ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa môn Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Phẩm thứ 6: QUÁN PHÁP NHIỄM, NGƯỜI NHIỄM

Lại nữa, có Dị tông nói: Tánh và không tánh của các giới, xứ v.v… trong thắng nghĩa đế có sự hiểu biết, do chỗ tạp nhiễm kia nên thành có tánh ấy. Như Đức Phật đã nói: Người nhiễm là vướng mắc vào pháp nhiễm nên làm tổn hại cho mình, làm tổn hại cho người, làm tổn hại cho cả mình và người. Như vậy cho đến người ngu si vướng mắc vào pháp si, nghĩa ấy cũng như thế.

Luận giả nói: Ở đây chẳng phải là không có đạo lý tạp nhiễm, tuy có như huyễn. Nghĩa là do thể của nhiễm là không thật, chỉ vì các hành tích tụ tạo thành theo ngôn thuyết thế gian, không phải là thắng nghĩa đế. Vì sao? Vì đây nói pháp nhiễm và người nhiễm là trước có hay là sau có, hay là pháp nhiễm và người nhiễm cùng sinh khởi đồng thời? Cả ba điều này đều không đúng. Ví thế tụng nói:

Nếu trước có người nhiễm

Sau có pháp nhiễm kia

Vì sao lìa pháp nhiễm

Nhưng có người nhiễm sinh.

Giải thích: Ở đây nói hoàn toàn nên biết về nghĩa này là ngăn chận chỗ xa lìa ấy. Nếu pháp nhiễm không có thể tánh thì người nhiễm cũng như vậy. Dừng bỏ sự tạo tác về có quả không quả, có thành thục không thành thục, nghĩa ấy có thể nhận thấy. Nếu lìa pháp nhiễm nhưng có người nhiễm thành, mới nên có pháp nhiễm riêng khác như vậy. Đây tức người nhiễm nhân nơi pháp nhiễm nên có được. Nếu như vậy thì vì sao người nhiễm do có nhiễm nên pháp nhiễm tức thành? Vì pháp nhiễm có nên người nhiễm liền thành, sau đó khởi sinh việc nhiễm. Nghĩa này hiển bày rõ như quả thành thục. Nếu có cảnh của ái tức pháp nhiễm thành. Nếu không có cảnh của ái thì vì sao có nhiễm? Cần phải dừng bỏ lỗi lầm đã an lập, trong đó cũng không phải trước có người nhiễm sau mới khởi pháp nhiễm. Nên tụng bác bỏ:

Có người nhiễm lại nhiễm

Vì sao nên có được?

Giải thích: Vì chỗ nương dựa của pháp nhiễm không có thể tánh, nên như sự đã chín muồi. Lại nữa, tụng nói:

Hoặc có hoặc không nhiễm

Người nhiễm cũng lại vậy.

Giải thích: Nếu trước có người nhiễm, sau có pháp nhiễm, tức tất cả xứ như thể của pháp nhiễm. Cho nên trước không có đạo lý của người nhiễm. Nay vì để chứng thành nghĩa này, nên tụng nói:

Người nhiễm trước có nhiễm

Lìa người nhiễm, nhiễm thành.

Giải thích: Pháp nhiễm nếu không có Thể của ái có thể tạo tác, tức trong đó hoặc thấy có sự tạo thành của nó, điều này không hợp lý.

Có Dị tông nói: Lìa người nhiễm kia là riêng có pháp nhiễm. Lìa pháp nhiễm ấy tức người nhiễm có thể lập.

Luận giả nói: Nếu lìa pháp nhiễm tức có người nhiễm, nhưng trong đó không có. Vì sao? Vì nếu trước có pháp nhiễm sau có người nhiễm tức lìa người nhiễm mới có pháp nhiễm. Ở đây pháp nhiễm không có, tức không có cảnh của ái có thể tạo thành đạo lý của pháp nhiễm, vì cảnh của ái sau mới có. Do như vậy nên nếu lìa tự tánh, nhân riêng nơi người nhiễm có pháp nhiễm, tức pháp nhiễm kia nhân nơi người nhiễm nên được. Nếu như vậy tức không phải cảnh của ái có thể thành pháp nhiễm, vì cảnh của ái ở sau, nên sự tạo thành không thể đạt được. Nếu người như vậy thì không phải là lỗi lầm sao? Cũng không phải trước có pháp nhiễm sau thành người nhiễm.

Lại nữa, tụng nói:

Có nhiễm lại người nhiễm

Cũng vì sao sẽ đạt.

