Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
觀世音菩薩本跡感應頌
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
QUYỂN IV – PHẦN 2
6. Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Ký Kinh (trích lục)
Một thời, Phật ngự trong Tiên Nhân Lộc Uyển tại thành Ba La Nại, cùng với hai vạn đại tỳ-kheo, một vạn hai ngàn vị Bồ Tát nhóm họp. Hoa Đức Tạng Bồ Tát bạch Phật:
– Làm thế nào để chẳng thoái chuyển nơi Bồ Đề và năm thứ thần thông, đắc Như Huyễn tam-muội, dùng phương tiện khéo để hóa thành các thân tùy theo từng loại chúng sanh nhằm thành tựu thiện căn cho họ, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ đắc Bồ Đề?
Phật dạy:
– Thành tựu một pháp sẽ đắc Như Huyễn tam-muội. Một pháp là gì? Chính là không nương tựa: Chẳng nương vào tam giới, cũng chẳng nương vào bên trong, lại chẳng nương vào bên ngoài, từ vô sở y (không có gì để nương tựa) mà đạt được sự quán sát chánh đáng. Đã quán sát chánh đáng rồi, liền đắc chánh tận (sự dứt diệt đúng thật), nhưng tri giác chẳng bị tổn giảm. Do tâm không giảm, ắt sẽ đạt đến chánh huệ. Nghĩa là: Hết thảy pháp từ duyên mà khởi. Nếu không có nhân duyên thì chẳng có pháp được sanh. Tuy hết thảy pháp từ nhân duyên mà sanh, nhưng không có gì được sanh. Khéo hiểu sâu xa ý nghĩa như vậy rồi thì sẽ biết hết thảy các pháp như huyễn, chỉ là ức tưởng ngôn ngữ, là pháp được tạo tác, biến hóa mà thôi. [Thấu hiểu] các pháp được tạo tác rốt ráo đều là không, sẽ đắc Như Huyễn tam-muội, có thể hóa hiện thân hình, tùy theo thiện căn của chúng sanh mà thuyết pháp cho họ.
Hoa Đức Tạng Bồ Tát bạch Phật:
– Trong đại chúng đây, có Bồ Tát nào đắc tam-muội ấy hay chăng?
Phật bảo:
– Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi v.v… sáu mươi vị Chánh Sĩ.
Lại bạch rằng:
– Nơi phương khác lại có Bồ Tát nào thành tựu tam-muội như thế hay chăng?
Phật dạy:
– Trong thế giới An Lạc ở phương Tây có Bồ Tát, một là Quán Thế Âm, hai là Đắc Đại Thế đắc tam-muội này. Lại nữa, nếu có Bồ Tát nào từ nơi vị Chánh Sĩ ấy, trong bảy ngày bảy đêm, nghe nhận pháp này, liền đắc Như Huyễn tam-muội.
[Hoa] Đức Tạng nói:
– Cõi ấy ắt có vô lượng Bồ Tát đắc tam-muội này, vì cớ sao? Người sanh về cõi ấy đều sẽ đến chỗ vị Chánh Sĩ ấy, nghe nhận pháp này.
Phật nói:
– Đúng như vậy! Đúng như thế. Có vô lượng A-tăng-kỳ Bồ Tát từ nơi vị Chánh Sĩ ấy đắc tam-muội này.
[Hoa] Đức Tạng bạch Phật:
– Xin hãy làm cho vị Chánh Sĩ ấy đến thế giới này hòng những kẻ thiện căn đã chín muồi được nghe thuyết pháp, đắc tam-muội này. Lại nguyện thấy A Di Đà Phật, khiến cho thiện nam tử, thiện nữ nhân phát Bồ Đề tâm, nguyện sanh về cõi ấy. Sanh về cõi ấy rồi sẽ trọn chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Khi ấy, đức Thế Tôn liền phóng quang từ tướng bạch hào giữa mày chiếu đến thế giới An Lạc. Đại chúng trong hội này đều thấy A Di Đà Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, quyến thuộc vây quanh, chói ngời như núi báu, cao rạng đặc biệt thù thắng, oai quang rực rỡ, chiếu khắp các cõi. Khi ấy, trong đại chúng này có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm và Đắc Đại Thế bạch với đức Phật ấy rằng:
– Chúng con nay muốn đến thế giới Sa Bà, lễ bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật.
Lại bảo với bốn mươi ức Bồ Tát quyến thuộc hãy cùng qua nghe pháp. Do sức thần thông, mỗi vị đều vì quyến thuộc hóa ra bốn mươi ức đài báu trang nghiêm. Các đài báu ấy ngang dọc mười hai do-tuần, vàng, bạc, lưu ly, xích châu, xa cừ, mã não hợp thành. Lại dùng xích châu, chiên-đàn, hoa sen xanh, đỏ, vàng, trắng để trang nghiêm, tuôn các thứ hoa. Trên đài có tám vạn bốn ngàn hóa ngọc nữ, cầm nhạc khí, hương, hoa. Phía trên có hóa Phật, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Lại treo những chuỗi bằng các thứ chân châu, bày các bình báu xinh đẹp, đựng đầy hương bột. Các lọng báu xinh đẹp, giăng che phía trên, trồng cây bằng chất báu mầu nhiệm. Tám vạn bốn ngàn linh báu và lưới báu giăng phủ bên trên. Giữa các cây có ao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong ấy, hoa sen bằng các thứ báu, ánh sáng và màu sắc chiếu ngời tươi tắn. Gió nhẹ lay động các hàng cây báu, phát ra âm thanh vi diệu vượt trỗi thiên nhạc. Mỗi một đài báu quang minh chiếu sáng rực tám vạn bốn ngàn do-tuần.
Khi ấy, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế và các quyến thuộc như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay liền đến thế giới này. Dùng sức thần thông khiến cho thế giới này đất bằng phẳng như nước, và tám mươi ức Bồ Tát trước sau vây quanh. Do đại công đức, trang nghiêm thành tựu, đoan nghiêm đặc biệt thù thắng chẳng thể ví dụ được, quang minh chiếu khắp thế giới Sa Bà.
Hoa Đức Tạng nói:
– Nay trong thế giới Sa Bà này, các đài báu mầu nhiệm trang nghiêm như thế là do thần lực của ai?
Phật dạy:
– Là do sức thần thông của Quán Thế Âm và Đắc Đại Thế. Ông hãy quán hằng hà sa thế giới ở phương Đông, thấy trước mỗi vị Phật ấy đều có Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế trang nghiêm giống như trên đây. Nam, Tây, Bắc phương, bốn góc, trên dưới cũng giống như thế.
Hoa Đức Tạng nói:
– Rất lạ, bạch Thế Tôn! Vị Đại Sĩ này có thể thành tựu tam-muội như thế. Hai vị Chánh Sĩ này đã phát Bồ Đề tâm nơi đức Phật nào?
Phật dạy:
– Trong vô lượng chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp rất lâu xa trong quá khứ, có thế giới tên là Vô Lượng Đức Tụ An Lạc Thị Hiện, Phật hiệu là Kim Quang Sư Tử Du Hý, quốc độ trang hoàng thanh tịnh, so với sự trang nghiêm của [cõi nước] A Di Đà Phật thì [sự trang nghiêm trong cõi Cực Lạc] giống như nước dính trên đầu sợi lông, còn [sự trang nghiêm trong] cõi Kim Quang Sư Tử Phật như nước trong biển cả. Khi ấy, có vua tên là Oai Đức phụng sự Như Lai. Phật vì vua diễn nói vô lượng pháp ấn, như là thương xót chúng sanh vô lượng, trang nghiêm Tịnh Độ vô lượng, cho đến một niệm thiện căn đều nên hồi hướng vô lượng. Vua ở nơi đình đài trong vườn, nhập tam-muội, hai bên vua có hoa sen từ dưới đất trồi lên, hai đồng tử (bé trai) hóa sanh trong ấy. Vua dùng kệ hỏi hai đồng tử, yêu cầu họ nói ra danh hiệu. Đồng tử bên phải nói kệ đáp:
Hết thảy các pháp không,
Cớ sao hỏi danh tự?
Pháp quá khứ đã diệt,
Pháp tương lai chưa sanh,
Pháp hiện tại chẳng trụ,
Nhân giả hỏi tên ai?
Đồng tử bên trái nói kệ đáp:
Tên nào cũng đều không,
Tên nào cũng chẳng được,
Muốn cầu tên chân thật,
Chưa bao giờ thấy nghe,
Nói danh tự, ngữ ngôn,
Đều là giả đặt bày,
Tôi tên là Bảo Ý,
Hắn tên là Bảo Thượng.
Lúc ấy, [hai đồng tử] cùng vua đi đến chỗ Phật. Hai đứa trẻ dùng kệ hỏi Phật:
Làm thế nào cúng dường,
Vô thượng Lưỡng Túc Tôn,
Hoa, hương, các âm nhạc,
Thức ăn, thuốc, đồ nằm,
Các cúng dường như thế,
Thế nào là tối thắng?
Phật nói kệ đáp:
Nên phát tâm Bồ Đề,
Rộng giúp các quần sanh,
Ví trọn hằng sa kiếp,
Dâng cúng các Như Lai,
Đồ quý đẹp trang nghiêm,
Và hoan hỷ vâng đội,
Chẳng bằng dùng từ tâm,
Hồi hướng nơi Bồ Đề,
Phước ấy là tối thắng,
Cúng thứ khác chẳng bằng!
Vượt trội chẳng thể tính,
Ắt thành Đẳng Chánh Giác.
Hai đứa trẻ lại nói kệ rằng:
Chư thiên, long, quỷ thần,
Nghe tôi sư tử hống,
Nay đối trước Như Lai,
Hoằng thệ phát Bồ Đề,
Sanh tử vô lượng kiếp,
Bổn Tế chẳng thể biết,
Do vì một chúng sanh,
Trải số kiếp hành đạo,
Huống trong các kiếp ấy,
Độ thoát vô lượng chúng,
Tu hành đạo Bồ Đề,
Mà sanh lòng mỏi mệt,
Nếu từ nay trở đi,
Tôi khởi tâm tham dục,
Sân, si, keo, ganh thảy,
Chính là lừa Thế Tôn,
Chẳng khởi tâm Thanh Văn,
Cũng chẳng cầu Duyên Giác,
Sẽ trong vạn ức kiếp,
Đại bi độ chúng sanh,
Như cõi Phật ngày nay,
Thanh tịnh diệu trang nghiêm,
Đến khi con đắc đạo,
Vượt trỗi ức trăm ngàn.
Phật bảo Hoa Đức Tạng:
– Vua Oai Đức thuở ấy chính là thân ta, hai đồng tử là Quán Âm và Thế Chí. Ở nơi đức Phật ấy, họ phát Bồ Đề tâm đầu tiên.
Hoa Đức Tạng thưa:
– Khi họ chưa phát tâm đã thành tựu trí huệ rất sâu, liễu đạt danh tự bất khả đắc.
Phật nói:
– Cát trong sông Hằng có thể biết được số, còn vị Đại Sĩ này trước kia cúng dường Phật, gieo các thiện căn thì chẳng thể tính kể được! Tuy chưa phát tâm mà đã trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, ở trong các chúng sanh là bậc dũng mãnh nhất. Trong tương lai chẳng thể tính đếm kiếp lâu xa, sau khi A Di Đà Phật nhập Niết Bàn, nếu có chúng sanh chẳng thấy Phật, có các Bồ Tát đắc Niệm Phật tam-muội thì thường thấy A Di Đà Phật. Sau khi Phật diệt độ, hết thảy bảo vật, ao tắm, hoa sen, các hàng cây báu thường diễn pháp âm chẳng khác gì Phật. Khi chánh pháp diệt, sau nửa đêm, lúc tướng sáng xuất hiện, Quán Thế Âm Bồ Tát thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Sự trang nghiêm nơi cõi nước của đức Phật ấy thì trong hằng sa kiếp chư Phật nói chẳng thể tận. Đem so sự trang nghiêm trong cõi nước của Kim Quang Sư Tử Phật với cõi nước của Công Đức Sơn Vương Phật thì chẳng thể dùng toán số để sánh được. Cõi nước Phật ấy không có danh từ Thanh Văn, Duyên Giác, thuần là các Bồ Tát đầy ắp trong ấy, có tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, thọ mạng của Như Lai cũng như vậy.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát dùng sức thần thông khiến cho chúng hội này cùng thấy mười phương vô số chư Phật Thế Tôn đều thọ ký cho họ.
7. Bi Hoa Kinh, phẩm Đại Thí và phẩm Thọ Ký (trích lục)
Phật bảo Tịch Ý Bồ Tát:
– Xưa kia, qua khỏi các A-tăng-kỳ kiếp nhiều như cát sông Hằng, thế giới Phật này có tên là San Đề Lam. Đại kiếp khi ấy có tên là Thiện Trì, Chuyển Luân Thánh Vương tên là Vô Tránh Niệm. Vua có một ngàn con trai, Thái Tử thứ nhất tên là Bất Thuấn (vị thứ hai là Đắc Đại Thế, thứ ba là Văn Thù, thứ tư là Kim Cang Trí, thứ năm là Hư Không Ấn, thứ sáu là Hư Không Nhật, thứ bảy là Sư Tử Hương, thứ tám là Phổ Hiền, thứ chín là A Súc, thứ mười là Hương Thủ). Suốt trọn ba tháng, cúng dường Bảo Tạng Như Lai và các tỳ-kheo tăng, dâng lên những thứ giúp họ an trụ giống hệt như thánh vương. Một ngàn người con như vậy, mỗi vị đều cúng Phật giống như vị Thái Tử thứ nhất, mỗi vị đều phát tâm, hoặc nguyện làm Đao Lợi thiên vương, hoặc cầu làm Phạm Vương, hoặc cầu làm Ma Vương, hoặc cầu làm Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc nguyện giàu to, hoặc cầu làm Thanh Văn. Trong các vị vương tử ấy, thậm chí chẳng có một vị cầu chứng Duyên Giác, huống hồ cầu Đại Thừa!
Khi ấy Chuyển Luân Vương do bố thí nên lại cầu đạt địa vị Chuyển Luân Vương. Lúc bấy giờ, đại thần là Bảo Hải Phạm Chí, đi trọn khắp chỗ của hết thảy mọi người trong cõi Diêm Phù Đề, xin những thứ cần dùng, trước hết muốn làm cho thí chủ quy y Tam Bảo, phát Bồ Đề tâm. Lại còn khuyên dụ trời, rồng, quỷ thần v.v… phát Bồ Đề tâm. Khi đó, hết thảy chúng sanh không một ai chẳng nghe theo Phạm Chí phát Bồ Đề tâm. Phạm Chí trong khi ngủ say thấy mười phương hằng hà sa Phật, mỗi vị đều trao cho hoa sen xinh đẹp. Trên mỗi đài hoa hiện hình tượng nhật luân (vầng mặt trời), trong mỗi nhật luân đều tỏa ra sáu mươi ức ánh sáng chui vào miệng Phạm Chí. Thấy trong bụng có sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn Bồ Tát ngồi xếp bằng trên hoa sen. Lại thấy vua ấy (tức vua Vô Tránh Niệm) huyết bẩn cả thân, ruổi chạy bốn phương, đầu mặt giống lợn, ăn các thứ trùng. Đã ăn trùng xong bèn có vô lượng chúng sanh đến ăn thân vua, thọ thân nhiều lần cũng đều giống như vậy. Lại thấy các vương tử: Hoặc là mặt lợn, hoặc là mặt voi, hoặc là mặt trâu, hoặc mặt sư tử, hoặc mặt cáo, sói, báo, hoặc mặt khỉ vượn, thân lấm bẩn máu, cũng đều ăn vô lượng chúng sanh. Lại có vô lượng chúng sanh đến ăn thân họ, thọ thân nhiều lượt cũng giống như thế. Phạm Chí bèn hướng về đức Phật kể lại đầy đủ, Phật dạy:
– Trong mộng, ông thấy thân người mặt lợn cho đến nhiều lượt thọ thân là vì có những kẻ si, trụ trong tam phước. Những người như vậy sẽ sanh làm ma hay trời, chịu nỗi khổ lui sụt, mất mát. Nếu sanh trong loài người sẽ hứng chịu nỗi khổ vì sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, áo não, khổ vì yêu thương mà bị chia lìa, khổ vì oán ghét mà phải gặp gỡ, khổ vì mong cầu chẳng thỏa. Sanh trong ngạ quỷ sẽ phải chịu khổ đói khát. Sanh trong súc sanh sẽ vô minh tối tăm, khổ vì bị đứt đầu. Sanh trong địa ngục, chịu các thứ khổ.
Khi ấy, Bảo Hải Phạm Chí khuyên Chuyển Luân Vương phát Bồ Đề tâm xong, lại bạch Thái Tử hãy hồi hướng Bồ Đề. Thái Tử đáp rằng:
– Ta trở về cung trước, ngồi ngay ngắn tư duy, rồi trở lại chỗ Phật, nhất định phát tâm, nguyện giữ lấy các thứ cõi Phật tịnh diệu.
Lễ Phật lui ra, đến cung điện của chính mình, ở chỗ riêng biệt, tư duy tu tập các thứ trang nghiêm cho thế giới Phật của chính mình. Trong bảy năm ấy, tâm [Thái Tử] không ham muốn, cho đến không có ý tưởng hương, vị, xúc, pháp, được thấy mười phương thế giới. Trong mỗi một phương, đối với tất cả sự trang nghiêm trong các thế giới Phật nhiều như số vi trần trong một vạn cõi Phật, tùy theo những điều đã thấy mà chọn lấy [điều mình ưa thích]. Bảy năm sau, Chuyển Luân Thánh Vương được thọ ký làm Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ. Thái Tử nói:
– Con nay quán chúng sanh trong địa ngục chịu nhiều khổ não, trong chúng trời người, ắt có kẻ tâm có trần cấu. Do tâm có trần cấu, nhiều phen bị đọa trong ba ác đạo. Con lại nghĩ như thế này: Các chúng sanh ấy do thân cận ác tri thức nên thoái thất chánh pháp, đọa trong chỗ tối tăm to lớn, hết sạch các thiện căn, thâu giữ các thứ tà kiến v.v… tâm bị che lấp, đi nơi đường tà.
Bạch Thế Tôn! Con nay dùng đại âm thanh bảo các chúng sanh: ‘Tất cả hết thảy thiện căn của tôi hồi hướng hết về A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nguyện khi tôi hành Bồ Tát đạo, nếu có chúng sanh gặp phải những chuyện khổ não, sợ hãi v.v… lui sụt chánh pháp, đọa vào chỗ tối tăm to lớn, ưu sầu, trơ trọi, cùng quẫn, không ai cứu giúp, che chở, không nơi nương tựa, không nơi nương ở, mà nếu có thể nghĩ nhớ đến tôi, xưng danh tự của tôi, nếu được thiên nhĩ của tôi nghe thấy, thiên nhãn trông thấy, mà các chúng sanh ấy nếu chẳng thoát khỏi những khổ não đó, tôi sẽ trọn chẳng thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề’.
Lại bạch Phật rằng:
– Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ lại vì chúng sanh mà phát nguyện thù thắng, cao trỗi.
Bạch Thế Tôn! Như con nay chính mình đã có thể mau chóng được lợi lạc, nguyện cho Chuyển Luân Thánh Vương sau khi hết các A-tăng-kỳ kiếp nhiều như cát một sông Hằng thứ nhất rồi, vừa mới bước vào A-tăng-kỳ kiếp nhiều như cát sông Hằng thứ hai, thế giới khi ấy tên là An Lạc. Đại vương thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, thế giới trang nghiêm, chúng sanh thanh tịnh, làm vị vua chánh pháp. Đức Phật Thế Tôn ấy trong vô lượng kiếp làm Phật sự đã xong, việc làm đã hoàn tất, nhập Vô Dư Niết Bàn, cho đến khi chánh pháp còn tồn tại, thì trong thời gian ấy, con tu Bồ Tát đạo, ngay trong khi ấy, hay làm Phật sự. Chánh pháp của đức Phật ấy diệt vào đầu đêm thì liền ngay cuối đêm, con liền thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Bảo Tạng Phật liền thọ ký rằng:
– Này thiện nam tử! Ông quán trời người và hết thảy chúng sanh trong ba ác đạo, sanh tâm đại bi, vì muốn đoạn các khổ não của chúng sanh, vì muốn làm cho chúng sanh trụ trong an lạc.
