MỞ LỚN CON ĐƯỜNG
Hòa thượng Thích Thái Hòa
Người Đi Chùa Thông Minh
Có những vị trước khi biết đi chùa và tu học, thì gia đình bình yên, nhưng sau khi đã đi chùa và bắt đầu biết tu học, thì gia đình cũng bắt đầu dậy sóng, không có bình yên.
Có những vị trước khi chưa đi chùa và chưa biết tu học, thì gia đình luôn dậy sóng, nhưng sau khi đã biết đi chùa và biết tu học thì gia đình trở lại bình yên.
Có những vị trước khi chưa biết đi chùa và chưa biết tu học, thì gia đình đã bình yên và sau khi biết đi chùa và biết tu học, thì gia đình lại càng bình yên thêm.
Có những vị trước khi chưa biết đi chùa và chưa biết tu học, gia đình luôn dậy sóng, không có bình yên và sau khi đã biết đi chùa và biết tu học, thì gia đình lại càng thêm dậy sóng.
Trong bốn hạng người biết đi chùa và biết tu học như vậy, chỉ có hai hạng người đi chùa và biết tu học là có chánh kiến và có từ bi, còn hai hạng người biết đi chùa và biết tu học không có chánh kiến và không có từ bi.
Những hạng người biết đi chùa và biết tu học có chất liệu của chánh kiến và từ bi, những hạng người ấy không những có khả năng làm cho tâm mình lắng yên những phiền não, mà còn có khả năng giúp cho những người trong gia đình lắng yên phiền não nữa; những hạng người ấy không những có khả năng mở rộng không gian nhận thức cho chính mình, mà còn có khả năng chuyển hóa những không gian nhận thức trở thành không gian trí tuệ cho chính mình và cho mọi người nữa.
Mở rộng không gian nhận thức bằng cách nào? Bằng cách biết học hỏi và lắng nghe. Ta phải biết học hỏi từ mọi người, từ mọi loài và từ cuộc sống, nhưng trước hết ta phải biết học hỏi những cấu trúc cơ bản và thâm sâu, vi diệu ở nơi thân và tâm ta.
Nếu ta không hiểu được những cấu trúc cơ bản nơi thân và tâm ta, thì ta khó mà có được những chính kiến đối với thân và tâm ta. Và mỗi khi ta không có chính kiến đối với thân và tâm ta, thì ta cũng không thể có khả năng đối xử với thân tâm ta một cách có trí tuệ và từ bi.
Ta hãy nhìn kỹ vào khuôn mặt của ta mỗi ngày, để ta có thể thấy rõ những yếu tố đang hiện hữu nơi khuôn mặt của ta, chúng chưa bao giờ hiện hữu đơn thuần, mà chúng hiện hữu trong sự tương quan. Mũi của ta không thể nào hiện hữu, nếu ta không có xương mặt và xương mặt không thể nào hiện hữu, nếu ta không có xương sườn và các xương sọ, và xương sườn, xương sọ không thể nào hiện hữu và tồn tại, nếu không có những chất hữu cơ và những yếu tố khác xúc tác liên hệ đến với chúng.
Cũng vậy, mắt ta không thể nào hiện hữu đơn thuần mà mắt ta hiện hữu với những yếu tố không phải mắt, như tinh thể, võng mạc và hệ thần kinh thị giác,… và tác dụng nhận thức của mắt ta, không thể không có mọi hình, mọi sắc, không thể không có không gian, ánh sáng và ý thức,… Nếu thiếu một trong những yếu tố ấy, thì sự hiện hữu của con mắt không thể nào có được, huống nữa làm sao có tác dụng của con mắt đối với cái thấy và cái hiểu của chúng ta trong đời sống hằng ngày.
Vì vậy, trong đời sống hàng ngày, ta phải biết học hỏi với những gì đang có mặt ở nơi thân thể của ta, ở nơi tâm hồn của ta và chúng ta phải biết ngồi yên để lắng nghe những gì mà thân tâm ta đã nói với ta trong từng phút giây của sự sống.
Ta phải biết học hỏi cách làm việc và tiêu thụ của thân tâm ta. Mỗi bộ phận trong thân tâm ta, chúng làm việc đúng chức năng của chúng, chúng biết tiếp nhận và chế tác đúng chức năng của chúng và quan trọng hơn hết là chúng biết truyền thông và hỗ trợ cho nhau trong những điều kiện tương quan tự nhiên để tạo nên một hệ thống thân tâm nhất thể.
Vì vậy, ta đi chùa và tu học không phải để tích lũy kiến thức hay tri thức. Vì sao? Vì kiến thức hay tri thức, chúng chỉ là những thuộc tính của bản ngã, và làm sinh chất nuôi lớn tâm kiêu mạn trong ta và là miếng mồi nuôi lớn vô minh làm trở ngại đối với tuệ giác của ta, khiến cho ta không có khả năng thâm nhập và sống thường trú với thực thể toàn vẹn của vạn hữu bất tức, bất ly ấy.
Do đó, ta đi chùa tu học cần phải thiết lập trên nền tảng của văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Do biết lắng nghe và học hỏi, khiến cho tâm tuệ trong ta sinh khởi; do ta biết quán chiếu thâm sâu đối với những gì đã nghe và đã học, khiến cho cái nghe không ích lợi, không chính xác của ta từ từ bị đoạn tận, khiến cho tâm tuệ trong ta sinh khởi và lớn mạnh. Và do ta biết gạn lọc những gì ta đã học hỏi và ứng dụng chúng vào trong đời sống hàng ngày của ta, khiến cho tâm tuệ sinh khởi trong ta.
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã, vì vậy ở trong đời sống hàng ngày, ta đang ở cương vị nào để hành xử, thì mọi hành xử của ta đều là hành xử của tuệ.
Hành xử của tuệ là hành xử có khả năng chấm dứt khổ đau cho mình và cho người, có khả năng chấm dứt những tập khởi gây ra khổ đau cho mình và cho người. Và đương nhiên, khi những tập khởi và kết quả khổ đau giữa mình và người không còn hiện hữu, thì an lạc tự nó biểu hiện một cách như nhiên giữa tự và tha.
Vậy, ta đi chùa và tu học là để làm việc và ứng xử với nhau bằng tuệ giác mà không phải bằng những kiến thức Phật học; bằng chất liệu từ bi mà không phải bằng sự tranh giành thắng bại; bằng sự khoan dung, chứ không phải bằng những sự ích kỷ, hẹp hòi.
Người đi chùa như vậy là người đi chùa thông minh, vì họ có khả năng chế tác ra sự an lạc cho chính họ và có khả năng hiến tặng sự an lạc cho mọi người.