Hỏi: Hoặc lìa pháp nhiễm có người nhiễm, tức đã có lỗi lầm của đối đãi, trong đó hai thứ người nhiễm và pháp nhiễm đồng khởi sinh để có thể thành chăng?

Thế nên tụng đáp:

Nếu đồng sinh như vậy

Cũng không hợp đạo lý

Pháp nhiễm và người nhiễm

Sao phải dụng điều này.

Giải thích: Nghĩa là tánh lìa nhau của hai thứ người nhiễm và pháp nhiễm hỗ tương nên có sự trái nhau. Hoặc pháp chưa sinh cả hai đều không tánh, hoặc chỗ tạo tác của pháp đã sinh là không thể tánh. Chỉ do cảnh của ái tạo thành pháp nhiễm nên có người nhiễm. Nhưng cảnh của ái kia và chỗ khởi pháp nhiễm cũng đều dừng bỏ.

Hỏi: Pháp nhiễm và người nhiễm kia là tánh một có thể hòa hợp hay là tánh khác có thể hòa hợp?

Nên tụng đáp:

Pháp nhiễm, người nhiễm kia

Không phải tánh một hợp.

Giải thích: Điều này là thế nào? Do không phải tánh một kia có thể hòa hợp. Nếu có hai pháp hòa hợp tức tạo thành trọn vẹn. Ở đây nên biết là Đề-bà-đạt-đa khởi nhiễm, không phải Đề-bà-đạt-đa kia là nhân của người nhiễm. Nếu nói tánh một ấy hòa hợp, điều này chẳng hợp lý. Lại nữa, tánh khác cũng không thể hòa hợp. Nên tụng bác bỏ:

Tánh khác nếu có hợp

Vì sao sẽ đạt được?

Giải thích: Tánh khác pháp khác nếu có hòa hợp, tức là trái nhau, vì không phải một xứ có hai pháp sinh đạo lý có thể đạt được. Về sau nên dừng bỏ.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu tánh một hòa hợp

Lìa bạn cũng nên hợp.

Giải thích: Ở đây nói hòa hợp là lấy đồng thể làm nghĩa. Tánh một tức là nghĩa của nhân. Nếu tánh một này nhất định có hòa hợp, tức như trước đã nói về nghĩa hợp của Đề-bà-đạt-đa nên nhận thấy. Cho nên không có nhân của tánh một có thể hợp đạo lý. Tuy đối với nhân của tánh một không hợp có thể thành, nhưng nếu dừng nghĩa hợp ấy nên biết là có lỗi.

Lại nữa, tụng nói:

Tánh khác nếu có hợp

Lìa bạn cũng nên hợp.

Giải thích: Điều thuyết giảng ở đây ví như bình, áo, tánh khác của những vật ấy không thể hợp. Nếu lập hòa hợp thì không có nhân cùng hợp của tánh khác, tức có lỗi của đối đãi như trước. Tánh khác nếu hòa hợp có chỗ thủ đắc, thì những vật kia không phải là tánh khác cũng nên được hòa hợp. Điều này đâu phải là không lỗi.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu tánh khác có hợp

Nhiễm, người nhiễm dùng gì.

Giải thích: Ở đây nói đạo lý hợp, không hợp. Vì sao? Vì hai pháp như vậy, mỗi mỗi đều đã thành tự thể riêng biệt, tức không có pháp riêng làm nghĩa được tạo thành, trong đó cũng không sự tạo thành có thể đạt được. Cho nên tánh khác không có nêu rõ khẳng định. Nếu chấp tánh khác có được sự hòa hợp, nên tụng bác bỏ:

Nếu nhiễm và người nhiễm

Tự thể mỗi mỗi thành

Hai này nếu có hợp

Trước cũng nên được hợp.

Giải thích: Hai pháp kia nay đối với ông là thế nào? Vì ở đây nói thể của mỗi mỗi thứ được thành. Nếu hoặc pháp nhiễm và người nhiễm, ông dùng nghĩa gì để phân biệt mỗi mỗi tự thể của hai pháp khiến thành sự hòa hợp ấy? Trong Luận nói hoặc là, ở đây nói nghĩa hợp. Nếu lúc khởi phân biệt, quả lợi trống không, tự thể của những pháp kia không có tánh được tạo thành. Nếu nói là hợp, trong đó người nhiễm không có một ít phần pháp nhiễm có thể tạo pháp nhiễm, cũng không phải có thể có người nhiễm.

Lại nữa, tụng nói:

Tướng khác không thành hợp

Ông muốn cầu thành hợp

Tướng hợp nếu đã thành

Lại muốn thành tướng khác.

