NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 10
11 – Quả trí tiếp
Luận nói: Lại nữa pháp thân chư Phật rất sâu xa, cực kỳ sâu xa. Làm sao thấy được sự sâu xa ấy? Ở đây có các bài tụng như sau:
Giải thích: Trong Đại thừa, pháp thân chư Phật như tướng rất sâu xa, nay sẽ hiển thị bằng 12 bài tụng nói 12 tướng rất sâu xa.
Luận nói:
Phật không sinh mà sinh,
Cũng không trụ mà trụ.
Việc làm không dụng công,
Thụ thực: pháp thứ tư.
Giải thích: Bài tụng thứ nhất hiển thị sinh trụ nghiệp trụ rất sâu xa. Phật không sinh là sinh, hiển thị sinh là rất sâu. Bởi chư Như Lai không có nghiệp phiền não như các phàm phu đã tạo tác sự sinh, nên gọi là không sinh. Nhưng có cái sinh cùng với cái sinh này khác nhau, tướng ấy khó hiểu, gọi là sinh rất sâu. Cũng không trụ là trụ, hiển thị trụ rất sâu. Lấy không trụ Niết-bàn làm trụ xứ. Như vậy Niết-bàn là trụ rất sâu. Các việc không dụng công, hiển thị nghiệp rất sâu. Bởi nghiệp của chư Như Lai không dụng công. Tất cả bình đẳng nên gọi là nghiệp rất sâu. Việc ăn uống là pháp thứ tư, hiển thị trụ rất sâu. Bởi Phật thụ thực là trụ y chỉ không thanh tịnh. Cho nên trong 4 cách ăn là cách thứ tư. Bốn cách ăn là: Một là việc ăn uống trụ ở nơi y chỉ không thanh tịnh. Nghĩa là đoàn thực v.v…4 cách ăn uống khiến cái dục trói buộc hữu tình dựa vào không thanh tịnh mà được tồn tại. Hai là việc ăn uống trụ ở nơi thanh tịnh, không thanh tịnh, tức là chạm xúc v.v… 3 cách ăn uống khiến sắc, vô sắc trói buộc hữu tình dựa vào tịnh, bất tịnh mà được tồn tại. Do chỗ y chỉ này đã lìa các phiền não ở địa dưới nên nói là tịnh, chưa lìa các phiền não ở địa trên nên nói là bất tịnh. Cho nên nói y chỉ tịnh, bất tịnh. Như vậy y chỉ do xúc, ý tư, thức thực mà tồn tại, trừ đoàn thực. Ba là việc ăn uống hoàn toàn dựa vào thanh tịnh, nghĩa là đoàn thực v.v…4 cách ăn uống khiến Thanh Văn v.v… dựa vào thanh tịnh mà được tồn tại. Bốn là chỉ thị hiện việc ăn uống. Nghĩa là cách ăn thứ tư chư Phật thị hiện thụ thực mà tồn tại. Vì vậy cho nên chư Phật thụ thực là cách thứ tư thị hiện trụ thực, để khiến có thể thí cho các loài hữu tình sự tịnh tín, làm nhân tăng trưởng phúc đức. Tuy thị hiện thụ thực mà không làm việc ăn uống. Khi Như Lai thụ thực, chư thiên nhận lấy thi hành ý chỉ của Phật ban cho các hữu tình. Do nhân này, các loài hữu tình ấy mau chứng Bồ-đề. Như vậy tất cả nói chung là một việc rất sâu. Lại nữa cũng do 10 nhân biết tướng sinh là không sinh của chư Phật. Một là cùng ngu si không đồng pháp. Hai là cùng sai biệt không đồng pháp. Ba là tiếp thụ được tự tại. Bốn là trụ trì được tự tại. Năm là lìa bỏ được tự tại. Sáu là không hai tướng. Bảy là chỉ tựa như bóng sáng. Tám là giống như ảo hóa. Chín là trụ vô trụ. Mười là thành tựu việc lớn. Lại cũng do 10 nhân biết Như Lai không trụ sinh tử và Niết-bàn. Một là chẳng phải biến tri. Hai là chẳng phải vĩnh đoạn. Ba là chẳng pjải tu tập. Bốn là biết tính phi hữu. Năm là vô sở đắc, vô phân biệt. Sáu là tâm xa lìa. Bảy là tâm chứng đắc. Tám là tâm bình đẳng. Chín là sự không thể được. Mười là có thể chứng đắc. Lại nữa cũng do 10 nhân biết chư Phật không dụng công mà việc được thành tựu. Một là khéo đoạn lìa. Hai là không sở y. Ba là chỗ làm không dụng công. Bốn là người làm không dụng công. Năm là nghiệp làm ra không dụng công. Sáu là không có sở hữu, không dụng công. Bảy là xưa nay không sai biệt. Tám là chỗ làm đã xong. Chín là chỗ làm chưa xong. Mười là thuần thục tu tập được tự tại trong tất cả pháp. Lại cũng do 10 nhân biết chư Phật thật không thụ thực mà thị hiện thụ thực. Một là thị hiện lấy việc ăn uống duy trì thân mạng. Hai là khiến các hữu tình phúc tăng trưởng. Ba là muốn thị hiện có đồng pháp. Bốn là muốn khiến người theo học thụ dụng đúng. Năm là muốn khiến người theo học có hạnh liêm khiết cần kiệm. Sáu là khiến phát khởi hạnh tinh tiến. Bảy là khiến thành thục các căn. Tám là hiển thị tự thân không nhiễm trước. Chín là cung kính giúp đỡ tự nhiên. Mười là muốn viên mãn bản nguyện.
Luận nói:
Không khác, và vô lượng,
Vô số lượng một nghiệp.
Nghiệp chắc, nghiệp không chắc,
Chư Phật đủ ba thân.
Giải thích: Tụng này hiển thị sự thiết lập các nghiệp rất sâu. Không khác, cũng vô lượng, hiển thị sự an lập rất sâu. Pháp thân chư Phật không sai biệt nên nói không khác. Vô lượng y chỉ hiện đẳng giác nên nói vô lượng. Vô số lượng một nghiệp, hiển thị số rất sâu. Phật tuy vô lượng mà đồng một nghiệp, cho nên rất sâu. Nghiệp chắc, nghiệp không chắc, chư Phật đủ 3 thân, nghĩa là chư Như Lai 3 thân tương ưng. Thụ dụng thân thì sự nghiệp kiên trụ. Biến hóa thân thì nghiệp không kiên trụ. Sự nghiệp như vậy gọi là rất sâu.
Luận nói:
Hiện đẳng giác phi hữu,
Tất cả giác phi vô.
Mỗi một niệm vô lượng,
Hiển hiện hữu phi hữu.