Này thiện nam tử! Ta nay đặt tên cho ông là Quán Thế Âm. Khi ông hành Bồ Tát đạo đã có trăm ngàn vô lượng ức na-do-tha chúng sanh được lìa khổ não. Khi ông làm Bồ Tát đã có thể làm Phật sự lớn lao. Lúc Vô Lượng Thọ Phật bát Niết Bàn rồi, khi chánh pháp diệt sạch, cõi ấy sẽ đổi tên thành Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu Thế Giới. Tất cả các thứ trang nghiêm vô lượng vô biên, thế giới An Lạc chẳng thể bằng được! Ông vào cuối đêm, trên tòa Kim Cang dưới cội Bồ Đề, trong khoảng một niệm, thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai. Thọ mạng của vị Phật ấy là chín mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn kiếp. Khi Ngài bát Niết Bàn rồi, chánh pháp trụ thế sáu mươi ba ức kiếp.
Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Nếu sở nguyện của con được thành tựu thì nay trong lúc con lễ Phật, sẽ khiến cho chư Phật trong mười phương nhiều như cát sông Hằng, mỗi vị đều thọ ký cho con, cũng khiến cho các thế giới trong mười phương nhiều như cát sông Hằng chấn động sáu cách.
Khi ấy, mười phương thế giới chấn động sáu cách[1], các vị Phật trong ấy đều thọ ký cho [Quán Thế Âm Bồ Tát]. Lúc đó, Bảo Tạng Như Lai vì Quán Thế Âm Bồ Tát nói kệ rằng:
Bậc đại bi công đức,
Nay hãy nên đứng dậy,
Đất chấn động sáu cách,
Và trong các cõi Phật,
Mười phương các đức Phật
Đã thọ ký cho ông,
Ông sẽ thành Phật đạo,
Vì thế nên hoan hỷ.
Nhận định: Trong kinh Đại Bi, đức Phật bảo A Nan: “Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai”. Sự thọ ký trong kinh này chính là trong vô lượng kiếp sau, kế thừa ngôi vị của đức Di Đà, hiệu là Công Đức Sơn Vương Như Lai, chính là thị tích[2], chẳng còn ngờ chi nữa! Cổ Phật thùy tích, chính là nhằm dạy bảo kẻ chẳng biết phát Bồ Đề tâm, lại cầu làm thiên vương, ma vương, Chuyển Luân thánh vương, hay mong được giàu to, đến nỗi đầu mặt giống như lợn, bị các loài trùng ăn, nhiều lượt thọ thân chẳng có thuở thoát ra. Bậc Đại Bi Bồ Tát cảnh tỉnh kẻ si mê, xả thân thành loài vật, há chẳng mổ tim vẩy máu, chấn động đất trời ư? Than ôi! Kẻ đọc đến đây chẳng biết cảm kích ân đức, ứa lệ thì đáng gọi là kẻ chẳng có tánh người!
Thế nhưng cảm ân đâu khó, báo ân mới khó! Báo ân như thế nào? Chính là phát Bồ Đề tâm vậy! Bồ Đề tâm nếu nói rộng thì như trong phẩm Phạm Hạnh, nói đại lược thì là Tứ Hoằng Thệ, tách ra thì là mười đại nguyện vương, nói hợp lại thì chính là cầu sanh Tịnh Độ. Nhưng nếu như có kẻ riêng đối với một câu cuối cùng lại nghi ngờ, bảo: Bồ Đề tâm chân không, vô tướng, còn cầu sanh Tịnh Độ thì vui thích, hâm mộ sự trang nghiêm, chưa khỏi chấp tướng! Bồ Đề tâm lấy đại bi làm gốc, [vậy thì] cầu sanh Tịnh Độ chán lìa đời ác, quá thiếu đại bi! Đối với những cái nhìn nông cạn, thô lậu như thế, há cần phải nói rộng rãi những ý nghĩa cao xa, chỉ hỏi những kẻ tu tập vô tướng hiện thời, há có thể trong suốt bảy năm không ham muốn cho đến không nghĩ đến hương, vị, xúc hay chăng?
Nhưng Đại Sĩ đã chứng cảnh giới này, vì sao lại nhìn khắp vi trần sự trang nghiêm để tùy ý chọn lấy, lại hỏi những kẻ phát nguyện độ sanh hiện thời, có thể khiến cho những ai xưng danh mình liền được giải thoát hay chăng? Đại Sĩ trọn đủ đạo lực này, cớ sao làm bậc Bổ Xứ trong thế giới Cực Lạc, được Như Lai thọ ký, lại ban cho danh hiệu Đại Bi? Đại để, những điều này đều là vì Đại Sĩ thấy thấu triệt chúng sanh trong đời Mạt chướng nặng, nguyện nhẹ, nghiệp sâu, trí cạn; đại chúng đông đảo nói chung đều cầu đời này phú quý, đời sau sang cả. Lại vì có những kẻ tà trí hâm mộ thần tiên ngoài biển, cung tiên trên trời, vì thế chẳng thoát khỏi luân hồi, dễ đọa vào ác đạo, [cho nên Bồ Tát] cảnh tỉnh họ, khuyên họ phát Bồ Đề tâm, biết Bồ Đề đáng quý.
Lại vì có lắm kẻ hiểu lầm Bát Nhã, vứt Có, chấp Không, hoặc chẳng suy xét tự lực, [chính mình còn đang mắc kẹt] dưới giếng [mà toan] cứu người. Vì chúng sanh thân cận ác tri thức, lui sụt, đánh mất chánh pháp, đọa trong chỗ tối tăm to lớn, tâm bị tà kiến che lấp mà cảnh tỉnh họ, nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Bởi lẽ, sanh về Tịnh Độ chính là [sanh về] chốn vui sướng được ở cùng một chỗ với các vị thượng thiện nhân, không có bạn ác, chim quý, cây báu thường nói pháp âm, không tà kiến nào có thể chen vào được, đắc bất thoái chuyển nơi Bồ Đề, đại nguyện dễ thành tựu. Giáo hóa chúng sanh thì phải lấy thân làm gương, đấy chính là lý do “ưa tịnh, chán nhơ”. Lại còn tận tình thổ lộ, nhưng người dạy thì ra rả, kẻ nghe lại rẻ rúng, cũng là phụ bạc ân sâu rủ lòng thị tích của bậc cổ Phật lắm thay!
Nếu có kẻ lại bảo: Cớ sao đức Thích Ca Mâu Ni Phật khi làm Phạm Chí phát tâm bèn giữ lấy cõi nhơ? Đáp: Như Lai đại giác, lìa hết thảy tánh, há có sạch hay nhơ? Giữ lấy tịnh, hay giữ lấy cấu, đều là thuận theo ngôn ngữ của thế tục, nhằm thực hiện sự nghiệp độ sanh đó thôi! Nhưng chúng sanh có muôn loại khác nhau, vì thế thị tích khó thể theo cùng một đường lối. Nếu không có Phật Thích Ca thì danh tự Tịnh Độ còn chưa thể được nghe thì lấy đâu để niệm Phật cầu sanh? Nếu chẳng có Quán Âm, thì kẻ Kiến Hoặc, Tư Hoặc chưa đoạn sạch còn mong chi mau chứng lên Bất Thoái? Nếu nói cứ phải giữ lấy tịnh chẳng giữ lấy cấu thì đức Thích Ca giáng sanh, hiện kim thân sai khác, Quán Âm ứng hóa, hiện thân hình giống với chúng sanh, từ trong cấu hiện tịnh, trong tịnh hiện cấu, phải nói như thế nào đây? Chúng ta là chúng sanh khổ não, hãy nên chuyên nghĩ “sanh tử là chuyện lớn, vô thường nhanh chóng”, há có nên lầm lạc sanh phân biệt đối với sự ứng hóa của Phật, Bồ Tát ư? Cố nhiên, Đại Sĩ khuyên người bỏ trược lấy tịnh, Như Lai thuyết pháp bốn mươi chín năm, chỗ nào cũng tán dương Tịnh Độ, khuyên con người hãy nên phát nguyện vãng sanh. [Chúng ta] chẳng thấu hiểu thánh tâm, chẳng vâng theo lời Phật, há chẳng những là cô phụ tấm lòng cứu độ của Đại Sĩ mà cũng là trên phụ ân Phật, dưới phụ tánh linh của chính mình đó vậy!
8. Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Kinh (trích lục)
Một thời, đức Phật ngự trong Đại Lâm Tinh Xá ở vườn cây Am La tại thành Tỳ Xá Ly cùng với một ngàn hai trăm năm mươi tỳ-kheo, hai vạn vị Bồ Tát nhóm họp. Khi ấy, nhân dân trong nước Tỳ Xá Ly mắc phải chứng bệnh ngặt nghèo to lớn: Một là mắt đỏ như máu, hai là hai tai chảy mủ, ba là mũi ứa máu, bốn là đớ lưỡi không nói được, năm là những thứ ăn vào hóa ra thô rít, sáu thức bế tắc giống như người say. Có năm Dạ Xoa mặt đen như mực, nhưng có năm mắt, răng nanh cong vểnh lên, hút tinh khí của con người.
Trong thành có một trưởng giả tên là Nguyệt Cái đến chỗ Phật bạch rằng:
– Nước này gặp phải bệnh ác, lương y Kỳ Bà tận hết đạo thuật mà chẳng thể cứu, kính mong đức Thế Tôn thương xót hết thảy, cứu vớt bệnh khổ.
Đức Thế Tôn bảo rằng:
– Cách đây không xa, ở ngay tại Tây Phương có đức Phật tên là Vô Lượng Thọ, có các Bồ Tát tên là Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thường do đại bi mà thương xót hết thảy, cứu vớt khổ ách. Ông nên năm vóc gieo sát đất, hướng về các Ngài làm lễ, đốt hương, rải hoa, hệ niệm, đếm hơi thở, khiến cho tâm chẳng tán loạn trong khoảng mười niệm, vì chúng sanh mà thỉnh đức Phật ấy và hai vị Bồ Tát.
Lúc đức Phật nói lời ấy, từ trong quang minh của đức Phật, được thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát. Do thần lực của Như Lai, đức Phật và Bồ Tát đều cùng đến cõi này, trụ trên khung cửa thành, phóng quang minh lớn, chiếu cả thành Tỳ Xá Ly đều biến thành sắc vàng, Người dân Tỳ Xá Ly liền sắp đặt cành dương, nước sạch, dâng cho Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Đại Bi Quán Thế Âm xót thương, cứu giúp, bảo vệ hết thảy chúng sanh nói như thế này:
– Các ngươi nên nhất tâm xưng Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, đại bi, đại danh xưng, cứu giúp, che chở kẻ khổ ách. Xưng niệm Tam Bảo ba lượt, xưng danh Quán Thế Âm ba lượt như thế, năm vóc gieo xuống đất, hướng về phương Tây, nhất tâm nhất ý giữ cho hơi thở được định, chắp tay, nói kệ rằng:
Nguyện cứu con khổ ách,
Đại bi che hết thảy,
Phóng trọn quang minh sạch,
Diệt trừ tối si ám,
Được thoát khổ độc hại,
Phiền não và các bệnh,
Ắt đến chỗ của con,
Ban con đại an lạc,
Con nay cúi đầu lễ,
Nghe tên đấng cứu nạn,
Con nay tự quy y,
Thế gian từ bi phụ,
Kính mong nhất định tới,
Cứu khỏi khổ ba độc,
Ban sự vui đời này,
Cùng với đại Niết Bàn.
Liền bạch Phật rằng:
– Thần chú như vậy nhất định cát tường. Người nghe thần chú này vĩnh viễn hết sạch các khổ, đắc Niệm Phật Định, hiện tiền thấy Phật. Con nay nói ra thần chú “cứu giúp, che chở chúng sanh” của mười phương chư Phật.
Nói chú[3] xong, người thành Tỳ Xá Ly bình phục như cũ. Khi ấy, đức Thế Tôn thương xót chúng sanh, lại thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát nói Tiêu Phục Độc Hại Chú[4]. Quán Thế Âm đại bi huân tâm, thuyết Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại Chú. Phật bảo A Nan:
– Thần chú này tên là Ban Cho Hết Thảy Chúng Sanh Thuốc Cam Lộ Mầu Nhiệm, Không Sợ Hãi Bệnh Tật, Sợ Chết Ngang Trái, Sợ Trói Buộc, Sợ Tham Dục, Sân Khuể, Ngu Si Ba Độc. Vì vậy, thế giới Sa Bà này đều gọi Quán Thế Âm Bồ Tát là Đấng Thí Vô Úy.
Thành Vương Xá có nữ nhân bị ác quỷ dựa, ta dạy người nữ ấy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thiện tâm tiếp nối, nhập cảnh giới lành. Nên biết sức oai thần của vị Bồ Tát này khuất phục, dẹp tan quỷ thần, được thấy sắc tượng khôn sánh nơi thân ta. Lúc ấy, nơi mỗi một lỗ chân lông của ta sanh ra hoa sen báu, vô số hóa Phật khác miệng cùng tiếng ca ngợi đấng Đại Bi Thí Vô Úy.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đại bi, đại danh xưng,
Bậc cát tường, an lạc,
Thường nói câu cát tường,
Cứu giúp kẻ rất khổ,
Nếu chúng sanh nghe tên,
Lìa khổ, được giải thoát,
Cũng dạo chơi địa ngục,
Đại bi chịu khổ thay,
Hoặc ở trong súc sanh,
Hóa thân hình súc sanh,
Dạy chúng đại trí huệ,
Khiến phát vô thượng tâm,
Hiện ra thân ngạ quỷ,
Tay tuôn sữa thơm đẹp,
Thí kẻ đói khát ngặt,
Khiến cho được no đủ.
Đại từ, đại bi tâm,
Dạo chơi trong năm đường,
Thường dùng thiện tập huệ,
Phương tiện khéo vô thượng
Dạy khắp hết thảy chúng,
Khiến lìa sanh tử khổ,
Thường đến nơi an lạc,
Đến bờ đại Niết Bàn.
Đức Phật bảo A Nan:
– Chương cú sáu chữ này nhất định cát tường. Nếu có ai nghe, sẽ được đại thiện lợi, đắc vô lượng công đức.
Trong thành Vương Xá có tỳ-kheo tên Ưu Ba Tư Na ở trong chốn rừng lạnh nói với đại chúng:
– Xưa kia, tôi sát sanh vô lượng, nghe chương cú sáu chữ của Quán Thế Âm Bồ Tát, chánh niệm tư duy, quán sát tâm và tâm mạch, hệ niệm một chỗ, thấy Quán Thế Âm Bồ Tát liền được giải thoát, thành A La Hán. Làm thế nào để thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát và mười phương Phật? Hãy giữ cho thân ngay ngắn, tâm ngay thẳng, khiến cho tâm bất động. Dùng bàn tay trái đặt trên bàn tay phải, cong lưỡi cho chạm vòm họng, giữ cho hơi thở điều hòa, quân bình, chẳng thô, chẳng tán, an tường thong thả đếm từng hơi thở từ một đến mười, ý chẳng phân tán, khiến cho tâm sáng sạch. Do sức định tâm bằng cách đếm hơi thở ấy, như thuận theo dòng nước chảy, sẽ mau thấy được Quán Thế Âm và mười phương Phật.
Phật bảo các tỳ-kheo:
– Các ông muốn uống pháp vị cam lộ vô thượng thì hãy nên tự nhiếp thân, ngồi ngay ngắn, chánh thọ, ý chẳng hướng ra ngoài, quán Khổ, Không, Vô Thường bại hoại, mòn diệt, chẳng lâu dài, tu năm môn Thiền. Hãy nên tự quán thân: Từ đầu đến chân, đối với mỗi đốt lóng đều hệ niệm, ngưng trụ chẳng tán, quán sát kỹ càng các lóng giống như cây chuối, trong ngoài đều rỗng không. Nên biết Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như thế.
Khi ấy, Ưu Ba Tư Na hỏi ngài Xá Lợi Phất:
– Nhãn và Nhãn Thức tương ứng với Sắc, nhiếp trụ như thế nào? Nhĩ và Nhĩ Thức tương ứng với Thanh, Tỵ và Tỵ Thức tương ứng với Hương, Thiệt và Thiệt Thức tương ứng với Vị, Ý và Ý Thức tương ứng với phan duyên, nhiếp trụ như thế nào? Giặc Thức như khỉ vượn, đùa bỡn sáu căn, duyên khắp các pháp, nhiếp trụ như thế nào?
Ngài Xá Lợi Phất nói:
– Hãy nên quán Địa Đại, đất không có tánh cứng. Thủy Đại thì tánh nước chẳng trụ. Phong Đại thì tánh gió vô ngại, do điên đảo mà có. Hỏa Đại thì tánh lửa chẳng thật, nhờ vào nhân duyên mà sanh. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, mỗi một tánh đều giống nhau.
Ưu Ba Tư Na bỗng nhiên thấu hiểu, nhập Bát Niết Bàn. Phật bảo Xá Lợi Phất:
– Nếu ai có tội nghiệp từ đời trước và những ác hạnh cực nặng đã tạo trong đời này, trong mộng được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ như cơn gió mạnh thổi qua mây đóng thành tầng, mây đều trôi tứ tán, [được lìa trọng tội ác nghiệp], sanh trước chư Phật. Ta nay vì kẻ thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và chương cú Tiêu Phục Độc Hại vô thượng mà nói kệ tán thán:
Nếu ai được nghe danh hiệu ta,
Cũng nghe Đại Bi Quán Thế Âm,
Tụng trì chú này lìa các ác,
Chẳng đọa địa ngục và súc sanh,
Hoa sen hóa sanh làm cha mẹ,
Tâm tịnh mềm mại, không trần cấu,
Ắt nghe vô thượng đại huệ minh,
Tâm định như đất chẳng thể động,
Hết thảy Phật xuất hiện trong đời,
Vì nhằm an lạc các chúng sanh,
Thân mỗi một vị, tuy khác miệng,
Ngồi ngay ngắn trên tòa Kim Cang,
Miệng phóng quang minh đủ năm màu,
Lưỡi có hình như cánh hoa sen,
Tán thán ca ngợi bậc Đại Bi,
Đấng sư tử điều ngự các pháp,
Quán Thế Âm bảo vệ cõi đời,
Nhất định tiêu tan các độc hại,
Dẹp trừ sạch hết ba độc căn,
Thành tựu Phật đạo chẳng còn ngờ,
Thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe danh tự tựa đề kinh này sẽ thường được thấy Phật, trọn đủ thiện căn, sanh về cõi Phật thanh tịnh.
Nhận định: Đây là Như Lai muốn cho con người hướng về, hâm mộ Tây Phương, nên rủ lòng ban truyền kinh tiếp dẫn này. Như trong kinh Bi Hoa, Phật Di Đà và đức Quán Âm thị hiện làm hạng độn căn nhằm cảnh tỉnh con người hãy cầu sanh Tịnh Độ, dụng ý giống hệt. Ấy là vì mười phương Như Lai đều cùng từ một biển diệu trang nghiêm, ngược dòng thoát ra, bất luận phô bày Bổn hay thị hiện Tích, hiện tịnh hay hiện trược, oai lực từ bi, công đức, thần thông, mỗi mỗi đều vô lượng, quyết chẳng có hơn hay kém. Như thế thì đối với tai nạn bệnh khổ của hết thảy chúng sanh, bất luận thuộc Sự hay Lý, tự chẳng có lẽ nào chỉ riêng đức Quán Âm mới có thể trị được, chứ Phật Thích Ca chẳng thể trị được! Nhưng trong lúc đức Phật và Văn Thù, Di Lặc, hai vạn vị đại Bồ Tát nhóm họp, chẳng trị bệnh cho người trong nước ấy, mà lại dạy họ hãy dốc lòng Thành nơi Tam Thánh, thiết tha thỉnh cầu Quán Âm. Ý nghĩa của việc dẫn dụ con người hâm mộ ưa thích Tịnh Độ, quy mạng Đại Sĩ là như thế nào vậy? Kinh này lấy “buộc tâm niệm Phật” làm Tông, lấy “hiện tiền được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát và mười phương Phật” làm Thú[5]. Các pháp như Sổ Tức, quán nhân duyên v.v… đều là trợ hạnh của niệm Phật !
(Nếu có kẻ nghi “nên lấy trì chú làm Tông” tức là chẳng biết trì chú hay trì danh nói chung đều quy về niệm Phật, mà trì danh càng thiết yếu hơn. Bởi lẽ, kẻ trì chú ắt phải kiêm trì danh, nhưng người trì danh chẳng cần phải kiêm trì chú. Hơn nữa, trong kinh nhiều lần nhắc tới chuyện “xưng niệm chương cú sáu chữ”, ngài Thiên Thai tuy giải thích là chú lực, nhưng cũng dùng kèm thêm thuyết “Phật, Pháp, Tăng, Quán Thế Âm” là sáu chữ. Vì thế, biết trì danh càng thiết yếu.
