ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa môn Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 7

Phẩm thứ 7: QUÁN HỮU VI, phần 3

Lại nữa, Tự bộ đáp lại Dị tông:

Phần vị này định trụ

Phần vị trước sáng rõ.

Giải thích: Như trong phần vị của sữa, sữa cũng chẳng tức là, ở nơi phần vị nay diệt, như trước đã nói, vì hai pháp có và không là cùng trái nhau.

Lại nữa, tụng nói:

Phần vị khác định trụ

Phần vị trước đã diệt.

Giải thích: Quyết định trụ như vậy là trong phần vị khác nhau. Nếu có chỗ chuyển như phần vị của lạc diệt không có sai khác. Vì sao? Vì lúc đã thành lạc, sữa tức không sinh, trong đó tuần tự quyết định hoại mất, phần vị mỗi mỗi khác biệt vì không có tánh khác. Nếu nói thể của vật không diệt thì điều này tức trái nhau. Hoặc chấp cho diệt có chỗ thủ đắc thì không hợp lý, nay nên dừng bỏ. Theo pháp khác đã không sinh thì trụ có thể dừng, tự pháp cũng không. Nay đã nói diệt, vì tự pháp không có.

Lại nữa, tụng nói:

Như tất cả pháp kia

Tướng sinh không đạt được

Tức tất cả pháp này

Diệt cũng không thủ đắc.

Giải thích: Ở đây là thế nào? Nếu tất cả xứ có pháp diệt thì tất cả xứ kia đều không thật.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu cho pháp là có

Diệt tức không thủ đắc

Không thể nơi một xứ

Có hai tánh có, không.

Giải thích: Vì cùng là trái nhau.

Lại nữa, tụng nói:

Không pháp tức không quả

Diệt cũng không thủ đắc

Như không đầu thứ hai

Không thể nói đã đoạn.

Hoặc có người nói: Nương dựa nơi tự Thể diệt, trong đó muốn khiến diệt có chỗ thủ đắc. Vì vậy tụng đáp:

Pháp không tự Thể diệt

Tha Thể cũng không diệt

Như sinh không tự sinh

Tha Thể cũng không sinh.

Diệt này nếu chưa diệt

Tự Thể nào hay diệt

Diệt này nếu đã diệt

Diệt rồi sao lại diệt?

Diệt này nếu có khác

Diệt tức là vô cùng

Diệt nếu không chỗ diệt

Pháp đều diệt như vậy.

Hoặc người tạo Thích Luận này nói: Nếu pháp sinh kia dừng bỏ hẳn tự tướng của pháp như đã nói, tức có lỗi đối đãi. Nghĩa là do trong thắng nghĩa đế có pháp hữu vi đối đãi với vô vi. Nay để đối đáp với thuyết kia, nên tụng nói:

Sinh, trụ, diệt không thành

Tức không pháp hữu vi

Pháp hữu vi không thành

Sao có được vô vi?

Giải thích: Đã khởi đối đãi, ở đây nói là rốt ráo, ví như Thạch nữ không sinh con, thế tục quyết định thể của vật không thành.

Ở đây nên hỏi: Nếu không có pháp hữu vi và tướng hữu vi, vì sao Đức Thế Tôn nói có ba thứ tướng của pháp hữu vi.

Nên tụng đáp:

Như mộng cũng như huyễn

Như thành Càn-thát-bà

Nói về sinh, trụ, diệt

Tướng ấy cũng như vậy.

Giải thích: Các pháp như mộng huyễn và thành Càn-thát-bà (Thành ảo) đều là tánh nơi cảnh giới của trí phân biệt, cho nên hiển bày các tướng như voi, ngựa, xe, đi bộ, nam, nữ v.v… tức thể của các tướng kia đều là không. Vì thế các pháp hiện có như sinh v.v… đều là chỗ phát khởi của tánh nơi cảnh giới của trí. Ở trong thắng nghĩa đế, vì tự tánh không tự thể là không, nên Đức Phật muốn khiến ở trong các hành xả bỏ thường kiến, giúp họ được điều phục.

Thế nên mới nói: Dừng lắng sự sinh, già v.v… Nói người già, thì già cũng không phải là già. Đây tức tự nêu bày có chỗ thủ đắc trái nhau. Nên tụng nói:

Già cũng không lìa già

Lúc già không hiện có

Tánh này già không thành

Tánh khác cũng như thế.