Giải thích: Tụng này hiển thị đẳng giác rất sâu. Hiện đẳng giác phi hữu, là pháp Bổ-đặc-già-la là phi hữu. Tất cả giác phi vô, là do lý giả danh nói tất cả Phật hiện đẳng giác. Làm sao biết Phật hiện đẳng chính giác? Là mỗi niệm mỗi niệm có vô lượng Phật, đây hiển thị trong mỗi niệm mỗi niệm có vô lượng Phật hiện đẳng chính giác. Hiển hiện hữu phi hữu, là hiển thị chân như là hữu phi hữu. Chư Phật là hiển thị chân như này.
Luận nói:
Chẳng nhiễm, chẳng lìa nhiễm,
Do dục được xuất ly.
Biết dục là không dục,
Ngộ nhập dục pháp tính.
Giải thích: Bài tụng này hiển thị lìa dục rất sâu. Chẳng nhiễm chẳng lìa nhiễm, là tham dục là không, cho nên gọi là chẳng nhiễm. Bởi không nhiễm nên lìa nhiễm cũng không. Sở dĩ vì sao? Tham nhiễm nếu có thì có thể có lìa nhiễm. Nhiễm đã không có, nên không lìa nhiễm. Do dục được xuất ly, là do đè bẹp đoạn dứt tham triền lưu, tham tùy miên nên được cứu cánh xuất ly. Nếu không lưu, tùy miên thì đồng với Thanh Văn v.v… nhập Bát-niết-bàn. Biết dục là không dục, ngộ nhập pháp tính của dục. Hiểu rõ biến kế sở chấp, tham dục, tính không tham dục, tức có thể ngộ nhập chân như của dục pháp.
Luận nói:
Chư Phật vượt năm uẩn,
Mà an trụ trong uẩn.
Với uẩn chẳng một, khác,
Không xả mà tịch diệt.
Giải thích: Tụng này hiển thị về đoạn uẩn rất sâu. Chư Phật quá các uẩn mà an trụ trong uẩn, nghĩa là chư Như Lai siêu quá sắc v.v…4 thứ thủ uẩn trụ trong tính pháp vô sở đắc của uẩn. Với kia chẳng một, khác, là tuy đã xả bỏ các uẩn biến kế sở chấp mà với chúng chẳng phải khác. Bởi an trụ ngay trong pháp tính của chúng nên cũng chẳng phải một. Nếu là một thì biến kế sở chấp phải đồng với pháp tính thành cảnh thanh tịnh. Không bỏ mà rất vắng lặng, nghĩa là không xả bỏ viên thành thật uẩn, tức là khéo hoàn thiện thể Niết-bàn.
Luận nói:
Chư Phật sự tương hòa,
Như nước trong biển lớn.
Ta đã đang sẽ làm,
Không nghĩ là lợi tha.
Giải thích: Tụng này hiển thị thành thục rất sâu. Chư Phật sự tương hòa, nghĩa là tất cả sự nghiệp thành thục hữu tình của chư Như Lai thảy đều bình đẳng. Ví dụ như thế nào? Như nước trong biển lớn, là ví như biển lớn nước các dòng sông đều chảy vào làm chỗ thụ dụng cho các loài cá tôm. Chư Phật cũng vậy, đồng nhập pháp giới làm các sự nghiệp hòa hợp không hai, đều vì thành thục sự thụ dụng cho hữu tình. Ta đã đang sẽ làm, nghĩa là trong 3 thời tùy một thời mà làm. Không nghĩa là lợi tha, là không nghĩ rằng ta đã, đang hay sẽ làm việc lợi ích cho người khác. Nhưng không dụng công mà có thể làm tất cả việc lợi ích an lạc hữu tình. Ví như ngọc Mạt-ni, nhạc trời ở thế gian.
Luận nói:
Có tội thì không thấy,
Như bình vỡ không trăng.
Phổ biến khắp thế gian,
Pháp sáng như mặt trời.
Giải thích: Tụng này hiển thị hiển hiện rất sâu. Nếu các thế gian không thấy chư Phật mà nói chư Phật thân thường trụ, Phật thân đã thường vì sao không thấy? Chúng sinh có tội nên không hiện như mặt trăng không hiện trong cái bình vỡ. Bình vỡ không chứa được nước, không có nước thì mặt trăng không hiện ra. Trong thân hữu tình không có nước Xa-ma-tha thì mặt trăng Phật không hiện. Nước dụ cho đẳng trì, thể trong nhuận nên biến khắp các thế gian. Do ánh sáng pháp như mặt trời, nghĩa là nay thế gian tuy không thấy Phật hiện, nhưng biến khắp làm các Phật sự. Do khế kinh, kệ tụng v.v… các pháp ví như ánh sáng mặt trời biến khắp thế gian làm các Phật sự thành thục hữu tình.
Luận nói:
Hoặc hiện Đẳng chính giác,
Hoặc Niết-bàn như lửa.
Đây chưa từng chẳng có,
Vì Phật thân thường trú.
Giải thích: Tụng này hiển thị việc thị hiện Đẳng chính giác Niết-bàn là rất sâu. Hoặc hiện Đẳng chính giác, hoặc Niết-bàn như lửa, nghĩa là chư Như Lai hoặc hiện thành Phật, hoặc hiện Niết-bàn, việc ấy như lửa có lúc thiêu đốt, có lúc diệt tắt. Chư Phật cũng vậy, hoặc đối với các loại hữu tình chưa thuần thục thì hiện Bát-niết-bàn, hoặc đối với các loại hữu tình đã thuần thục thì hiện thành Phật quả, vì muốn khiến chúng được giải thoát. Ví như một ngọn lửa tính không sai biệt. Pháp thân cũng vậy phải biết là chỉ có một. Còn nửa tụng văn nghĩa dễ hiểu.
Luận nói:
Như Lai đối việc ác,
Trong cõi người, nẻo ác,
Các pháp phi phạm hạnh,
Trụ tự thể tối thắng.
Giải thích: Tụng này hiển thị trụ rất sâu. Phật đối với pháp phi Thánh, trong cõi người, nẻo ác, trong pháp phi Phạm hạnh, trụ tự thể tối thắng. Tối thắng trụ do Thánh trụ v.v… mà an trụ. Trong đây Thánh trụ, nghĩa là trụ không v.v… Thiên trụ, nghĩa là trụ các tĩnh lự. Phạm trụ, nghĩa là từ v.v… vô lượng trụ. Pháp phi Thánh, nghĩa là pháp bất thiện. Trong đó Phật trụ nơi không trụ v.v… Do đó không v.v…là nơi Thánh trụ, nên gọi là Thánh trụ. Cõi người và nẻo ác, nghĩa là duyên nơi đó hữu tình trụ. Các tĩnh lự sở trụ, gọi là Thiên trụ. Pháp phi Phạm hạnh, nghĩa là nơi pháp ấy trụ từ bi v.v… 4 thứ Phạm trụ. Trụ tự thể tối thắng, nghĩa là do tự thể tối thắng như vậy trụ tối thắng trụ. Đây hiển thị chư Phật trong các trụ an trụ nơi tự thể tối thắng.