Giải thích: Tánh hợp không thành nhưng nghĩa kia rất thành. Tánh khác của một pháp hòa hợp không thể thủ đắc, vì tánh khác cực thành không thành nghĩa hợp nên không có hai pháp là người nhiễm và pháp nhiễm đồng thời. Hoặc tánh khác lại theo thứ lớp có thể sinh, cũng lại do tánh cùng xa lìa nhau, do trong đó không hợp đạo lý. Nay, như ý ông muốn về sự quán sát này, những gì là tánh khác có thể sinh khởi tuần tự, hoặc lại đồng thời. Nay để chứng thành nghĩa này, nên tụng bác bỏ:

Nhiễm, người nhiễm như vậy

Chẳng hợp, không hợp, thành

Các pháp cũng như nhiễm

Chẳng hợp, không hợp, thành.

Giải thích: Ở đây là thế nào? Nghĩa là không phải chỉ có pháp nhiễm và người nhiễm, chẳng phải hợp, không hợp. Các pháp cũng như vậy.

 

Phẩm thứ 7: QUÁN HỮU VI, phần 1

Lại nữa, hoặc có người nói: Vì trong thắng nghĩa đế có các pháp tạp nhiễm như tham v.v…, là do hữu vi, ví như mắt v.v…

Luận giả nói: Nếu nói như vậy là vì sự tạo thành hiện bày khắp nên lập thí dụ không đúng. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế nếu có mắt v.v… tức phải có các tướng hữu vi như sinh v.v… Nếu không có các tướng hữu vi thì như sừng thỏ v.v… cũng phải có các tướng hữu vi kia. Cho nên các tướng hữu vi ở trong thắng nghĩa đế quyết định không thành. Vì sao tướng hữu vi như sinh v.v… có thể thành lập?

Ở đây nên hỏi: Đối tượng tạo tác tăng thượng của pháp như sinh v.v… kia là hữu vi hay là vô vi? Cả hai đều không đúng.

Nên tụng đáp:

Nếu sinh là hữu vi

Tức nên có ba tướng.

Giải thích: Ví như tướng chủ thể, trong đó tướng chủ thể của hữu vi như vậy là không đúng. Thế nào là các tướng hữu vi? Ở đây đã nói, hai pháp hòa hợp là ba tướng biến hành nên trong đó ba tướng cũng đều dừng bỏ tự tướng của pháp kia.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu sinh là vô vi

Không tạo tướng hữu vi.

Giải thích: Sự thành tựu như vậy cần phải ngăn trừ lỗi an lập. Vì sao? Vì tự thể của vô vi cũng là không tánh, ví như pháp diệt. Pháp này quyết định như vậy, tức có lỗi lầm như vậy, nương trụ và vô thường như vậy, pháp khác cũng thế, đều đồng pháp sinh.

Luận giả nói: Tướng tức là chấp giữ lý pháp làm tánh. Điều đã nêu bày như vậy, vì sao sự sinh v.v… lại là cùng lìa là do có nghiệp dụng kia nên có thể chuyển, hoặc không xa lìa chăng?

Lại nữa, tụng nói:

Ba pháp như sinh v.v… lìa

Tức nghiệp dụng không tướng.

Giải thích: Vì sao các pháp hữu vi như sinh v.v… thứ lớp có thể chuyển? Nếu thể của pháp chưa sinh, tức hai pháp trụ và diệt không thể làm tướng hữu vi là do chưa sinh. Đó tức là tướng chủ thể không được giảng bày rõ. Nếu tự thể của pháp đã diệt hoàn toàn, tức là tướng chủ thể vô thể, nên không có hai pháp sinh và trụ. Vì pháp diệt kia chính nó là không tánh nên đã sinh tức là không trụ, không trụ tức là không sinh diệt, cũng là không tánh. Nếu nói vô thường theo đuổi pháp trụ, tức không thể tạo tướng hữu vi.

Nên tụng của Bách Luận nói:

Trụ sao có tướng diệt

Vô thường sao có trụ

Nếu trước có pháp trụ

Sau không cần phải có.

Nếu thường có vô thường

Có trụ không có thường

Hoặc trước có thường ấy

Sau tức không có thường.

Vô thường và trụ đồng

Nếu có Thể của chúng

Có thường tức tà vọng

Hoặc có trụ cũng vọng.

Ý của tụng như vầy: Nếu pháp hữu vi không lìa nhau thì vì sao dùng một vật thể ở trong một thời gian mà được hòa hợp?