Hoặc lại có kẻ nghi kinh đặt nặng pháp Sổ Tức (đếm hơi thở) và quán nhân duyên, phải coi những pháp ấy là Tông, tức là chẳng biết Tông là nhân, còn Thú là quả. Nhân và quả ắt phải tương ứng, tướng trạng của sự chứng đắc nơi phép Sổ Tức chẳng qua là tâm nhãn sáng suốt, thấu tỏ, thấy được vật ở trong thân. Tướng trạng chứng đắc của phép quán nhân duyên chẳng qua là thấy mười hai nhân duyên và không Nhân, không Ngã, đều chẳng thể thấy Phật trong hiện tiền! Vì thế, [kinh này] lấy niệm Phật làm Tông).
Người học hãy nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải tham nhiều, chuộng rộng, phạm phải điều răn “chớ tạp tu”. Nếu tập khí phiền não quá nặng, cầu tịnh tâm trong chốc lát chẳng được thì hãy chọn lựa một pháp để đối trị, làm tiền phương tiện cho nhất tâm bất loạn, cố nhiên không gì là chẳng được! Do chọn lựa kinh luận nên tôi chép lại mấy điều luận rõ về tướng trạng của kinh này ghép vào ngay sau đoạn này để giúp cho việc tu tập.
Năm môn Thiền còn gọi là Ngũ Đình Tâm Quán: Sổ Tức nhằm trị tán loạn, Nhân Duyên Quán nhằm đối trị ngu si, Bất Tịnh Quán trị dâm dục, Từ Tâm Quán trị sân khuể, Niệm Phật trị chung các bệnh, cho nên gọi là vua của các tam-muội.
Sách Tiểu Chỉ Quán viết: “Khi mới nhập Thiền, giữ cho thân yên ổn, tháo đai lưng, dùng chân trái đè lên chân phải, kéo sát gần thân, tay trái đặt trên tay phải, chồng khít lên nhau. Tiếp đó, giữ thân ngay ngắn khiến cho xương sống đừng cong, đừng ưỡn, mũi ngang với rốn, mặt giữ ngay ngắn, môi và răng tựa vào nhau, lưỡi hướng lên vòm họng, nhắm mắt để khỏi thấy ánh sáng bên ngoài. Tiếp đó, điều hòa hơi thở sao cho thở ra hít vào không nghe tiếng, như còn, như mất. Tưởng hơi thở ra vào không chướng ngại nơi trọn khắp lỗ chân lông trên thân. Khi tâm đã yên, nếu bị hôn ám thì chú tâm nơi chót mũi để trị hôn trầm. Nếu tâm chao động thì chú tâm nơi rốn để trị phập phều, tán loạn (Niệm Phật thì dùng niệm lớn tiếng tụng rõ để trị hôn trầm, dùng từng chữ phân minh, từng tiếng tương ứng với tâm để trị phập phều, tán loạn, so với cách này càng tuyệt hơn). Như thế thì sẽ có thể trừ được những tật cũ, có thể đạt được Định đạo”.
Nhân Duyên Quán có nghĩa là các pháp không có tự tánh, cũng chẳng từ cái khác sanh, chẳng cùng chung, nhưng chẳng phải là không có nhân. Vì thế nói là “vô sanh”, chứ không phải chỉ nói riêng về mười hai nhân duyên. Tùy Tự Ý Tam Muội chép: “Trước hết, quán hơi thở ra vào khắp thân, dần dần cảm thấy thân này: Da, thịt, gân, xương có những lỗ hổng trọn khắp, giống như cây chuối. Quán lâu sẽ càng thêm rỗng sáng giống như bọt nước, dần dần mỏng như bong bóng nước, dần dần mờ nhạt như hình bóng, cuối cùng giống hệt như hư không. Thân này ví như bóng mây, như mây trôi trên không, soi bóng trên mặt đất. Mây ví cho nghiệp đã qua, bóng ví cho thân hiện tại. Mây tan thì bóng chẳng còn, nghiệp tận thì thân cũng thế, thân vốn không có thể, vô sắc lẫn vô hình, nghiệp đã qua và bóng dáng của thân vốn sẵn thường vắng lặng”.
Bất Tịnh Quán thì như sách Tọa Thiền Tam Muội viết: “Thoạt đầu quán tóc, lông, móng, răng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, gan, phổi, tim, lá lách, thận, bao tử, ruột già, ruột non, phân, tiểu, mũi, rãi, mỡ, não, màng bọc, các thứ bất tịnh như thế. Kế đến quán tướng xanh bầm, phình trương, máu thịt hư nát, nước hôi chảy ròng ròng, giòi bọ đục khoét, coi sắc đẹp như cái túi da thối, sẽ tự chẳng tham đắm”.
Từ Tâm Quán là như sách [Tọa Thiền] Tam Muội nói: “Hành giả thoạt đầu nghĩ tới các thứ cảnh vui như kẻ lạnh được áo, người nóng được mát, kẻ đói khát được ăn uống, kẻ nghèo hèn được phú quý v.v… Nguyện những người thân yêu đều đạt được [những sự vui sướng ấy], buộc tâm nơi lòng Từ, chẳng có ý niệm khác. Dần dần nghĩ đến mọi người, coi hết thảy mọi người đều như kẻ thân yêu, đều nguyện cho họ được vui sướng. Lại nghĩ đến những kẻ oán ghét, tuy họ với ta thù oán, há họ chẳng có điều lành khác đáng kể ư? Chẳng thể do một điều oán mà mất sạch những điều tốt lành khác! Lại nữa, trong đời quá khứ, có thể họ là người thân yêu của ta, chẳng thể kết oán với người thân! Lại nghĩ: Nhân từ có công đức khó lường, quả báo của sân độc đáng sợ, khiến cho vô lượng chúng sanh trong khắp thế giới đều được vui sướng thì tâm ta mới vui vẻ, đấy là Từ Tâm tam-muội”.
Nhân Duyên Quán và Bất Tịnh Quán trị chung ba độc tham – sân – si, như phẩm Thánh Hạnh trong kinh [Đại Bát] Niết Bàn đã dạy:
“Quán sát thân này từ đầu đến chân, tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, lá lách, thận, tim, phổi, gan, mật, ruột, bao tử, mạng mỡ, óc, màng bọc, tủy xương, mủ, máu, ai là ta?
Xương là Ngã ư? Xương như vậy là từ nhân duyên sanh, do bàn chân tựa vào xương cổ chân, do xương cổ chân tựa vào xương ống chân, xương ống chân chống vào đầu gối, đầu gối chống vào đùi, đùi chống vào xương chậu, xương chậu chống vào eo, eo tựa vào xương sống, xương sống đỡ xương sườn, xương sườn nâng xương cổ, xương cổ đỡ xương má, cho đến xương sọ. Lại do cổ đỡ xương bả vai, bả vai đỡ cánh tay, cánh tay đỡ cổ tay, cổ tay nối bàn tay, bàn tay đỡ ngón. Nếu hết thảy tất cả xương trên thân tách lìa thì [thân thể sẽ không còn tồn tại nữa, hành giả] sẽ đoạn được ba thứ ham muốn nơi hình mạo, tư thái, sự đụng chạm mềm mịn. Thân như vậy là do nhân duyên bất tịnh cùng nhau hòa hợp tạo thành, vì sao có thể ngồi, đứng dậy, đi, ở, co, duỗi, cúi, ngửa, nhìn, nháy, hít, thở, buồn khóc, vui cười. Trong ấy không có chủ, ai khiến cho nó như thế?
Hoặc Thức là Ngã ư? Lại quán Thức này, lần lượt sanh diệt giống như dòng nước chảy, cũng chẳng phải là Ngã. Hoặc hơi thở ra vào là Ngã ư? Lại quán hơi thở này, đúng là tánh của gió, tánh của đất chẳng phải là Ngã, tánh của gió, nước, lửa cũng chẳng phải là Ngã. Thân này hết thảy vô ngã, chỉ có gió tâm, nhân duyên hòa hợp mà thị hiện các thứ. Ví như do sức của thần chú mà biến hiện huyễn thuật, cũng như đàn Không Hầu[6] tùy ý vang ra tiếng thì sẽ ở nơi đâu mà sanh tham dục? Nếu bị nhục mạ thì lại ở nơi đâu mà sanh nóng giận? Ba mươi sáu vật trên thân này bất tịnh, hôi thối, từ chỗ nào mà có kẻ nhục mạ? Nếu người ta đến đánh thì cũng nên tư duy như vậy, chớ nên nổi giận. Quán như thế rồi sẽ trụ trong địa vị Kham Nhẫn”.
9. Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (lược trích)
Vy Đề Hy bạch Phật:
– Chúng sanh đời vị lai nên quán Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát như thế nào?
Phật dạy:
– Hãy nên tưởng hoa sen trên ao bảy báu. Trên mỗi một cánh hoa ấy tưởng có màu của trăm thứ báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân giống như nét vẽ cõi trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Cánh hoa nhỏ có kích thước là hai trăm năm mươi do-tuần. Hoa sen như vậy có đủ tám vạn bốn ngàn cánh, trong mỗi một cánh có trăm ức Ma Ni châu vương chiếu sáng ngời. Mỗi một viên Ma Ni châu phóng ra một ngàn tia quang minh. Ánh sáng ấy như cái lọng do bảy báu hợp thành phủ khắp mặt đất. Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng để làm đài, tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca và báu Phạm Ma Ni, lưới chân châu đẹp đẽ dùng để trang hoàng. Trên đài có bốn trụ tràng báu, như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Trên tràng giăng lưới báu như cung trời Dạ Ma, có năm trăm ức bảo châu vi diệu chiếu sáng ngời. Mỗi một viên châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, mỗi một ánh sáng tỏa ra tám vạn bốn ngàn sắc vàng khác nhau. Mỗi một sắc vàng trọn khắp cõi báu, biến hóa khắp nơi, mỗi sắc vàng đều biến hiện hình tướng khác biệt, hoặc hiện thành đài Kim Cang, hoặc thành lưới chân châu, hoặc là mây gồm nhiều loại hoa để làm Phật sự trong mười phương.
Kế đó, hãy nên tưởng Phật, vì sao vậy? Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Vì vậy, khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình, tâm ấy làm Phật thì tâm ấy là Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh. Vì thế, hãy nên một lòng hệ niệm, quán kỹ đức Phật ấy.
A Nan nên biết! Thân của Vô Lượng Thọ Phật có màu như trăm ngàn vạn ức vàng Diêm Phù Đàn trong cõi trời Dạ Ma. Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Bạch hào giữa hai mày uyển chuyển cuộn theo chiều bên phải như năm quả núi Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển, xanh trắng phân minh. Các lỗ chân lông trên thân tỏa ra quang minh như núi Tu Di. Viên quang của đức Phật ấy như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Trong viên quang có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa hóa Phật. Mỗi một hóa Phật cũng có vô số hóa Bồ Tát rất đông để làm thị giả. Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi một tướng đều có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi một hảo, lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Quang minh, tướng hảo ấy và các vị hóa Phật chẳng thể nói trọn, chỉ nên ức tưởng, khiến cho tâm nhãn được thấy. Thấy sự ấy rồi liền thấy mười phương hết thảy chư Phật. Do thấy chư Phật nên gọi là Niệm Phật tam-muội. Quán như thế gọi là Quán Nhất Thiết Phật Thân. Do quán thân Phật mà cũng thấy được tâm Phật. Tâm Phật đại từ bi, dùng Vô Duyên Từ nhiếp các chúng sanh. Người quán như vậy bỏ thân, sanh sang đời khác, sẽ sanh ở trước Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn. Vì thế, người trí hãy nên buộc lòng, quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật.
Quán Vô Lượng Thọ Phật từ một tướng hảo để nhập quán, chỉ quán tướng bạch hào giữa hai mày cho thật rõ ràng. Thấy được tướng bạch hào giữa hai mày thì tám vạn bốn ngàn tướng hảo sẽ tự nhiên hiện. Thấy Vô Lượng Thọ Phật chính là thấy mười phương vô lượng chư Phật. Do được thấy vô lượng chư Phật nên chư Phật hiện tiền thọ ký.
Kế đó, lại nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần, thân màu vàng tía, đỉnh đầu có nhục kế, cổ có viên quang, mỗi phía đều tỏa rộng đến trăm ngàn do-tuần. Trong viên quang ấy có năm trăm hóa Phật giống như Thích Ca Mâu Ni Phật. Mỗi một hóa Phật có năm trăm hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên để làm thị giả. Trong ánh sáng tỏa khắp quanh thân, chúng sanh trong năm đường, hết thảy sắc tướng đều hiện trong ấy. Trên đỉnh đầu dùng báu Tỳ Lăng Già Ma Ni để làm mão trời, trong mão trời có một vị hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần.
Quán Thế Âm Bồ Tát sắc mặt như vàng Diêm Phù Đàn, tướng bạch hào giữa hai mày có đủ màu của bảy thứ báu, tỏa ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi một quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi một hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả, biến hiện tự tại đầy khắp mười phương thế giới. Tay Bồ Tát có màu như hoa sen hồng, có tám mươi ức quang minh vi diệu dùng làm chuỗi ngọc. Trong những chuỗi ngọc ấy, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm. Lòng bàn tay có màu của năm trăm ức hoa sen nhiều màu. Mười đầu ngón tay, mỗi một đầu ngón có tám vạn bốn ngàn đường vân giống như nét ấn. Mỗi một vạch có tám vạn bốn ngàn màu. Mỗi một màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm mại, chiếu khắp hết thảy. Bồ Tát dùng tay báu ấy để tiếp dẫn chúng sanh.
Khi Ngài giở chân lên, dưới chân có tướng bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Khi đặt chân xuống, có hoa Kim Cang Ma Ni rải rắc hết thảy, không đâu chẳng trọn khắp. Nơi những thân tướng khác, các thứ hảo trọn đủ giống như Phật chẳng khác biệt, chỉ có nhục kế trên đỉnh đầu và Vô Kiến Đảnh Tướng là chẳng bằng Phật. Người quán như vậy chẳng gặp các họa, tịnh trừ nghiệp chướng, trừ tội trong vô số kiếp sanh tử. Vị Bồ Tát như vậy chỉ nghe tên Ngài đã được vô lượng phước, huống hồ quán kỹ! Nếu muốn quán tưởng, trước hết hãy quán nhục kế, rồi quán mão trời, những tướng khác cũng theo thứ tự mà quán.
Kế đó, quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Vị Bồ Tát thân lượng lớn nhỏ cũng như Quán Thế Âm, viên quang mỗi phía rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi do-tuần, quang minh khắp thân chiếu thấu các cõi trong mười phương, [các cõi ấy đều hóa] thành màu vàng tía, chúng sanh hữu duyên thảy đều được thấy. Chỉ thấy được ánh sáng nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát thì sẽ liền thấy quang minh tịnh diệu của mười phương vô lượng chư Phật. Vì thế, vị Bồ Tát này tên là Vô Biên Quang. Ngài dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp hết thảy, khiến cho lìa tam đồ, đắc vô thượng lực. Vì thế, vị Bồ Tát này có hiệu là Đại Thế Chí. Mão trời của vị Bồ Tát này có năm trăm hoa báu; mỗi một hoa báu có năm trăm đài báu. Trong mỗi một đài, tướng cõi nước tịnh diệu rộng lớn của mười phương chư Phật đều hiện trong ấy. Nhục kế trên đỉnh giống như hoa Bát-đầu-ma[7]. Trên nhục kế có một bình báu chứa đầy quang minh, hiện khắp các Phật sự. Những tướng khác nơi thân giống hệt như Quán Thế Âm chẳng khác gì.
Khi vị Bồ Tát này đi, mười phương thế giới hết thảy chấn động. Trong lúc cõi đất lay động, có năm trăm ức hoa báu, mỗi một hoa báu trang nghiêm cao rộng rõ ràng như thế giới Cực Lạc. Khi vị Bồ Tát này ngồi, các cõi nước bảy báu cùng lúc lay động từ cõi Kim Quang Phật ở phương dưới cho đến cõi Quang Minh Vương Phật ở phương trên. Trong khoảng ấy, vô lượng vi trần số phân thân của Vô Lượng Thọ Phật, phân thân của Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát đều vân tập về cõi nước Cực Lạc, đầy nghẹt không trung, ngồi trên tòa hoa sen, diễn nói diệu pháp độ chúng sanh khổ.
Người quán như thế sẽ trừ tội trong vô số kiếp A Tăng Kỳ sanh tử, chẳng ở trong thai bào, thường dạo nơi các cõi nước tịnh diệu của chư Phật. Nếu ai chí tâm, muốn sanh về Tây Phương thì trước hết hãy quán tượng Vô Lượng Thọ Phật cao một trượng sáu đứng trên mặt nước ao. Như đã nói trong phần trên, thân lượng [của A Di Đà Phật] vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể quán được. Nhưng do sức túc nguyện của đức Như Lai ấy, hễ có ai nhớ tưởng ắt sẽ được thành tựu. Chỉ tưởng Phật tượng sẽ được vô lượng phước, huống hồ lại quán thân tướng đầy đủ của Phật. A Di Đà Phật thần thông như ý, trong mười phương cõi biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn đầy chật hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu, tám thước. Những thân hình được hiện đều là sắc vàng ròng. Hóa Phật trong viên quang và các hoa sen báu như trong phần trên đã nói. Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát hết thảy chỗ nơi thân giống hệt nhau, chúng sanh chỉ quán tướng nơi đầu sẽ biết là Quán Thế Âm hoặc biết là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ Tát này giúp A Di Đà Phật giáo hóa khắp hết thảy.
Thượng Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh nguyện sanh về cõi ấy, phát ba thứ tâm, liền được vãng sanh: Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đầy đủ ba tâm này ắt sanh về cõi ấy. Lại có ba loại chúng sanh sẽ được vãng sanh. Một là từ tâm không giết, đủ các giới hạnh; hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, ba là tu hành sáu niệm[8], hồi hướng, phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy. Đủ các công đức này từ một ngày cho đến bảy ngày thì liền được vãng sanh. Khi sanh về cõi ấy, do người này tinh tấn, dũng mãnh, A Di Đà Như Lai và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài Kim Cang cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu vào thân hành giả, và các vị Bồ Tát đều đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số Bồ Tát khen ngợi hành giả, khuyến tấn tâm người ấy. Hành giả thấy rồi, hoan hỷ, hớn hở, tự thấy thân mình ngồi trên đài Kim Cang, theo sau đức Phật như trong khoảng khảy ngón tay sanh về cõi kia. Sanh về cõi kia rồi, thấy sắc thân của Phật, các tướng trọn đủ, thấy các Bồ Tát sắc tướng trọn đủ, quang minh, rừng báu, diễn nói diệu pháp. Nghe rồi liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong khoảnh khắc, phụng sự khắp chư Phật, trong trọn khắp mười phương, ở trước chư Phật lần lượt được thọ ký, trở về nước mình, đắc vô lượng trăm ngàn môn đà-la-ni.
Người Thượng Phẩm Trung Sanh khéo hiểu nghĩa thú, chẳng cần thọ trì, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng, đối với Đệ Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh sợ, tin sâu nhân quả[9], chẳng báng Đại Thừa. Dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc. Người hành hạnh này lúc lâm chung, A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử kim (vàng tía) đến trước hành giả, khen rằng: “Pháp tử! Ngươi hành Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa. Vì thế, nay ta đến đón ngươi”, Ngài cùng với một ngàn vị hóa Phật, cùng lúc xòe tay [tiếp dẫn]. Hành giả tự thấy ngồi trên đài tử kim, chắp tay, khen ngợi chư Phật, như trong khoảng một niệm liền sanh trong ao bảy báu nơi cõi kia. Đài tử kim ấy như hoa sen to, qua một đêm mới nở. Hành giả thân có màu như vàng tía được trau giồi, dưới chân có hoa bảy báu, Phật và Bồ Tát đều cùng lúc phóng quang chiếu vào thân hành giả, mắt [người ấy] liền được mở sáng. Do những điều tu tập từ trước, nghe khắp các âm thanh thuần nói về Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu, liền từ đài vàng bước xuống, lễ Phật, chắp tay, khen ngợi Thế Tôn. Sau bảy ngày, ngay lập tức liền được đắc Bất Thoái Chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngay lập tức liền có thể bay đi, đến khắp mười phương, phụng sự khắp chư Phật. Ở chỗ chư Phật, tu các tam-muội, trải qua một tiểu kiếp đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ ký.