Luận nói:
Phật biến hành khắp nơi,
Cũng không đến nơi nào.
Trong tất cả, hiện thân,
Chẳng phải tướng sáu căn.
Giải thích: Tụng này hiển thị tự thể rất sâu. Phật biến hành khắp nơi, cũng không đến một nơi nào, nghĩa là trí hậu đắc trong thiện, bất thiện và vô ký phân biệt mà chuyển. Trí vô phân biệt thì không đi đến một nơi nào. Nghĩa thứ hai, là biến hóa thân thì biến hành khắp nơi, còn hai thân kia thì không đi đến một nơi nào. Hiện thân ở khắp nơi, tức biến hóa thân biến khắp mọi nơi đều có thể thấy. Chẳng phải tướng 6 căn đi, tức biến hóa thân vì muốn hóa độ chúng Na-lạc-ca v.v… hiện sinh nơi ấy. Khi thụ sinh Na-lạc-ca v.v…hữu tình thấy hóa thân không thấy được như thật, không thể biết là hóa thân, chỉ gọi đó là Na-lạc-ca v.v… Cho nên hóa thân chắc chắn không phải tướng 6 căn của Na-lạc-ca v.v… Luận nói:
Phiền não dẹp không diệt,
Như bị chú độc hại.
Lưu hoặc đến hoặc tận,
Chứng Phật nhất thiết trí.
Giải thích: Tụng này hiển thị đoạn phiền não rất sâu. Phiền não dẹp không diệt như bị chú độc hại, là trong địa vị Bồ-tát dẹp trừ sự trói buộc của phiền não, chưa diệt phiền não vì có tùy miên. Ví như sức các chú độc làm hại, thể tuy tồn tại mà không bị hại. Phiền não cũng vậy, vì trí hiểu biết nên thể tuy tồn tại mà không bị hại. Lưu hoặc cho đến hoặc tận, là bởi lưu tùy miên các phiền não nên không như Thanh Văn mau Bát-niết-bàn được cứu cánh hết các phiền não. Chứng nhất thiết trí của Phật, là khi phiền não hết, chứng được nhất thiết trí.
Luận nói:
Phiền não thành giác phần,
Sinh tử là Niết-bàn.
Đủ các phương tiện lớn,
Chư Phật bất tư nghị.
Giải thích: Tụng này hiển thị sự không thể nghĩ bàn rất sâu. Nghĩa là các Bồ-tát đủ phương tiện lớn, phiền não tập đế chuyển thành giác phần, sinh tử khổ đế tức là Niết-bàn. Tất cả Thánh giáo của Phật như trước đã nói như vậy. Vì 3 nhân duyên nên không thể nghĩ bàn, vì tự nội chứng.
Luận nói: Nên biết như đã nói, có 12 thứ rất sâu, tức là sự sâu xa về sinh trụ, nghiệp trụ, về an lập số nghiệp, về đẳng giác, về ly dục, về đoạn uẩn, về thành thục, về hiển hiện, về thị hiện đẳng giác Niết-bàn, về trụ, về hiển thị tự thể, về đoạn phiền não, về bất khả tư nghị.
Giải thích: Mười hai thứ này đều khó hiểu nên gọi là rất sâu. Mỗi mỗi có tướng riêng như trước đã nói.
Luận nói:
Nếu các Bồ-tát nghĩ nhớ pháp thân Phật thì có bao nhiêu sự tu niệm nghĩ nhớ?
Lược nói sự nghĩ nhớ pháp thân Phật có 7 điều phải nghĩ nhớ. Một là phải nghĩ nhớ rằng chư Phật hoàn toàn tự tại đối với tất cả các pháp, vì được thần thông vô ngại trong tất cả thế giới. Ở đây có bài tụng như sau:
Khắp các cõi hữu tình,
Đủ chướng mà thiếu nhân,
Hai thứ quyết định chuyển,
Chư Phật không tự tại.
Hai là phải nghĩ nhớ rằng thân Như Lai thường trú, vì chân thân không gián đoạn giải thoát cấu uế. Ba là phải nghĩ nhớ rằng Như lai là tối thắng, không tội lỗi, vì đều đã lìa khỏi mọi trói buộc của tất cả chướng phiền não và sở tri. Bốn là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai không dụng công, vì không có dụng công mà làm tất cả Phật sự không thôi nghỉ. Năm là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai thụ dụng rất phong phú an lạc, vì cõi Phật thanh tịnh phong phú an lạc. Sáu là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai lìa các nhiễm ô, vì sinh trong thế gian không bị các pháp thế gian ô nhiễm. Bảy là phải nghĩ nhớ rằng Như Lai có thể hoàn thành việc lớn, vì thị hiện chứng đẳng chính giác, Niết-bàn v.v…tất cả chúng sinh chưa thành thục thì khiến thành thục, đã thành thục thì khiến được giải thoát. Ở đây có 2 bài tụng như sau:
Viên mãn thuộc tự tâm,
Thanh tịnh và thường trú,
Không dụng công mà thí
Pháp lạc cho hữu tình.
Trải khắp không dừng trụ,
Bình đẳng lợi nhiều đời,
Người trí nên nghĩ nhớ,
Pháp thân Phật như vậy.
