể. Như vậy nói nhãn thức cùng với tham v.v… cùng sinh là không hợp lý. Bởi vì nhãn thức kia đã thuộc quá khứ, hiện tại không còn thật thể. Như nói cái nghiệp từ quá khứ, hiện không còn thật thể mà sinh quả dị thục là không hợp lý. Lại nữa nói nhãn thức với tham v.v…cùng sinh nên có huân tập cũng không đúng. Nhưng sự huân tập này không y nơi tham vì tham dục kia là năng y, không kiên trụ, cũng không thể nói trụ ở các thức khác vì các thức khác có sở y riêng biệt, và cũng không quyết định cùng sinh cùng diệt, cũng không thể trụ nơi tự thể được vì tự thể kia quyết định không có cùng sinh cùng diệt. Cho nên nói nhãn thức với tham v.v… các phiền não và tùy phiền não có sự huân tập là không hợp lý, mà thức này cũng không phải do thức khác huân tập. Nên biết rằng nhãn thức như vậy thì các chuyển thức khác cũng vậy.
Giải thích: Trong đây nói “này” tức nhãn thức này, nói “do kia huân” là do tham v.v… huân. Nói “thành chủng” nghĩa là thành nhân tính. Nói “không phải gì khác” là không phải nhĩ thức v.v… ”Các thức khác xen vào” là nhĩ v.v… các thức xen vào. “Như vậy huân tập” là tham v.v…huân tập. Huân tập sở y tức là nhãn thức.
Nhãn thức cùng với tham kia v.v…câu sinh v.v…nghĩa là từ quá khứ hiện vô thể nhân, nhãn thức cùng với tham kia v.v…câu sinh là không hợp lý. Như từ quá khứ hiện vô thể nghiệp, dị thục sinh quả không hợp lý thì như quả kia sinh không hợp lý, đây cũng vậy phải không hợp lý. Lại có các sư chấp cho kia là hữu thể, nghĩa là có luận sư khác muốn khiến quá khứ là thật hữu tính. Nhưng quá khứ năng thuyên sở thuyên không thể có được. Sở dĩ vì sao, nếu pháp là thật hữu sao gọi là quá khứ? Cho nên từ kia mà quả dị thục sinh là không hợp lý vì không huân tập. Lại nữa nhãn thức này, nghĩa là cùng với tham v.v… câu sinh nhãn thức. Có những huân tập cũng không thành tựu, nghĩa là huân tập kia còn không thành huống chi nhãn thức kia từ sau đó cùng tham câu sinh mà được sao? Nhưng huân tập này không trụ trong tham, nghĩa là nhãn thức huân tập trong tham dục là không đúng. Bởi vì sao? Do tham dục kia sựa vào nhãn thức nên không trụ vững. Cũng không trụ được trong các thức khác, nghĩa là huân tập này cũng không được ở trong nhĩ thức v.v… Bởi vì sao? Vì chỗ sở y của các thức kia riêng biệt. Do sở y riêng biệt nên không có quyết định. Câu sinh diệt, nghĩa là nhãn thức dựa vào nhãn, nhí thức dựa vào nhĩ. Như vậy cho đến ý thức dựa vào Mạtna. Vì chỗ sở y xa cho nên các huân tập đều huân tập tại các nơi ấy là không hợp lý. Và cũng không được trụ trong tự thể, nghĩa là nhãn thức này cũng không được huân tập nhãn thức, vì không có hai nhãn thức đồng thời khởi. Vì không có hai cho nên cho nên chắc chắn không có nghĩa câu sinh diệt. Do đạo lý này nên nhãn thức không bị tham v.v. các phiền não và tùy phiền não huân tập. Cũng chẳng phải nhãn thức huân tập nhãn thức.
Luận nói: Lại nữa, từ các cõi trên như trời Vô tưởng chết rồi sinh xuống cõi này, bấy giờ các phiền não và tùy phiền não nhiễm cái thức ban đầu, cái thức này lúc sinh đúng ra phải không có chủng tử, vì chỗ y chỉ và những gì thức kia được huân tập đã thành quá khứ, hiện tại không còn thật thể.
Giải thích: Nhiễm cái thức ban đầu, nghĩa là cái thức đầu tiên lúc mới sinh đến cõi này. Thức này khi mới sinh phải không có chủng tử, nghĩa là thức lúc mới sinh phải không có nhân sinh. Sở y chỉ là chỗ nương tựa. Huân tập kia là phiền não huân tập.
Luận nói: Lại nữa, cái thức đối trị phiền não nếu đã sinh thì tất cả các thức thế gian đều diệt. Bấy giờ nếu tách rời thức A-lại-da mà nói các chủng tử phiền não và tùy phiền não ở trong thức đối trị là không hợp lý, vì tự tính của thức đối trị là giải thoát, nó không cùng sinh diệt với các phiền não và tùy phiền não. Rồi sau đó cái thức thế gian sinh ra lại. Bấy giờ nếu tách rời thức A-lại da thì các thức huân tập và chỗ y chỉ đã thành quá khứ từ lâu, hiện không còn thật thể thì cái thức thế gian được sinh lại phải không có chủng tử. Vì vậy cho nên nếu tách rời thức A-lại-da thì mọi phiền não tạp nhiễm đều không thành.
Giải thích: Thức đối trị phiền não nếu đã sinh thì tất cả thức thế gian khác đã diệt, nghĩa là 6 thức đã diệt mà các chủng tử phiền não, tùy phiền não ở trong thức đối trị này là không hợp lý. Nghĩa là thức đối trị không phải là nhân sinh khởi của thức thế gian sau này. Lại nữa hậu thời, nghĩa là từ cái tâm xuất thế về sau. Huân tập kia, nghĩa là huân tập của các phiền não và tùy phiền não. Và sở y, nghĩa là thức sở y. Phải không chủng tử mà lại được sinh, nghĩa là nếu không có thức A-lại-da thì phải là không có nhân mà lại được sinh. Trong đây phiền não tức là tạp nhiễm, cho nên gọi là phiền não tạp nhiễm. Do lý lẽ trên, phiền não tạp nhiễm đều không thành.
Luận nói: Vì sao nghiệp tạp nhiễm không thành?
Vì hành không tương ưng duyên với thức. Nếu không có đây thì thủ duyên hữu cũng không tương ưng.
Giải thích: Vì biện luận về nhân duyên không thành nghiệp tạp nhiễm nên hỏi tiếp là vì sao nghiệp tạp nhiễm không thành. Vì nghiệp là duyên thức không tương ưng, nghĩa là phúc, phi phúc và bất động hành sinh đã tàn tạ diệt mất rồi. Nếu không tin có thức A-lại-da thì an lập huân tập ở chỗ nào? Như 6 thức thân không thể duy trì huân tập, điều này đã nói rõ về phiền não tạp nhiễm. Nói “nếu không có đây” nghĩa là nếu không có hành là duyên thức. Thủ là duyên hữu cũng không tương ưng, nghĩa là cũng không có thủ duyên hữu. Đây lại duyên gì, nghĩa là trước các hành huân tập thức do sức của thủ, huân tập tăng trưởng thành hữu. Trong đó tức nghiệp là tính tạp nhiễm gọi là nghiệp tạp nhiễm hoặc dựa vào nghiệp mà có tạp nhiễm gọi là nghiệp tạp nhiễm. Nếu không tin có thức A-lại-da thì nghiệp tạp nhiễm này cũng không thành.