Người Thượng Phẩm Hạ Sanh cũng tin nhân quả, chẳng báng Đại Thừa, nhưng chỉ phát vô thượng đạo tâm, dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc. Khi hành giả lâm chung, A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng với các vị Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa ra năm trăm vị Phật, đến đón người ấy. Năm trăm vị hóa Phật cùng lúc đưa tay nghênh đón, khen rằng: “Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh phát vô thượng đạo tâm, ta đến đón ngươi”. Khi thấy việc này, người ấy liền thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa khép lại, theo sau Thế Tôn, liền được sanh vào ao bảy báu. Qua một ngày một đêm, hoa sen mới nở. Trong vòng bảy ngày, bèn được thấy Phật. Tuy thấy thân Phật, nhưng tâm chẳng hiểu rõ các tướng hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rõ ràng, nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, trải khắp mười phương, cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe pháp rất sâu. Trải qua ba tiểu kiếp đắc bách pháp minh môn[10], trụ Hoan Hỷ Địa.
Hạng Trung Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh thọ trì Ngũ Giới, trì Bát Giới Trai (Bát Quan Trai Giới), tu hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch, không có các lầm lỗi. Đem thiện căn ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Khi lâm chung, A Di Đà Phật và các tỳ-kheo quyến thuộc vây quanh, phóng ánh sáng sắc vàng, đến chỗ người ấy, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, khen ngợi xuất gia được lìa các khổ. Hành giả thấy rồi, tâm hết sức hoan hỷ, tự thấy thân mình ngồi đài hoa sen, quỳ dài[11] chắp tay, lễ Phật. Trong khi chưa ngẩng đầu lên, liền được sanh về thế giới Cực Lạc. Hoa sen liền nở. Trong khi hoa nở, nghe các thứ âm thanh khen ngợi Tứ Đế, ngay lập tức liền đắc đạo A La Hán, Tam Minh, Lục Thông, đủ tám giải thoát.
Trung Phẩm Trung Sanh là nếu có chúng sanh trong một ngày một đêm, trì tám trai giới, hoặc một ngày một đêm giữ giới Sa Di[12], hoặc một ngày một đêm giữ Cụ Túc Giới[13], oai nghi không thiếu. Dùng công đức ấy hồi hướng phát nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc, giới hương huân tu. Hành giả như thế lúc lâm chung, thấy A Di Đà Phật và các quyến thuộc phóng ánh sáng sắc vàng, cầm hoa sen bảy báu, đến trước hành giả. Hành giả tự nghe trên hư không có tiếng khen ngợi: “Thiện nam tử! Như ngươi là người lành, do tùy thuận lời dạy của tam thế chư Phật nên ta đến đón ngươi”. Hành giả thấy ngồi trên hoa sen, hoa sen liền khép lại, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới ở trong ao báu. Sau bảy ngày hoa mới nở. Hoa đã nở rồi, mở mắt, chắp tay, khen ngợi Thế Tôn, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Nửa kiếp sau thành A La Hán.
Trung Phẩm Hạ Sanh là nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hiếu dưỡng cha mẹ, hành hạnh nhân từ của thế gian. Người ấy khi lâm chung gặp thiện tri thức vì người ấy rộng nói những sự vui trong cõi A Di Đà Phật, cũng nói bốn mươi tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng. Nghe chuyện ấy xong liền mạng chung, ví như trong khoảng tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau bảy ngày gặp Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán.
Hạ Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh làm các nghiệp ác, tuy chẳng phỉ báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng người ngu như thế tạo nhiều pháp ác, chẳng hề hổ thẹn. Lúc lâm chung, gặp thiện tri thức, vì người ấy nói danh hiệu tựa đề của mười hai bộ kinh Đại Thừa. Do nghe danh hiệu các kinh như thế, trừ khử ác nghiệp cực nặng trong ngàn kiếp. Bậc trí lại dạy người ấy chắp tay, xưng “Nam Mô A Di Đà Phật”. Do xưng danh hiệu Phật, trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Lúc bấy giờ, đức Phật ấy liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí, đến trước hành giả, khen rằng: “Này thiện nam tử! Do ngươi xưng danh hiệu Phật, các tội tiêu diệt, ta đến đón ngươi”. Nói lời ấy xong, hành giả liền thấy quang minh của hóa Phật trọn khắp trong phòng. Thấy xong hoan hỷ liền mạng chung, cưỡi hoa sen báu, theo sau hóa Phật, sanh trong ao báu. Trải qua bốn mươi chín ngày, hoa sen bèn nở. Trong khi hoa nở, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh, ở trước người ấy, vì họ nói mười hai bộ kinh rất sâu. Nghe xong tin hiểu, phát vô thượng đạo tâm. Sau mười tiểu kiếp, trọn đủ bách pháp minh môn, được nhập Sơ Địa.
Hạ Phẩm Trung Sanh là nếu chúng sanh hủy phạm Ngũ Giới, Bát Giới và Cụ Túc Giới. Kẻ ngu như thế trộm vật Tăng Kỳ[14], ăn cắp vật của hiện tiền tăng, thuyết pháp bất tịnh, chẳng hề hổ thẹn, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Tội nhân như thế do vì ác nghiệp đáng đọa địa ngục. Lúc mạng sắp hết, các thứ lửa địa ngục cùng lúc hiện đến, gặp thiện tri thức do lòng đại từ bi vì kẻ ấy khen nói thập lực oai đức của A Di Đà Phật, khen ngợi rộng rãi quang minh, thần lực của đức Phật ấy, cũng như khen ngợi Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Người ấy nghe xong, trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lửa mạnh địa ngục hóa thành gió nhẹ mát rượi, thổi các hoa trời, trên mỗi hoa đều có hóa Phật, hóa Bồ Tát đón tiếp người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền được sanh vào trong ao bảy báu, ở trong hoa sen trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng Phạm âm an ủi người ấy, vì người ấy nói kinh điển Đại Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay lập tức liền phát vô thượng đạo tâm.
Hạ Phẩm Hạ Sanh là nếu có chúng sanh chẳng làm thiện nghiệp, [mà tạo] Ngũ Nghịch, Thập Ác, trọn đủ các điều bất thiện. Kẻ ngu như thế do ác nghiệp nên đáng đọa vào ác đạo trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Người ngu như thế tới lúc lâm chung gặp thiện tri thức an ủi nhiều cách, vì kẻ ấy nói diệu pháp, dạy kẻ ấy niệm Phật[15]. Kẻ ấy bị sự khổ bức bách, chẳng thể niệm Phật, thiện hữu bảo rằng: “Nếu ngươi chẳng thể yên định niệm đức Phật ấy thì hãy nên xưng danh Vô Lượng Thọ Phật. Chí tâm như thế khiến cho tiếng niệm chẳng dứt, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật, trong mỗi một niệm, trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, thấy hoa sen vàng giống như vầng mặt trời, ở trước người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc. Ở trong hoa sen, đủ mười hai đại kiếp, hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng âm thanh đại bi, vì kẻ ấy rộng nói Thật Tướng của các pháp và cách trừ diệt tội. Nghe xong hoan hỷ, ngay lập tức phát tâm Bồ Đề. Thiện nam tử, thiện nữ nhân chỉ nghe danh hiệu Phật và danh hiệu hai vị Bồ Tát liền trừ tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống là ức niệm! Nếu là người niệm Phật thì Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là bạn thù thắng, sẽ ngồi nơi đạo tràng, sanh trong nhà chư Phật.
Nhận định: Quán Âm Đại Sĩ phân thân trong các cõi số nhiều như vi trần, tầm thanh cứu khổ. Tuy mỗi loài mong cầu khác nhau, nhưng Ngàì đều khiến cho được mãn nguyện; quả thật chỉ muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại Niết Bàn, viên thành Phật đạo mà thôi! Nhưng do chúng sanh căn khí bất nhất, chẳng thể khế hợp trực tiếp điều Ngài mong mỏi nên chẳng thể không dùng Dục để lôi kéo họ trước, rồi mới khiến cho họ nhập Phật trí. Vãng sanh Tây Phương chính là con đường trọng yếu thẳng chóng để đắc đại Niết Bàn. Vì thế, Ngài phù tá Phật Di Đà tiếp dẫn chúng sanh, khiến cho thượng thánh hạ phàm đều cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây, sanh sang cõi Cực Lạc kia nhằm thỏa bổn nguyện độ sanh. Nay sao kinh hòng dẫn chứng, riêng phần Cửu Phẩm trong Quán Kinh là sao lục cặn kẽ nhất để mong cho hết thảy những người cùng hàng hiểu cặn kẽ oai đức, thần lực của Tam Thánh, nhân hiện tại và quả mai sau của chín phẩm [vãng sanh], hòng phát tâm vô thượng, tạo chí hướng vãng sanh mạnh mẽ, hăm hở. Biết như thế thì sẽ an ủi được tấm lòng đau đáu đại bi cứu khổ triệt để của Đại Sĩ, mà cũng chẳng phụ thiên chân Phật tánh vốn sẵn có ở ngay trong tâm của chúng ta.
10. Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (lược trích)
Một thời, đức Phật ngự tại núi Bổ Đà Lạc Ca, trong đạo tràng Bảo Trang Nghiêm nơi cung điện của Quán Thế Âm cùng với vô ương số[16] Bồ Tát, vô lượng đại Thanh Văn, vô lượng thiên, long bát bộ thần v.v… đều đến nhóm họp. Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát ngầm phóng quang minh thần thông, chiếu sáng rực mười phương cõi nước đều biến thành sắc vàng. Ánh sáng của mặt trời và mặt trăng đều chẳng hiện. Tổng Trì Vương Bồ Tát thấy vậy, ngạc nhiên cho là điều chưa từng có, hỏi Phật:
– Tướng thần thông như thế là do ai phóng ra?
Phật dạy:
– Nay trong hội này có Bồ Tát tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay, thành tựu đại từ đại bi, khéo có thể tu tập vô lượng môn đà-la-ni, vì muốn an lạc các chúng sanh nên ngầm hiện sức đại thần thông như thế.
Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Con có Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú, nay con muốn nói. Do vì làm cho các chúng sanh được an lạc, vì được thọ mạng, vì được giàu có, dư dật, vì trừ diệt hết thảy ác nghiệp tội nặng, vì tăng trưởng các công đức của hết thảy bạch pháp, vì mau có thể trọn đủ hết thảy các thứ mong cầu. Kính xin Thế Tôn xót thương cho phép.
Phật nói:
– Ông đại từ bi an lạc chúng sanh, muốn nói thần chú, Như Lai tùy hỷ.
Quán Thế Âm nói:
– Con nhớ vô lượng ức kiếp trong quá khứ có Phật hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Đức Phật ấy thương con và hết thảy chúng sanh, nói Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, dùng cánh tay sắc vàng xoa đỉnh đầu con bảo: “Ông nên trì tâm chú này, vì khắp hết thảy chúng sanh đời ác trong tương lai mà tạo đại lợi lạc”. Con trong khi ấy chỉ mới trụ Sơ Địa, do vừa nghe chú này bèn vượt lên Đệ Bát Địa, liền phát thệ rằng: “Nếu trong tương lai con có thể tạo lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sanh thì khiến cho thân con trọn đủ ngàn mắt, ngàn tay”. Nguyện như thế xong, ngay lập tức trọn đủ. Ngàn vị Phật trong mười phương đều phóng quang minh, chiếu chạm thân con và mười phương vô biên thế giới. Kẻ nào muốn tụng trì thì phải khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, trước hết hãy nên phát nguyện theo con:
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết hết thảy pháp,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ hết thảy chúng,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đắc thiện phương tiện,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau ngồi thuyền Bát Nhã,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm vượt được biển khổ,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đắc Giới Định đạo,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên núi Niết Bàn,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm về nhà vô vi,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh,
Nếu con hướng núi đao,
Núi đao tự gãy sụp,
Nếu con hướng vạc lửa,
Vạc lửa tự tiêu diệt,
Nếu con hướng địa ngục,
Địa ngục tự khô cạn,
Nếu con hướng ngạ quỷ,
Ngạ quỷ tự no đủ,
Nếu con hướng Tu La,
Ác tâm tự điều phục,
Nếu con hướng súc sanh,
Tự đắc đại trí huệ,
Phát nguyện ấy xong, chí tâm xưng niệm danh hiệu của con, cũng nên chuyên niệm Bổn Sư của con là A Di Đà Như Lai, rồi mới tụng chú. Một đêm tụng đủ bảy biến sẽ trừ được trọng tội trong trăm ngàn vạn ức kiếp sanh tử nơi thân. Nếu các trời người tụng trì chương cú Đại Bi thì khi lâm chung, mười phương chư Phật đều đến đưa tay [tiếp dẫn], muốn sanh cõi Phật như thế nào sẽ đều tùy theo lòng mong mà được vãng sanh. Kẻ tụng trì thần chú Đại Bi mà đọa trong ba ác đạo thì con thề chẳng thành Chánh Giác. Ai tụng trì thần chú Đại Bi mà chẳng sanh về các cõi nước Phật thì con thề chẳng thành Chánh Giác. Ai tụng trì thần chú Đại Bi mà trong đời này hết thảy điều mong cầu chẳng được toại nguyện thì chẳng được gọi là Đại Bi Tâm Đà La Ni. Chỉ trừ chẳng lành, trừ chẳng chí thành, hết thảy Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng người, báng pháp, phá giới, phá trai, phá tháp, hoại chùa, trộm Tăng Kỳ vật, ô uế phạm hạnh thanh tịnh, hết thảy ác nghiệp tội nặng như thế đều trừ sạch, chỉ trừ một chuyện: Sanh lòng nghi đối với chú này.
Lại nữa, người tụng Đại Bi Tâm Chú được mười lăm thứ sanh tốt lành, chẳng hứng chịu mười lăm thứ chết xấu ác. Một là chẳng bị chết vì đói khát, khốn khổ; hai là chẳng bị chết vì gông xiềng, đánh đập; ba là chẳng bị chết vì oán gia, cừu thù; bốn là chẳng bị chết trong trận mạc; năm là chẳng bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn hại; sáu chẳng chết vì bị rắn độc, bọ cạp cắn; bảy là chẳng chết vì nước chìm, lửa đốt; tám là chẳng chết vì trúng thuốc độc; chín là chẳng bị cổ độc hại chết; mười là chẳng bị cuồng loạn, mất trí mà chết; mười một là chẳng bị chết vì rơi té nơi rừng núi, vách đá; mười hai là chẳng chết vì kẻ ác, ma mị; mười ba là chẳng chết vì tà thần ác quỷ thừa dịp làm hại; mười bốn là chẳng bị chết vì bệnh ngặt dây dưa; mười lăm là chẳng chết vì tự hại trái phận.
[Mười lăm thứ sanh tốt lành]: Một là nơi chỗ sanh về, thường gặp vua tốt lành; hai là thường sanh nơi nước tốt lành; ba là thường gặp thời tốt lành; bốn là thường gặp bạn lành; năm là thân căn thường được đầy đủ; sáu là đạo tâm thuần thục; bảy là chẳng phạm giới cấm; tám là tất cả quyến thuộc ân nghĩa, hòa thuận; chín là tài sản dồi dào; mười là thường được người khác cung kính, nâng đỡ; mười một là tất cả của cải không bị kẻ khác cướp đoạt; mười hai là những điều mong muốn đều được toại ý; mười ba là long, thiên, thiện thần thường luôn ủng hộ, bảo vệ; mười bốn là sanh vào nơi được thấy Phật, nghe pháp; mười lăm là nghe chánh pháp, ngộ ý nghĩa sâu. Hết thảy trời, người hãy nên thường tụng trì, đừng sanh biếng nhác.
Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy xong liền nói Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Đà La Ni Thần Diệu Chương Cú như thế này:
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đá bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà tát đa na ma bà già. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha: Án, a bà lô hê. Lô ca đế. Ca lô đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà, tát bà. Ma ra, ma ra, ma hê, ma hê, rị đà dựng. Câu lô, câu lô, yết mông. Độ lô, độ lô, phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra, đà ra, địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra, giá ra. Ma ma (đến chỗ này xưng tên người thọ trì) phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê, y hê. Thất na, thất na. A ra sâm phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô, hô lô, ma ra. Hô lô, hô lô, hê rị. Sa ra, sa ra. Tất rị, tất rị. Tô rô, tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà dụ nghệ, thất bàn ra da. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục kiếp[17] da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra da. Sa bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ. Sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha. Án, tất điện đô. Mạn đá ra. Bạt đà dạ. Sa bà ha.
Nói chú này xong, đại địa sáu lượt chấn động, trời mưa hoa báu. Mười phương chư Phật đều cùng hoan hỷ, thiên ma ngoại đạo hoảng sợ lông dựng cả lên. Hết thảy đại chúng trong hội đều được chứng quả, hoặc đắc Tứ Quả cho đến Thập Địa. Vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Đại Phạm thiên vương bạch cùng Bồ Tát rằng:
– Kính mong Đại Sĩ vì con nói hình mạo, tướng trạng của đà-la-ni này.
Quán Thế Âm Bồ Tát nói:
– Tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm không nhiễm đắm, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm hạ, tâm vô tạp loạn, tâm không kiến thủ, tâm vô thượng Bồ Đề là [hình mạo, tướng trạng của đà-la-ni này]. Ông hãy nên y theo đây để tu hành. Đà-la-ni này do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật trong quá khứ nói ra, nhằm làm cho những người tu hành Lục Độ mau được trọn đủ, nhằm làm cho người chưa phát tâm Bồ Đề sẽ mau phát, nhằm làm cho hàng Bồ Tát chưa đạt đến Sơ Trụ sẽ mau đạt được. Lại làm cho họ đạt được Phật địa, tự nhiên thành tựu ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tùy hình hảo, có thể làm cho nước trong bốn đại hải trào dâng, có thể làm cho núi Tu Di, núi Thiết Vy nát như vi trần. Nếu các trời, người trì tụng đà-la-ni này mà tắm gội trong sông ngòi, biển cả, những chúng sanh trong ấy được dính nước tắm từ nơi thân người ấy thì hết thảy ác nghiệp trọng tội đều tiêu diệt, liền được chuyển sanh vào Tịnh Độ nơi phương khác, liên hoa hóa sanh, chẳng nhận lãnh thân sanh từ bào thai hoặc thân thấp sanh, noãn sanh; huống hồ người thọ trì, đọc tụng. Nếu người tụng trì đi trên đường sá, khi gió lớn thổi tới, lùa qua lông, tóc, y phục trên thân người ấy rồi phớt qua những loài chúng sanh thì hết thảy trọng chướng ác nghiệp của những kẻ được cơn gió thừa thổi chạm vào thân sẽ đều cùng diệt sạch, chẳng còn phải hứng chịu quả báo trong ba đường ác, thường sanh trước Phật.
Hãy nên biết: Quả báo, phước đức của người thọ trì chẳng thể nghĩ bàn, trời, rồng, quỷ thần đều dấy lòng cung kính người ấy, tôn trọng như Phật. Hãy nên biết người ấy là Phật thân tạng vì được chín mươi chín ức hằng hà sa Phật yêu mến, là quang minh tạng vì được quang minh của hết thảy Như Lai chiếu tới, là từ bi tạng vì thường dùng đà-la-ni cứu chúng sanh, là diệu pháp tạng vì nhiếp khắp hết thảy các môn đà-la-ni, là thiền định tạng vì trăm ngàn tam-muội thường hiện tiền, là hư không tạng vì thường dùng Không Huệ để quán chúng sanh, là vô úy tạng vì long, thiên, thiện thần thường hộ trì, là diệu ngữ tạng vì tiếng đà-la-ni nơi miệng chẳng đoạn tuyệt, là thường trụ tạng vì tam tai ác nghiệp chẳng thể hoại, là giải thoát tạng vì thiên ma ngoại đạo chẳng thể níu giữ, là dược vương tạng vì thường dùng đà-la-ni trị bệnh cho chúng sanh, là thần thông tạng vì dạo chơi các cõi Phật, đắc tự tại. Nếu ai có thể vì các chúng sanh dẹp trừ khổ nạn, đúng pháp tụng trì, thì nên biết người ấy chính là người đầy đủ đại bi, chẳng bao lâu sẽ thành Phật, sẽ chứng Tứ Sa Môn Quả ngay trong đời này. Bậc lợi căn có huệ quán thì quả vị Thập Địa quyết sẽ đạt được, chẳng khó; huống hồ những phước báo nhỏ nhặt trong thế gian ư? Tất cả những mong cầu không gì chẳng được toại nguyện.