Giải thích: Nay sẽ nói rõ nếu các Bồ-tát nghĩ nhớ pháp thân Phật thì phải do 7 thứ nghĩ nhớ mà tu niệm. Trong tất cả pháp được tự tại chuyển, là do được thần thông trong tất cả pháp được tự tại mà chuyển. Bởi chư Như Lai trong tất cả thế giới được thần thông vô ngại, không phải còn chướng ngại như Thanh Văn v.v… Nếu chư Như Lai trong tất cả pháp được tự tại mà chuyển, vì sao tất cả loại hữu tình không được Niết-bàn? Vì vậy nay một tụng nói rõ do nhân này các loài hữu tình không thể chứng đắc cứu cánh Niết-bàn. Giới hữu tình biến khắp, đủ chướng mà thiếu nhân, nghĩa là các hữu tình có nghiệp v.v… các chướng nên gọi là đủ chướng. Do đủ các chướng nên tuy vô lượng Phật xuất hiện thế gian mà không thể khiến chúng được Bát-niết-bàn. Chư Phật không có tự tại đối với chúng. Các hữu tình không có pháp Niết-bàn thì gọi là thiếu nhân. Do ý này gọi chúng là không nhân Niết-bàn, không chủng tính, nên chư Phật đối với chúng không có tự tại. Hai thứ quyết định chuyển, là quyết định có 2 thứ: một là tác nghiệp quyết định, hai là thụ dị thục quyết định. Phải biết trong đây nói quyết định, nghĩa là chư Phật trong 2 quyết định này không có tự tại. Các thân ngoan ngu, gọi là dị thục chướng quyết định. Sẽ đọa Na-lạc-ca v.v…, gọi là thụ dị thục quyết định. Phải biết rằng thân Như Lai thường trú trong hai thứ sai biệt này. Chân như không gián đoạn giải thoát cấu uế, nghĩa là lý chân như không gián đoạn giải thoát tất cả chướng cấu hiển thành pháp thân. Cho nên thân Như Lai thường trú. Như lai thụ đại phú lạc, là cõi Phật thanh tịnh của Như Lai gọi là đại phú lạc. Như Lai có thể thành việc lớn, nghĩa là Như Lai hiện Đẳng chính giác, Bát-niết-bàn v.v… hoàn thành nghĩa lợi lớn, người đã thành thục khiến được giải thoát. Người chưa thành thục khiến được thành thục. Ngoài ra như tu niệm Phật v.v… nghĩa dễ hiểu.
Lại nữa dùng 2 tụng giải thích 7 thứ niệm Phật. Trong tụng này nói rõ chư Phật có 7 thứ viên mãn khiến tu niệm Phật. Nghĩa là các Bồ-tát đầu tiên niệm Như Lai tùy thuộc tự tâm viên mãn. Tiếp niệm thân Như Lai thường trú viên mãn. Tiếp niệm Như Lại đầy đủ thanh tịnh thiện viên mãn. Tức là tối thắng không tội lỗi. Tiếp niệm Như Lai vô công dụng viên mãn. Nghĩa là làm Phật sự không dụng công. Tiếp niệm Như Lai thí đại pháp lạc viên mãn. Nên biết đó là thụ đại pháp lạc ở cõi Phật thanh tịnh. Tiếp niêm Như Lai lìa các nhiễm ô viên mãn. Tức là biến hành, không chỗ y chỉ. Nếu có sở y mà biến hành tức có khổ nạn. Do không sở y mà biến hành nên Phật thường không khổ, lìa nhiễm biến hành. Sau niệm Như Lai bình đẳng đa lợi viên mãn. Tức là niệm Phật có thể thành được việc lớn, vì thành thục giải thoát các hữu tình.
Luận nói: Lại nữa, tướng cõi Phật thanh tịnh của chư Phật như thế nào?
Nên biết như Phẩm tựa của Bồ-tát Tạng Bách Thiên Khế Kinh có nói như sau:
Phật Thế Tôn ở cung điện 7 báu trang nghiêm rực rỡ sáng chói khắp nơi, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên thế giới , vô lượng cõi trang sức vi diệu, chu vi rộng lớn không ước lượng đến đâu là biên giới, vượt quá ba cõi nơi được tạo thành bởi thiện căn xuất thế gian, thanh tịnh tự tại cùng cực của duy thức làm tướng. Đó là nơi Như Lai đặt làm trụ xứ cho chúng Đại Bồ-tát vân tập. Là nơi có vô lượng rồng trời, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, người, phi nhân v.v…tùy tùng, hành trì hỷ lạc đại pháp vị. Là nơi tạo tất cả nghĩa lợi cho chúng sinh, nơi dẹp trừ tất cả phiền não tai ương, nơi trang nghiêm xa lìa các ma, nơi sở y trang nghiêm của Như Lai, nơi lấy đại niệm tuệ hạnh làm đường đi, lấy đại chỉ quán làm thừa giáo, lấy đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát làm cửa vào, nơi được trang nghiêm bằng vô lượng công đức nhóm hợp, nơi do Đại Bảo Hoa vương thiết lập. Trong cung điện lớn Thế Tôn thị hiện cõi Phật thanh tịnh, hiển sắc viên mãn, hình sắc viên mãn, phân lượng viên mãn, phương hướng viên mãn, nhân viên mãn, quả viên mãn, chủ viên mãn, phụ tá viên mãn, quyến thuộc viên mãn, trụ trì viên mãn, sự nghiệp viên mãn, nhiếp ích viên mãn, vô úy viên mãn, trụ xứ viên mãn, đường sá viên mãn, phương tiện di chuyển viên mãn, cửa vào viên mãn, y cứ gìn giữ viên mãn.
Lại nữa sự thụ dụng cõi Phật thanh tịnh như thế, hoàn toàn thanh tịnh vi diệu, hoàn toàn an vui, hoàn toàn không tội lỗi, hoàn toàn tự tại.