Vậy nên trong một pháp

Già tức không thủ đắc

Nếu già nhưng không già

Không tự thể, tha thể.

Già này không tự già

Hết thảy già cũng thế

Già nếu có khác biệt

Già tức là vô cùng.

Đạo xuất ly giải thoát

Tự đầy đủ cũng vậy

Nếu pháp lìa tự tướng

Quả cũng không thủ đắc.

Giải thích: Như nói về giải thoát, pháp thiện của các cõi, ở đây nói là duyên nơi nhân. Tánh của pháp thiện kia nếu có chỗ thủ đắc, vì sao nói pháp thiện kia là duyên nơi nhân. Nếu như vậy thì thức v.v… kia cũng có thể nói là duyên nơi nhân nên có chỗ thủ đắc. Vì sao? Vì tánh sai biệt của pháp thiện kia là không tự thể, nên tánh của thức sai biệt cũng không phải tự thể có tánh pháp thiện. Vì lấy tự thể nơi tánh các pháp thiện của nó làm nhân của duyên nên ở trong giải thoát không có quả lợi. Nếu nhân nơi tánh của pháp thiện có giải thoát thì quyết định như vậy là lìa bỏ tự thể. Vì sao? Vì chỗ lập các pháp là nhập vào tự thể. Nếu không như vậy thì như trước đã nói, vì sao không lấy giải thoát bất thiện làm thành đối tượng hành tác của sự giải thoát pháp thiện. Nếu như trước đã nói, giải thoát pháp thiện, ở đây cũng không lìa sự phân biệt có. Vì thế nên biết, tất cả pháp kia là hai nhân giải thoát: hoặc đã sinh, hoặc chưa sinh, nhân kia tức không sinh.

Lại nữa, tụng nói:

Đã thoát không thể nêu

Không thoát không thể nêu

Thoát, chưa thoát, không thoát

Lúc thoát cũng không nói.

Giải thoát này nếu khác

Giải thoát tức vô cùng

Nếu không thoát mà thoát

Đều giải thoát như vậy.

Giải thích: Nếu nhận biết như vậy thì đạo xuất ly kia cũng thế, như đã nói đầy đủ về chỗ sinh. Chư Phật Thế Tôn ở trong Khế kinh có nói kệ tụng:

Pháp sắc như bọt nước

Thọ như bong bóng nước

Tưởng đồng dợn nắng sinh

Hành như tướng thân chuối.

Thức như pháp huyễn kia

Hiển bày pháp được lập

Như mộng như ảnh tượng

Cũng đồng với tiếng vang.

Lại nói: Tất cả pháp ở trong các hành là vô ngã, tức không tự tánh. Nên biết trong đó nói ngã tức là tên khác của tự tánh. Ở đây nói pháp chân như kia không có hý luận. Nếu nói quyết định đều là pháp hư dối vọng chấp giữ.

 

Phẩm thứ 8: QUÁN TÁC GIẢ TÁC NGHIỆP

Hoặc có người nói: Như phẩm trước đã nêu, phá tất cả pháp có đối tượng tạo tác nơi các cõi, vì hữu vi không thành sao có được vô vi? Nếu nói như vậy thì vì sao cùng với A hàm kia trái nhau. Như Đức Phật Thế Tôn trong Khế kinh đã nói kệ tụng:

Nên tu hành pháp thiện

Chớ tu hành pháp ác

Hành giả tu pháp thiện

Hai đời đều an lạc.

Theo như ý của tụng này tức có tác giả, tác pháp, cũng lại có quả. Đã nói là thật như chỗ quán sát, vì sao chỉ nói thế tục, không phải là thắng nghĩa?

Luận giả nói: Người tạo tác (Tác giả) của các cõi ở trong thắng nghĩa đế hoặc thật có, hoặc không thật có, hoặc cũng thật có cũng không thật có. Tác nghiệp cũng như thế, hoặc thật có, hoặc không thật có, hoặc cũng thật có cũng không thật có. Do như vậy nên người tạo tác kia ở trong chỗ làm hoặc thật có người làm (Tác giả) cũng phải thật có việc làm (Tác nghiệp). Người làm (Tác giả) việc làm (Tác nghiệp) thúc đẩy nhau như vậy đều là không có thật. Nếu hai loại là thật và không thật đều ở trong thắng nghĩa đế không có cực vi để thừa nhận quyết định là pháp thật. Nếu người làm có thật nhưng cũng không thật có việc làm để có thể đạt được. Nếu việc làm có thật nhưng người làm kia cũng không hòa hợp.