Phật bảo A Nan:
– Thần chú như thế có tên là Quảng Đại Viên Mãn, một tên khác là Vô Ngại Đại Bi, tên khác nữa là Cứu Khổ Đà La Ni, tên nữa là Diên Thọ Đà La Ni, tên nữa là Diệt Ác Thú Đà La Ni, tên nữa là Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, tên nữa là Mãn Nguyện Đà La Ni, tên nữa là Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, tên nữa là Tốc Siêu Thượng Địa Đà La Ni.
A Nan thưa:
– Vị Bồ Tát này có danh hiệu như thế nào mà có thể khéo tuyên thuyết đà-la-ni như vậy?
Phật nói:
– Vị Bồ Tát này tên là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Niêm Sách, còn có tên là Thiên Quang Nhãn. Vị Bồ Tát này sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn, từ vô lượng kiếp trong quá khứ đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, do đại bi nguyện lực vì muốn phát khởi hết thảy Bồ Tát, an lạc thành thục các chúng sanh nên hiện làm Bồ Tát. Đại chúng các ông, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, Đế Thích, Phạm Vương, long thần đều nên cung kính, đừng sanh khinh mạn. Hết thảy trời người thường phải nên cúng dường, chuyên xưng niệm danh hiệu [Quán Thế Âm Bồ Tát], đắc vô lượng phước, diệt vô lượng tội, mạng chung sẽ vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.
11. Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh (lược trích)
Một thời, đức Phật ngự tại đạo tràng Măng Tre ở thành Thất La Phiệt, Quán Tự Tại Bồ Tát và vô lượng câu-chi na-dữu-đa (na-do-tha) trăm ngàn thần tiên trì chú (thời cổ, gọi Phật, Bồ Tát là “nội tiên”, chứ không phải là tiên nhân của ngoại đạo như trong thế tục), trước sau vây quanh. Đến nơi xong, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng:
– Con có thần chú tâm tên là Thập Nhất Diện[18], trọn đủ oai lực lớn, do mười một câu-chi chư Phật đã nói. Con nay nói ra vì muốn lợi lạc hết thảy hữu tình, diệt hết thảy ác, những điều mong cầu trong tâm đều được toại ý. Con chẳng thấy người, trời, ma, Phạm Vương có thể dùng hết thảy tai ương, hoạn nạn ngang trái, ma chướng, đao, gậy, độc dược, trù ếm, nguyền rủa để làm hại người dùng chú này bảo vệ thân mình, chỉ trừ kẻ ác nghiệp quyết định đã báo ứng chín muồi. Thế Tôn chứng biết, chuyện ấy ắt phải như vậy, chỉ nên tin nhận, chẳng nên phân biệt. Thần chú tâm này được hết thảy chư Phật cùng khen ngợi, cùng tùy hỷ.
Con nhớ quá khứ Căng Già sa kiếp (tức Hằng hà sa) trước, có Phật hiệu là Bách Liên Hoa Nhãn Vô Chướng Ngại Đảnh Xí Thịnh Công Đức Quang Vương Như Lai, khi ấy con làm đại tiên nhân, từ nơi đức Phật nhận được thần chú này, thấy mười phương Phật, ngay lập tức chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vì thế, tịnh tín nam nữ hãy nên cung kính, chí tâm hệ niệm. Mỗi lúc sáng sớm, tụng chú này 108 biến thì nơi thân hiện tại sẽ được mười thứ lợi ích thù thắng:
– Một là thân thường không bệnh.
– Hai là mười phương chư Phật nhiếp thọ.
– Ba là của cải, cơm áo, thọ dụng vô tận.
– Bốn là có thể khuất phục oán địch không sợ hãi
– Năm là khiến cho những kẻ tôn quý cung kính, coi trọng lời nói.
– Sáu là cổ độc, quỷ mị chẳng thể làm hại.
– Bảy là hết thảy đao gậy chẳng thể làm hại.
– Tám là nước chẳng thể chìm được.
– Chín là lửa chẳng thể thiêu được.
– Mười là trọn chẳng chết ngang trái.
Lại được bốn thứ công đức lợi ích thù thắng:
– Một là khi lâm chung được thấy chư Phật.
– Hai là trọn chẳng đọa vào các đường ác.
– Ba là chẳng chết vì hiểm nạn, tai ách.
– Bốn là được sanh về thế giới Cực Lạc.
Lại trong Căng Già sa kiếp về đời quá khứ, có Phật hiệu là Mỹ Âm Hương, con làm thân đại cư sĩ, ở nơi đức Phật nhận được chú này, liền vượt thoát bốn vạn kiếp sanh tử. Tụng trì chú này lại đắc đại bi trí tạng của chư Phật, hết thảy pháp môn giải thoát của Bồ Tát. Nếu tụng chú này một biến liền diệt được bốn tội căn bản[19] và Ngũ Vô Gián, khiến cho những tội ấy chẳng còn sót. Con do chú này mà danh hiệu tôn quý, khó thể được nghe. Nếu có ai xưng niệm danh hiệu của trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Phật và lại có kẻ tạm thời chí tâm xưng niệm danh hiệu của con thì công đức của hai người ấy bình đẳng như nhau. Những ai xưng danh con đều đắc địa vị Bất Thoái Chuyển, lìa hết thảy bệnh, thoát hết thảy chướng, hết thảy sợ hãi, diệt trừ điều ác nơi thân – ngữ – ý, huống hồ thọ trì, đọc tụng thần chú do con đã nói, tu hành đúng như lời dạy, đối với Vô Thượng Bồ Đề, người ấy sẽ lãnh nhận như đang nắm trong bàn tay.
12. Bất Không Quyến Sách Chú Tâm Kinh (lược trích)
Một thời, đức Phật ngự tại núi Bố Đát Lạc Ca, trong cung của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, vô lượng cây bằng nhiều chất báu vây quanh trang nghiêm. Đại tỳ-kheo, Bồ Tát, trời, người vây quanh. Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Con có thần chú tâm tên là Bất Không Quyến Sách. Trong chín mươi mốt kiếp xưa kia có thế giới tên là Thắng Quán, Phật hiệu là Thế Chủ Vương Như Lai, con từ đức Phật nhận lãnh chú tâm này, giáo hóa vô lượng trăm ngàn thiên tử khiến cho họ hướng đến Bồ Đề. Do công đức này đạt được mười ức tam-ma-địa, bất không diệu trí làm thượng thủ.
Bạch Thế Tôn! Nếu ở chỗ nào có chú tâm này thì nơi ấy liền có mười hai ức chư thiên ủng hộ. Nếu ai trước kia đã tạo ác nghiệp, phỉ báng chánh pháp và chư Phật, Bồ Tát, quyết định đáng đọa vào địa ngục Vô Gián, nếu người ấy nghe chú này mà sanh lòng hối hận, hổ thẹn, trong một ngày đêm thọ trì trai giới, đọc thần chú này, liền có thể tiêu diệt hết thảy tội nghiệp, hoặc chuyển thành quả báo nhẹ phải hứng chịu trong đời này như bị bệnh nhiệt, hoặc đau mắt, tai, mũi, lưỡi, chân tay, lóng đốt v.v… hoặc các loại ghẻ chốc, bị phỉ báng, nhục mạ và các sự ác khác bức bách, não loạn thân tâm và các giấc mộng quái lạ. Do đã hứng chịu trong đời này nên nghiệp ác vô gián liền được tiêu diệt.
Nếu có chúng sanh nghe thần chú này, tuy vẫn chẳng sanh cung kính, hoặc đến nỗi khinh mạn, hủy báng, chê bai thì vẫn sanh khởi phước thù thắng. Như người lấy hương chiên-đàn, hoặc trầm, xạ v.v… chửi bới, hủy báng, dè bỉu, nghiền nát, dùng [bột hương ấy] bôi lên thân, thì những thứ hương ấy trọn chẳng nghĩ như thế này: “Kẻ này hủy báng ta” mà tiếc nuối mùi hương, chẳng ban cho. Chú này cũng giống như thế! Tuy có những sự phỉ báng, hủy nhục, chê bai, hoặc kẻ cong vạy giả vờ biên chép, thọ trì, cúng dường, vẫn đều tạo thành nhân duyên thiện căn. Đời đời sanh ở chỗ nào cũng thường chẳng lìa tư lương giới định trí huệ phước đức.
Nếu có ai trong ngày mồng Tám mỗi tháng chuyên tâm trai giới, chẳng xen tạp các lời nói khác, tụng thần chú này bảy biến thì nơi thân hiện tại được hai mươi thứ lợi ích thù thắng: Một là thân không bệnh tật, hai là do ác nghiệp trước kia có các tật bệnh, sẽ mau được tiêu diệt, ba là thân sáng nhuận, da dẻ mềm mịn, bốn là mọi người yêu kính, giữ kín các căn, năm là sẽ được của cải, sáu là chẳng bị trộm cắp cướp đoạt, bảy là chẳng bị nước chìm, lửa cháy, tám là chẳng bị sức vua xâm đoạt, chín là sự nghiệp đã làm đều khéo hoàn thành, mười là mùa màng gieo trồng chẳng bị gió cuồng, mưa dữ, sương, mưa đá, sâu rầy, châu chấu tổn hại, mười một là tụng chú kết giới, hết thảy nghịch cảnh đều được tiêu diệt, mười hai là chẳng bị ác quỷ đoạt mất tinh khí, mười ba là hết thảy hữu tình yêu thích, ưa thấy, mười bốn là chẳng sợ oán cừu, mười lăm là nếu có oán thù sẽ mau cởi gỡ, mười sáu là chẳng sợ bị xâm hại, trù ếm, cổ độc, tà mị chẳng thể gây hại, mười bảy là phiền não triền cấu chẳng thể nhiều phen hiện hành, mười tám là đao, chất độc, nước, lửa chẳng thể gây tổn thương, mười chín là chư thiên thiện thần thường theo hộ vệ, hai mươi là đời đời chẳng lìa từ bi hỷ xả.
Lại đạt được tám pháp: Một là khi lâm chung, Quán Tự Tại Bồ Tát hóa hình tượng tỳ-kheo hiện đến trước người ấy, hoan hỷ an ủi, khuyên nhủ; hai là không có các đau khổ; ba là chánh niệm hiện tiền; bốn là Tứ Đại an ổn; năm là không có các thứ rò rỉ, bẩn thỉu chẳng sạch; sáu là nếu như bị bệnh thì chẳng bị nằm bẹp nơi giường gối; bảy là đắc vô tận biện tài; tám là mạng chung sẽ tùy theo ý muốn sanh về tịnh độ của chư Phật, chẳng lìa bạn lành. Con nay vì an lạc các loài và vì những kẻ tạo tội, nguyện nói chú tâm này.
Đức Thế Tôn bảo Quán Tự Tại Bồ Tát rằng:
– Ta cũng tùy hỷ thần chú tâm này, [thần chú tâm này] là cha mẹ của các Bồ Tát trong đời tương lai, khiến cho các sự nghiệp do Bồ Tát thực hiện mau được thành tựu, những chuyện sợ hãi mau được diệt trừ.
Quán Tự Tại Bồ Tát nói chú[20] xong, thưa:
– Thần chú này thành tựu sự nghiệp tối thắng như thế. Kẻ chưa hoàn thành hãy nên dùng vải điệp trắng vẽ hình tượng Phật. Ở bên phải Phật vẽ tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, thân màu vàng pha trắng, đỉnh có búi tóc xoắn ốc, tóc xanh rủ xuống, đầu đội mão hoa, khoác da nai, che bên vai trái, những thân phần khác được trang nghiêm bởi anh lạc, vòng, xuyến. Trong đàn rải hoa trắng, đựng nước thơm, cúng đồ ăn ngon. Hành giả chí thành đảnh lễ, chuyên tâm tụng chú đủ tám ngàn biến, tự thấy khắp thân mình phóng quang minh giống như ngọn lửa. Quán Tự Tại Bồ Tát liền hiện trước người ấy, tùy lòng mong cầu đều làm cho được trọn đủ.
13. Mười sáu loại kinh thuộc Mật Bộ (trình bày đại lược)
* Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Nghi Quỹ Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương Kinh[21]: Phật ngự tại cung điện trên Bảo Phong Đại Sơn, Quán Tự Tại Bồ Tát nói tâm chân ngôn và đầu, đảnh, nhãn v.v.. mười lăm chân ngôn.
* Quán Tự Tại Bồ Tát Đát Phạ Đa Rị Tùy Tâm Đà La Ni Kinh[22]: Phật tại thế giới Cực Lạc, Quán Thế Âm Bồ Tát nói Tùy Tâm Tự Tại Vương Chú và bốn mươi tám ấn pháp và đàn pháp trị hết thảy bệnh.
* Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh (Sarva-tathagata-tattva-samgraha-sutra)[23]: Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngự trên cung trời Sắc Cứu Cánh, nói bốn đại minh, đến đỉnh núi Tu Di, nhập tam-muội, xuất sanh mười sáu vị Kim Cang đại Bồ Tát. Bốn vị Như Lai là A Súc, Bảo Sanh, Quán Tự Tại Vương, Bất Không Thành Tựu mỗi vị cũng nói đại minh, hiện hình tượng Kim Cang. Tỳ Lô Giá Na Phật lại hiện ra bốn đại minh phi, bốn vị Như Lai cũng hiện ra bốn vị minh phi.
* Đại Phương Quảng Mạn Thù Thất Lợi Quán Tự Tại Bồ Tát Nghi Quỹ Kinh: Đức Thế Tôn nhìn khắp cung trời Tịnh Cư, khen ngợi Quán Tự Tại Bồ Tát, thọ ký [Bồ Tát sẽ] thành Phật. Đại Sĩ trở về tòa của mình, nhập Phổ Quang Minh Đa La tam-muội, từ tròng mắt phải phóng quang, lưu xuất một diệu nữ, bảo khắp các chúng sanh, thề độ biển khổ, dạo khắp thế giới, trở về chỗ Phật, lễ Quán Tự Tại Bồ Tát, cầm hoa sen xanh, đứng chiêm ngưỡng.
* A Rô Lực Kinh[24]: Quán Thế Âm Bồ Tát nói: “Án, a rô lực ca, sa phạ ha”. Đây là tâm chú của hết thảy Liên Hoa Bộ, người trì chú này sẽ sanh về Cực Lạc.
* Quảng Đại Liên Hoa Trang Nghiêm Mạn Noa La Diệt Nhất Thiết Tội Chú Kinh[25]: Đức Phật ngự tại Lộc Dã, quốc vương Phạm Thọ ngẫu nhiên đến một ngôi chùa, vị Tăng trong chùa dùng tràng hoa [vốn được] treo trên đỉnh [tượng] Phật để đón vua. Vua đeo [tràng hoa ấy] bị nhức đầu, em gái vua khuyên anh gặp Phật. Phật nói nguyên nhân. Đại Ý Bồ Tát hỏi về quả báo của việc sử dụng vật thuộc Thường Trụ Tăng, đức Phật nói: “Ắt đọa địa ngục!” [Đại Ý Bồ Tát] lại hỏi cách cứu vớt, đức Phật bèn ba lượt thỉnh Quán Tự Tại Bồ Tát nói thần chú.
* Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Kinh[26]: Đức Phật ngự tại thế giới Cực Lạc, Kim Cang Thủ Bồ Tát thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát nói Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Chú và các pháp trì tụng, cầu nguyện.
* Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh[27]: Phật ngự tại nước Xá Vệ, Bồ Tát và [thiên long] bát bộ nhóm họp, từ đại địa ngục xuất hiện quang minh lớn chiếu nước Xá Vệ, hiện đại trang nghiêm. Trừ Cái Chướng Bồ Tát thưa hỏi nhân duyên, Phật vì Bồ Tát nói sự cứu khổ nhiều kiếp của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát và danh hiệu của các thứ tam-muội Bồ Tát đã trụ.
* Như Ý Luân Đà La Ni Kinh[28]: Quán Tự Tại Bồ Tát bạch Phật: “Con có Đại Liên Hoa Phong Kim Cang Bí Mật Như Ý Luân Chú, như châu Ma Ni, khiến cho sở nguyện của chúng sanh đều được trọn đủ”.
* Phật Thuyết Nhất Kế Tôn Đà La Ni Kinh[29]: Phật ngự tại Thứu Phong (đỉnh núi Linh Thứu), Quán Tự Tại Bồ Tát từ đỉnh đầu hóa ra một La Sát Vương nói thần chú, hàng phục các quỷ thần ác.
* Trong Phật Thuyết Đà La Ni Tập Kinh (Dhārani-samuccaya)[30], Quán Thế Âm Bộ, nửa quyển 3, có Mã Đầu Quán Âm[31] pháp ấn chú và Thiên Chuyển Quán Âm[32] tâm ấn chú.
* Quán Thế Âm Bồ Tát Lục Tự Đại Minh Chú: Hết thảy Như Lai đều chẳng biết chỗ nào để có được chú này, trải cả kiếp để tìm cầu. Lục Tự chính là “án, ma ni bát mê hồng”.
* Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thần Chú Kinh[33]: Có thể diệt tội, trị bệnh, hàng phục ma oán, thỏa mãn mong cầu, cầu mưa, dứt mưa, các thứ công đức thù thắng. Có hai mươi lăm thứ ấn, chú pháp, khác với Đại Bi Tâm Chú (đời Đường, ngài Trí Thông dịch kinh này xong, cảm hiện thánh chứng).
* Thanh Tịnh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Kinh[34]: Phật ngự tại núi Linh Thứu, Quán Thế Âm Bồ Tát nói chú phụng thỉnh, chú kết giới, chú căn bản, có thiên nữ mặc áo trắng quỳ hướng về phía Bồ Tát.
* Nhất Thiết Như Lai Danh Hiệu Chú Kinh[35]: Đức Phật mới vừa thành đạo, Quán Tự Tại Bồ Tát nói chú này, người thọ trì chẳng đọa ác đạo, sanh lên trời, thành Phật.
* Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chân Ngôn Du Già Quán Hạnh Nghi Quỹ: Trước hết quán thành thân của bổn tôn Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, tu các pháp ấn. Kế đó, quán hành bố tự pháp[36], khiến cho thân mình và thân bổn tôn giống như hình tượng trong gương, chẳng một, chẳng khác.
Kim Cang Kinh Công Đức Tụng
Lời tựa của Kim Cang Kinh Công Đức Tụng
Lục Độ là pháp trọng yếu để Bồ Tát trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh; nhưng năm Độ như kẻ lòa, Bát Nhã như người dẫn lối. Nếu năm Độ không có Bát Nhã thì chẳng thể rốt ráo đạt đến bờ kia, chẳng thể gọi là Ba La Mật. Bát Nhã như tâm, năm Độ như thân. Bát Nhã không có năm Độ thì cũng chẳng thể rốt ráo đạt đến bờ kia, chẳng thể gọi là Ba La Mật. Nếu cả hai điều này đều đủ thì mỗi một Độ đều có thể rốt ráo đạt đến bờ kia, đều đáng gọi là Ba La Mật. Kinh Kim Cang chính là khuôn phép để phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, tu trọn Lục Độ, nhưng vì kinh văn giản lược, chỉ nêu Bố Thí để làm thí dụ. Nếu chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành những chuyện như Bố Thí v.v… thì có thể độ thoát hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng thấy ta là người độ, và pháp để độ, cũng như chẳng thấy tướng của chúng sanh được độ thì bốn tướng chẳng sanh, tam tâm[37] há được, không trụ vào đâu mà sanh tâm, không có gì để đắc mà thành Phật. Vì thế, người thọ trì bốn câu, ba câu, hai câu, một câu, công đức khó tuyên. Người trì trọn bộ kinh còn cần chi phải nói nữa? Do vậy, từ xưa đến nay, rất nhiều người ta đọc tụng. Người đốn ngộ tự tánh, triệt chứng duy tâm, sống dự vào dòng thánh, thác về cõi An Dưỡng, kể sao cho xiết. Những kẻ kém hơn thì tiêu trừ tội nghiệp, tăng trưởng thiện căn, chuyển họa thành phước, ngu biến thành trí càng nhiều hơn nữa!
Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh chọn lấy những sự tích cảm ứng được chép trong sách vở xưa nay, phân loại, viết lời tụng. Bạn ông ta là Lưu Khế Tịnh lại soạn lời chú thích, ngõ hầu người đọc đều biết nghĩa lý uyên thâm, công đức rộng lớn, sanh lòng chánh tín, gắng sức bắt chước người xưa tu học, tùy theo công hạnh sâu hay cạn mà cũng đạt được các thứ lợi ích. Kinh dạy: “Nhất thiết chư Phật, cập chư Phật A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp, giai tùng thử kinh xuất” (Hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều từ kinh này mà ra). Nếu có thể phát tâm chí thành, cung kính thọ trì sẽ được dự vào trong số những vị Phật đời vị lai, nguyện ai nấy đều gắng lên.
Trung Thu năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Cổ Tân Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng kính soạn.
* Phụ Lục – Kim Cang Cảm Ứng
Ông Mã Kỳ Sưởng ở An Huy, tự là Thông Bạch, chính là bậc đại gia trong văn học hiện thời, trước thuật hết sức phong phú. Thoạt đầu ông chỉ nghiên cứu Nho tông, chẳng biết tới Phật pháp. Mười mấy năm gần đây, mới biết Phật là bậc đại thánh nhân, giáo pháp của Ngài có những chuyện chẳng thể nghĩ bàn; do vậy, hằng ngày tụng kinh Kim Cang kiêm niệm Phật hiệu, cầu sanh Tây Phương. Cô con gái thứ ba tên là Quân Can gả cho chàng họ Phương, khá thông minh, thông hiểu văn lý, có phong cách của bậc liệt nữ thời cổ, Thông Bạch rất yêu mến. Cô ta đề xướng nữ học chẳng tiếc sức thừa. Thoạt đầu, cô ta tốt nghiệp từ trường nữ tư thục Vụ Bổn ở Thượng Hải, kế đó, nhận lời mời của Bắc Dương đại thần Viên công (Viên Thế Khải), mở trường Nữ Sư Phạm ở Thiên Tân. Về sau, cô ta lại du học ở Nhật Bản để mở rộng kiến thức, chỉ có điều là đối với Phật pháp, trọn chẳng hề tin tưởng.
Tháng Năm năm Dân Quốc 15 (1926), cô bị sản hậu thành bệnh, đau khổ khó thể chịu đựng được! Thông Bạch thương xót, đối trước cô ta niệm kinh Kim Cang. Cô ta vừa nghe tiếng niệm kinh, thân tâm liền an vui. Đến khi kinh tụng xong lại cảm thấy đau khổ. Thông Bạch bèn niệm suốt đêm. Cô ta chợt ngồi dậy, bảo cha ngưng niệm kinh, giống như đã khỏe, lại nói: “Đối với những đạo lý đã nói trong kinh Kim Cang, con đều ngộ được”. Cô bèn muốn hiện tướng đại nhân thuyết pháp Vô Sanh, ngõ hầu hết thảy những ai thấy nghe đều gieo cùng thiện căn, giả vờ bảo nhà cửa chật chội, muốn đến dưỡng bệnh trong y viện. Do ông Thông Bạch và con rể là Phương Thời Giản cùng sống ở kinh đô, thuê nhà ở chung, nên [nhà cửa] chẳng thể nào rộng rãi, tĩnh lặng được. Thông Bạch thấy con gái ý chí kiên quyết, bèn bảo chồng cô ta đưa đến y viện Đức Quốc, chọn lấy gian phòng tốt nhất cho cô ta nằm. Cô ta bảo chồng và nhân viên chăm sóc của y viện hãy tránh đi, rồi bèn ngồi chắp tay qua đời. Chao ôi! Lạ thay! Chuyện này giống như chuyện Linh Chiếu, con gái của Bàng cư sĩ, dùng chuyện nhật thực để gạt cha rời khỏi tòa, rồi bèn chiếm lấy tòa để ngồi qua đời, nào có khác gì? Lý Mộc Công trọn chẳng tin Phật, nghe Thông Bạch kể nhân duyên này (Mộc Công là môn sinh của Thông Bạch. Mùa Thu năm Dân Quốc thứ 20[38] (1931), Thông Bạch về An Huy, đi qua đất Hỗ, đến nhà Mộc Công bèn kể chuyện này), cả nhà quy y Tam Bảo. Phổ Môn phẩm có nói “nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp”, há chẳng đáng tin ư? Nhưng chồng cô ta là Phương Thời Giản đối với hành trạng của cô ta lại ngược ngạo bỏ mặc, tội lỗi ấy quả thật chẳng phải nông cạn!
Thích Ấn Quang ghi
Kim Cang Kinh Công Đức Tụng
Bành Trạch Bồ Tát giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn,
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Lưu Khế Tịnh chú thích
Tụng văn chia làm ba phần:
- Trần thuật ý nghĩa.
- Phần ca tụng chánh yếu.
- Hồi Hướng
1. Trần thuật ý nghĩa
Đây là phần thứ nhất, trần thuật ý nghĩa.
Từng nghe tám tạng kết kinh, Bát Nhã là mẹ của Như Lai.
Chú thích: Theo Bồ Tát Xử Thai Kinh, ngài Ca Diếp sai A Nan kết tập các pháp do đức Phật đã nói, từng lời, từng chữ chẳng để thiếu sót. [Kinh điển được kết tập, chia thành] Bồ Tát Tạng, Thanh Văn Tạng, Giới Luật Tạng, mỗi phần đều gom vào một chỗ. Khi ấy, những kinh do A Nan nêu ra, được chia thành Thai Hóa Tạng, Trung Ấm Tạng, Ma Ha Diễn Phương Đẳng Tạng, Giới Luật Tạng, Thập Trụ Bồ Tát Tạng, Tạp Tạng, Kim Cang Tạng và Phật Tạng nên gọi là “tám tạng”. Kinh Đại Bát Nhã chép: “Thậm thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa, nãi chư Phật chi mẫu, năng sanh thập phương nhất thiết chư Phật” (Bát Nhã Ba La Mật Đa rất sâu là mẹ của chư Phật, vì có thể sanh ra mười phương hết thảy chư Phật). Trong kinh này (tức kinh Kim Cang) có nói hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều từ kinh này mà ra.
Tứ phương phân hóa, Kim Cang được Bồ Tát tôn quý.
Chú thích: Theo Hoa Nghiêm Sớ, đức Tỳ Lô Giá Na Phật từ bốn trí[39] lưu xuất tứ phương Như Lai: Đông phương A Súc, Nam phương Bảo Sanh, Tây phương Vô Lượng Thọ, Bắc phương Bất Không Thành Tựu. Bốn vị Như Lai mỗi vị đều có bốn Kim Cang Bồ Tát và Tứ Nhiếp[40], Bát Cúng Dường Kim Cang Bồ Tát[41]. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Tùng Càn Huệ Địa, chí Đẳng Giác dĩ” (Từ Càn Huệ Địa cho đến khi đã đạt Đẳng Giác), tức là [tiến trình] giác ngộ được bắt đầu bằng sự chứng nhập địa vị đầu tiên là Càn Huệ Địa trong tâm Kim Cang. Vì thế, sách Bát Thức Quy Củ Tụng viết: “Kim Cang đạo hậu, dị thục không” (đến khi viên mãn Phật quả thì thức thứ tám mới rỗng không)[42], câu này nói về địa vị Đẳng Giác, vì đã vượt khỏi Thập Địa. Sách Phật Học Chỉ Nam chép lời của Ông Đàm Khê như sau: “Kim Cang là vị thần tánh tình chất trực”[43]. Đấy là kéo bè kết đảng những người có cùng ý kiến với mình để công kích kẻ khác ý kiến, đáng gọi là “mắt thịt chẳng nhận biết thánh nhân”, nực cười lắm thay!
Vì thế, trong vườn Cấp Cô, hiểu Không liền có hiệu Bồ Đề.
Chú thích: Trong mười vị đại đệ tử của đức Phật, ngài Tu Bồ Đề được gọi là bậc Giải Không đệ nhất.
Trong cung Đâu Suất, vốn do Di Lặc nói kệ, nhập Nhật Quang Định, mười tám trụ mới phân.
Chú thích: Theo truyện ngài Bà Đậu Bàn Tẩu (Vasubandhu: Thiên Thân) và Kim Cang Kinh Vô Trước Luận thì Vô Trước Bồ Tát nhập Nhật Quang Định, lên cung trời Đâu Suất, hỏi Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát liền nói tám mươi bài kệ để giảng rõ ý chỉ của kinh. Ngài Vô Trước tạo luận, lập ra bảy thứ nghĩa cú để giải thích kinh này. Trong phần thứ ba, giảng về Hành Sở Trụ Xứ, ngài Vô Trước lại chia ra mười tám thứ Trụ.
Xử báu đập tan, hai mươi bảy mối nghi ắt đoạn.
Chú thích: Trong Kim Cang Kinh Thiên Thân Luận, nơi phần Chánh Tông, trước hết giải thích về sự hộ niệm, phó chúc. Kế đó, sau phần “Bồ Tát phải nên đúng như lời dạy mà trụ” lại chia thành hai mươi bảy chương, trong mỗi chương đều có phần giải trừ nghi ngờ khiến cho [người đọc] sanh chánh tín. Vì thế gọi là “đoạn nghi sanh tín”. Bát Nhã có thể đoạn được hết thảy mối nghi, giống như xử báu Kim Cang[44] của Đế Thích có thể đập tan hết thảy mọi vật cứng nhất. Vì thế, dùng xử báu Kim Cang để sánh ví Kim Cang Bát Nhã.
Xiển dương đã trọn khắp Tây Thiên, công đức lan dần sang Đông Độ. Cỏ thanh chỉ trổ hiện điềm lành, dịch giả được tôn là thánh nhân.
Chú thích: Theo Cao Tăng Truyện, năm Hoằng Thỉ thứ 3 (401) đời Diêu Tần, hành trong vườn Tiêu Dao[45] đều biến thành cỏ thanh chỉ[46], vua bèn đón ngài Cưu Ma La Thập vào ải, dịch các kinh như Kim Cang v.v… Người sau tôn xưng Ngài là thánh sư.
Lời khen bắt nguồn từ chỗ Hoàng Mai: “Ai ngộ kinh này liền thành Phật, Tổ”.
Chú thích: Theo Truyền Đăng Lục, vào thời Đường Cao Tông, Thiền Tông Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trụ tại chùa Đông Thiền núi Hoàng Mai, thường khuyên người khác chỉ trì kinh Kim Cang sẽ tự kiến tánh, liễu ngộ [được ý kinh] sẽ thành Phật.
Vung mộc xích rồi liền xuống tòa, giảng kinh trong điện nhà Lương.
Chú thích: Theo Truyền Đăng Lục, Lương Vũ Đế thỉnh Phó Đại Sĩ giảng kinh Kim Cang. Đại Sĩ mới thăng tòa, dùng mộc xích[47] chỉ xuống bàn một cái rồi liền bước xuống tòa, vua ngạc nhiên. Ngài Chí Công nói: “Đại Sĩ đã giảng kinh xong!”
Tâm vô trụ mà hay sanh, Tào Khê nối nghiệp tổ.
Chú thích: Theo Truyền Đăng Lục, vào đời Đường, Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho Lục Tổ Huệ Năng, đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hãy nên chẳng trụ vào đâu để sanh tâm), Lục Tổ đại ngộ, thưa: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ, nào ngờ tự tánh có thể sanh ra muôn pháp”. Ngũ Tổ liền truyền y bát. Lục Tổ bèn quay về Quảng Đông, về sau, trụ tại Tào Khê thuyết pháp.
Pháp Nhãn xem kinh, há chẳng phải quyển vàng này.
Chú thích: Theo Truyền Đăng Lục, vào đời Nam Đường, ngài Pháp Nhãn Văn Ích nói: “Kinh dạy: Hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều từ kinh này ra. Hãy nói xem: Kinh này là gì, chẳng phải là quyển vàng trục đỏ hay sao? Đừng nhận lầm vạch cân”[48].
Đức Sơn mua bánh, đốt Thanh Long Sớ.
Chú thích: Theo Truyền Đăng Lục, vào đời Đường, ngài Đức Sơn Tuyên Giám ở Lãng Châu, trên đường đến Phong Dương, gặp một bà bán bánh, do vậy, mua bánh để lót dạ. Bà ta chỉ vào quang gánh của Sư hỏi: “Đây là văn tự gì vậy?” Đáp: “Thanh Long Sớ Sao[49]”. Bà ta hỏi: “Sư giảng kinh gì?” Đáp: “Kinh Kim Cang”. Bà ta nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu Sư đáp được, tôi sẽ tặng món điểm tâm. Đáp không được thì hãy đi nơi khác! Kinh Kim Cang nói ‘tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được’, chưa rõ Thượng Tọa điểm cái tâm nào?” Ngài Đức Sơn cứng họng, liền qua chỗ ngài Long Đàm. Sư đã thấu hiểu chuyện ấy rồi bèn đem bộ sớ giải đốt đi.
Ấy là vì chẳng trụ nơi Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, bốn tướng đều không. Quán như mộng, huyễn, bọt, bóng, sương, chớp, ba tâm há được? Vì thế, đức bố thí, Nam, Tây, Bắc phương, bốn góc, trên, dưới chẳng thể lường! Công diễn nói, ngàn vạn ức phần, toán, số, thí dụ chẳng thể bằng được! Quả đúng là ai có thể vào năm trăm năm sau sanh lòng tin thanh tịnh thì chính là đã ở chỗ ngàn vạn đức Phật gieo các thiện căn.
Chú thích: Những điều trên đây đều xuất phát từ kinh này.
Chỉ Tịnh thuở trẻ lắm bệnh, sớm biết quy y, đến già quán Không, tin tưởng, ngưỡng mộ càng thêm tha thiết. Ngưỡng mong dùng lợi ích do trì kinh của bậc tiên triết làm môn đắc độ cho phường hậu hiền, mến yêu khuôn phép rộng lớn, kính cẩn soạn lời tán tụng.
2. Phần ca tụng chánh yếu
Chia thành mười phần:
- Vãng sanh Tịnh Độ.
- Lâm chung hiện tướng lành.
- Được trường thọ.
- Được hồi sinh.
- Khỏi tật bệnh.
- Cứu thoát khỏi giết chóc.
- Thoát nạn hành hình, trói buộc, gông xiềng.
- Cứu nước, lửa, hiểm nạn.
- Tiêu tội báo.
- Cảm ứng thần linh.
3. Vãng sanh Tịnh Độ
Bèn có thanh y dẫn lối, Minh vương gọi Minh Tuấn là thầy.
Chú thích: Theo sách Kim Cang Trì Nghiệm, vào năm Vĩnh Huy nguyên niên (650) đời Đường, sư Thích Minh Tuấn chết bất ngờ, thấy hai gã áo xanh dẫn đến gặp vua cõi âm, hỏi suốt đời Sư tu tập môn nào? Minh Tuấn đáp: “Chỉ tụng kinh Kim Cang”. Vua nói: “Lành thay! Nếu tụng mười vạn biến, năm sau ắt sanh về Tịnh Độ, đệ tử chẳng được thấy thầy nữa!” bèn thả về. Minh Tuấn càng thêm tinh tấn. Đến tháng Ba năm Vĩnh Huy thứ 2 (651), Sư ngồi qua đời, mọi người đều ngửi thấy mùi hương lạ.
Áo hoa đến đón, bạn tiên hỏi Duy Cung ở nơi nào?
Chú thích: Theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, vào đời Đường, vị Tăng chùa Pháp Tín ở Kinh Châu là Duy Cung niệm kinh Kim Cang suốt ba mươi mấy năm. Mỗi ngày niệm 50 biến. Vị tăng cùng chùa là Linh Khuy ra khỏi chùa một dặm, gặp năm sáu người, trẻ tuổi, hết sức xinh đẹp, y phục tinh sạch, ai nấy đều cầm nhạc khí, hỏi: “Cung thượng nhân ở chỗ nào?” Linh Khuy bảo cho họ biết chỗ và hỏi họ từ đâu tới. Đáp: “Từ Tây Phương đến đón Cung thượng nhân”. Một người lấy hoa sen từ trong bọc ra, hoa còn đang ngậm búp, to như nắm tay, cánh sen tỏa ánh sáng lạ, họ rảo bước về hướng chùa. Đến chiều, Duy Cung bèn mất, cả chùa nghe tiếng đàn sáo.
Tay ném đao, cân, mừng đồ tể tu hành.
Chú thích: Theo sách Pháp Hoa Trì Nghiệm, vào đời Tống, ở phía Nam thành Hồ Châu có người đồ tể tên là Lục Ông. Năm hai mươi ba tuổi, thấy một vị vân thủy tăng[50] đến cửa, miệng nói: “Giáo hóa người hữu duyên”. Họ Lục chẳng hiểu, vị Tăng nói: “Ông giết trâu, dê vô số. Nếu chẳng đổi nghề, đời sau ắt đọa làm những loài ấy. Ông có thiện căn từ đời trước, hãy nên cật lực trì kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang hòng tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện phước”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa! Họ Lục bèn tỉnh ngộ, ăn chay, kiêng giết, vẽ hình A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí. Sáng tối cúng dường, hằng ngày tụng hai kinh ấy để sám hối, nguyện độ những chúng sanh đã bị giết sớm được sanh về Tịnh Độ. Năm tám mươi mốt tuổi, khoảng nửa tháng trước [khi mất], ông hẹn khắp các thân hữu: Trong ngày mồng Chín tháng Mười Một sẽ đãi cơm, cáo biệt. Đến hạn, ông tắm gội, ngồi ngay ngắn, đọc kệ tụng rồi mất. Kệ tụng như sau:
Ngũ thập dư niên ly sát nghiệp.
Thủ phao đao xứng ám tu hành,
Kim triêu đắc phó Bồ Đề lộ,
Thủy lý liên hoa hỏa lý sanh.
(Năm chục năm hơn lìa sát nghiệp,
Ngấm ngầm tu tập, vứt cân, đao,
Bồ Đề nay bước trên đường ấy,
Nước trổ sen tươi giữa lửa hồng)
Tràng phan đụng mặt, thấy người hộ tống phu nhân.
Chú thích: Theo Viên Trung Lang Tập, vào đời Minh, vợ ông Cung Trọng Thuần ở Công An là Chúc Thị, được nghe pháp môn Tịnh Độ từ vị huynh đệ là Viên Hoằng Đạo, tin tưởng, bèn chuyên trì danh hiệu Phật kiêm tụng kinh Kim Cang. Một hôm, bà bảo các con: “Đức Phật nói ba hôm sau sẽ đến đón ta”. Đến kỳ hạn, bà bèn tắm gội ngồi giữa nhà, quyến thuộc xúm xít, hồi lâu sau, bà tự nói: “Phật đến rồi! Giữa mày phóng bạch hào quang dài mấy trượng” Lại nói thấy một vị Tăng tướng hảo trang nghiêm, tự xưng là Tu Bồ Đề, trong khoảnh khắc, hóa thành hơn một trăm vị Tăng. Có người bên cạnh nói: “Trong kinh nói tới một trăm ba mươi tám vị Tu Bồ Đề, chính là vị này đấy”. Các quyến thuộc cùng đốt hương, niệm danh hiệu Phật. Chúc Thị mỉm cười qua đời. Trong gác có đứa hầu gái mới chín tuổi, chợt ngã xuống đất, rồi đứng lên nói thấy mấy người khổng lồ mặc giáp vàng cầm tràng phan dẫn đường cho phu nhân, cán tràng chạm vào mặt nên bất ngờ té xuống đất. Xem kỹ thì mặt nó còn vết trầy rành rành. Đã liệm xong thì từ trong quan tài lại tỏa ra mùi hương lạ.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Quyển 4, phần 2 hết
[1] “Lục chủng chấn động” có ba loại:
1. Lục chủng chấn động là trong sáu lúc đại thiên sẽ chấn động: Khi Phật nhập thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết Bàn.
2. Lục chủng chấn động là sáu phương cùng chấn động, tức Đông phương trồi lên Tây phương hụp xuống, Nam phương trồi lên, Bắc phương hụp xuống v.v…
3. Lục chủng chấn động là sáu cách chấn động, tức: động (lay động), dũng (trồi lên), chấn (rung động), kích (va chạm), hống (rung động phát ra tiếng vang lớn), bộc (rung động, nứt tách ra). Khi xảy ra các thứ chấn động này, chúng sanh không thể nhận biết, kinh Phật ví phàm phu lúc ấy như đứa con nằm trong nôi, dù nôi đu đưa vẫn ngủ say sưa. Chỉ những ai đắc Thiên Nhãn Thông mới nhận biết được sự chấn động này.