Giải thích: Như trong Phẩm tựa Kinh Bồ-tát Tạng Bách Thiên Tụng nói về cõi Phật thanh tịnh. Cõi Phật thanh tịnh này hiển thị những công đức thù thắng gì? Nghĩa là 2 câu đầu hiển thị cõi Phật thanh tịnh, hiển thị sắc viên mãn. Nói 7 báu là một vàng, hai bạc, ba lưu ly, bốn Mâu-ta-lạc, năm Át-thấp-ma-yết-bà, nêu lên các thứ này tức biết các thứ báu như Mạt-la-yết-đa v.v…, sáu chân châu đỏ, chân châu đỏ này sản sinh từ một loài vật, vượt trội hơn tất cả báu khác, bảy Yết-kê-đát-nặc-ca. Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên thế giới, nghĩa là trước nói các bảy báu phát ra ánh sáng lớn. Hai câu trên này đều đồng hiển thị sắc viên mãn. Tiếp theo có một câu hiển thị hình sắc viên mãn. Tiếp đến có một câu hiển thị phần lượng viên mãn. Tiếp đến có một câu hiển thị phương sở viên mãn. Tiếp đến có một câu hiển thị nhân viên mãn. Đây là nhân gì? Là trí vô phân biệt và trí hậu đắc xuất thế gian. Trí hậu đắc này gọi là thắng. Trí này được sau nên từ đó sinh khởi 2 thứ thiện căn, tức thiện căn này gọi là nhân viên mãn. Tiếp đến có một câu hiển thị quả viên mãn. Nghĩa là cõi Phật thanh tịnh lấy tịnh thức tự tại cùng cực làm tướng. Tiếp đến có một câu hiển thị phụ dực viên mãn. Tiếp đến có một câu hiển thị quyến thuộc viên mãn. Trước đã nêu lên loài rồng, nay nêu lên loài Mạc-hô-lạc-già để thống trị loài trăn lớn. Tiếp đến có một câu hiển thị nhiệm trì viên mãn. Tức là việc ăn uống. Tiếp đến có một câu hiển thị sự nghiệp viên mãn. Nghĩa là thụ dụng thức ăn này để làm tất cả việc nghĩa lợi cho các chúng sinh. Tiếp đến có một câu hiển thị nhiếp ích viên mãn. Vì trong cõi tịnh độ lìa các phiền não, không có các khổ. Tiếp đến có một câu hiển thị vô úy viên mãn. Nếu ở đâu không có oán thì không có sợ hãi. Oán là 4 thứ ma. Trong cõi tịnh độ này đều không có các phiền não ma, uẩn ma, tử ma cho đến Thiên ma, cho nên không sợ hãi. Tiếp đến có một câu hiển thị nơi ở viên mãn. Tiếp đến có một câu hiển thị đường sá viên mãn. Do con đường nào vào cõi Phật thanh tịnh này? Đó là con đường văn tư tu tuệ trong Đại thừa và tuần tự là thực hành Đại niệm tuệ làm đường đi vào. Tiếp đến có một câu hiển thị cỗ xe viên mãn. Đó là cỗ xe Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na mà đi đến. Tiếp đến có một câu hiển thị cửa ngõ viên mãn. Nghĩa là cõi tịnh độ này do cửa ngõ nào vào? Đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát là cửa ngõ vào. Tiếp đến có một câu hiển thị y trì viên mãn. Như đại địa dựa vào phong luân mà trụ. Cõi Phật thanh tịnh này được cái gì duy trì. Được trang nghiêm các công đức vô lượng, được xây dựng bằng hoa sen đỏ lớn, mọi thụ dụng nơi cõi Phật thanh tịnh này hoàn toàn thanh tịnh vi diệu. Nghĩa là trong cõi tịnh độ không có vật bất tịnh ô uế. Hoàn toàn an lạc, nghĩa là trong cõi tịnh độ chỉ có lạc thụ, không có khổ thụ hay vô ký thụ. Hoàn toàn không có tội lỗi, nghĩa là trong cõi tịnh độ không có pháp bất thiện, cũng không có vô ký. Hoàn toàn tự tại, nghĩa là trong cõi tịnh độ không dợi ngoại duyên, mọi sự đều tùy tự tâm mong muốn.
Luận nói: Lại nữa nên biết pháp giới chư Phật như vậy, trong mọi thời thường làm 5 sự nghiệp:
Một là cứu vớt tất cả tai họa cho chúng sinh làm sự nghiệp. Chỉ trông thấy được là có thể cứu các tai họa như mù lòa, câm điếc, điên dại v.v…
Hai là cứu vớt đường dữ làm sự nghiệp. Cứu vớt các hữu tình ra khỏi chỗ hung dữ đưa đến nơi an lành.
Ba là cứu vớt những hành vi phi phương tiện làm sự nghiệp. Khiến các ngoại đạo bỏ phương tiện phi pháp, cầu hạnh giải thoát, đặt họ vào trong thánh giáo của Như Lai.
Bốn cứu vớt các Tát-ca-da làm sự nghiệp. Trao cho phương tiện đạo siêu thoát ba cõi.
Năm là cứu vớt bằng thừa giáo làm sự nghiệp. Nghĩa là như Bồ-tát có ý muốn nghiêng về một thừa khác, hay Thanh Văn chưa quyết định chủng tính, thì an lập họ vào con đường tu hạnh Đại thừa. Phải biết đối với 5 sự nghiệp này, nghiệp dụng của chư Phật đều bình đẳng. Ở đây có bài tụng như sau:
Nhân, y, sự, tính, hành,
Khác nhau nên nghiệp khác.
Thế gian thì có khác,
Chư Phật thì bình đẳng.
Giải thích: Phải biết pháp giới chư Phật trong tất cả mọi thời gian có thể làm 5 sự nghiệp, nghĩa là pháp thân Phật hằng làm 5 sự nghiệp. Cứu giúp tai họa tất cả hữu tình làm sự nghiệp v.v…, nghĩa là mù lòa câm điếc v.v… chỉ thấy Phật liền được sáng mắt v.v… Cứu giúp nẻo ác làm nghiệp v.v…, nghĩa là cứu vớt nơi ác đem về nơi thiện, gọi là cứu nẻo ác. Cứu vớt các Tát-ca-da làm sự nghiệp, nghĩa là vì thế gian nói có thể siêu xuất Thánh đạo 3 cõi. Tức nói 3 cõi là Tát-ca-da. Còn nghĩa 2 câu có thể hiểu. Năm sự nghiệp này là sự nghiệp bình đẳng của chư Phật. Trong nghĩa này, lại nói một bài tụng là nhân, y v.v… Do nhân duyên đó, tất cả Như Lai sự nghiệp bình đẳng. Tất cả thế gian nghiệp không bình đẳng. Dùng một Giàtha tổng lược hiển thị các nhân sai biệt của thế gian. Cho nên nghiệp khác nhau, nghĩa là thế gian do nhân khác mà sinh Na-lạc-ca, do nhân khác mà sinh cõi trời, do nhân khác sinh làm người cho đến ngạ quỷ. Do nhân khác nên nghiệp có khác. Thế gian y chỉ khác nên nghiệp khác, tức y chỉ là thân thể. Do y chỉ khác nên nghiệp có khác.
Thế gian sự khác nên nghiệp khác, nghĩa là các nghề nghiệp khác biệt của thế gian như làm thương mại hay kinh doanh nông nghiệp. Các sự vụ khác nhau nên nghiệp có khác. Thế gian tính khác nhau nên nghiệp khác nhau, nghĩa là tính là ý thú, ý thú khác nên nghiệp có khác. Thế gian hành động ra làm khác cho nên nghiệp khác, tức là do hành nghiệp có khác nhau nên nghiệp có khác. Tác nghiệp của chư Phật đều không dụng công, tất cả nhân bình đẳng không có sức sai khác. Vì vậy đạo sư không có nghiệp khác.
Luận nói: Nếu công đức này viên mãn tương ưng, pháp thân chư Phật không chung với Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, vậy vì ý gì Phật nói Nhất thừa? Ở đây có 2 bài tụng như sau:
Để dẫn dắt một loại,
Và giữ gìn số khác,
Do chủng tính bất định,
Nên Phật nói Nhất thừa.
Pháp, vô ngã, giải thoát,
Đồng đẳng, tính không đồng,
Đắc, 2 ý lạc, hóa,
Cứu cánh nói Nhất thừa.