Lại nữa, tụng nói:

Người làm nếu có thật

Cũng không làm việc thật.

Giải thích: Nếu như đã nói như vậy làm sao có thể tin? Nên tụng dưới nói:

Không thật đối tượng tạo

Không đối tượng tạo khác.

Giải thích: Nếu lại dừng bỏ nghiệp thiện và bất thiện tức đối tượng tạo tác không sinh. Nếu trong đối tượng tạo tác có hai thì người làm cũng lại có hai. Cũng không phải ở trong đối tượng tạo tác có chủ thể tạo tác là tự tướng của pháp trừ bỏ này. Điều này lại là thế nào? Nên tụng dưới nói:

Có nghiệp không người tạo.

Giải thích: Nếu ở trong người tạo và nghiệp tạo chấp trước có đối tượng tạo tác sinh khởi thì điều này trở thành trái với tự tướng của pháp, nay phải dừng bỏ hẳn. Lại nữa, tụng nói:

Không thật có chỗ tạo.

Giải thích: Không có đối tượng sinh có tác dụng sai khác. Nếu tác dụng có chỗ hòa hợp thì đối tượng tạo tác có hai, nghiệp cũng có hai. Cũng không phải lìa đối tượng tạo tác ấy mà có nghiệp. Đây là trừ bỏ tự tướng của pháp. Lại nữa, tụng nói:

Có người tạo không nghiệp.

Giải thích: Nếu đối tượng tạo tác và nghiệp cùng với pháp tác dụng lìa nhau, thì cả hai thứ chủ thể tạo tác và đối tượng tạo tác cùng nhau xen tạp. Đây là trừ bỏ tự tướng của pháp.

Lại có người nói: Nếu có chủ thể tạo tác và pháp tác dụng thì đối tượng tạo tác kia tức có nghiệp sinh khởi. Nên có thể nói là thật có người tạo, vì người tạo lúc sinh nên nghiệp tạo cũng không khác. Do có tác dụng hòa hợp nên chủ thể tạo tác kia cũng không thật có riêng biệt. Điều này không có lỗi.

Luận giả nói: Sao gọi là không lỗi? Vì người tạo, việc tạo và pháp tác dụng nơi đối tượng tạo tác và chủ thể tạo tác kia đều không hành tác. Trong đây, nếu có chủ thể tạo tác và đối tượng tạo tác thì có lỗi như trước đã nói. Nếu không có đối tượng tạo tác thì chủ thể tạo tác cũng không, vì lìa đối tượng tạo tác. Điều này là thế nào? Vì có chủ thể tạo tác, đối tượng tạo tác và tác dụng của nghiệp. Vì như vậy nên xứ khác cũng thế, tùy theo chỗ thích ứng nên trừ bỏ. Nay văn này rộng, sợ phiền tạp nên tạm dừng ở đây.

Lại có người nói: Hành nghiệp của người tạo và đối tượng tạo là không thật có thể như vậy, nhưng người tạo kia có thể nên thật có. Nay để đối trừ thuyết ấy nên tụng nói:

Người tạo cũng không thật.

Giải thích: Nếu cho người tạo và việc tạo là thật, nay đối với lời này cũng nên trừ bỏ. Lại nữa, tụng nói:

Nếu thật có người tạo

Cũng thật có tác nghiệp

Người tạo và tác nghiệp

Cả hai đều không nhân.

Giải thích: Ở đây nói chủ thể tạo tác tức là người tạo (Tác giả), nói đối tượng tạo tác tức là việc làm của người ấy. Nếu đối tượng tạo tác lìa nơi người tạo nhưng có việc có thể làm, như vậy cũng sẽ chỉ có người tạo lúc không có đối tượng tạo tác nên có việc làm, có tức là không nhân. Nếu người tạo và việc làm rơi vào tánh không nhân, tức là hoàn toàn có lỗi. Điều này nên suy xét chọn lựa. Lại nữa, tụng nói:

Nếu có quả không nhân

Nhân không hợp đạo lý.