[2] Thị Tích (còn gọi là Thùy Tích): Biến hóa nhằm hóa độ một hạng căn cơ nào đó, giống như vầng trăng in bóng trong dòng nước, thì bóng trăng gọi là Tích.
[3] Thập Phương Chư Phật Cứu Hộ Chúng Sanh Thần Chú: “Đa da tha, ô hô nị, mô hô nị, diêm bà nị, đam bà nị, an trà lỵ, bàn trà lỵ, thủ bì đế, bát bát trà trà ra ra, bà tư nị, đa điệt tha, y lê, mị lê, đề lê, thủ lê, gia ba lê, khư đê đoan kỳ, chiên đà lê, ma đắng kỳ, lặc xoa, lặc xoa, tát bà tát đỏa, tát bà bà da bì, sa ha đa trà tha già đế, già đế, nị già đế, tu lưu tỳ, tu lưu tỳ, lặc xoa, lặc xoa, tát bà bà da bì, sa ha”.
[4] Tiêu Phục Độc Hại Chú: “Đa điệt tha, đà hô nị, mô hô nị, diêm bà nị, đam bà nị, a bà hê, mô hô nị, an trà lê, bàn trà lê, thâu bệ đế, bàn trà ra, bà tư nị, hưu, hưu, lâu, lâu, an trà lê, đâu, đâu, lâu, lâu, bàn trà lê, chu chu, lâu lâu, nị bàn trà lê, đậu đậu, phú phú, bàn trà ra, bà tư nị thẩn trì, chẩn trì, nị chẩn trì, tát bà a bà da yết đa, tát bà niết bà bà đà già, a bà da, ty ly đà, bế điện, sa ha”.
[5] Tông là điều được một bộ kinh đề cao, tức pháp môn chánh yếu, cương lãnh tu hành của bộ kinh đó. Thú là kết quả sẽ đạt được do thực hiện tông chỉ được nêu ra bởi Tông.
[6] Không Hầu là một loại đàn của Tây Vực, số dây không nhất định, tối thiểu là năm dây, tối đa là hai mươi lăm dây. Đàn được chia làm hai loại đứng và nằm, thân đàn có hình dáng vòng cung, đầu đàn thường chạm thành hình chim phượng (Phượng Đầu Không Hầu), dây đàn căng dọc theo thân đàn giống như dây cung. Do cấu trúc của nó khá giống với đàn Harp (Thụ Cầm) hiện thời nên người Hoa cũng gọi đàn Harp là Không Hầu. Loại đàn này rất thịnh hành thời cổ nhất là trong các dàn Nhã Nhạc của cung đình do âm thanh của nó réo rắt, lan xa, tao nhã. Loại Tiểu Không Hầu (đây chính là loại đàn thường được vẽ trong các bức cổ họa mô tả cảnh chư thiên tấu nhạc cúng dường, nhất là trong các bích họa ở động Đôn Hoàng) thường được tấu bằng cách ôm vào lòng, dùng ngón tay gẩy, còn Thụ Không Hầu và Ngọa Không Hầu phải đặt trên giá.
[7] Bát-đầu-ma (Padma): Hoa sen hồng.
[8] Lục niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên.
[9] Ở chỗ này, Hòa Thượng Tịnh Không có một kiến giải hết sức độc đáo. Trong khi giảng kinh Vô Lượng Thọ, Ngài đã nhắc đến đoạn kinh văn này và nói: “Đã là đệ tử Phật, đương nhiên phải tin nhân quả. Nếu không tin nhân quả thì làm sao còn gọi là Phật tử cho được? Tin sâu nhân quả trong đoạn này chính là tin chắc dùng cái nhân niệm Phật để cầu sanh Tịnh Độ sẽ đắc quả thành Phật”.
[10] Bách Pháp Minh Môn chính là trí huệ môn của hàng Sơ Địa Bồ Tát. Minh là trí huệ, Môn nghĩa là tiến nhập. Trí huệ có thể hiểu thấu suốt chân tánh của trăm môn sai biệt nên gọi là Minh Môn. Chữ Bách Pháp có hai cách hiểu:
1. Bách pháp là một trăm pháp của hàng Thập Tín như trong kinh Bồ Tát Anh Lạc đã giảng.
2. Bách pháp là một trăm pháp thuộc về Ngũ Vị như trong Bách Pháp Minh Môn Luận đã giảng.
Nói chung, người ta thường hiểu theo cách thứ hai, tức là đối với hết thảy các pháp trong thế gian được quy nạp thành một trăm loại lớn (nên gọi là bách pháp). Hiểu theo cách nào thì đắc bách pháp minh môn cũng đều có nghĩa là đã thấu hiểu Thật Tướng của các pháp.
[11] Nguyên văn “trường quỵ”: Quỳ thẳng mình, chỉ có đầu gối và cẳng chân tỳ xuống đất, từ đầu đến đầu gối giữ cho nằm trên một đường thẳng.
[12] Sa Di (Śrāmanera) là danh xưng để gọi là những hàng xuất gia nam giới sơ cấp. Chữ Sa Di được dịch nghĩa là Cần Sách Nam (người nam siêng năng tinh tấn) ý nói sẽ siêng gắng cầu được thọ giới Sa Di. Chữ này còn dịch là Tức Từ, nghĩa là “dứt ác, hành từ”. Nữ nhân thì được gọi là Sa Di Ni. Người xuất gia, sau khi được Tăng đoàn chấp thuận, xét thấy tư cách phù hợp, thì phải được một vị tỳ-kheo tối thiểu đã thọ Cụ Túc Giới từ 10 năm trở lên thế độ, truyền thọ Ngũ Giới và Thập Giới. Sa Di lại được chia thành nhiều loại:
1. Khu Ô Sa Di (Sa Di đuổi quạ): từ 7 tuổi đến 13 tuổi.
2. Ứng Pháp Sa Di: Từ 14 đến 19 tuổi, do đã có thể thông hiểu, vâng giữ đúng pháp.
3. Danh Tự Sa Di: Những người từ 20 đến 70 tuổi, bởi lẽ, những người này đã có thể thọ giới Cụ Túc, nhưng do chưa thọ Đại Giới, nên tạm gọi là Sa Di.
Riêng đối với nữ nhân, trước khi được thọ đại giới thành tỳ-kheo-ni thì Sa Di Ni lại phải qua một giai đoạn nữa gọi là Thức Xoa Ma Na (Học Pháp Nữ).
[13] Cụ Túc Giới: Giới của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Thông thường, theo truyền thống Bắc Tông, Cụ Túc Giới được truyền thừa và tuân thủ theo như Tứ Phần Luật quy định. Tỳ-kheo thọ 250 giới, tỳ-kheo-ni thọ 348 giới. Người thọ Cụ Túc Giới tối thiểu phải tròn 20 tuổi, nhưng không được vượt quá 70 tuổi, đã từng thọ Sa Di Giới, không vi phạm lỗi, không có ác tướng, ẩn tật, và phải được sự chứng minh và truyền thọ giới pháp của Tam Sư Thất Chứng.
[14] Tăng Kỳ (Samghika): Có nghĩa là Đại Chúng. Tăng Kỳ vật là đồ vật thuộc chúng hiện tiền tăng, thường trụ tăng.
[15] Chữ “niệm Phật” ở đây chỉ chung các phép niệm Phật không phải là Trì Danh, đặc biệt chỉ cho cách Quán Tưởng Niệm Phật trong Quán Kinh. Chính từ câu này, Thiện Đạo đại sư đã nhấn mạnh Quán Kinh quy kết về Trì Danh Niệm Phật.
[16] Vô Ương Số (Asamkhyeyam hoặc Asankhya) là từ ngữ dịch nghĩa của chữ A-tăng-kỳ. Ương (央) ở đây là hết, cùng tận. Chữ A-tăng-kỳ vốn dùng để chỉ một thời gian rất dài, về sau được dùng để chỉ một con số rất lớn. Chữ này còn được dịch là Vô Lượng Số. Nếu hiểu là một con số lớn cụ thể thì một A-tăng-kỳ là một ngàn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu (tám chữ vạn. Một vạn vạn là một ức, một vạn ức là một triệu). Đôi khi kinh điển dùng chữ này để phiếm chỉ con số rất lớn, chẳng thể đếm được. Theo ngu ý, trong kinh này, chữ Vô Ương Số dùng với ý nghĩa phiếm chỉ.
[17] Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh chép chữ này là “kiếp” (劫), còn những bản lưu hành thường chép là khê (佉, còn đọc là “khư”).
[18] Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Chú: “Kính lễ Tam Bảo, kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai, kính lễ Nhất Thiết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát Đại Bi giả. Đát điệt tha, ám, đạt ra, đạt la. Địa rị, địa rị. Đỗ rô, đỗ rô. Nhất sái phạt sái. Chiết lệ, chiết lệ. Bát ra chiết lệ, bát ra chiết lệ. Câu tố mê. Câu tô ma phạt lệ. Nhất lý, di lý. Chỉ lý, chỉ trưng. Xã ma ba lệ da, tuất đà tát đỏa. Mạc ha ca rô ni ca, sa ha” (Namo ratna trayāya. Namah ārya jñāna sagāra vairochana vyuhā rājāya tathāgatāya arhate samyaksam buddhāya. Namah sarva tathāgatebhyah, arhadbhyah samyaksam buddhebhyah. Namah ārya Avalokiteshvarāya bodhisattvāya, mahāsattvāya mahākārunikāya. Tadyathā: Aum, dhara dhara. Dhiri, dhiri. Dhuru, dhuru. Itti, vatte. Chale, chale. Prachale, prachale. Kusume. Kusuma vare. Ili, mili. Citi jvalam. Apanaye, svāha). Phần phiên âm tiếng Hán dựa theo bản dịch của ngài Huyền Trang (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, kinh số 1071, tập 20), phần tiếng Phạn dựa theo tác phẩm Nyung Na, The means of Achievement of the Eleven-faced Great Compassionate One, Avalokiteshvara (do Lama Thubten Zopa Rinpoche và George Churinoff biên dịch, Wisdom Publications, Boston, 1995, trang 105). So với bản tiếng Phạn, bản của ngài Huyền Trang dài hơn.
[19] Bốn tội căn bản chính là Sát, Đạo, Dâm, Vọng (giết, tội, dâm, nói dối).
[20] Bất Không Quyến Sách Thần Chú: “Đát điệt tha: Ám, chiết lạc, chiết lạc. Chỉ lý, chỉ lý. Chủ lỗ, chủ lỗ. Khể thủ cụ đại bi giả. Tát lạc, tát lạc. Tử lý, tử lý. Chỉ lý, chỉ lý. Tỵ lý, tỵ lý. Khể thủ đại liên hoa thủ. Yết la, yết la. Cát lợi, cát lợi. Khuất lộ, khuất lộ. Khể thủ đại tịnh hữu tình. Bột phược, bột phược. Tha bà, tha bà. Khẩn ni, khẩn ni. Khể thủ cực tịnh hữu tình. Yết lạc, yết lạc. Chỉ lợi, chỉ lợi. Củ lỗ, củ lỗ. Khể thủ đắc đại thế giả. Chiết la, chiết la. San chiết la, san chiết la. Tỳ chiết la, tỳ chiết la. Y chiết tra, y chiết tra. Bạt lạc, bạt lạc. Tỵ lợi, tỵ lợi. Bộ lỗ, bộ lỗ. Ế hế, ế hế. Khể thủ đại bi đại thú vương tướng. Đạt lạc, đạt lạc. Tát lạc, tát lạc. Chiết lạc, chiết lạc. Bát lạc, bát lạc. Hát lạc, hát lạc. Ha ha. Hế hế. Hô hô. Ông ca lạc. Khể thủ đại phạm vương tướng. Đạt lạc, đạt lạc. Địa rị, địa rị. Đỗ lỗ, đỗ lỗ. Đát lạc, đát lạc. Tát lạc, tát lạc. Bát lạc, bát lạc. Phiệt lạc, phiệt lạc. Khể thủ bách thiên quang trang nghiêm thân. Thập phiệt la, thập phiệt la. Đáp bá, đáp bá. Bạc già phạm. Khể thủ nhật nguyệt diêm ma phiệt lỗ noa cự phệ la thích phạm. Dữ tài đẳng thiên tiên chúng sở cúng dường chi. Mạt lạc, mạt lạc. Di lý, di lý. Mẫu lỗ, mẫu lỗ. Tốt lỗ, tốt lỗ. Chủ lỗ, chủ lỗ. Khể thủ tát nại đồng tử lỗ đạt la y, tỳ sắt nộ đạt nại đà, tiên na dược ca, tỳ na dược ca chúng đa hình tướng. Đạt lạc, đạt lạc. Địa lý, địa lý. Đỗ lỗ, đỗ lỗ. Thát lạc, thát lạc. Yết lạc, yết lạc. Bát lạc, bát lạc. Đỗ lạc, đỗ lạc. Lạt lạc, lạt lạc. Hát lạc, hát lạc. Mạt lạc, mạt lạc. Phiệt lạc, phiệt lạc. Khể thủ dữ nguyện phổ quán thắng quán thế tự tại, đại tự tại. Mẫu hô, mẫu hô. Mẫu lỗ, mẫu lỗ. Mẫu da, mẫu da. Muộn giá, muộn giá. Lạc xoa, lạc xoa. Khể thủ năng linh ngã cập nhất thiết hữu tình. Giải thoát nhất thiết bố úy. Giải thoát nhất thiết yểm cổ. Giải thoát nhất thiết tai hoạnh. Giải thoát nhất thiết tật bệnh. Giải thoát nhất thiết tà mị võng lượng. Giải thoát nhất thiết oán gia sát phược khủng hát đỏa đả. Giải thoát nhất thiết vương nạn, tặc nạn. Giải thoát nhất thiết thủy hỏa phong nạn. Giải thoát nhất thiết đao độc đẳng nạn giả. Yết noa, yết noa. Khẩn ni, khẩn ni. Khuất nữu, khuất nữu. Chiết lạc, chiết lạc. Khể thủ năng khai thị nhất thiết căn lực giác chi đạo chi tứ thánh đế giả. Đáp ma, đáp ma. Táp ma, táp ma. Mạt sa, mạt sa. Khể thủ năng trừ chư đại hắc ám. Sanh trưởng mãn túc lục ba la mật đa giả. Di lý, di lý. Trá trá trá trá, trá trá trá trá. Trí trí trí trí, chú chú chú chú. Khể thủ bị phục y nê da bì. Cụ đại từ bi, tự tại, đại tự tại. Năng phá nhất thiết ác quỷ thần giả. Tốc lai, tốc lai, cứu hộ ngã đẳng. Cự lô, cự lô. Bát lạc, bát lạc. Tát lạc, tát lạc. Yết lạc, yết lạc. Yết trá, yết trá. Mạt trá, mạt trá. Khể thủ trụ tịnh độ cụ đại bi giả. Thân bội bạch cát tường lũ. Cảnh đới chúng bảo anh lạc. Thủ quan hoa man bảo quan. Ư bảo quan trung đương ư đỉnh thượng hữu nhất thiết trí tượng. Thủ chấp hy hữu đại bảo liên hoa. Ư chư tĩnh lự đẳng trì giải thoát chúng diệu công đức, giai bất khuynh động, thiện năng thành thục nhất thiết hữu tình. Cụ đại từ bi, năng trừ nhất thiết nghiệp chướng. Năng cứu nhất thiết bệnh khổ. Phổ năng an ủy nhất thiết hữu tình. Ám, hiệt lợi đát lại lộ ca tỳ đồ da. Án, mộ già bát xa, hiệt rị đạt da. Án, bát lạt để hát đa. Án, bái, sa ha. Nạp mạc a mạc già da, sa ha. Nạp mạc a thị đa da, sa ha. Nạp mạc a bát la để đa da, sa ha. Nạp mộ phiệt lạc bát lạt đả da, sa ha. Nạp mộ tát bà yết ma tất đạt duệ, sa ha. Yểm xã da tráng, sa ha”.
[21] Bản kinh này do ngài Bất Không dịch vào đời Đường, được đánh số 1033, tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Bài chú căn bản do Quán Thế Âm Bồ Tát nói trong kinh này có tên là Tự Tâm Chân Ngôn (“Nẵng mô ra đát nẵng ra dạ dã. Nẵng mô a rị dạ phạ lộ chỉ đế thấp phạ ra dã. Mạo địa tát đát phạ dã, ma ha tát đát phạ dã. Ma ha ca rô ni ca dã. Đát nễ dã tha: Bả nạp ma bát nê. Sa ra, sa ra. Ê hệ, duệ hế. Bà nga vãm. Nẵng rị dạ phạ lộ chỉ đế thấp phạ ra, a rô lực”).
[22] Bài kinh này được đánh số 1103b trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Trí Thông dịch vào đời Đường. Tùy Tâm Tự Tại Vương Chú: “Nẵng mô ra đát na đa ra dã da. Nẵng mô a rị da phạ lô chỉ đế thấp phạ ra da. Mạo địa tát phạ da. Ma ha đát phạ da. Ma ha ca rô ni ca da. Đát nễ dã tha: Án, đa rị, đa rị, đốt đa rị. Đốt đốt đa rị, đốt rị. Sa phạ ha”.
[23] Bản kinh này được đánh số 882 trong tập 18 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, gồm 3 quyển do ngài Thi Hộ dịch vào đời Tống.
[24] Bản kinh này có tên gọi đầy đủ là A Rị Đa La Đà La Ni A Rô Lực Kinh, được đánh số 1039, xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Bất Không dịch vào đời Đường.
[25] Bản kinh này được đánh số 1116, xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Thi Hộ dịch vào đời Đường. Bài chú trong kinh này cũng có tên là Đại Bi Tâm Đà La Ni: “Nẵng mô ra đát nẵng đát ra dạ dã. Nẵng ma a rị dã phạ lộ kiết đế thấp phạ ra dã, mạo địa tát đát phạ dã. Ma hạ tát đát phạ dã. Ma hạ ca rô ni ca dã. Đát nễ dã tha. Bát nạp mi, bát nạp mi, bát nạp ma, bát ra để sắt sỉ đế, bát nạp mô na ra. Ma hạ mạn noa la dụ hế sa ra, sa ra. Ca ra, ca ra, chỉ rị, chỉ rị, câu rô, câu rô. Ma hạ bà dã tam ma để đỗ. Nẵng đỗ, nẵng vĩ, đỗ nẵng vĩ, đỗ nẵng, hế rị dựng. Ma hạ vĩ nễ duệ, thâu đà dã, thâu đà dã, tát rị phạ, nặc cảm ma ba lãm ba ra ni di. Một đà dã. Một đà dã. Ma hạ nặc noa, nẵng bát ra nĩ bế, sa phạ hạ”.
[26] Bản kinh này được đánh số 1100 trong tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Bất Không dịch vào đời Đường. Diệp Y Quán Thế Âm Bồ Tát tâm chú: “Nẵng mô ra đát nẵng đát ra dạ dã. Nẵng mô a mi đá bà dã, đát tha nghiệt đá dạ, ra hạ đế tam miệu tam một đà dã. Nẵng mô a rị dã phạ lộ chỉ đế thấp phạ ra dã, mạo địa tát đát phạ dã. Ma ha tát đát phạ dã. Ma hạ ca rô ni ca dã. Nẵng mồ ma hạ sa tha ma bát ra bả đá dã. Mạo địa tát đát phạ dã. Ma hạ tát đát phạ dã. Ma hạ ca rô ni ca dã. Phạ ma ninh đát vãm nẵng ma tả mi. Đát vãm nẵng ma tả mi phạ ma ninh. Tỳ xá chỉ bát ra noa xả phạ rị. Bát ra noa xả phạ rị tỳ xá chỉ. Bà nga phạ để bả xả bả ra thâu bát xả đà rị nê. Dạ nĩnh ca, nĩnh chất. Bà dạ nĩnh duật đáp bả, nễ dã ma nẵng nĩnh duật đáp bả niên đế. Dạ ca thất chất nễ đa dữu, dạ ca thất chất đát ma rị dữu. Dạ ca thất chất, ma hạ ma rị dữu. Duệ kế chất nỗ bát nại ra phạ. Duệ kế chất nỗ bát dạ bà. Duệ kế chất nại địa dã bà phạ. Duệ kế chất nỗ bả tát ngược. Ô bả tát nga tam mãn đà phạ. Ốt bát niên đế. Tát phạ nĩnh đá nĩnh tát phạ sa đả. Tát phệ đế phạ ra. Y vũ bát niên đế nẵng. Bán ni đa sa đa na ninh nẵng tát để duệ. Tát để dã phạ kế nẵng. Nhạ nhạ nhạ nhạ. Y tỷ thất chỉ bán ni đá. Địa sắt sỉ đới mạn đát ra bát nãi. Ma ma tát phạ đát phược nan giả. Ra ca sảng củ rô. Ngu bất tỉnh củ rô. Bả rị đát ra nẫm củ rô. Bả rị nghiệt ra đát củ rô. Bả rị nghiệt ra đát củ rô. Bả rị bát ra nẵng củ rô. Phiến tỉnh củ rô. Sa rô sa để dã dã nẵng củ rô. Nan noa bả rị hạ lãng củ rô. Thiết sa đát ra bả rị hạ lãng củ rô. Sái nam củ rô. Vĩ sái nộ sái nam củ rô. Vỹ sái nẵng xả nẵng củ rô. Tỷ ma mãn đãng củ rô. Đà ra nễ mãn đảng tả củ rô. Đát nhĩ dã tha. A mật rị đế, a mật rị cấu nạp bà phệ. A thấp phạ sa đảng nghê. Ma ma ra, ma ma ra. Xả ma bát ra, xả ma. Đổ nô vĩ, đổ nô. Đổ lê, đổ mẫu lê, sa phạ hạ”.