Giải thích: Trong đây 2 bài tụng nói về ý thú Phật nói Nhất thừa. Để dẫn dắt một loại, nghĩa là dẫn dắt các Thanh Văn có chủng tinh bất định v.v… khiến hướng đến Đại thừa. Làm sao khiến các Thanh Văn có chủng tính bất định v.v… đều do Đại thừa mà Bátniết-bàn? Và giữ gìn số khác, là để giữ gìn chúng Bồ-tát có chủng tính bất định khiến an trụ Đại thừa. Làm sao khiến các Bồ-tát có chủng tính bất định không bỏ Đại thừa chớ ở Thanh Văn thừa mà Bát-niết-bàn? Vì nghĩa đó Phật nói Nhất thừa. Do nghĩa các câu nói về bất định nên đã nói pháp, vô ngã và giải thoát, cho đến nói rộng. Lại nữa trong đây do ý thú khác chỉ nói Nhất thừa. Ý thú khác thế nào? Là pháp đồng đẳng. Pháp là chân như, các Thanh Văn v.v… đều đồng một chỗ hướng về. Vì bình đẳng chỗ hướng về nên nói Nhất thừa. Là vô ngã, nghĩa là Thanh Văn v.v… Bổ-đặc-già-la đều không có ngã. Do vô ngã nên phân biệt đây là Thanh Văn đây là Bồ-tát là không đúng đạo lý. Do ý thú vô ngã này là bình đẳng nên nói Nhất thừa. Là giải thoát, nghĩa là Thanh Văn v.v…đối với phiền não chướng đồng được giải thoát nên nói Nhất thừa. Như Thế Tôn nói: Giải thoát với giải thoát không có sai biệt. Nói vì tính không đồng, tức là chủng tính khác nhau. Bởi các Thanh Văn có tính bất định cũng sẽ thành Phật, do ý thú này nên nói Nhật thừa. Được 2 ý lạc, đó là: Một là nhiếp thủ bình đẳng ý lạc. Do đây nhiếp thủ tất cả hữu tình. Nói chúng tức là ta, ta tức là chúng. Nhiếp thủ như vậy rồi, mình đã thành Phật thì chúng cũng thành Phật. Do ý thú này nên nói Nhất thừa. Hai là pháp tính bình đẳng ý lạc. Tức các Thanh Văn nghe trong hội Pháp Hoa được Phật thụ ký được pháp tính bình đẳng ý lạc của Phật, chưa được pháp thân. Do được bình đẳng ý lạc như vậy tự nghĩ rằng pháp tính chư Phật tức pháp tính của ta. Lại có nghĩa khác là trong chúng ấy có các Bồ-tát, tên cũng đồng như chúng, mong Phật thụ ký. Do pháp này như bình đẳng ý lạc nên nói Nhất thừa. Nói hóa, tức là Phật hóa làm Thanh Văn thừa v.v… Như Thế Tôn nói: Ta nhớ xưa kia vô lượng trăm lần trở lại y vào Thanh Văn thừa mà Bát-niết-bàn. Do ý thú này nên nói Nhất thừa. Bởi Thanh Văn thừa hóa độ hữu tình do thấy đây mà được Bát-niết-bàn, cho nên hiện hóa cứu cánh này. Chỉ Nhất thừa này là cứu cánh. Ngoài ra không có thừa nào hơn. Thanh Văn thừa v.v… còn có thừa khác thắng hơn là Phật thừa. Do ý thú này, chư Phật Thế Tôn tuyên thuyết Nhất thừa.
Luận nói: Như vậy chư Phật đồng một pháp thân, vì sao có nhiều Phật? Ở đây có bài tụng như sau:
Một cõi không 2 Phật,
Đồng thời nhiều chứng thành.
Lần lượt chuyển, phi lý,
Nên thành có nhiều Phật.
Giải thích: Nay sẽ nói rõ do nhân duyên này nên biết chư Phật tuy đồng pháp thân mà thành một hoặc thành nhiều. Nên biết một, là vì đồng pháp giới. Chư Phật đều đồng pháp giới làm thể. Pháp giới một nên biết Phật là một. Lại nữa một Phật, là bởi trong một thời trong một thế giới không có 2 Phật xuất thế nên biết một Phật. Lại nữa trong Già-tha nói chư Phật hoặc một hoặc nhiều. Trong một cõi không có hai, câu này là nói duy nhất có một Phật. Trong một thế giới không có hai Phật đồng thời xuất hiện. Cho nên nói chỉ có một Phật. Các câu khác nói có nhiều Phật. Đồng thời nhiều chứng thành, nghĩa là đồng một lúc có vô lượng Bồ-tát viên mãn tư lương. Nếu các Bồtát đồng thời viên mãn phúc trí tư lương của mình mà không thành Phật thì tư lương ấy thành trống không, không có quả. Nhiều Bồ-tát tu tập tư lương đồng thời viên mãn, cho nên biết đồng thời có nhiều Phật. Nói tuần tự chuyển là phi lý, tức là không có nghĩa lần lượt chuyển thành Phật. Nếu các Bồ-tát khi tu tư lương, quán sát chờ đợi lần lượt trước sau thành tựu viên mãn thì có thể được thành Phật theo thứ tự trước sau. Nhưng các Bồ-tát khi tu tư lương không đợi lần lượt trước sau thành tựu viên mãn, cho nên khi thành Phật cũng không có nghĩa thứ tự lần lượt trước sau. Cho nên đồng thời có nhiều Phật.
Luận nói: Làm sao biết trong pháp thân Phật chẳng phải rốt ráo nhập Niết-bàn, cũng chẳng phải rốt ráo chẳng nhập Niết-bàn? Ở đây có bài tụng như sau:
Tất cả chướng thoát hết,
Việc làm không kết thúc,
Rốt ráo nhập Niết-bàn.
Rốt ráo chẳng Niết-bàn.
Giải thích: Có các bộ nói chư Phật không có rốt ráo Niết-bàn.
Lại có người Thanh Văn thừa ở bộ khác nói chư Phật có rốt ráo Niếtbàn. Trong tụng này hiển thị cả hai ý. Thoát tất cả chướng, là do Phật giải thoát hết tất cả phiền não sở tri chướng nên y theo ý này nói chư Phật rốt ráo Niết-bàn. Việc làm không kết thúc, là do Phật đối với tất cả hữu tình chưa thành thục thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến được giải thoát. Vì vậy việc phải làm này không có thời kỳ kết thúc. Cho nên Phật không rốt ráo nhập Niết-bàn. Nếu khác đây tức phải như Thanh Văn rốt ráo Niết-bàn. Như vậy là bản nguyện không có kết quả.
Luận nói: Vì sao thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân?