Giải thích: Ở đây nói nhân tức là nói duyên. Nếu lúc pháp có nhân chuyển thì duyên tức tùy thuộc. Nếu nhân không tự thể thì hiện sự dừng nghỉ. Điều này là không có, thì sao có nghĩa có thể gồm thâu nơi duyên? Điều này lại là thế nào? Nên tụng dưới nói:

Tạo, người tạo không Thể

Tác dụng không hòa hợp.

Giải thích: Như việc chặt củi v.v… Nếu thể của quả không có đối tượng đoạn đứt, thì chủ thể đoạn đứt kia và dụng cụ chặt đứt là rìu búa đều không hòa hợp. Vậy tác dụng của việc chặt đứt làm sao có chỗ nương dựa? Vì tác dụng kia không tự thể nên người tạo và việc làm không tự thể cũng như vậy. Điều này lại là thế nào? Nên tụng sau nói:

Nếu không pháp, phi pháp

Đối tượng tạo không Thể.

Giải thích: Nếu lìa tác dụng của đối tượng tạo và chủ thể tạo thì không có việc làm. Nên tụng dưới nói:

Pháp, phi pháp không có

Theo quả sinh cũng không.

Giải thích: Nghĩa này là thế nào? Do đấy nên không có nẻo ác, nẻo thiện và đạo giải thoát tùy theo quả thích ứng. Lại nữa, tụng nói:

Không quả không giải thoát

Cũng không sinh thiên đạo

Không chỉ sinh thiên đạo

Đạo giải thoát cũng không.

Giải thích: Nếu như vậy thì tất cả tác dụng của các cõi thế gian thảy đều rơi vào trong chỗ không có quả lợi. Quả thế gian là như tác dụng của hạt giống tùy chuyển, tức là chủ thể sinh quả, chủ thể kia nếu không tự thể tức không có quả lợi.

Hoặc có người nói: Đã nói như vậy là tác giả không thật có, nghĩa ấy có thể như vậy. Đối tượng tạo hành nghiệp kia ở đây mới là thật, vì do chủ thể tạo tác nên điều ấy không có lỗi.

Luận giả nói: Ở đây sao không có lỗi? Nay nói về người tạo tức là tên gọi khác của nhân, còn việc làm tức là quả. Không phải pháp quả lìa tự thể của nhân riêng có đối tượng hành tác. Nếu có người tạo, việc tạo như vậy tức có nhân có quả hòa hợp kiến lập. Nay ở đây việc tạo như vậy không khác với người tạo, vì người tạo không khác với việc tạo nên đối tượng tạo nghiệp cũng không lìa, do nhân sai biệt nên quả kia không tánh. Điều này làm sao nhận biết? Nếu pháp có duyên và đối tượng tạo tác đầy đủ tức tánh của nhân quả thành. Nay chỗ nêu bày ở đây không phải là không sáng rõ.

Hoặc có người nói: Người tạo cũng thật, cũng không thật, nên việc làm cũng thật cũng không thật. Tụng dưới đáp lời tăng thượng kia:

Người tạo thật không thật

Cũng không tạo hai nghiệp

Có, không cùng trái nhau

Một xứ tức không hai.

Giải thích: Ở trong một pháp, hai pháp có và không có tác dụng hòa hợp thì pháp kia tức không tự thể là không hợp lý. Người tạo, việc tạo quyết định hòa hợp như vậy cũng không thể đạt được, vì trái ngược lẫn nhau nên cũng không hợp đạo lý. Lại nữa, tụng nói:

Tạo, người tạo, tác dụng

Chỗ tạo thật, không thật

Chấp tức sinh lỗi lầm

Nhân này như trước nói.

Giải thích: Trong đó nên biết, nếu thật và không thật đều là nói về đối đãi, nên tụng dưới nói:

Chỗ tạo thật, không thật

Cũng thật cũng không thật

Người tạo và tác nghiệp

Nhân này như trước nói.

Người tạo, các chỗ tạo

Chẳng thật chẳng không thật

Nên biết nghiệp cũng thế

Nhân này như trước nói.

Thật chỗ tạo tức không

Không thật lại không nhân

Có, không cùng trái nhau

Một xứ sao có hai?

Giải thích: Trong đây đã nói là ba thứ đối đãi, như nói về pháp sinh. Cho nên phải biết, không phải Đức Thế Tôn ở trong tất cả xứ đều dứt bỏ người tạo, việc tạo và các tác dụng. Điều này tức không rơi vào lỗi không nhân.