[27] Bản kinh này được đánh số 1050, xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống. Lục Tự Đại Minh Chú được coi là xuất phát từ kinh này.
[28] Kinh này do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch vào năm Cảnh Long thứ 3 (709), được xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, được coi là một trong những kinh điển chuyên dùng để tiêu tai cầu phước trong Mật Giáo. Kinh này còn có ba bản dịch khác nữa:
1. Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú Kinh, do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường.
2. Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni Kinh do ngài Bảo Tư Duy dịch vào đời Đường.
3. Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Tâm Đà La Ni Chú Kinh do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường.
So ra, bản của ngài Bồ Đề Lưu Chí đầy đủ nhất và lưu loát nhất. Bài căn bản chú trong kinh này được xếp vào trong Thập Chú của công phu sáng trong Thiền môn. Trong Đại Tạng Kinh còn có những bản niệm tụng nghi quỹ dành cho kinh này như Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Luân Đà La Ni Niệm Tụng Pháp (do ngài Bảo Tư Duy dịch), Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Luân Niệm Tụng Nghi Quỹ (do ngài Bất Không dịch), Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Luân Du Già (do ngài Bất Không dịch), Quán Tự Tại Như Ý Luân Bồ Tát Du Già Yếu Pháp (do ngài Kim Cang Trí dịch) v.v…
[29] Kinh này cũng do ngài Bất Không dịch vào đời Đường, được đánh số 1110 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập 20. Vị La Sát Vương này do có một búi tóc nên gọi là Nhất Kế (hoặc chỉ phiên âm là Ế Ca Nhạ Trá, Ekajata). Vị này được đặc biệt tôn sùng trong dòng Cổ Mật của Phật Giáo Tây Tạng. Tâm chân ngôn là: “Án, rô thất ra da, mẫu niết rị ninh duệ, nhạ tra, nhạ tra duệ, hồng, hồng, tra, sa phạ ha”. Tùy tâm chân ngôn: “Ế hế duệ hế. Ế ca nhạ tra, ma ma mục khư nhạ da, sa phạ ha”.
[30] Như tên gọi, đây là một tổng tập nhiều bài kinh nhỏ khác nhau (do nhiều người dịch) gồm 12 quyển, bao gồm nhiều chú pháp chia thành năm loại lớn (Phật Bộ, Bồ Tát Bộ, Kim Cang Bộ, Thiên Bộ, Phổ Tập Hội Đàn Pháp).
[31] Mã Đầu Quán Âm (Hayagriva) còn gọi là Mã Đầu Kim Cang, Mã Đầu Đại Lực Sĩ, hoặc Mã Đầu Minh Vương, đôi khi các nghi quỹ chỉ phiên âm danh hiệu Ngài là Ha Da Yết Rị Bà, hoặc Hạ Dã Ngật Lý Phạ, là một trong sáu thân quan trọng của Quán Thế Âm trong Mật Giáo. Do Ngài có hình đầu ngựa ở trên đỉnh nên gọi là Mã Đầu Quán Âm. Đây chính là thân hộ pháp minh vương chủ yếu nhằm hóa độ súc sanh đạo. Ngài thường được tạc tượng với sắc thân hồng, ba mặt, tám tay, mỗi mặt có ba mắt to tròn, nhe nanh, trợn mắt, tóc rối bồng dựng lên tua tủa. Truyền thống Mật Tông Tây Tạng thường vẽ hình Ngài có hai cánh. Hình dạng này thường được gọi là Sư Tử Vô Úy Tướng. Tám tay biểu thị bi trí song vận, ba mắt phẫn nộ biểu thị hàng phục ác ma trong tam giới, nanh nhọn chĩa ra ngoài biểu thị chấn nhiếp hết thảy ma chướng gây chướng ngại cho người tu học. Bổn thệ của Ngài là hàng phục La Sát, ác ma, ác thần, hết thảy ác chướng gây ra bởi tám bộ quỷ thần, tiêu trừ nghiệp chướng, ôn dịch, bệnh khổ, dẹp trừ hết thảy tà pháp do ác ma tạo ra.
[32] Trong bản kinh Thiên Chuyển Đà La Ni Quán Thế Âm Bồ Tát Chú Kinh có nói: “Nghiệp chướng tụ tập trong ngàn kiếp, hễ niệm tụng chú này một lúc sẽ đều tiêu diệt sạch, gieo thiện căn với một ngàn đức Phật, vượt khỏi sự lưu chuyển sanh lão bệnh tử trong một ngàn kiếp. Khi bỏ thân này liền thấy một ngàn vị Chuyển Luân Vương”. Dựa theo ý này, vào thời Đường – Tống, Mật giáo Trung Hoa đã chế ra Thiên Chuyển Quán Âm Chú Đồ gồm hình Quán Thế Âm ngồi giữa, chung quanh viết thành 5 tầng chú ngữ. Ba tầng đầu viết theo hình tròn xoay, hai tầng sau viết thành hình vuông, đều xoay theo chiều kim đồng hồ. Tầng thứ nhất là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Thiên Chuyển Diệt Tội Đà La Ni, tầng thứ hai là Pháp Thân Duyên Sanh Kệ, tầng thứ ba là Đại Kim Cang Cát Tường Phật Nhãn Đà La Ni, tầng thứ tư là Nhất Thiết Như Lai Tùy Tâm Đà La Ni, và tầng ngoài cùng là Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Ngũ Tự Đà La Ni. Xen vào giữa bốn góc của hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tức là ở giữa tầng ba và tầng tư là chủng tự của Kim Cang Ca Bồ Tát, Kim Cang Vũ Bồ Tát, Kim Cang Hỷ Bồ Tát, và Kim Cang Man Bồ Tát.
[33] Bản kinh này có tên gọi đầy đủ là Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú Kinh do ngài Trí Thông dịch vào đời Đường. Kinh này thường được coi là bản dịch khác của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch). Ngoài ra, kinh này còn có một bản dịch khác Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Mỗ Đà La Ni Thân Kinh (do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch vào đời Đường). Hỷ Kiến Chi Phần Đại Diệu Thân Bảo Tràng Thiên Tý Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Đại Bi Thân Đà La Ni (tức quyển 11 của bộ Thích Giáo Tối Thượng Thừa Mật Tạng Đà La Ni Tập) là một dị bản khác của bản dịch này. Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng còn có những bản kinh liên quan đến chú Đại Bi như Kim Cang Đảnh Du Già Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ Kinh (do ngài Bất Không dịch), Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Trị Bệnh Hợp Dược Kinh (do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch), Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú Bổn (do ngài Kim Cang Trí dịch), Thế Tôn Thánh Giả Thiên Nhãn Thiên Thủ Thiên Túc Thiên Thiệt Thiên Tý Quán Tự Tại Bồ Đề Tát Đỏa Đát Phạ Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (mất tên người dịch), Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (do ngài Bất Không dịch), Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh (do ngài Tam Muội Tô Phạ La dịch vào đời Đường), Đại Bi Tâm Đà La Ni Tu Hành Niệm Lược Nghi (do ngài Bất Không dịch), Thiên Thủ Quán Âm Tạo Thứ Đệ Pháp Nghi Quỹ (do ngài Thiện Vô Úy dịch vào đời Đường) v.v…
[34] Kinh này cũng do ngài Trí Thông dịch vào đời Đường (được đánh số 1038 và xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh). Một bản dịch khác của kinh này là Quán Tự Tại Bồ Tát Thuyết Phổ Hiền Đà La Ni Kinh (do ngài Bất Không dịch vào đời Đường).
[35] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai Danh Hiệu Đà La Ni Kinh, do ngài Pháp Hiền dịch vào đời Tống. Kinh này khá ngắn. Trước tiên, Quán Thế Âm Bồ Tát nêu lên danh hiệu của các đức Phật như: Bảo Sư Tử Tự Tại Như Lai, Bảo Vân Như Lai, Bảo Trang Nghiêm Tạng Như Lai, Sư Tử Đại Vân Như Lai, Vân Sư Tử Như Lai, Tu Di Như Lai, Sư Tử Hống Như Lai, Sư Tử Lợi Như Lai, Phạm Âm Như Lai, Thiện Ái Như Lai, Liên Hoa Thượng Như Lai, Nhiên Đăng Như Lai, Liên Hoa Sanh Như Lai, Tốn Na La Như Lai, Trì Hoa Như Lai, Trì Bảo Như Lai, Pháp Sanh Như Lai, Nhật Quang Như Lai, Nhật Chiếu Như Lai, Nguyệt Quang Như Lai, Vô Lượng Tạng Như Lai, Vô Lượng Trang Nghiêm Tạng Như Lai, Vô Lượng Quang Như Lai, Liên Hoa Tạng Như Lai, Thiên Diệu Âm Như Lai, Câu Chỉ La Âm Như Lai. Rồi nói bài chú như sau: “Đát nễ tha: Tát đổ ra thi đế du nhạ na thiết đa tát hạ tát ra ni. Nhạ sá bà ra mạt cô trá lãng hất rị đa. Đà ra ni sa hạ. Tát rị phạ, đát tha nga đa mẫu lý để đa. Đà ra ni sa hạ. A phạ lộ kiết đế thuyết ra dã sa hạ. Tát rị phạ đát tha nga đô ô sắt nị sa. Đà ra ni sa hạ. Tát rị phạ đát tha nga đa bà thỉ đa. Đạt rị ma tắc kiến đà. Đà ra ni sa hạ. Tát rị phạ đá tha nga đa bà thỉ đa. Táp bát đa đà ra ni sa hạ. Bát nạp ma a bà nhĩ ca dã sa hạ. A sắt trá ma hạ bạt dã đà ra ni sa hạ. Thuế đa phạ lan noa dã sa hạ. Tát rị phạ đát tha nga đa na ma đà ra ni sa hạ. A thi đế bát nạp ma thiết nhĩ ca dã đát tha nga đa đà ra ni sa hạ. Bát nạp ma hạ tất đa dã sa hạ. Tát rị phạ mãn đát ra đà ra ni sa hạ”.
[36] Bố tự pháp: Quán tưởng để đặt các chữ Phạn vào các vị trí tương ứng, chẳng hạn quán nơi tim mình có hoa sen, bên trên có vầng mặt trăng chồng lên tầng mặt trời, từ chính giữa mặt trăng xuất hiện chữ Aum có màu trắng v.v…
[37] Tam tâm: tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai.
[38] Nguyên văn ghi là “mùa Thu năm Dân Quốc thứ 10 (1921)”, nhưng trong đoạn trên ghi là cô Quân Can mất vào năm Dân Quốc 15 (1926). Chắc chắn đây là lỗi ấn loát. Do vậy, chúng tôi sửa thành năm Dân Quốc 20 cho phù hợp, tuy rất có thể là ông Thông Bạch trở về An Huy ngay trong năm ấy (tức năm Dân Quốc 15).
[39] Tứ Trí là do tám thức chuyển biến thành, chỉ có quả vị Phật mới trọn đủ Tứ Trí:
1. Từ năm thức đầu (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Thức) chuyển thành Thành Sở Tác Trí.
2. Ý Thức chuyển thành Diệu Quán Sát Trí.
3. Mạt Na Thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí.
4. A Lại Da Thức chuyển thành Đại Viên Kính Trí.
[40] Theo Kim Cang Đảnh Du Già Lược Xuất Niệm Tụng Kinh, Tứ Nhiếp Bồ Tát biểu thị sự nhiếp thọ chúng sanh phát xuất từ trí lực vô tận của Như Lai, gồm:
1. Kim Cang Câu (Vajrankusa): Lôi kéo, chiêu dụ chúng sanh hướng về Phật đạo.
2. Kim Cang Sách (Vajravesa): Trói buộc, giữ yên chúng sanh nơi chánh đạo, không thoái chuyển.
3. Kim Cang Tỏa (Vajrasphota): Giữ cho chúng sanh kiên định nơi pháp đã chứng, tiến hướng tăng tấn.
4. Kim Cang Linh (Vajravesa): Chúng sanh an trụ nơi pháp, hoàn thành sự nghiệp, hoan hỷ, hớn hở.
Nếu chiếu theo ý nghĩa của Hiển Giáo, bốn vị Bồ Tát này tương ứng với hạnh Tứ Nhiếp (Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự).
[41] Bát Cúng Dường Kim Cang Bồ Tát: Gồm có Nội Cúng Dường và Ngoại Cúng Dường. Nội Cúng Dường Bồ Tát biểu thị cho những Chánh Định Đức do Như Lai đã chứng được, từ trong chánh định Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Như Lai) lưu xuất ra bốn vị Nội Cúng Dường Bồ Tát: Kim Cang Hỷ (thân cận A Súc Như Lai), Kim Cang Man (thân cận Bảo Sanh Như Lai), Kim Cang Ca (thân cận A Di Đà Như Lai), Kim Cang Vũ (thân cận Bất Không Thành Tựu Như Lai). Ngoại Cúng Dường do bốn vị Như Lai mỗi vị lưu xuất nhằm cúng dường Đại Nhật Như Lai, tức là A Súc Như Lai lưu xuất Hương Cúng Dường Bồ Tát, Bảo Sanh Như Lai lưu xuất Hoa Cúng Dường Bồ Tát, A Di Đà Như Lai lưu xuất Đăng Cúng Dường Bồ Tát, Bất Không Thành Tựu lưu xuất Đồ Hương Bồ Tát.
[42] Trong sách Bát Thức Quy Củ Trực Giải, tổ Ngẫu Ích đã giảng câu này như sau: “Thức này có nhiều tên gọi. Tên thứ nhất là A Lại Da Thức, do nó bị thức thứ bảy chấp là Ngã. Cái tên gọi này mãi cho đến khi chứng được Bất Động Địa thì mới vĩnh viễn khuất phục Ngã Chấp, bỏ được danh xưng này. Tên thứ hai là Dị Thục Thức. Do thiện nghiệp, ác nghiệp, vô lậu nghiệp [được chứa trong thức ấy] khi chín muồi sẽ chiêu cảm lấy quả báo. Tên gọi này mãi cho đến khi viên mãn Phật quả nơi đạo Kim Cang rồi mới bỏ được. Tên thứ ba là Nhất Thiết Chủng Thức, được sử dụng cho các địa vị phàm thánh xét về nhân lẫn quả, mãi cho đến khi thành Phật rồi thì nó mới chỉ gìn giữ những hạt giống thiện vô lậu”.
[43] Nguyên văn: “Kim Cang nãi mộc cương chi thần”. Từ ngữ “mộc cương” xuất phát từ một câu trong Hán Thư: “Châu Xương, mộc cương nhân dã”. Nhan Sư Cổ chú giải: “Ý nói người tánh chất cứng cỏi như gỗ đá vậy”. Từ đó, từ ngữ “mộc cương” dùng để chỉ người tánh tình chất trực, cứng cỏi, đôi khi cũng dùng để chỉ người cứng cỏi đến mức ngoan cố. Trong các trước tác trước đó, do không xét kỹ, ông Đinh Phước Bảo đã hiểu lầm chữ Kim Cang trong tựa đề kinh Kim Cang chính là thần Kim Cang hộ pháp thay vì Kim Cang là một chất cứng rắn không có gì có thể phá hoại được nó. Khi bị phê bình, thay vì phục thiện sửa sang, qua tác phẩm Phật Học Chỉ Nam, ông Đinh lại dẫn lời của Ông Đàm Khê để lấp liếm sự thiếu sót của mình, chứ không chịu thừa nhận sai sót, cho nên mới bị ông Lưu Khế Tịnh chê trách.
[44] Xử (Vajra) gọi đủ là Kim Cang Xử (đôi khi thường được dịch là “chày Kim Cang”), vốn là vũ khí của Đế Thích làm bằng chất Kim Cang, không loài nào đương cự được. Kim Cang cứng rắn nhất, không gì có thể phá hủy hay tiêu hủy được. Kim Cang Xử thường bị người Tây Phương dịch thành “lưỡi tầm sét” (thunderbolt), khiến cho ý nghĩa sâu thẳm của Kim Cang Xử bị hiểu sai lệch khá nhiều!
[45] Vườn Tiêu Dao vốn là Thượng Uyển của vua Hậu Tần (Diêu Trành và Diêu Hưng), về sau được dành riêng cho ngài Cưu Ma La Thập ở để dịch kinh.
[46] Thanh Chỉ là một loại cỏ thơm, lá xanh non, có lông mịn, nở hoa màu trắng vào mùa Hạ, quả có hình thon tròn, thuộc họ Đương Quy, củ có thể dùng để làm thuốc, thường được chia thành nhiều loại như Hưng An Chỉ, Xuyên Bạch Chỉ, Hàng Bạch Chỉ v.v…
[47] Mộc Xích (còn gọi là Thủ Xích hay chỉ gọi gọn là Xích) là một khối gỗ nhỏ từ hai đến ba tấc, để trơn hoặc sơn đỏ, trên lưng khắc ba chữ Án Á Hồng. Trước khi tuyên pháp ngữ trong giảng tòa hay trong các pháp hội, vị chủ sám sẽ dùng Xích đập xuống bàn, tạo sự chú ý. Đôi khi trong các pháp hội, vị Sám Chủ còn dùng Xích để vỗ xuống bàn nhằm tạo hiệu lệnh cho các kinh sư hòa tiếng chuyển giọng khi đổi sang một thể điệu tán tụng mới.
[48] Quyển vàng trục đỏ (hoàng quyển xích trục) là thuật ngữ để chỉ kinh Phật. Do thời cổ, kinh thường được in trên giấy vàng (do tẩm hóa chất nên có màu vàng, thường là chất hoàng liên, để ngừa mối mọt) dài, cuộn thành quyển, chứ không xếp thành sách như sau này. Hai đầu tờ giấy lớn ấy phải gắn trục bằng gỗ sơn đỏ (vừa để trang trí, vừa dễ thấy để người đọc nắm hai trục từ từ mở ra, không làm rách kinh).
Vạch cân (định bàn tinh): Những vạch khắc trên đòn cân để người dùng cân biết được trọng lượng của vật đem cân.
[49] Thanh Long Sớ Sao chính là tác phẩm chú giải kinh Kim Cang của ngài Đức Sơn Tuyên Giám. Sư tinh thông kinh tạng, thường giảng kinh Kim Cang nên mới viết bộ Thanh Long Sớ Sao (một trăm quyển), nổi danh lừng lẫy thuở ấy, đến nỗi người ta thường gọi Sư là Châu Kim Cang (do họ ngoài đời của Sư là Châu). Nghe nói Thiền gia phương Nam chủ trương “chẳng lập văn tự, kiến tánh trực chỉ”, Sư cảm thấy bất bình, cho là lũ cuồng ma ở phương Nam hoại loạn Phật pháp, quyết đến cật vấn nhằm khuất phục họ, bèn gánh Thanh Long Sớ Sao rời đất Thục. Vừa mới đến Phong Dương thì gặp bà bán bánh, được điểm hóa, Sư mới dứt cuồng tâm, dốc lòng theo học với ngài Long Đàm thiền sư. Khi đã liễu ngộ, bèn đối trước Phật điện, đốt sạch bộ Thanh Long Sớ Sao.
[50] Tức du tăng, do những vị ấy thường du hóa, không ở nơi nào nhất định, giống như mây trôi nước chảy tùy duyên tự tại nên gọi là Vân Thủy Tăng.