Vì có 6 nguyên nhân: 1. Do sắc thân có thể trông thấy. 2. Do có thể thấy trong vô lượng Phật chúng hội khác nhau. 3. Do tùy thắng giải mà tự tính bất định có thể thấy. 4. Do riêng biệt có thể thấy, tự tính biến động có thể thấy. 5. Trong các đại tập hội gồm Bồ-tát, Thanh Văn, chư thiên v.v..nhiều tướng khác nhau họp lại, nên có thể thấy. 6. Do sự chuyển y phi lý của thức A-lê-da với các chuyển thức nên có thể thấy. Thụ dụng thân của Phật mà thành tự tính thân là không đúng lý.
Giải thích: Nay sẽ nói rõ thụ dụng thân của Phật tức tự tính thân là không đúng lý. Vì sắc thân có thể thấy. Thụ dụng thân của Phật là sắc thân có thể thấy, chẳng phải là pháp thân. Do sự phi lý này nên thụ dụng thân chẳng phải tức là pháp thân. Lại nữa thụ dụng thân của Phật có được chúng hội sai biệt, pháp thân không có sai biệt như vậy. Do đây phi lý cho nên thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân. Lại thụ dụng thân tùy thắng giải thấy, như khế kinh nói. Hoặc thấy Phật thân chỉ có màu vàng, hoặc thấy Phật thân chỉ có màu xanh, nói rộng như vậy. Nếu thụ dụng thân tức tự tính thân thì tự tính thân này phải là thể không nhất định. Không nhất định mà gọi là tự tính thân thì không hợp lý. Do phi lý này thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân. Lại thụ dụng thân một loại hữu tình trước thấy khác biệt, tức sau lại thấy khác biệt, chẳng phải pháp thân Phật tự tính biến động. Do phi lý này nên thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân. Lại thụ dụng thân có các chư thiên v.v…thường xen lẫn trong các chúng hội, chẳng phải tự tính thân có sự xen lẫn này. Do phi lý này nên thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân. Lại nữa chuyển thức A-lại-da được tự tính thân. Nếu thụ dụng thân tức tự tính thân thì chuyển các chuyển thức sẽ được thân gì? Do phi lý này nên thụ dụng thân chẳng phải tự tính thân. Do 6 nhân không hợp lý này mà hai thân không thành một.
Luận nói: Vì nguyên nhân nào biến hóa thân không là tự tính thân?
Vì 8 nguyên nhân: Chư Bồ-tát từ xa xưa đã được định không thoái chuyển nên thụ sinh nơi trời Đổ-sử-đa và sinh trong cõi người thì không đúng lý. Lại các Bồ-tát từ xa xưa hằng nhớ đời trước, vậy văn chương tính toán kỹ nghệ v.v…cũng như hưởng thụ trần dục mà Bồ-tát không biết là không đúng lý. Lại các Bồ-tát từ xa xưa đã biết các giáo pháp đâu là ác thuyết đâu là thiện thuyết, vậy mà còn đến theo học ngoại đạo là không đúng lý. Các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã thông suốt chính lý Thánh đạo ba thừa mà tu tà khổ hạnh là không đúng lý. Các Bồ-tát bỏ trăm câu-chi các Thiệm-bộ châu , mà chỉ ở một chỗ thành Đẳng chính giác, chuyển chính pháp luân là không hợp lý. Nếu tách rời phương tiện thị hiện thành chính giác, chỉ dùng hóa thân làm Phật sự ở phương khác, vậy thì nên thành chính giác trên trời Đổ-sử-đa, sao lại không? Nếu không như vậy thì tại sao Phật không đồng thời xuất hiện bình đẳng trong tất cả Thiệm-bộ châu?
Nếu không xuất hiện thì không có giáo không có lý. Tuy có nhiều hóa thân mà không trái với câu nói không có 2 Như Lai cùng xuất hiện trong một thế giới. Như 2 Chuyển luân vương không cùng xuất hiện, bởi 4 châu là một thế giới. Ở đây có bài kệ nói như sau:
Phật vi tế hóa thân,
Đa nhập thai cùng lúc.
Thị hiện Nhất thiết chủng,
Thành đạo, chuyển pháp luân.
Vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình mà phát nguyện tu hành, chứng Đại Bồ-đề rồi rốt ráo Niết-bàn là không đúng lý, vì có lỗi không thành hạnh nguyện.
Giải thích: Nay sẽ nói rõ biến hóa thân của Phật tức tự tính thân là không đúng lý. Vì 8 nguyên nhân. Trong đây không đúng lý trước hết là các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã vô lượng kiếp được định bất thoái, còn không phải sinh trời Đổ-sử-đa huống chi sinh trong loài người. Nhưng hiện thụ sinh thế gian này, đó là biến hóa thân chẳng phải tự tính thân. Lại các Bồ-tát từ xa xưa đến nay thường nhớ đến túc mạng mà đối với sử sách tính toán không biết là không đúng lý, chỉ vì điều phục các hữu tình nên hóa ra việc như vậy. Lại các Bồ-tát 3 vô số kiếp siêng tu phúc tuệ mà không biết các thuyết thiện ác, tà tập khổ hạnh, đến thân sau cùng khi chứng Bồđề làm sao đốn ngộ? Do đạo lý này đó là biến hóa thân chẳng phải tự tính thân. Lại các Bồ-tát bỏ trăm câu-chi các Thiệm-bộ châu, chỉ ở một nơi thành Đẳng chính giác chuyển bánh xe chính pháp là không đúng đạo lý. Nếu biến hóa thân biến khắp các nơi đồng thời hóa hiện mới đúng đạo lý. Cho nên biến hóa thân chẳng phải tự tính thân. Nếu các bộ phái khác chấp như thế này: Phật chỉ một nơi thật chứng đẳng giác, còn các phương khác là thị hiện thí làm Phật sự. Nếu vậy sao chẳng chỉ ở trời Đổ-sử-đa thật chứng đẳng giác rồi biến khắp 4 Đại châu thị hiện hóa thân thí tác Phật sự lại ở tất cả 4 Đại châu không hiện đẳng giác? Không giáo, không lý nên không nên nói. Trong cõi Phật này có 4 châu đều không hiện thành Phật, nếu nói dẫu có việc như vậy thì trái với khế kinh. Cho nên trong kinh nói không có hai Như Lai đồng thời xuất hiện. Nên biết việc này trong kinh nói đồng với Chuyển luân vương. Như nói không có hai Chuyển luân vương sinh đồng thời. Dựa vào một 4 châu không phải một cõi Phật. Phải biết không có hai Như Lai đồng thời xuất hiện cũng như vậy. Trong đây ý nói một 4 Đại châu là một thế giới. nay lại dùng tụng hiển thị chư Phật hóa hiện đẳng giác. Phật vi tế hóa thân v.v…, là nếu bấy giờ Phật hiện an trụ trời Đổ-sử-đa, thị hiện xuống đầu vào thai mẹ v.v…, tức ngay khi ấy hóa làm Tôn giả Xá-lợi tử v.v… vô lượng quyến thuộc cũng hiện nhập thai, xuất sinh v.v…lập ra biến hóa quyến thuộc như vậy, phải biết là hiển thị nhất thiết chủng, giác, Phật sự thù thắng. Nay sẽ nói rõ Như Lai rốt ráo nhập Bát-niết-bàn là không đúng đạo lý, nghĩa là vì hóa độ tất cả hữu tình, trước phát Đại nguyện và tu Đại hạnh, thường tự thề rằng: Ta phải siêng tu chính hạnh làm lợi lạc tất cả hữu tình. Nếu vừa mới thành Phật đã liền Bát-niết-bàn, thì chỗ tu nguyện hạnh không có quả. Do phi lý này nên biến hóa thân chẳng phải tự tính thân.