Nên tụng bác bỏ:

Không ở trong một lúc

Sinh, trụ, diệt hòa hợp.

Giải thích: Vì do cùng trái nhau. Hoặc có người nói: Có tánh của nhân đồng chủng loại kia trong một lúc có thể sinh. Hoặc lại theo thứ lớp đã tạo tác được thành.

Luận giả nói: Điều này lại là thế nào? Hoặc ở trong hữu thể kia đạt được chăng? Hoặc xa lìa tướng chủ thể và tướng đối tượng có chỗ thủ đắc chăng? Nếu hữu thể đạt được thì không phải ở trong hữu thể có tánh thật của thể đồng sinh có thể đạt được, cũng không phải đối tượng tạo tác riêng có nhân ấy. Nếu là vô thể thì nhân này tức cũng không cùng sinh có thể có, cho nên trong thể không có quyết định sinh v.v… như vậy. Như tự tướng sinh, cũng là vì sao thứ lớp có thể thành?

Lại nữa, tụng nói:

Các tướng sinh, trụ, diệt

Riêng có tướng hữu vi

Có tức là vô cùng

Không tức chẳng hữu vi.

Giải thích: Nếu lìa sinh v.v… riêng có pháp sinh có thể thành, thì pháp sinh kia tức nhất định có pháp khác có thể lập. Như vậy nên có lỗi vô cùng, vì tướng hữu vi, vô vi là không hòa hợp.

Lại nữa, Sư Độc Tử Bộ nói: Các pháp như sinh v.v… tuy là hữu vi vì sao có thể nói là vô cùng?

Tụng của Tông kia nói:

Chỗ sinh của sinh sinh

Chỉ sinh nơi gốc sinh

Chỗ sinh của gốc sinh

Lại sinh nơi sinh sinh.

Ý của tụng này là: Lúc các pháp sinh cùng với tự thể của pháp có mười lăm pháp cùng thành pháp sinh. Tức là có đầy đủ các pháp như sinh, trụ, dị, diệt như vậy, pháp này như vậy, không có sai khác. Nếu phân biệt có sai khác tức có mười lăm pháp: Một là sinh. Hai là trụ. Ba là diệt. Bốn là nếu pháp trắng tức sinh chánh giải thoát. Năm là nếu pháp đen tức sinh tà giải thoát. Sáu là nếu không phải pháp xuất ly tức không sinh pháp xuất ly. Bảy là nếu pháp xuất ly tức sinh pháp xuất ly. Tám là sinh của sinh. Chín là trụ của trụ. Mười là diệt của diệt. Mười một là quyến thuộc của chánh giải thoát. Mười hai là quyến thuộc của tà giải thoát. Mười ba là quyến thuộc của pháp chẳng phải xuất ly. Mười bốn là quyến thuộc của pháp xuất ly. Trừ tự thể của gốc sinh là thành mười bốn pháp. Nếu cùng với pháp gốc sinh thì thành mười lăm. Hai pháp sinh của sinh và gốc sinh là ý ban đầu, trong đó đối tượng sinh theo sinh của sinh chỉ có sinh của gốc sinh. Lại không có pháp riêng là đối tượng sinh của gốc sinh tức trở lại sinh ra sinh của sinh. Như vậy mới sinh ra các pháp khác. Đây tức không rơi vào lỗi vô cùng.

Luận giả nói: Chỗ nêu như vậy đều không hợp đạo lý.

Nên tụng bác bỏ:

Nếu cho sinh sinh ấy

Có thể sinh gốc sinh

Sinh sinh từ gốc sinh

Sao sinh được gốc sinh.

Giải thích: Vì tự thể không có tánh như vậy.

Tụng lại bác bỏ:

Nếu cho gốc sinh ấy

Có thể sinh: sinh sinh

Gốc sinh từ sinh kia

Sao sinh được sinh sinh?

Giải thích: Vì tự thể không có tánh như vậy.

Lại có người nói: Lúc sinh sinh sinh ra tức nên là chủ thể sinh, do không có riêng biệt.

Tụng lại phá bỏ:

Nếu cho lúc sinh sinh

Có thể sinh gốc sinh

Sinh sinh nếu chưa sinh

Sao sinh được gốc sinh?

Giải thích: Sinh sinh nếu chưa sinh thì lúc sinh tức vô thể. Vô thể tức không sinh. Có năng lực nào để có thể sinh gốc sinh? Nếu không có năng lực tức không có hiển bày khẳng định.

HẾT – QUYỂN 5

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9