Luận giả nói: Điều này thật không có lỗi. Tôi cũng không nói không có người tạo ấy và tác nghiệp kia. Vì sao? Vì tôi muốn biểu thị sự hỗ trợ cùng thành tựu của người tạo và việc tạo. Lại nữa, tụng nói:

Nhân người tạo có nghiệp

Nhân nghiệp có người tạo.

Giải thích: Nên biết ở đây, sự nêu đặt tùy chuyển đều không có tự thể. Người tạo và nghiệp tạo nếu thành hay không thành, lìa có, lìa không, nghĩa trong sự chứng thành đều là chỗ thủ đắc của thế tục. Nên tụng dưới nói:

Thế tục bỏ tánh khác

Ngã kiến thành tựu tướng.

Giải thích: Hoặc có người nói: Điều này là trái với A-hàm, vì nghĩa của nhân kia không thành.

Có người ngoài nói: Trong thắng nghĩa đế có tác giả của nó. Vì sao? Vì như Đức Phật đã nói là có chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ.

Luận giả nói: Nay vì để trừ bỏ thuyết kia nên nói, trong các tác dụng ấy có chủ thể nắm giữ của chúng. Nếu hai pháp chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ không hoại, tức người tạo tùy chuyển cũng không lìa nhau. Như vậy nên biết, vì chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ thâu tóm lẫn nhau. Do sự kiến lập này, nên nhân nơi người tạo có hành nghiệp. Nhân nơi hành nghiệp có người tạo. Do đó nên nhân nơi chủ thể nắm giữ tức có đối tượng được nắm giữ. Nhân nơi đối tượng được nắm giữ nên tức có chủ thể nắm giữ. Đây không phải là thắng nghĩa đế. Vì sao? Vì lìa người tạo và hành nghiệp được tạo kia là có sự ngăn bỏ chăng? Nghĩa nhân của đối tượng được tạo tác trong đó hoặc dừng bỏ người tạo và việc tạo, thì chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ ở đây cũng nên lìa.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu trong thắng nghĩa đế

Có người tạo, việc tạo

Năng thủ, sở thủ kia

Đây cũng nên ngăn bỏ.

Người tạo và việc tạo

Do nghĩa ấy như thế

Pháp khác tự và tha

Nghĩa tướng nhân nên quán.

Giải thích: Hoặc quả, hoặc nhân, hai pháp nhân quả nơi vật thể của tướng chủ thể, tướng đối tượng đồng sinh và không đồng sinh có đạt được. Nếu nói có nhân tức rơi vào quả số như pháp sinh, hoặc có nghĩa có thể nắm giữ tức tánh có kia. Nếu không có nghĩa là không phải tánh có ấy sinh. Các pháp như sắc v.v… nếu không nghĩa để có thể nắm giữ, tức không tự thể ấy có thể quán xét, huống là nhân quả lìa nơi tự thể mà có năng lực. Nếu lìa nơi tự thể mà có năng lực tức có chỗ đạt được trái nhau. Ví như lìa nơi nắm đất là có thể có chiếc bình chăng? Chỗ khởi trong pháp phần vị thuộc vật thể ở đây nói là bình sinh từ nắm đất, ví như nước trong bình. Vì không có tánh của phần vị sai khác nên cũng không phải bình giống như gỗ. Lại không phải phần vị của nắm đất tức nói có bình. Cũng như bình riêng biệt, nếu năng lực của chính nó có chỗ đạt được thì đây là sự trái nhau. Nếu nhân của pháp như an lạc v.v… có năng lực tức có pháp của quả như an lạc v.v…, vì có pháp như an lạc v.v… nên tức có chỗ phát khởi sai khác của an lạc v.v… Ở đây đã nói, như nói có chỗ thủ đắc thì sự nêu bày ấy cũng không có một ít pháp trái nhau. Nếu lìa nhân quả mà có năng lực, là nói về sự thành tựu. Quyết định như vậy thì không có năng lực để trở thành nhân quả của nó. Đây tức hoặc thành chấp trước điên đảo, hoặc thành quyết định, vì trong nhân bất cộng trái nhau là lìa nhân không tự thể. Nếu nhân bất cộng không phải hoàn toàn thành tựu, hoặc nếu nhân quả hòa hợp tức thể của vật có tánh. Đã nói về hai pháp nhân quả như vậy, trong đó nên biết không phải là thắng nghĩa đế.

HẾT – QUYỂN 7

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9