Luận nói: Thụ dụng thân và biến hóa thân của Phật đã là vô thường thì vì sao kinh nói thân Như Lai là thường?
Vì chỗ sở y của 2 thân này là pháp thân, mà pháp thân là thường. Lại nữa đẳng lưu thân và biến hóa thân vì thường thụ dụng không ngưng nghỉ nên thường thường hóa hiện không vĩnh viễn tuyệt dứt, như thường thụ an lạc, như thường thí thực. Phải biết thân Như Lai là thường, cũng nghĩa như vậy.
Giải thích: Kinh nói thân Như Lai thường trú. Thụ dụng thân và biến hóa thân của Phật đều là vô thường. Thế nào là thân thường? Cho nên tiếp theo thành lập nghĩa thường của hai thân. Nghĩa là hai thân y trụ vào pháp thân. Pháp thân thường, nên cũng nói là thường. Lại thụ dụng thân thụ dụng không bỏ nên nói là thường. Còn biến hóa thân hằng hiện đẳng giác Bát-niết-bàn v.v… liên tục không dứt nên cũng nói là thường. Lại dùng thí dụ làm rõ hai thân này là nghĩa thường trú. Như thế gian nói thường thụ lạc. Tuy chỗ thụ lạc chẳng phải chỉ không gián đoạn mà được nói đây thường thụ lạc. Lại như thế gian nói thường thí thực, chẳng phải thí thực này hằng không gián đoạn mà được nói đây thường thí thực. Phải biết nghĩa thường của hai thân cũng vậy.
Luận nói: Do 6 nguyên nhân mà hóa thân chư Phật Thế Tôn không rốt ráo vĩnh trụ: 1. Vì việc làm đã hoàn tất, bởi đã thành thục giải thoát chúng sinh. 2. Vì muốn xả bỏ không ưa Niết-bàn muốn cầu thân Như Lai thường trú. 3. Vì muốn người trừ bỏ tâm khinh mạn đối với chư Phật, khiến ngộ chính pháp sâu xa. 4. Vì khiến đối với Phật sinh tâm khát ngưỡng sâu xa, nếu thường thấy sẽ sinh chán. 5. Khiến tự thân siêng năng tinh tiến, biết người nói chính pháp là rất khó gặp. 6. Vì muốn các hữu tình mau chóng thành thục, khiến tự tinh tiến không bỏ gánh nặng. Ở đây có 2 bài tụng như sau:
Do việc làm đã xong,
Bỏ không ưa Niết-bàn,
Bỏ khinh chê chư Phật,
Sinh khát ngưỡng sâu xa.
Trong tự mình tinh tiến,
Vì mau chóng thành thục,
Nên chư Phật hóa thân,
Không vĩnh viễn thường trú.
Giải thích: Như vậy là đã nói thẳng và bài tụng về 6 nhân chứng hóa thân Phật chẳng phải rốt ráo an trụ. Văn dễ rõ nên không giải thích.
Luận nói: Pháp thân chư Phật từ vô thủy đến nay không khác biệt, không số lượng, không nên vì được mà có dụng công. Ở đây có bài tụng như sau:
Phật có vô biệt, vô lượng nhân,
Hữu tình nếu bỏ siêng công dụng,
Chứng đắc mãi mãi chẳng thành nhân,
Đoạn nhân như vậy không đúng lý.
Giải thích: Trong đây có câu hỏi nếu pháp thân Phật từ vô thủy đến nay là không khác biệt, không số lượng nhân làm chứng đắc, có thể làm các việc lợi lạc hữu tình là chứng Phật quả thì không cần phải siêng năng dụng công? Để giải thích câu hỏi này nên dùng tụng hiển thị. Chư Phật chứng đắc từ vô thủy đến nay không khác biệt, không số lượng. Nếu vậy hữu tình vì cầu Phật quả xả bỏ nhân tinh tiến, có thể có câu hỏi như vậy. Chư Phật chứng đắc, đối với sự chứng đắc Phật quả từ vô thủy đến nay không thành nhân. Nhưng Phật chứng đắc từ vô thủy đến nay là không khác biệt, không số lượng hằng cùng hữu tình làm nhân siêng năng tinh tiến được Phật quả. Cho nên không nên hỏi. Pháp thân chư Phật từ vô thủy đến nay không khác biệt, không số lượng làm nhân chứng đắc. Để chứng Phật quả không nên lại làm siêng năng dụng công. Cho nên chư Phật chứng đắc pháp thân. Chẳng phải là hữu tình để cầu Phật quả mà xả bỏ nhân tinh tiến. Lại nữa Phật chứng đắc từ vô thủy đến nay không khác biệt, không số lượng làm nhân siêng năng tinh tiến cầu Phật quả. Nếu các hữu tình bỏ dụng công siêng năng, như vậy sẽ mãi mãi không thành nhân chứng đắc. Lại nữa đoạn dứt nhân này là không đúng đạo lý. Nghĩa là các Bồ-tát Bi nguyện luôn ở trong tâm, đối với các hữu tình thương yêu như con. Các loài hữu tình ở trong lao ngục lớn chịu đủ gian khổ, cho nên Bồ-tát làm lợi ích an lạc cho hữu tình. Nếu có tâm như vậy tất cả đã có thể làm được. Ta không làm là không đúng đạo lý. Hằng có tâm như vậy. Ngoài ra việc này dù làm hay không làm, ta nhất định phải làm. Vì vậy không nên đoạn dứt nhân ấy.
Luận nói: Đây là Phẩm Nhiếp Đại Thừa, trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, tôi A-tăng-già sơ lược giải thích xong.
Giải thích: Chính thú Đại thừa chế tạo vô lượng thù thắng. Luận giả Quỹ phạm Thế Thân lược thích xong./.
HẾT